intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ 5-6 tuổi trong giờ làm quen với môi trường xung quanh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

191
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu đề tài nhằm phân tích thực tế công tác chăm sóc, giáo dục trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non và với mong muốn cho trẻ mầm non được được thỏa sức tham gia khám phá một thế giới sinh động, hấp dẫn đang diễn ra trong mắt trẻ thơ. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ 5-6 tuổi trong giờ làm quen với môi trường xung quanh

  1. UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ====***===== BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Tên sáng kiến: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ CHO  TRẺ 5­6 TUỔI TRONG GIỜ LÀM QUEN VỚI MÔI TRƯỜNG  XUNG QUANH Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Hà Loan  Chức vụ: Giáo viên  Địa chỉ: Trường mầm non Thị trấn Lập Thạch * Mã sáng kiến: 04 1
  2. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu:    Tìm hiểu khám phá thế giới xung quanh là nhu cầu của con người xuất   hiện ngay từ khi còn nhỏ, khi cất tiếng khóc chào đời trẻ  đã có nhu cầu tìm   hiểu, khám phá, nhu cầu giao tiếp về thế giới xung quanh và khi trẻ càng lớn   thì nhu cầu đó ngày càng lớn hơn, trẻ muốn khám những điều mới lạ, thú vị  đang diễn ra của một “xã hội người lớn” nhưng trẻ  còn nhỏ  chưa có vốn  sống, vốn kinh nghiệm, chưa thể tự khám phá được nên người lớn phải giúp  đỡ  trẻ, hướng dẫn trẻ  tham gia vào các hoạt động nhằm cho trẻ  làm quen,  khám phá về môi trường xung quanh. Khi trẻ được làm quen với thế giới môi  trường xung quanh sẽ  giúp trẻ tích luỹ  được những kinh nghiệm, kiến thức,   kỹ năng về tự nhiên và xã hội, giúp trẻ khám phá ra những mối quan hệ và lý  giải được những câu hỏi: Vì sao? Tại sao? Sao lại như vậy?...  Việc cho trẻ  tìm hiểu và làm quen với môi trường xung quanh sẽ  giúp  trẻ phát triển toàn diện về nhận thức, đạo đức, thể lực, thẩm mỹ và lao động,  nhân cách của trẻ được hình thành, phát triển và đó là mục đích hàng đầu của  ngành học mầm non nói riêng và ngành giáo dục nói chung. Mặt khác: Nhu cầu ham hiểu biết đã kích thích hứng thú nhận thức  ở  trẻ, Nó thể  hiện  ở  mong muốn biết cái mới, làm rõ cái chưa biết về  đặc  điểm, tính chất của sự vật, hiện tượng xung quanh, muốn tìm hiểu bản chất  của sự vật hiện tượng và mối quan hệ giữa chúng. Hứng thú nhận thức của   trẻ thường được thể hiện trong các hoạt động đặc trưng của lứa tuổi như vui  chơi, học tập, lao động, sinh hoạt hàng ngày.           Giáo viên luôn quan tâm đến việc cho trẻ tìm hiểu, làm quen với môi   trường xung quanh, các cô giáo đã biết cách tổ chức cho trẻ tham gia vào các   hoạt động nhằm tìm hiểu về môi trường xung quanh và đạt hiệu quả rất cao.   Trẻ  đã đã có những kiến thức, những hiểu biết về  các sự  vật, hiện tượng   2
  3. xung quanh như: biết tên gọi, đặc điểm, cấu tạo… của các sự  vật và hiện  tượng xung quanh. Thực tế  tại nhà trường còn một số  ít giáo viên tổ  chức các hoạt động   cho trẻ chưa linh hoạt, sáng tạo, và trong quá trình tổ chức các hoạt động cho  trẻ, trẻ  tập trung chú ý, trẻ  còn hay quên, hay nhầm lẫn nên trẻ  chưa có nề  nếp và kỹ năng trong các hoạt động. Đặc biệt nhận thức của trẻ về thế xung   quanh còn đơn lẻ, những biểu tượng, những kiến thức, những kỹ năng cũng  như những thái độ của trẻ về thế giới xung quanh còn chưa chính xác.           Từ thực tế trên nếu tình trạng đó kéo dài thì chất lượng học của trẻ và  sự phát triển toàn diện của trẻ sẽ không đồng đều. Vì kiến thức của môn học   cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh có liên quan tới các môn học khác,  mà trẻ ở độ tuổi mẫu giáo lớn càng cần phải cho trẻ nắm bắt kiến thức một   cách đầy đủ, chính xác, chắc chắn để  trẻ  có cơ  sở  học tốt, chuẩn bị tâm thế  cho trẻ sẵn sàng bước vào lớp một – môi trường học tập mới đối với trẻ, nên   tôi đã nghiên cứu những nguyên nhân: Vì sao trẻ chưa hứng thú, chưa tập trung  chú ý trong giờ làm quen với môi trường xung quanh?  2. Tên sáng kiến:   Với những băn khoăn trên về  thực tế  công tác chăm sóc, giáo dục trẻ  trong các cơ sở giáo dục mầm non và với mong muốn cho trẻ mầm non được  được thỏa sức tham gia khám phá một thế giới sinh động, hấp dẫn đang diễn ra   trong mắt trẻ thơ. Tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ   5 – 6 tuổi trong giờ làm quen với môi trường xung quanh” để giúp được phát  triển một cách toàn diện, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của   trẻ. 3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Nguyễn Thị Hà Loan ­ Địa chỉ: Giáo viên ­ Trường mầm non Thị trấn, huyện Lập Thạch. ­ Số điện thoại: 0985443786  ­ Email: nguyenthihaloan.gvmnthitran@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Báo cáo sáng kiến kinh nghiệm là do bản  thân tự nghiên cứu và đề ra những giải pháp trong quá trình thực hiệ công tác  chăm sóc, giáo dục trẻ tại trường mầm non Thị trấn, huyện Lập Thạch. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 3
