![](images/graphics/blank.gif)
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp cho trẻ làm quen và học tốt môn nhận biết tập nói cho trẻ 24-36 tháng tuổi tại Trường Mầm non A xã Ngũ Hiệp
lượt xem 1
download
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/images/down16x21.png)
Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm giúp trẻ mạnh dạn tự tin trước mọi người; Làm phong phú vốn từ cho trẻ; Giúp giáo viên hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ đó có những kế hoạch cụ thể về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp cho trẻ làm quen và học tốt môn nhận biết tập nói cho trẻ 24-36 tháng tuổi tại Trường Mầm non A xã Ngũ Hiệp
- UBND HUYỆN THANH TRÌ TRƯỜNG MẦM NON XÃ A NGŨ HIỆP SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Một số biện pháp cho trẻ làm quen và học tốt môn nhận biết tập tại lớp 24 -36 tháng tuổi trong trường mầm non Lĩnh vực: Giáo dục nhà trẻ Cấp học: Mầm non Tên tác giả: Tạ Thị Hồng Thúy Đơn vị công tác: Trường Mầm non A xã Ngũ Hiệp Chức vụ: Giáo viên NĂM HỌC: 2022 - 2023
- 2 A. ĐẶT VẤN ĐỀ Như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Học ăn, học nói, học gói, học mở". Đúng vậy, việc hướng dẫn và dạy cho trẻ ở lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi làm quen và học tốt môn nhận biết tập nói là việc vô cùng quan trọng và cần thiết. Vì ở lứa tuổi này trẻ còn non nớt, vụng về, trẻ cần được chăm sóc về mọi mặt: cả về tinh thần lẫn thể chất. Nhất là trong giai đoạn trẻ đang còn tập nói và nói chưa đủ câu. Trẻ 24-36 tháng mới phát âm được một đến 2 từ, lời nói của trẻ còn chưa rõ ràng mạch lạc, vốn từ của trẻ còn ít, đa số các cháu còn nói ngọng, nói lắp, nói không rõ chữ, rõ ý, hay lặp lại các câu nói của cô. Mặt khác các cháu còn nhỏ nên thường có phản ứng chậm chạp hoặc rất khó khăn để hiểu những yêu cầu của cô giáo. Vì bộ máy phát âm của trẻ còn yếu ớt rất nhạy cảm và còn tiếp tục hoàn chỉnh cùng với sự phát triển chung của cơ thể. Thông qua quá trình quan sát ở những giờ hoạt động nhận biết tập nói, tôi thấy các cháu rất thích được trò chuyện, thích được giao tiếp và thích được nói nhưng vì ngôn ngữ vốn từ còn hạn chế, các cháu sử dụng ngôn ngữ thụ động nhiều trẻ rất muốn nói những lại không thể diễn đạt được hết những suy nghĩ yêu cầu của mình dẫn đến tình trạng cô hiểu sai ý trẻ, hoặc có một số cô không hiểu trẻ nói gì, không đáp ứng được nhu cầu của trẻ khiến trẻ sợ đến lớp. Bản thân tôi là một giáo viên được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Tôi nhận thấy rằng cô giáo có một trọng trách rất quan trọng đối với trẻ là người chịu trách nhiệm hướng dẫn bảo ban trẻ, chỉ bảo cho trẻ mọi điều và việc quan trọng hơn cả là cô giáo phải chú ý và quan tâm đến trẻ hơn về mặt câu từ của trẻ có nói đúng ngữ pháp không? có đủ câu chưa? đã tròn âm chữ khi phát âm ra chưa? không những vậy là người giáo viên chúng ta còn dạy trẻ thêm những vốn kiến thức sơ khai, những chào hỏi lễ phép tưởng như đơn giản những không kém phần khó khăn vất vả ở đây. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp cho trẻ làm quen và học tốt môn nhận biết tập nói cho trẻ 24 -36 tháng tuổi” làm đề tài nghiên cứu tại lớp 24 - 36 tháng tuổi. I. Mục đích nghiên cứu Tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp cho trẻ làm quen và học tốt môn nhận