  4. Báo cáo sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “Một số biện pháp gây  hứng thú cho trẻ 5 – 6 tuổi trong giờ làm quen với môi trường xung  quanh” được áp dụng trong lĩnh vực phát triển nhận thức dành cho trẻ mầm  non ở bộ môn phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh. Mặt khác, đây là một đề tài mang tính thực tiễn, được áp dụng vào quá  trình giảng dạy không chỉ dành riêng cho môn học Làm quen với môi trường  xung quanh mà còn có khả năng áp dụng cho tất cả các môn học khác để tạo  hứng thú cho trẻ như môn: Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, Làm quen   với toán, tạo hình, âm nhạc…Hay khi tổ chức các hoạt động khác như: Hoạt   động góc, hoạt động ngoài trời, …. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:   Sau khi đề ra những giải pháp nhằm giúp cho trẻ có thể lĩnh hội những  kiến thức, kỹ năng và thái độ về thế giới xung quanh thì đề tài nghiên cứu đã   được áp dụng đối với trẻ lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi A2 tại trường mầm non Thị  trấn, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc vào ngày 12/9/2021. 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 7.1. Về nội dung của sáng kiến:  7.1.1. Về cơ sở lý luận: Để  có thể  đưa ra các giải pháp hiệu và có những điều kiện áp dụng  được những giải pháp thì bản thân tôi cũng đã đầu tư  nghiên cứu về  một số  cơ sở lý luận có liên quan đến vấn đề sự hứng thú và tập trung chú ý của trẻ  để  trẻ  có thể  chủ  động lĩnh hội, khám phá hữu thế  giới xung quanh. Đó là  những khái niệm về hứng thú, về chú ý và sự chuyển hoá từ chú ý không chủ  định sang chú ý có chủ định và ngược lại a. Khái niệm về hứng thú  Có rất nhiều các nhà nghiên cứu đã đưa ra các quan điểm, các khái niệm   khác nhau về hứng thú.   Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, có   ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân   trong quá trình hoạt động. Hứng thú là một thái độ  đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng, thể  hiện ở sự chú ý tới đối tượng, khao khát đi sâu nhận thức đối tượng, sự thích  thú được thỏa mãn với đối tượng 4
  5.  Trong đề tài nghiên cứu của tôi có sử dụng khái niệm hứng thú của  Trần Thị Minh Đức làm công cụ. Ở đó khái niệm được định nghĩa như sau:  Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý  nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng đem lại khoái cảm cho cá nhân  trong quá trình hoạt động. b. Khái niệm chú ý: Chú ý luôn là một hiện tượng tâm lí độc đáo, xuất hiện kèm theo các  hoạt động, cũng như  luôn có mặt trong các quá trình nhận thức của cá nhân,  làm cho chúng diễn ra với những sắc thái khác nhau. Trong môi truờng xung  quanh với vô vàn sự  vật và hiện tượng tác động vào, ý thức con người phải  biết lựa chọn, biết tập trung vào một số  sự vật, hiện tượng nào đó của hiện   thực nhằm có sự  phản ánh rõ ràng những sự  vật, hiện tượng hoặc những  thuộc tính của sự  vật, hiện tượng  đó, còn các sự  vật hiện tượng khác ta  không để ý tới, hoặc để  ý tới một cách mơ hồ  không rõ ràng. Việc tập trung  chú ý để nhận thức một số đối tượng hay hiện tượng nào đó gọi là chú ý Như  vậy “Chú ý là sự  tập trung của hoạt động tâm lý vào một hoặc   một số  đối tượng nào đó, nhằm phản ánh chúng một cách đầy đủ, rõ ràng   nhất.” c. Sự chuyển hóa từ chú ý không chủ định sang chú ý có chủ đích và ngược  lại           Qua trình tổ chức các hoạt động chú ý cho trẻ ở trên lớp bản thân tôi   khi luôn tạo ra sự chú ý cho trẻ, luôn tạo sự chuyển hóa chuyển hoá từ chú ý   không chủ  định sang chú ý có chủ  định và ngược lại để  đạt được hiệu quả  cao hơn bằng cách: Trước hết, tôi tạo ra một đối tượng mới lạ, hấp dẫn để  thu hút sự  chú ý của trẻ  ( chú ý không chủ  định), sau đó tôi gợi ý và nêu rõ   mục đích nhiệm vụ cần chú ý để duy trì chú ý của trẻ được lâu hơn.  Khi trẻ  căng thẳng vì phải tập trung chú ý quá lâu thì tôi luôn tạo cho  trẻ chú ý một sức hấp dẫn mới, cuốn hút sự chú ý của trẻ một cách tự nhiên,   say mê mà vẫn không mệt mỏi. Như  vậy là đã chuyển chú ý từ  không chủ  định sang chú ý có chủ định. 7.1.2. Trực trạng của vấn đề nghiên cứu  a. Thực trạng của việc tổ chức các tiết học cho trẻ làm quen với môi trường   xung quanh  5