- 3 biết tập nói cho trẻ 24- 36 tháng” nhằm giúp trẻ phát triển khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi một cách có lô gíc, có trình tự, chính xác. - Giúp trẻ mạnh dạn tự tin trước mọi người. - Làm phong phú vốn từ cho trẻ. - Giúp giáo viên hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ đó có những kế hoạch cụ thể về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. II. Đối tượng nghiên cứu - Một số biện pháp cho trẻ làm quen và học tốt môn nhận biết tập nói cho trẻ 24 -36 tháng” III. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu: nhóm trẻ 24 – 36 tháng - Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 9/2022-4/2023 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- 4 I. Cơ sở lý luận Trong cuộc sống chúng ta ai cũng phải sử dụng ngôn ngũ để giao tiếp với mọi người xung quanh và ngôn ngũ chính là phương tiện cho việc dạy và học. đối với trể mầm non thì qua giao tiếp bằng ngôn ngũ và tư duy trẻ thu được các kinh nghiệm sống làm phong phú thêm sự hiểu biết của trẻ. Cụ thể trẻ nhà trẻ thì nhận thức và ngôn ngũ của trẻ con hạn chế, trẻ mới đang tập nói, có trẻ mới nói được câu 2-3 từ có trẻ thì câu 4-6 từ, có trẻ nói chua chọn vẹn cả câu trẻ chưa diễn đạt bằng được ý muốn của mình bằng những câu đơn giản… chính vì vậy mà phát triển ngôn ngũ cho trẻ là việc làm cần thiết. đối với trẻ nhà trẻ phát triển ngôn ngũ chính là việc phát triển các khả năng, nghe, hiểu, nói của trẻ, để phát triển các khả năng này thì việc dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện, tập nói, trò chuyện, giao tiếp vói trẻ thông qua các hoạt động giáo dục trẻ trong ngày chính là việc giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. II.Cơ sở thực tiễn 1.1 .Thuận lợi - Trong năm học được sự quan tâm giúp đỡ của Phòng GD, cũng như sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương trong địa bàn xã, của ban giám hiệu nhà trường: - Lớp được biên chế 2 giáo viên, các cô có lòng nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ. Nắm vững phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. - Độ tuổi của trẻ đến lớp tương đối đồng đều. - 100% số trẻ được ăn ngủ bán trú tại lớp. Tỉ lệ chuyên cần đạt khoảng 90%. - Phòng học đã được xây dựng kiên cố nên rất thuận lợi cho việc dạy và học của cô và trẻ. - Lớp học có đầy đủ các trang thiết bị như: tivi, điện thắp sáng, quạt điện, bàn ghế đồng bộ phù hợp với lứa tuổi trẻ ở nhà trẻ. Đặc biệt là tranh chủ đề luôn thay đổi để trẻ nhận biết và tập nói để phát triển ngôn ngữ. Trang trí đầy đủ các góc theo chủ đề để dạy trẻ theo chương trình đổi mới hình thức. 2.2. Khó khăn:
- 5 - Trình độ nhận thức của một số phụ huynh còn hạn chế nên ảnh hưởng đến việc phối kết hợp chăm sóc giáo dục trẻ giữa gia đình và nhà trường. - Ngôn ngữ của trẻ phát triển chưa đồng đều, một số trẻ ở đầu độ tuổi còn nói ngọng, bập bẹ, nhút nhát, khả năng nhận thức chậm. - Lứa tuổi của trẻ còn nhỏ, năm đầu tiên ra lớp nên việc sử dụng ngôn ngữ qua các hoạt động học tập và giao tiếp với cô còn rất nhiều hạn chế do bất đồng ngôn ngữ. - Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho các hoạt động nhận biệt tập nói còn thiếu thốn, chưa đảm bảo về kích thước, màu sắc và độ rõ nét của đối tượng. - Môi trường cho trẻ hoạt động chưa đảm bảo, diện tích lớp học, sân chơi chưa đảm bảo diện tích tối thiểu cho trẻ hoạt