  6.          Trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ  một số  giáo viên đã thực hiện   theo đúng chương trình giáo dục mầm non mà Ngành, Phòng giáo dục đã quy   định đó là đã tổ chức cho trẻ tham gia đầy đủ các hoạt động làm quen với môi  trường xung quanh theo các chủ đề. Khi tổ chức các hoạt động đã được thực  hiện theo đúng phương pháp bộ  môn đặc trưng, thực hiện đúng trình tự  các  bước, bài dạy có đầy đủ  nội dung kiến thức phù hợp với sự  nhận thức của   trẻ. Trong các hoạt động giáo viên đã chuẩn bị  đầy đủ  đồ  dùng dạy học và  giáo án. Song tôi thấy giờ học kết quả đạt chưa cao. Trong giờ hoạt động, trẻ  chưa hứng thú, chưa tập trung chú ý nghe cô giảng. Trẻ tiếp thu kiến thức mà  cô giáo truyền đạt vẫn còn chậm và hay quên, khi cô đặt câu hỏi thì trẻ chưa   trả lời được, hoặc trả lời ấp úng, không chính xác, rõ ràng. Từ thực tế nêu trên, nên chất lượng các giờ hoạt động của lớp còn hạn  chế, các tiết dạy trẻ  làm quen với môi trường xung quanh được nhà trường   dự giờ đánh giá xếp loại khá và đạt yêu cầu.  b.  Khảo sát thực tế:  Trước khi thực hiện đề tài nghiên cứu để đề xuất ra một số biện pháp  gây hứng thú cho trẻ trong giờ làm quen với môi trường xung quanh ở lớp 5 –  6 tuổi A2 Trường Mầm Non Thị  trấn – Thị  trấn L ập Thạch – Huy ện L ập   Thạch – Tỉnh Vĩnh Phúc tôi đã có những tiết cho trẻ làm quen với môi trường  xung quanh như  “Tìm hiểu về  lớp học của bé”, “Tìm hiểu về  gia đình bé”  “Tìm hiểu về một số loại rau”…, tôi thấy trẻ chưa hứng thú, chưa tập trung   chú ý, chưa hưng phấn, sự  tham gia tích cực của trẻ  còn ít. Nhiều trẻ  mệt  mỏi, không tập trung, không hứng thú, chưa lĩnh hội được các kiến thức của  bài học, chưa đáp ứng được mục tiêu giáo dục. Trước những băn khoăn đó, tôi đã tiến hành khảo sát thực tế của trẻ tại  lớp 5 ­ 6 tuổi A2 trường Mầm non Thị trấn – Huy ện L ập Th ạch – T ỉnh Vĩnh  Phúc do tôi phụ trách về khả năng hứng thú, tập trung chú ý, sự tham gia tích  cực của trẻ  trên tổng số  37  cháu trong giờ  làm quen với môi trường xung  quanh như sau: STT Sự hứng thú, khả năng tập chung  Kết quả chú ý của trẻ  Số lượng Tỷ lệ % 1 Loại Tốt  11/37 30 2 Loại Khá  14/37 38 3 Loại Trung bình 12/37 32 6
  7. 4 Loại yếu, kém 0 0 Như vây, co 11/37 tre = 30 % tr ̣ ́ ̉ ẻ đã hứng thú và chú ý tốt trong quá trình  tôi tổ  chức cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh, co 14/37 tre = 38 % ́ ̉   cháu hứng thú chưa nhiều chỉ ở mức độ Khá. Còn 12/37 =  32 % tre h ̉ ưng thu  ́ ́ở   mưc đô Trung binh, ch ́ ̣ ̀ ưa tập trung chú ý nhiều, con mêt moi trong qua trinh ̀ ̣ ̉ ́ ̀   ̣ ̣ hoc tâp. 7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến  7.2.1. Biện pháp 1:  Đồ dùng, đồ chơi phải đủ, đẹp, hấp dẫn, an toàn cho   trẻ. Yếu tố quan trọng đầu tiên để lôi cuốn được sự hứng thú của trẻ là đồ  dùng, đồ chơi phải đẹp, hấp dẫn, phong phú sinh động nhằm kích thích hứng   thú, tò mò lòng ham hiểu biết của trẻ  và đồ  dùng đồ  chơi phải đảm báo an  toàn cho trẻ  trong quá trình sử  dụng để  tránh gây ra những thương tích cho  trẻ. Chỉ có như vậy thì trẻ mới hứng thú học bài. Đối với việc sử dụng tranh   ảnh để tổ chức các hoạt động cho trẻ thì tôi đã chọn những tranh còn mới, có  màu sắc tươi tắn, đẹp hấp dẫn trẻ.  Ví dụ: Khi tổ chức cho trẻ “Tìm hiểu về một số di tích lịch sử của quê   hương Lập Thạch” thì tôi đã sử  dụng một số  tranh vẽ  về   đền thờ  Trần  Nguyên Hãn – là một di tích lịch sử nổi tiếng của Lập Thạch ở Xã Sơn Đông,   tranh vẽ  về  đền Xuân Trạch là một di tích lịch sử   ở  Xã Xuân Hoà – Huyện   Lập Thạch. Những bức tranh mà tôi lựa chọn là những bức tranh vẫn còn  mới, có màu sắc tươi tắn, đường nét rõ ràng, đẹp và có kích thước vừa phải.  Với những bức tranh đẹp như  vậy trẻ  rất hứng thú và ghi nhớ  rất nhanh về  nội dung giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách sâu sắc. Từ khi sử dụng các loại đồ chơi để tổ chức các hoạt động cho trẻ thì  tôi đã lựa chọn những đồ chơi mới, đẹp màu sắc hấp dẫn để thu hút sự chú ý  của trẻ, để trẻ tập trung chú ý quan sát và khám phá về đối tượng đó.  Ví dụ: Khi tìm hiểu về “Một số loại bánh trung thu” tôi đã chuẩn bị cho  mỗi trẻ một hộp bánh nướng và bánh dẻo bằng đồ chơi. Những loại bánh mà  tôi lựa chọn này là những đồ chơi còn mới, sạch sẽ, hình dáng, màu sắc giống   với bánh thực tế. Do đó mà trẻ  rất hứng thú và tập trung khám phá về  đặc  điểm, ý nghĩa của các loại bánh đó. 7
  8. Khi sử dụng đồ dùng trực quan thì tôi đã lựa chọn những vật có sẵn ở  địa phương gần gũi với trẻ, có màu sắc rõ ràng, có kích thước vừa phải,  không độc hại, nguy hiểm cho trẻ.  Ví dụ: Trong giờ tổ chức “Cho trẻ làm quen với một số loại hoa” thì tôi   đã chuẩn bị cho mỗi trẻ một giỏ hoa, trong đó có đầy đủ  tất cả  các loại hoa  mà tôi sẽ cho trẻ tìm hiểu. Những bông hoa mà tôi đã lựa chọn là những loại   hoa rất quen thộc gần gũi với trẻ  như  hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền và   những bông hoa này còn tươi, có màu sắc đẹp, rõ ràng,…Khi cho trẻ tìm hiểu  về  đặc điểm của từng loại hoa, tôi đã cho trẻ  được ngắm, được ngửi,…với  những loại hoa tươi, đẹp như  vậy trẻ  rất hứng thú và tiếp thu bài một cách  hiệu quả. Khi sử  dụng biện pháp này tôi thấy hiệu quả của giờ  học đạt rất cao.  