động. Từ những thuận lợi và khó khăn trên tôi đã tiến hành khảo sát đánh giá đúng khả năng của trẻ để có phương hướng phấn đấu đạt được kết quả cao trong giảng dạy, ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát đánh giá xếp loại trẻ ở các câu hỏi, bài tập theo 3 mức độ: 1.Nhận biết gọi tên. 2.Nhận biết phân biệt. 3.Mở rộng kiến thức liên hệ thực tế. III.Khảo sát thực trạng trước khi thực hiện đề tài 1. Điều kiện thực tế: - Tống số học sinh trong nhóm/ lớp: 35 cháu. - Môi trường lớp học được đảm bảo về diện tích, ánh sáng và trang thiết bị dạy và học. - Giáo viên: 3 cô/ nhóm. 1.1Thực trạng về việc phát triển ngôn ngữ của trẻ tại nhóm lớp: * Về nhận biết tên gọi: - Trẻ nhận biết và gọi được tên của đối tượng, song chủ yếu là do cô nói trước rồi trẻ bắt chước nói theo, trẻ nói còn ngọng chưa rõ lời vì vậy tên gọi của đối tượng về cơ bản không chính xác. *Về nhận biết các đặc điểm, công dụng của đối tượng:
- 6 - Trẻ có thể nhận biết tập nói được một số đặc điểm nổi bật của đối tượng, song trẻ chưa hiểu và nói được hết công dụng của các đặc điểm đó. Đó là cơ sở của hoạt động làm quen với môi trường xung quanh sau này. - Việc phân biệt giữa 2 đối tượng dựa nhiều vào cảm tính, trực quan đồ vật. Trẻ nhận biết và phân biệt các đối tượng bằng trực quan, chưa có kỹ năng vì vậy còn ảnh hưởng bởi sự tác động của các yếu tố bên ngoài như: màu sắc, kích thước, sự phân bố không gian. * Về mở rộng kiến thức: - Trẻ đã nói được một số đối tượng gần gũi quen thộc song trẻ chưa mở rộng được những đối tượng khác ngoài bài dạy. Từ những đặc điểm trên đây cùng với kinh nghiệm của bản thân tôi thấy để trẻ 24- 36 tháng phát triển tốt ngôn ngữ qua hoạt động nhận biết tập nói thì trong mỗi tiết học, mỗi hoạt động cô giáo cần phải khuyến khích trẻ phát triển ngôn ngữ bằng hình thức cho trẻ tập nói theo cô nhiều lần, dạy trẻ nói rõ chữ, rõ ý, không nói ngọng. Bên cạnh đó cô giáo cần nghiên cứu sử dụng các đồ dùng trực quan đa dạng (vật thật, đồ chơi, tranh ảnh) bằng các nguyên vật liệu khác nhau, kích thước khác nhau để khuyến khích trẻ hứng thú phát triển ngôn ngữ. Để một tiết học về cơ bản vẫn đảm bảo về nội dung, phương pháp, thời gian quy định mà vẫn mang hình thức là một giờ chơi. 2. Đánh giá thực trạng 2.1. Thuận lợi: Số trẻ thực hiện được yêu cầu của bài tập được xếp loại chung như sau: Xếp Tốt Khá Trung bình Không đạt loại Số Số Số Số % % % % Nội dung trẻ trẻ trẻ trẻ Tên gọi 3 9 10 28 10 28 12 35 Đặc điểm, công dụng 2 2 8 23 12 34 13 37 Mở rộng kiến thức 1 3 1 3 7 22 26 74 Qua đó tôi thấy việc phát triển ngôn ngữ qua môn nhận biết tập nói còn
- 7 rất kém, với kết quả trên bản thân tôi thấy cần phải tìm ra các biện pháp để giúp trẻ phát triển tốt ngôn ngữ để từ đó nâng dần kết quả học tập của trẻ. IV. Các biện pháp thực hiện 1.Giải pháp 1: Bồi dưỡng kinh nghiệm để tổ chức tốt môn học nhận biết tập nói cho trẻ. Để tổ chức giờ học môn nhận biết tập nói cho trẻ nói riêng và các môn học khác nói chung cho trẻ, trước hết tôi luôn tham gia đầy đủ các lớp tập huấn, các buổi hội thảo, hội nghị chuyên đề do phòng giáo dục và nhà trường tổ chức. Tham gia sinh hoạt chuyên môn tổ để cùng trao đổi về việc tổ chức các môn học cho trẻ, dự giờ các môn học từ đồng nghiệp để học hỏi và rút kinh nghiệm cho bản thân. Bản thân cũng chưa có nhiều kiến thức và hiểu biết nhiều về môn học nên đã tự nghiên cứu tài liệu, xem sách báo, tìm hiểu thêm trên mạng internet, các phương tiện thông tin đại chúng như đài, ti vi…để có thêm vốn kiến thức về môn học. Ngoài ra, tôi cũng dành những thời gian rảnh để thực hiện tốt công tác bồi dưỡng thường xuyên nhằm nâng cao năng lực tự học, tự bồi dưỡng giúp bản thân nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. 2.Giải pháp 2: Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Khi bước vào năm học đầu tiên của độ tuổi nhà trẻ, thông thường trẻ trong độ tuổi này bắt đầu biết nói những câu đơn giản và có thể đối thoại ngắn với người lớn. Tuy nhiên thời gian này, vốn từ của trẻ thì chưa đủ để diễn đạt hết những hiểu biết của trẻ, trẻ nhút nhát, thụ động. Ví dụ: Trong lớp tôi phụ trách có cháu Đình Hưng, cháu Bảo An, cháu Công Tuấn thường hay nhút nhát, thụ động không trả lời câu hỏi của cô, vì vậy tôi thường xuyên chú ý trò chuyện cởi mở với trẻ, tạo nhiều cơ hội để trẻ tự nói chuyện có tinh thần thoải mái, Khuyến khích động viên, khen gợi trẻ để trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp gợi cho trẻ những việc mà trẻ thích hoặc muốn làm. Vì vậy phải chú ý đến từng đặc điểm tâm sinh lý cá nhân của từng trẻ, để
- 8 có những biện pháp phù hợp với trẻ. Từ đó phát huy hết khả năng của từng trẻ, có các phương pháp dạy cho trẻ hứng thú hơn trong mọi hoạt động. 3.Giải pháp 3: Tạo môi trường cho trẻ hoạt động: Khi mới bắt đầu đi học trẻ tạm thời rời gia đình đến với vòng tay cô giáo với các bạn cùng lứa tuổi với đầy bỡ ngỡ. Trẻ chủ yếu khóc, nhớ nhà và rất cần tình thương của từ cô giáo vỗ về, các cô cũng rất vất vả trong giai đoạn đầu trẻ đến lớp. Nhất là tạo lòng tin cho phụ huynh cũng như khích lệ trẻ thích đến lớp. Do đó mà giáo viên phải có nhiệm vụ hướng dẫn cũng như dạy bảo trẻ thêm nhiều điều và trao đổi với phụ huynh để có biện pháp chủ đạo nhằm bồi dưỡng thêm kiến thức cho trẻ thông qua quá trình dạy học và làm quen các bộ môn trong lứa tuổi nhà trẻ nhất là lĩnh vực phát triển ngôn ngữ bộ môn Nhận biết và tập nói. Với trẻ mầm non nói chung và lứa tuổi nhà trẻ nói riêng thì phát âm đúng từ ngữ là việc khó khăn vì bản thân trẻ còn nói ngọng, chưa chuẩn. Cô là người củng cố, uốn nắn trẻ nói từng câu, từng từ, trẻ nói đúng, nói chuẩn, nói đủ câu để trẻ phát triển được ngôn ngữ cũng như tư duy một cách tốt nhất. Chính vì vậy mà phải tạo môi trường cho trẻ hoạt động để trẻ có nhiều cơ hội được quan sát, được thỏa mãn trí tò mò, lòng ham muốn khám phá thế giới thông qua các giờ trẻ được hoạt động, và hoạt động với đồ vật là chủ đạo trong suốt quá trình học ở mầm non. Môi trường cho trẻ hoạt động trong phòng, nhóm lớp: Tôi luôn suy nghĩ để tạo ra ở quanh trẻ một môi trường với nhiều hình ảnh bắt mắt nhất là ở các góc chơi của trẻ và gợi mở đối với trẻ. Để lớp học lôi cuốn trẻ tôi đã trang trí những hình ảnh ngộ nghĩnh, màu sắc sinh động, bố trí sắp xếp các góc hợp lý: Góc hoạt động cần yên tĩnh xa góc ồn ào, có góc bên trong và góc bên ngoài lớp học, tận dụng những nguyên vật liệu sẵn có tại địa phương làm những đồ dùng, đồ chơi tự tạo phù hợp với từng chủ đề cho từng góc. Đối với bộ môn Nhận biết tập nói tôi tận dụng hầu hết các không gian trong góc chơi bởi trẻ hoàn toàn có thể lĩnh hội được kiến thức của bộ môn thông qua các hoạt động khác tại các góc hoạt động. Nhất là có kế hoạch đề xuất để tìm