Trước kia khi tổ chức cho trẻ tìm hiểu về môi trường xung quanh đồ dùng dồ  chơi của tôi chưa đẹp, chưa phong phú về chủng loại, màu sắc không rõ nét, … thì tôi thấy trẻ nhàn chán, mệt mỏi, kiến thức trẻ lĩnh hội được rất thấp và  sau khi áp dụng biện pháp này thì trẻ  hưng phấn, phấn khởi, hứng thú, kích   thích khả năng hứng thú, sự sáng tạo của trẻ. 7.2.2. Biện pháp 2: Sử dụng đồ dùng đồ chơi phải linh hoạt, phù hợp với   nội dung của tiết dạy. Khi tổ  chức các hoạt động giáo dục nói chung và tổ  chức cho trẻ  làm   quen với môi trường xung quanh nói riêng thì việc sử  dụng các loại đồ  dùng  đồ chơi cần phải linh hoạt, sáng tạo, không cứng nhắc, gò bó,…sẽ tạo hứng  thú cho trẻ, kích thích khả  năng ham hiểu biết của trẻ  và đồ  dùng đồ  chơi  phù hợp với nội dung của tiết học, phù hợp với chủ đề, phù hợp với độ tuổi. Khi sử dụng đầy đủ đồ dùng trực quan phải phong phú về chủng loại  như tranh, ảnh, mô hình, đồ dùng, đồ chơi, vật thật,… vì trẻ ở lứa tuổi mầm  non luôn thích cái mới, cái lạ.  Ví dụ: Tổ chức cho trẻ “Tìm hiểu về một số  loại rau” tôi đã sử  dụng   mô hình vườn rau để  trẻ  tham quan, sử  dụng rau thật như  rau bắp cải, xu   hào, rau muống, rau ngót,…để trẻ quan sát về đặc điểm, hình dạng; sử dụng  rau bằng đồ chơi để cho trẻ chơi trò chơi luyện tập, củng cố. Qua đó trẻ đã   rất hứng thú và 100 % trẻ trẻ nhận biết được tên gọi, đặc điểm của các loại   rau đó. 8
  9. Mỗi một loại đồ  dùng, đồ  chơi đều có những  ưu điểm và hạn chế  riêng. Hình ảnh tuy có đẹp nhưng chưa sinh động, đồ dùng trực quan thì giúp   trẻ  nhận biết được đầy đủ, chính xác về  đối tượng và sinh động hơn tranh.   Nhưng không có đầy đủ các vật thật cho trẻ chơi trò chơi, cho nên tôi đã lựa  chọn nhiều loại đồ  dùng trực quan để  đưa vào trong các hoạt động hàng  ngày, phù hợp với nội dung các hoạt động sao cho vừa có thể thuận tiện cho   việc truyền thụ kiến thức của cô, vừa có thể gây được hứng thú cho trẻ, giúp  trẻ tập trung chú ý, quan sát đối tượng một cách đầy đủ và chính xác nhất. Khi giáo viên sử dụng các loại đồ dùng trực quan phải phù hợp với nội   dung từng hoạt động cụ thể. Khi xây dựng các tiết hoạt động về môi trường   xã hội thì tôi đã lựa chọn tranh, ảnh để dạy trẻ.  Ví dụ  như: Tổ  chức cho trẻ tìm hiểu về  Thủ  đô Hà Nội thì tôi không  thể sử dụng được vật thật mà tôi đã sưu tầm những loại tranh  ảnh và tôi đã  tự  vẽ  những bức tranh có nội dung về  Thủ  đô Hà Nội như  Lăng Bác Hồ,   Chùa Một Cột, Hồ Gươm, cầu Thê Húc,…Thông qua các bức tranh trẻ được   quan sát sẽ giúp trẻ nắm bắt được những kiến thức mà cô truyền đạt.  Còn có những tiết dạy tôi cũng không sử  dụng vật thật hay tranh  ảnh   mà tôi đã sử dụng các loại đồ dùng đồ chơi để tổ chức cho trẻ tìm hiểu Ví dụ: “Cho trẻ làm quen với một số đồ chơi của bé” thì tôi đã sử  dụng   những đồ chơi đẹp, hấp dẫn và rất gần gũi với trẻ như: Búp bê, bóng nhựa, đồ  chơi xếp hình,…Hay “Tìm hiểu về một số loại phương tiện giao thông đường   bộ” thì tôi đã sử dụng những đồ dùng bằng đồ chơi có chất liệu an toàn, màu sắc   đẹp, hấp dẫn cho trẻ như: Xe đạp, xe máy, ô tô, xích lô,…để  cho trẻ tìm hiểu.  Hoặc “Cho trẻ tìm hiểu về một số con vật sống trong rừng” tôi đã sử dụng bộ đồ  chơi các con vật sống trong rừng được Sở giáo dục và đào tạo cấp như: Con hổ,   con voi, con gấu, con sư tử,…Qua những đồ chơi được làm khéo léo, giống với  thực tế sẽ giúp trẻ chú ý quan sát đồ chơi, chơi với đồ chơi để khám phá những  kiến thức về đối tượng. Trẻ   ở  lứa  tuổi  mầm  non có trí  tưởng tượng chưa phong phú, kinh  nghiệm sống của trẻ còn hạn chế nên tôi thường xuyên tận dụng các vật thật  để  dạy trẻ. Khi trẻ  được quan sát với vật thật thì trẻ  sẽ  thấy và sinh động  hấp dẫn hơn vì vật thật gần gũi với trẻ giúp trẻ nắm bắt kiến thức một cách  rõ ràng, chính xác và toàn diện hơn. 9
  10. Ví dụ: Tổ chức cho trẻ “Tìm hiểu về một số loại quả” tôi đã lựa chọn  một số loại quả thật như: quả cam, quả bưởi, quả lê, quả táo,..để dạy trẻ thì   những vật thật đó đã gây được sự chú ý đối với trẻ vì trẻ được nhìn thấy đối   tượng một cách toàn diện hơn, được ngắm nhình xung quanh vật một cách   kỹ lưỡng.  Khi cho trẻ tìm hiểu về chủ đề động vật thì tôi đã chuẩn bị những con  vật gần gũi với trẻ như chó, mèo, gà, vịt, cá, tôm…để cho trẻ quan sát. Trẻ  rất hứng thú và tích cực khám phá đối tượng mà cô giới thiệu Ví dụ: Cho trẻ tìm hiểu về “Một số con vật sống dưới nước”, tôi đã cho  trẻ quan sát con cá vàng thật. Trẻ được trực tiếp nhìn thấy con cá vàng bơi tung   tăng, nhìn thấy con cá bơi lên để đớp mồi,…trẻ rất thích thú và tập trung chú ý  quan sát.  Bản thân tôi luôn linh hoạt sáng tạo trong việc sử  dụng đồ  dùng trực  quan. Ở các hoạt động học tôi không sử  dụng một loại đồ  dùng từ  đầu đến  cuối mà tôi luôn phối hợp sử dụng nhiều loại đồ  dùng trực quan sao cho phù   hợp, linh hoạt theo từng phần để giúp trẻ không nhàm chán. Ví dụ: Khi tổ chức hoạt động “Cho trẻ làm quen với một số loại hoa” tôi   đã sử dụng các loại đồ dùng như: Lô tô, vật thật, hình ảnh,...kết hợp với nhau  sao cho linh hoạt và phù hợp. Tôi cho trẻ đi thăm quan mô hình vườn hoa nhà  trường, sau đó tôi cho trẻ làm quen một số loại hoa thật, trò chơi củng cố tôi cho  trẻ chơi trò chơi qua những đồ chơi bằng nhựa, lô tô và sử  dụng các hình ảnh   vào các phần trong tiết học sao cho phù hợp với nội dung tiết dạy và sự thiết kế  giáo án của mình. Khi sử  dụng biện pháp này tôi thấy hiệu quả của giờ  học đạt rất cao.  