- 9 biện pháp sao cho tốt nhất trong quá trình dạy cũng như hoạt động với đồ vật của trẻ. Tôi thường xuyên thiết kế, bổ sung thay đổi đồ dùng và trang trí các góc trong lớp học. Tôi trang trí và thay đổi đồ dùng phù hợp với chủ đề mới và theo từng chủ đề nhánh để cung cấp thêm hình ảnh phong phú cũng như khung cảnh lớp luôn mới với trẻ, trẻ được nói đúng, nói đủ câu và nhất là khi trẻ thấy được tranh ảnh này trẻ Được phát triển vốn từ ở mọi lúc mọi nơi. Ví dụ: Trang trí phù hợp với từng chủ điểm Góc bế em
- 10 Góc: Bé hoạt động với đồ vật Góc: Âm nhạc
- 11 Môi trường ngôn ngữ hoạt động ngoài lớp học: Môi trường ngoài lớp học là yếu tố góp phần tích cực trong các hoạt động nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục toàn diện trẻ. Trường tôi đã tập trung xây dựng môi trường giáo dục ngoài lớp học an toàn, đẹp, hấp dẫn trẻ. Môi trường ngoài lớp học (Khu vui chơi ngoài trời, khu phát triển vận động, phòngthư viện….) là nơi tạo cơ hội cho trẻ được khám phá, tìm tòi, trải nghiệm, phát triển khả năng sáng tạo. Hình ảnh: Đồ chơi cầu trượt
- 12 Hình ảnh: Đồ chơi cầu trượt, bập bênh, xích đu Hình ảnh: Đồ chơi đu quay
- 13 Các khu vực chơi của trẻ ngoài lớp học phải được thiết kế thẩm mĩ, an toàn, thân thiện với trẻ. Đồ dùng, đồ chơi tại các khu vực được để gọn gàng, trong tầm tay trẻ, an toàn khi sử dụng và luôn được thay đổi để kích thích trẻ tham gia hoạt động. Ngoài ra có thể tận dụng các nguồn nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để trẻ khám phá, đặc biệt là nguồn nguyên liệu tự nhiên và phế liệu. Trường mầm non là môi trường thuận lợi để hình thành các kỹ năng xã hội cho trẻ: Đảm bảo môi trường giao tiếp thân thiện, hòa đồng, ấm cúng, cởi mở giữa cô và trẻ, giữa trẻ với trẻ, giữa trẻ với môi trường xung quanh. Quan hệ giữa cô và trẻ, người lớn với trẻ phải thể hiện tình cảm yêu thương, thái độ tôn trọng, tin tưởng trẻ, tạo cơ hội cho trẻ bộc lộ những suy nghĩ, tâm tư nguyện vọng của mình. Tạo điều kiện cho trẻ giao tiếp và thể hiện sự quan tâm của mình đối với mọi người, đối với sự vật hiện tượng gần gũi xung quanh. Mọi cử chỉ, lời nói, việc làm của cô giáo và người lớn phải luôn mẫu mực để trẻ noi theo. Mối quan hệ giữa trẻ với trẻ là quan hệ bạn bè cùng học cùng chơi, đoàn kết, hợp tác, chia sẻ, đồng cảm, học hỏi lẫn nhau. Giáo viên cần nhạy cảm để tận dụng các mối quan hệ giữa trẻ với trẻ để giáo dục trẻ và có sự thống nhất giữa trường mầm non, gia đình và cộng đồng xã hội trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ. 4.Giải pháp 4: Thay đổi hình thức vào bài. Tùy thuộc từng nội dung bài dạy trong từng chủ đề mà tôi lựa chọn cách gây hứng thú cho trẻ một cách linh hoạt nhẹ nhàng. Vì vậy tôi phải xác định được mục đích, yêu cầu của bài dạy, tôi luôn nghiên cứu kĩ giáo án thì mới vận dụng các phương pháp, biện pháp giảng dạy tạo cho trẻ cảm giác gần gũi, vui vẻ, kích thích trẻ thích tham gia vào hoạt động của cô. Ngoài việc tôi phải chuẩn bị giáo án kĩ càng ra tôi còn cần phải chuẩn bị đồ dùng, tranh ảnh vật thật, mô hình sinh động, hấp dẫn, mới lạ. Tận dụng nhạc của bài “Bắp cải xanh” cho trẻ hát và đi thăm mô hình sau đó quan sát các loại rau trong mô hình và cho trẻ gọi tên các loại rau đó, từ đó giáo dục trẻ biết chăm sóc các loại rau, ăn rau cung cấp vitamin và muối khoáng cho cơ thể...