Nếu không biết sử  dụng đồ  dùng, đồ  chơi một cách linh hoạt, phù hợp với   nội dung của bài học thì trẻ nhàn chán, mệt mỏi, kiến thức trẻ lĩnh hội được  rất thấp và sau khi áp dụng biện pháp này việc kết hợp sử dụng các loại đồ  dùng trực quan trong tiết học sẽ  giúp cho trẻ  có cảm giác mới lạ, hấp dẫn  trẻ, lôi cuốn trẻ, thu hút sự chú ý của  trẻ, từ đó trẻ sẽ tham gia hoạt động để  khám phá kiến thức một các tích cực và có hiệu quả hơn.  7.2.3. Biện pháp 3: Tạo cơ hội cho trẻ sử dụng các giác quan phù hợp. Nhận thức cảm tính là nhận thức chủ yếu của trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo,   trẻ có thể nhận biết về các sự vật hiện tượng khi trẻ được tiếp xúc với đối  tượng bằng các giác quan, vì vậy trong quá trình tổ chức hoạt động cho trẻ tôi   10
  11. đã tạo mọi cơ  hội để  trẻ  có thể  sử  dụng nhiều giác quan như  thị  giác, xúc   giác, vị giác, thính giác, khứu giác để tham gia vào việc khám phá đối tượng. Việc tạo cơ  hội cho trẻ  được sử  dụng các trong quá trình giáo dục là  rất cần thiết. Ở các tiết dạy không thể cùng một lúc sử dụng tất cả các giác   quan, vì vậy tôi đã phải lựa chọn các hình thức khác nhau để  trẻ  sử  dụng   những giác quan khám phá và lĩnh hội những kiến thức sao cho phù hợp với  nội dung dạy trẻ. Ví dụ: Khi tổ  chức hoạt động “ Một số  loại hoa” tôi đã cho trẻ  sử  dụng các giác quan như xúc giác, thị giác, vị giác, khứu giác để trẻ khám phá.   Trẻ sẽ dùng thị giác để quan sát bông hoa từ đó khám phá ra hoa có màu sắc,   hình dạng, kích thước như thế nào? Trẻ sẽ dùng xúc giác để sờ hoa xem cánh   hoa như thế nào, trẻ dùng khứu giác để ngửi hoa xem hoa có thơm không? Ví dụ:  Đối  với  hoạt   động “Tìm hiểu về  một số  phương tiện giao   thông”, tôi đã cho trẻ sử dụng thị giác, xúc giác, thính giác để khám phá kiến  thức về  các phương tiện giao thông. Từ  các giác quan trẻ  sẽ  trẻ  nắm bắt  được những kiến thức về phương tiện giao thông, trẻ có thể dễ dàng so sánh  được sự  khác nhau của một số  phương tiện giao thông một cách đầy đủ  và  chính xác nhất. Ví dụ 3: Tiết dạy “Cho trẻ tìm hiểu về một số loại hoa” tôi đã cho trẻ  sử dụng khứu giác để ngửi xem bông hoa hồng có thơm không? Cho trẻ dùng  xúc giác để  sờ  vào cánh hoa xem cánh hoa có mịn màng không? Cho trẻ  sờ  vào lá xem lá có răng cưa không?... Việc cho trẻ sử dụng các giác quan phù hợp là một biện pháp đạt hiệu   quả rất cao để tạo hứng thú, tập trung sự chú ý của trẻ, việc trẻ được hành  động với đối tượng là sờ  mó, nếm, ngửi, nghe…sẽ  giúp trẻ  rất thú vị  vì trẻ  được trực tiếp hành động, trực tiếp tự  mình khám phá. Từ  đó trẻ  hứng thú,  tích cực tham gia hoạt động để  tìm hiểu, khám phá về đối tượng. Trẻ tự nói  lên suy nghĩ, ý kiến, nhận xét của mình về sự vật hiện tượng từ đó sẽ  khắc  sâu kiến thức cho trẻ, giúp trẻ nắm bắt kiến thức một cách chắc chắn hơn. 7.2.4. Biện pháp 4: Cho trẻ hành động với đối tượng. Trẻ   ở  lứa tuổi mẫu giáo luôn hiếu động, tò mò, ham hiểu biết nên   trong quá trình tổ chức hoạt động cho trẻ bằng những đồ  dùng trực quan cô  phải cho trẻ được thực hành với đối tượng thông qua những việc làm cụ thể  để  thoả  mãn nhu cầu của trẻ. Khi cho trẻ hoạt động với đối tượng sẽ  giúp   11
  12. trẻ tiếp thu kiến thức một cách dễ  dàng, nhanh chóng và khắc sâu kiến thức   cho trẻ. Ví dụ: Khi tổ chức hoạt động “Cho trẻ làm quen với một số con vật”.  Để  trẻ có thể nhận biết được các đặc điểm như: đi lại, chạy, nhảy, cách ăn  uống của con vật tôi đã chuẩn bị một số thức ăn cho con vật. Tôi không cho  con vật ăn mà tôi cho trẻ tự tay đưa thức ăn cho con vật ( cho gà, cá ăn...). Khi  trẻ được hoạt động trực tiếp trẻ sẽ rất hứng thú và chú ý quan sát những con  vật đó sẽ giúp trẻ ghi nhớ  một cách sâu sắc hơn. Đối với hoạt động “Đồ  dùng của bé” tôi đã hướng dẫn trẻ  cách mặc  quần áo. Để trẻ biết các kỹ năng về sử dụng quần áo và đồ dùng dễ dàng và   nhanh chóng thì tôi đã tổ chức cho trẻ tự mặc quần áo, lúc đó trẻ được tự tay  cầm vào quần áo đẹp do cô chuẩn bị, được tự  mình cho tay vào tay áo, cho   chân vào  ống quần, được tự  cài cúc, chui đầu qua sự  gợi ý, hướng dẫn của  cô. Qua các các hoạt động trẻ rất hứng thú và cảm thấy vui sướng khi được  thực hiện nhiệm vụ do cô yêu cầu  từ đó trẻ sẽ cố gắng thực hiện tốt nhiệm   vụ. Khi được hoạt động với đối tượng trẻ  sẽ  cảm thấy thoải mái, thích  thú, khích thích được tính tò mò ham hiểu biết ở trẻ từ đó trẻ sẽ dễ dàng tiếp   thu được những kiến thức mà cô truyền đạt. 7.2.5. Biện pháp 5: Lựa chọn các thủ thuật để tạo hứng thú. Trẻ ở lứa tuổi mầm non luôn thích cái mới, cái lạ, hấp dẫn sinh động,   đối với sự  vật hiện tượng quen thuộc trẻ  sẽ  thấy nhàm chán nên trong khi   cho trẻ tìm hiểu về thế giới môi trường xung quanh trẻ, luôn đem đến cho trẻ  những sự vật hiện tượng mới lạ kích thích sự  tìm tòi ham hiểu biết của trẻ  qua đó trẻ sẽ tiếp thu bài tốt hơn.  Ở  phần tạo hứng thú cho các hoạt động cô cho trẻ  chơi một trò chơi  nhỏ, cho trẻ đi thăm quan một vườn rau, vườn hoa.., cho trẻ đi tham dự  sinh   nhật hoặc cô trò chuyện với trẻ về chủ đề để để  tạo hứng thú và thu hút sự  chú ý của trẻ. Để  tạo được hứng thú cho trẻ  khi tiếp thu bài một cách dễ  dàng và   thoải mái bản thân tôi luôn sử  dụng những hình thức tạo hứng thú bằng  nhiều hình thức đa dạng và phong phú tránh sự  nhàm chán cho trẻ. Từ đó tôi  đã sử dụng một số nội dung sau:   12
  13. * Sử  dụng mô hình:  Mô hình là một loại hình thu nhỏ  của các đối  tượng. Khi tổ chức cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh hay bất cứ  một tiết học nào khác trong chương trình Giáo duc mầm non thì hình thức mô  hình được sử dụng tạo hứng thú rất hiệu quả. Ví dụ: Phần tạo hứng thú của hoạt động “Làm quen với một số  loại  hoa, quả” tôi đã tổ  chức cho trẻ  chơi một trò chơi “Chọn các loại hoa, quả  theo ý thích”. Tôi cho trẻ cùng nhau thi đua chạy ra vườn hoa, quả (mô hình  vườn hoa, quả mà tôi chuẩn bị có rất nhiều loại như hoa hồng, hoa cúc, hoa  đồng tiền, quả táo, quả  cam... để  chọn những loại hoa, quả rồi mang về tổ.  Trẻ được trải nghiệm như vậy sẽ thấy thích thú. Đối với hoạt động “Cho trẻ làm quen với một số loại rau củ quả” Tôi  đã cho trẻ đi tham quan một vườn rau trong trường. Trong hoạt động này, trẻ  được vận động, được đi ra ngoài trời, được quan sát vật thật sẽ tạo được sự  thay đổi, không khí mới, tạo cho trẻ cảm giác dễ chịu, thoải mái.  * Kể chuyện: Để tạo hứng thú cho trẻ thì việc kể chuyện bằng giọng  truyền cảm, kết hợp với những cử chỉ, điệu bộ với những tình tiết li kỳ, hấp  dẫn sẽ tăng hứng thú, kích thích sự tập trung chú ý của trẻ. Ví dụ: Đối với tiết dạy về “Một số loại hoa” tôi đã đưa ra hình thức là  kể một câu chuyện ngắn hay một đoạn trong câu chuyện có liên quan đến các  loại hoa như “Sự tích của các loại hoa”, “Sự tích hoa Dâm bụt”, “Sự tích hoa   mào gà”, “Sự tích hoa hồng”…, sau đó dẫn dắt vào nội dung của bài. * Hình thức Hội thi: Đây là một hình thức tạo hứng thú rất hiệu quả,  qua các cuộc thi có “trao giải” sẽ  làm tăng sự  hưng phấn, kích thích sự  tập   trung, chú ý của trẻ.  Ví dụ: Đối với tiết dạy về  “Một số  loại hoa” thì tôi đã tổ  chức một  tình huống: Các con ơi! Ở ngoài kia có rất là nhiều các loại hoa, các loại hoa   cùng đua nhau khoe sắc, nhưng Ban giám khảo không biết đó là loài hoa gì?  Và Ban giám khảo đã nhờ  lớp mình chọn hái giúp và xem đó là hoa gì đấy. (Tôi đã chia lớp thành 3 đội và cho 3 đội thi đi hái hoa, mỗi đội chỉ được hái   một loại hoa sau đó nói tên của các loài hoa đó). Khi đó trẻ sẽ rất vui vì được  tham gia thi đua tranh tài và hiệu quả của tiết học đạt rất cao. * Đọc thơ, ca dao, đồng dao, vè:  Thơ, ca dao, đồng dao, vè được sử  dụng rất phổ  biến trong các tiết học và với môn học Cho trẻ  làm quen với   môi trường xung quanh cũng vậy thơ, ca dao, đồng dao là một phương tiện   13
  14. để  tạo cho trẻ  cảm hứng khi tham gia khám phá về  một đối tượng nào đó.   Nhất là đồng dao, vì các bài đồng dao thường rất vần, dễ nhớ, dễ thuộc. Ví dụ: Khi “Tìm hiểu về một số loại rau” thì tôi đã cho trẻ đọc bài đồng   dao: “Dềnh   dềnh   ràng  Chẳng thích khoe màu ràng Cô hoa lơ đấy Đi chợ mua hàng Nấu ăn rất ngậy Nhìn các loại rau Là bác đỗ xanh Lẩn dưới đất sâu Vừa ngọt vừa lành Là anh cà rốt Rau lang, rau muống Chín đỏ mi mắt  Nấu canh làm nộm Là chị cà chua Là bác xu hào Nấu bát canh cua Xin gửi lời chào Mùng tơi với mướp Vui cùng các bé Ăn phải bỏ ruột Ăn rau ngon thế Là bí là bầu Các bé thích không?” Sau khi đọc bài đồng dao thì trẻ rất hứng thú và vốn kiến thức của trẻ  về các loại rau rất phong phú, kết quả là 100% trẻ biết tên gọi và đặc điểm  của các loại rau quen thuộc, trẻ đã tham gia vào các hoạt động khác một cách  tích cực. * Sử  dụng bài hát: Các bài hát Mầm non thường là vui tươi, rộn ràng  nhưng cũng rất nhẹ nhàng. Vì vậy sử dụng các bài hát sẽ kích thích hứng thú   cho trẻ tạo cho trẻ cảm giác thoải mái, vui vẻ để trẻ có thể bắt đầu lĩnh hội   những kiến thức mới lạ. Ví dụ: Khi tổ  chức cho trẻ  “Tìm hiểu về  các loài hoa”, tôi đã cho trẻ  hát bài hát “Màu hoa” của nhạc sỹ  Hồng Đăng để  gây thú cho trẻ, hay “Tìm  hiểu về các loại quả” thì hát bài hát “Quả gì?” để gây thú cho trẻ, “Tìm hiểu  về một số  vật nuôi trong gia đình” thì hát bài hát “Gà trống, mèo con và cún  con” của nhạc sỹ  Thế  Vinh để  gây thú cho trẻ,…Những lời ca, tiếng hát,  những giai điệu mượt mà, những âm thanh sống động sẽ  lôi cuốn trẻ, kích  thích sự hứng thú của trẻ. * Sử  dụng câu đố: Để  gây sự  hứng thú, hấp dẫn và kích thích tính tò  mò, ham hiểu biết thì câu đố  là một trong những hình thức đạt hiệu quả  rất  cao. 14