- 14 Giúp trẻ cảm nhận và nắm được nội dung thông qua câu đố, hình ảnh bằng các hình thức: Ví dụ: Với con chó: Cho trẻ nghe tiếng kêu của con chó? Sau đó hỏi trẻ: Tiếng con gì vừa kêu? Tôi có thể sử dụng hình ảnh con chó tạo sự hấp dẫn cho trẻ quan sát. Cho trẻ giả làm tiếng chó sủa gâu...gâu! Hình ảnh: Con chó Ví dụ: Với con mèo: Cô cho trẻ xem hình ảnh con mèo hoặc bắt trước tiếng mèo kêu tạo sự hứng thú đối với trẻ. Thông qua mỗi hình thức làm quen với một số con vật gần gũi trẻ thì trẻ được củng cố, nói nhiều lần sao cho chính xác từ và tên các con vật cần làm quen và tìm hiểu thêm về một số đặc điểm đơn giản của con vật đang tìm hiểu (tiếng kêu, món ăn yêu thích…). Lúc đầu trẻ nói tên con vật to, rõ ràng cùng cả lớp 2- 3 lần. Sau đó cô mời
- 15 tổ, nhóm, cá nhân nói thật to ràng, mạch lạc: 5- 6 trẻ. Hình ảnh: Con Mèo Sử dụng vật thật: Ví dụ: Dạy trẻ nhận biết “Quả chuối, quả quýt”. Tôi chuẩn bị quả thật quả chín và quả xanh, quả có màu sắc rõ ràng, quả chuối, quả quýt bóc vỏ cắt miếng nhỏ, bỏ trong đĩa. Tôi cho trẻ sờ, ngửi, nếm để trẻ có thể cảm nhận được màu sắc, mùi vị thông qua hoạt động này trẻ sẽ nhớ lâu hơn và có thể nhận biết được màu sắc, mùi vị của từng loại quả một cách nhanh chóng, chính xác.
- 16 Hình ảnh: Quả chuối xanh và chuối chín Hình ảnh: Quả quýt Ngoài sự chuẩn bị đồ dùng đầy đủ, đẹp trong tiết dạy tôi cũng áp dụng linh hoạt, sáng tạo thay đổi hình thức dạy, lồng ghép các hoạt động để thu hút trẻ tập trung sự chú ý của trẻ. Sử dụng các câu đố: Ví dụ: Trong chủ đề: "Những con vật đáng yêu" tôi có thể sử dụng các câu đố để thay đổi hình thức vào bài như: Con gì tai thính mắt tinh Nấp trong bóng tối ngồi rình chuột qua? (Con mèo) Con gì đuôi ngắn tai dài Mắt hồng lông mượt có tài chạy nhanh? (Con thỏ) Khi cho trẻ quan sát bồn hoa thật trong khuôn viên trường và chơi các trò chơi Tôi hỏi trẻ: Các con quan sát xem trong bồn hoa có những loại hoa gì? Trẻ kể tên các loại hoa trong bồn hoa hoặc cô sẽ nói để trẻ biết và nói theo đó là hoa gì? (Khi cô nói đến hoa nào cô sẽ chỉ vào hoa đó) - Các con thấy hoa cúc như thế nào? (Rất đẹp)
- 17 - Còn hoa cúc thì sao? có màu gì? (Màu vàng) (cho trẻ nhắc lại "Hoa cúc màu vàng") - Khi ngửi hoa các con thấy như thế nào? (Mùi thơm) (cô cho trẻ ngửi) - Cánh hoa như thế nào? (Nhẵn) (cô cho trẻ sờ vào cánh hoa Dạy trẻ thông qua các tiết học chính. Qua thời gian trực tiếp chăm sóc và giáo dục trẻ tôi thấy khả năng phát âm của trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ phát âm sai sót nhiều. Ví dụ: Trong lớp tôi có cháu Công Tuấn còn nói ngọng, cháu thường phát âm: “Con chó” đọc là “con tó” “Cầu trượt” đọc là “cầu tượt” Chính vì vậy, đối với những trẻ phát âm sai, ngọng như cháu Công Tuấn thì ngay trong giờ học đó tôi đã chú ý sửa sai cho trẻ. Tôi nói trước rõ lời, nói chậm cho trẻ phát âm theo, khuyến khích động viên trẻ đứng lên phát âm đúng, rõ ràng. Nói từ từ, chính xác từng chữ một, có thể cho trẻ nói hai ba lần để trẻ nhớ. Trong lớp học tôi chia trẻ thành 3 tổ, trong từng tổ có các cháu tiếp thu bài ở các mức độ khác nhau. Để giúp trẻ làm quen và học tốt môn nhận biết tập nói cho trẻ 24-36 tháng tuổi đạt kết quả cao tôi luôn tìm ra những cách dạy hay, sáng tạo để gây hứng thú cho trẻ. Ví dụ: Dạy trẻ nhận biết tập nói “Con voi, con khỉ” Chủ đề: Những con vật đáng yêu Với tiết nhận biết tập nói này, tôi chuẩn bị: Mũ voi, Mũ khỉ, một số hình ảnh video các con vật sống trong rừng. Mở đầu bài dạy tôi cho trẻ hát bài "Cho trẻ xem video các con sống trong rừng", Trẻ quan sát lắng nghe xem và nhận xét, kể tên các con vật, sau đó tôi cho trẻ về chỗ ngồi ổn định và suất hiện hình ảnh con voi, con khỉ qua mà hình nhỏ, cho trẻ quan sát, gọi tên và nhận xét đặc điểm của con voi, con khỉ. Sau khi dạy trẻ nhận biết về tên gọi tôi tiến hành cho trẻ phân biệt giữa các đối tượng. Tôi thường cho trẻ phân biệt qua tên gọi, một số đặc điểm nổi bật nhằm
- 18 phát triển tư duy của trẻ như Đặc điểm phân biệt Con voi Con khỉ - Tên gọi - Con voi - Con khỉ - Đặc điểm nổi bật - Ngà, mắt, tai, chân.. - Mồm, mũi,mắt, tai chân.. - Sống ở trong rừng,.. - Sống ỏ trong rừng,.... Hình ảnh: Con voi, con khỉ
- 19 Đến khi kết thúc tiết học tôi tiếp tục sử dụng các biện pháp tích hợp, múa hát đọc thơ, trò chơi…Để củng cố nội dung bài mà trẻ vừa được học. Với cách giới thiệu như vậy, tôi thấy các cháu hứng thú học. Tôi thường xuyên thay đổi phương pháp, cách thức dựa vào nội dung bài nhận biết tập nói để tìm cách giới thiệu hay nhất làm sao để tạo được sự hứng thú sau đó đi sâu vào phần chính rèn cho trẻ cách phát âm đúng, chính xác nhất. Trong quá trình dạy tôi luôn chú ý rèn luyện cho trẻ có thói quen nề nếp trong học tập, cũng như giáo dục lễ giáo cho trẻ, đó là cơ sở ban đầu hỗ trợ cho giờ dạy đạt hiệu quả cao. 5.Giải pháp 5: Lấy trẻ làm trung tâm dựa vào nhu cầu, khả năng và kinh nghiệm của trẻ. Tôi cho trẻ trải nghiệm thực tế bằng việc cho trẻ đi tham quan, ngoài trời quan sát bồn hoa, cây cảnh qua đó phát triển vốn từ cho trẻ. Trong giờ học tôi luôn để trẻ tự thể hiện, cô luôn là người động viên, khuyến khích trẻ sáng tạo. Trẻ cần được động viên để thể hiện ý muốn, tình cảm, cảm xúc và những hiểu biết của trẻ đối với sự vật, trẻ muốn được lựa chọn. Cô giáo nên đưa ra câu hỏi gợi ý giúp trẻ củng cố và áp dụng những kinh nghiệm đã lĩnh hội trong các hoạt động khác nhau, động viên trẻ suy nghĩ, thăm dò, tìm cách giải quyết vấn đề của trẻ. Hãy để tự trẻ miêu tả những gì trẻ biết và có thể làm. Nhằm giúp trẻ tăng trí thông minh, khả năng ghi nhớ, nhận biết môi trường tự nhiên. Sau khi nắm được nhu cầu, hứng thú, khả năng của từng trẻ để có cách giảng dạy phù hợp. Và cũng chính sự khác nhau đó, đòi hỏi tôi phải tạo cho trẻ có nhiều cơ hội để học tìm hiểu thực tế. Tạo môi trường trong lớp học và tận dụng tất cả không gian trong và ngoài lớp học nhằm tạo điều kiện cho trẻ được học, được trải nghiệm, được khám phá mọi lúc, mọi nơi. Cần phải xây dựng tổ chức môi trường giáo dục, tạo nhiều cơ hội cho trẻ học bằng nhiều cách khác nhau để trẻ chủ động tham gia các hoạt động vui chơi, khám phá, trải nghiệm theo phương châm “học mà chơi, chơi mà học” phù hợp với từng độ tuổi khác nhau. Tôi tự xây dựng kế hoạch giảng dạy để dạy trẻ đạt kết quả tốt nhất, căn
- 20 cứ vào khả năng, nhu cầu học tập, kinh nghiệm sống của trẻ ở lớp mình phụ trách để xác định mục tiêu, nội dung cụ thể trong từng hoạt động và đảm bảo tốt mục tiêu giáo dục đề ra. Việc đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ trong quá trình tham gia các hoạt động giáo dục tại trường. Trẻ sẽ tích cực, chủ động tham gia các hoạt động, làm việc theo nhóm để được trải nghiệm, trao đổi, chia sẻ và trình bày ý kiến của mình; biết suy nghĩ và vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống, giải quyết các tình huống mà trẻ gặp phải… Từ đó, trẻ mạnh dạn, tự tin, tích cực, chủ động, tư duy, sáng tạo, thích thú tìm tòi, khám phá trong quá trình tham gia các hoạt động giáo dục ở trường, ở lớp. 6.Giải pháp 6: Dạy trẻ mọi lúc mọi nơi thông qua các hoạt động