  15. Ví dụ: Hoạt động “ Tìm hiểu một số con vật sống dưới nước”dVí dụ:  “Làm quen với một số con vật sống dưới nước”. Khi tìm hiểu về con cua thì  tôi đã sử dụng câu đố:  “ Con gì tám cẳng hai càng                                Một mai hai mắt, bò ngang suốt đời” Hay tìm hiểu về con cá vàng thì tôi sử dụng câu đố: “ Nhởn nhơ bơi lội lượn vòng                                 Đuôi hồng như dải lụa hồng xòe ra                                                             Là con cá gì? ” Khi tôi vừa đọc câu đố thì trẻ đã rất hứng thú, chú ý lắng nghe xem câu  đố đó nói về con gì và trẻ phát biểu rất tích cực. Như  vậy, không những phần tạo hứng thú phải lựa chọn những hình  thức sinh động, sáng tạo và thay đổi thường xuyên mà trong phần nội dung   chính của bài bài học cũng phải sinh động và sáng tạo.  Trong quá trình dạy trẻ, tôi luôn tạo ra sự mới lạ, hấp dẫn đối với trẻ.   Cho trẻ  quan sát đối tượng tôi không đưa ngay ra để  cho trẻ  quan sát mà tôi  đã kích thích sự  tò mò của trẻbằng cách dùng câu đố  để  trẻ  đoán, có đối  tượng thì tôi lại đọc một đoạn thơ, hát một đoạn bài hát nói về đối tượng, có  đối tượng thì tôi lại cho vào túi, vào hộp  và giới thiệu đó là món quà tặng lớp   hoặc đó là một bí mật để  trẻ  đoán. Việc thay đổi hình thức trong cùng một  tiết dạy sẽ tạo cho trẻ có cảm giác mới lạ, trẻ sẽ thích thú và tập trung chú ý  vào việc quan sát đối tượng. Thành công của một tiết dạy là tạo được hứng thú, sự  khoái cảm của  trẻ  ngay từ  đầu bài học. Chính vì vậy, sử  dụng linh hoạt các hình thức tạo   hứng thú cho trẻ sẽ là một trong những biện pháp đạt hiệu quả cao nhất. Khi sử  dụng các thủ  thật  để  gây hứng thú cho trẻ  đã làm thay đổi  không khí, hình thức sinh động làm cho tiết dạy thêm sinh động, trẻ hứng thú,  tập trung, chú ý, giúp cho hoạt động giữa các phần nhẹ  nhàng, thu hút trẻ  tham gia hoạt động mới, giúp trẻ dẽ lĩnh hội kiến thức mới. 7.2.6. Biện pháp 6: Sử dụng trò chơi trong tiết dạy. Vui chơi là hoạt động chủ  đạo của trẻ mẫu giáo với phương châm là:  “Học bằng chơi, chơi mà học” nên trong quá trình cho trẻ làm quen với môi  trường xung quanh tôi đã thường xuyên sử dụng trò chơi trong tiết học nhằm  15
  16. mục đích ôn luyện, củng cố kiến thức cho trẻ. Thông qua chơi, trẻ vừa được  ôn luyện củng cố kiến thức, vừa được thoả mãn nhu cầu chơi.  Trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục và đặc biệt là tổ chức   cho trẻ  làm quen với môi trường xung quanh, bản thân tôi đã thường xuyên  đưa trò chơi vào các phần của tiết dạy, có thể  là phần giới thiệu bài, có thể  là phần cuối ôn luyện kiến thức, nhằm tạo hứng thú cho trẻ  và củng cố  những kiến thức trẻ đã có để khắc sâu và ghi nhớ lâu hơn. Ví dụ: Tiết học “Tìm hiểu về  hoa, quả”. Tôi đã tổ  chức cho trẻ  chơi  trò  chơi: “Hoa nào quả ấy”: ­ Chuẩn bị: 4 – 5 bộ lô tô hoa quả  (tôi đã vẽ  các loại hoa quả  vào bìa   cứng, mỗi  bộ  có  một  loại  hoa,  quả  khác  nhau:  hoa bưởi, quả  bưởi; hoa  chanh, quả chanh; hoa mướp quả mướp,…) ­ Luật chơi: Xếp đúng quả nào hoa ấy. ­ Cách chơi: Cô chia cho mỗi trẻ một bộ lô tô hoa và quả. Sau đó cho  các cháu chọn hoa của nào thì về với quả ấy, rồi thi xem ai chọn nhanh và  xếp đúng. Qua trò chơi này trẻ  rất hứng thú và khắc sâu được kiến thức về  các   loại hoa, quả. Khi sử dụng trò chơi vào trong các hoạt động, tôi đã đan xen cả trò chơi  động và trò chơi tĩnh để thay đổi không khí và đảm bảo sức khoẻ cho trẻ.  Ví dụ: Trò chơi “Chiếc túi kỳ lạ”, cách chơi như sau: Tôi chuẩn bị một   cái túi trong đó đựng những đối tượng mà trẻ  vừa học. Tôi gọi một trẻ  lên  chơi và nhắm mắt lại, khi tôi gọi tên đồ vật gì thì trẻ cho tay vào túi và chọn  đúng đồ vật đó giơ lên và gọi tên cho cả lớp cùng nghe. Tôi đã thay đổi cách   chơi và luật chơi của trò chơi để  nó mới lạ hơn. Ví dụ: Trò chơi “Nhà thám   hiểm”, cách chơi như  sau: Tôi cũng đưa ra những cái túi hoặc hộp mà bên  trong đựng các đối tượng trẻ vừa học, cô cho 2, 3 trẻ lên chơi cùng một lúc,   trẻ  lên chơi thì được đeo kính màu (do tôi tự  làm) để  làm sao cho trẻ  không   nhìn thấy. Khi tôi gọi tên đối tượng gì thì trẻ  cho tay vào túi và chọn nhanh   được đúng đối tượng đó. Ai chọn nhanh và đúng sẽ là nhà thám hiểm  thắng  cuộc. Từ cách tổ chức trò chơi như vậy đã kích thích sự hứng thú tham gia trò  chơi hơn. Ví dụ:  16