trong ngày ở trường mầm non. Ngoài những hoạt động chính ra tôi thường dạy trẻ phát tiển vốn từ thông qua các hoạt động trong ngày của trẻ tại trường. Giờ đón trẻ: Trong giờ đón trẻ tôi luôn trò chuyện cởi mở với trẻ, tôi trò chuyện với trẻ, nhắc trẻ nói tròn câu, nói mạch lạc, không nói lắp…Qua đó, trẻ phải dùng ngôn ngữ, cử chỉ để diễn đạt những suy nghĩ của trẻ để trả lời các câu hỏi của cô….Tôi hướng dẫn trẻ cách chào cô khi trẻ đến lớp, chào tạm biệt ông bà, bố mẹ khi ông bà, bố mẹ về hoặc đến đón trẻ. VD: Cô trò chuyện với trẻ về gia đình của trẻ: + Gia đình con có những ai? + Trong gia đình ai yêu con nhất? + Mẹ yêu con như thế nào? + Buổi sáng ai đưa con đến lớp? + Bố con đưa đi bằng phương tiện gì? Như vậy khi trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn. Giờ điểm danh: Trong giờ điểm danh tôi gọi trẻ theo thứ tự trong sổ theo dõi trẻ sau đó hỏi trẻ
![](images/graphics/blank.gif)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Sưu tầm và thiết kế một số trò chơi giúp trẻ 5 tuổi Làm quen chữ cái trong trường mầm non
22 p |
200 |
42
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non
12 p |
115 |
12
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Các bước xây dựng giáo án điện tử dạy trẻ lứa tuổi mầm non
20 p |
102 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thông qua công tác chỉ đạo tăng cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho trẻ tại trường mầm non Sơn Ca, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng năm học 2020-2021
14 p |
111 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp hình thành biểu tượng toán về số lượng cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi C ở trường Mầm non 2/9
20 p |
171 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp quản lý, chỉ đạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường mầm non
24 p |
42 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Kinh nghiệm chỉ đạo Giáo viên thực hiện Chương trình Giáo dục Mầm non
21 p |
123 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc tổ chức chuyên đề trong trường mầm non
20 p |
65 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên mầm non nâng cao nghiệp vụ sư phạm giáo dục mầm non
13 p |
65 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Xây dựng đội ngũ đoàn kết nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc giáo dục trẻ trong trường Mầm non
16 p |
91 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở trường mầm non Yên Mỹ
6 p |
153 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ bảo vệ môi trường trong trường mầm non
23 p |
110 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Làm thế nào đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở trường mầm non
13 p |
118 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp xây dựng và chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục mầm non chất lượng cao
36 p |
101 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm xây dựng trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia mức độ II
24 p |
101 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non tại Trường MN Tân Mai
13 p |
145 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp thực hiện công tác phổ cập giáo dục mầm non trẻ năm tuổi ở trường mầm non
19 p |
105 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non
33 p |
69 |
4
![](images/icons/closefanbox.gif)
![](images/icons/closefanbox.gif)
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/js/fancybox2/source/ajax_loader.gif)