  17.  Khi tổ chức trò chơi: “ Bác sửa chữa giỏi”­ (trong giờ “Làm quen với  một số phương tiện giao thông”) Cô  giới  thiệu cách chơi: Cô giới thiệu bức tranh phương tiện giao   thông  còn thiếu một số bộ phận (bánh xe, cửa sổ, cửa ra vào...) và cô chuẩn  bị sẵn một số  bộ  phận của loại phương tiên giao thông đó. Cô cho trẻ  quan  sát tranh để phát hiện ra phương tiện giao thông đó còn thiếu bộ  phận gì rồi  chọn bộ phận đó và dán vào đúng vị trí  Trò chơi: “Hái hoa” ­  (Tổ chức trong giờ học: “Một số loại hoa”) ­ Chuấn bị:  + 3 mô hình vườn hoa, có trồng hoa hồng, hoa cúc, hoa sen (có  thể là hoa thật hoặc cô làm, có màu sắc, rực rỡ, tươi tắn, đẹp)  + 3 thảm cỏ làm chướng ngại vật, 3 lọ hoa            ­ Cách bố trí các đồ chơi: Trước mỗi tổ là thảm cỏ, trước thảm cỏ là 3  vườn hoa. ­ Cách chơi: Cô cho trẻ xếp thành 3 hàng dọc theo 3 tổ, các thành viên   trong tổ  lần lượt lên bật qua thảm cỏ  tới vườn hoa hái một bông mang về  cắm vào lọ hoa của tổ mình. Tổ hoa hồng chỉ được hái những bông hoa hồng,  tổ hoa cúc chỉ được hái những bông hoa cúc và tổ hoa sen sẽ hái những bông  hoa sen. Trong một thời gian, sau một hiệu lệnh là bản nhạc không lời của  bài hát “Màu hoa” sáng tác của nhạc sỹ Hồng Đăng thì trò chơi dừng lại. Cho  cả lớp đếm số bông hoa của mỗi tổ, tổ nào hái đúng loại hoa và hái được số  lượng nhiều hơn là thắng cuộc. Khi trẻ  được chơi với những trò chơi mới mẻ, sinh động, hấp dẫn   được tổ  chức thay đổi trong các hoạt động vừa có tác dụng củng cố, ôn  luyện kiến thức cho trẻ vừa làm thoả mãn nhu cầu chơi của trẻ. Kết quả là   trẻ  rất hứng thú, tích cực tham gia vào trò chơi và nắm bắt kiến thức một   cách chắc chắn hơn.  7.2.7. Biện pháp 7: Làm thí nghiệm. Ở lứa tuổi mầm non với bản năng tò mò, thích khám phá thế giới xung  quanh. Tổ  chức cho trẻ  được làm các thí nghiệm là khuyến khích và nuôi  dưỡng tính tò mò ấy. Cách tổ chức các thí nghiệm đơn giản, dễ làm, vừa sức   với trẻ  sẽ  kích thích khả  năng sáng tạo, sự  hứng thú và làm tăng vốn hiểu   biết của trẻ về thế giới xung quanh. 17
  18. Việc tổ chức cho trẻ làm các thí nghiệm như: Sự nảy mầm của hạt, sự  tan ra của đá, nước bốc hơi, vật nổi ­ vật chìm, cây cần ánh sáng… trẻ được   nhìn nhận và tìm hiểu qua thực tế sẽ làm trẻ rất hứng thú. Ví dụ 1: Làm thí nghiệm “Cây cần ánh sáng” * Vật liệu: ­ Một ít đất trồng cây trộn sẵn.                             ­ Giấy thiếc, bạc (Có thể dùng giấy bọc kẹo, giấy gói hoa)                             ­ Nước                            ­ Hạt ngô giống.         ­ Bình trồng cây nhỏ.             * Tiến hành: Cho đất trộn sẵn vào chậu. Hạt giống ngô ngâm nước   ấm một đêm, sau đó  ấn hạt sâu vào đất trong chậu (sâu khoảng 1 ­ 1,5 cm).   Để chậu ở nơi ấm, tối và tưới ẩm vừa phải (nhớ không làm đất sũng nước).   Sau vài ngày hạt nảy mầm. Khi nảy mầm lớn khoảng  độ  2,5cm thì mang  chậu ra ngoài nơi có ánh sáng như: bậu cửa sổ, ngoài thềm,… cắt giấy thiếc  thành những mảnh nhỏ và cuộn lại thành hình những cái nón. Đội những cái  nón lên nửa số  mầm trong chậu. Khoảng 2 tiếng đồng hồ  sau quan sát kết   quả. * Khi quan sát kết quả cô giáo gợi ý trẻ giải thích: Điều gì đã xảy ra?   Hướng của các mầm trong chậu như thế nào?  Ví dụ 2: Quan sát vật chìm vật nổi. * Chuẩn bị:  ­ Một chậu nước sạch. ­ Những miếng xốp, ống hút, lá cây khô. ­ Đá, sỏi, cục sắt. * Tiến hành: ­ Trẻ quan sát và nói tên của các đồ dùng đó. ­ Cho trẻ tự tay thả một vật nào đó mà cô đã chuẩn bị như: một miếng   xốp, hay một viên đá,..vào chậu nước. ­  Cô cùng trẻ  quan sát xem những vật nào nổi? Những vật nào chìm?  Vì sao? Tôi đã cùng trẻ tiến hành làm những thí nghiệm này và trẻ rất hứng thú,   mong muốn tìm hiểu những điều xảy ra. Và trẻ  đã giải thích được các hiện  tượng đó. 18
  19. Kết quả  là: Khi tổ  chức cho trẻ  được làm những thí nghiệm dưới sự  hướng dẫn của cô trẻ  rất hứng thú, 100% trẻ  đều tích cực tham gia vào các  hoạt động, kích thích sự tập trung tư duy của trẻ. 7.2.8. Biện pháp 8: Lời nói, thái độ, nét mặt của cô.  Lứa tuổi mẫu giáo trẻ  rất  ưa nhẹ  nhàng, tình cảm nên trong quá trình  tổ chức các hoạt động tôi luôn yêu quý, gần gũi với trẻ, không quát mắng trẻ.  Cô luôn đối xử công bằng với tất cả các trẻ  trong lớp, luôn thể  hiện sự  dịu  dàng, yêu mến trẻ. Nét mặt, cử chỉ, ánh mắt dịu hiền với lời nói nhẹ  nhàng   sẽ giúp cho trẻ có cảm giác được yêu mến và trẻ sẽ thấy thoải mái, vui tươi  khi tham gia vào các hoạt động. Trong  khi   d ạy  tr ẻ,  tôi   đã  sử   dụng  những  l ời  nói  nhẹ   nhàng,  tình   cảm.  Cường độ  giọng nói của tôi vừa phải, không nói quá to hoặc quá nhỏ, nếu  nói quá nhỏ thì trẻ sẽ không đủ nghe, nếu nói quá to thì trẻ có cảm giác là cô   mắng nên trẻ sợ hãi. Lời nói của cô phải diễn cảm kết hợp với cử chỉ, điệu bô, ánh mắt để  thể hiện đúng nội dung câu nói, đúng hoàn cảnh, nói phải có ngữ điệu, ngắt,  nghỉ đúng chỗ. Ví dụ: khi sử  dụng lời nói trong phần trò chơi, tôi phải nói với giọng  vui tươi, sôi nổi, thể hiện sự vui nhộn của trò chơi để  tạo không khí vui vẻ  cho quá trình chơi của trẻ từ đó sẽ hấp dẫn lôi cuốn trẻ tham gia vào trò chơi   một cách tích cực. Khi tôi nói trong phần truyền đạt, cung cấp kiến thức thì  tôi phải nói chậm rãi nhưng rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu để trẻ  dễ dàng nắm   bắt được kiến thức mà tôi muốn truyền đạt. Hoặc khi kể  một câu chuyện   nhỏ  trong phần giới thiệu bài thì tôi phải kể  diễn cảm thể  hiện thể  hiện   được tính cách của nhân vật qua lời nói, kể phải chậm rãi, rõ ràng để thu hút  sự chú ý của trẻ để trẻ cảm nhận được nội dung câu chuyện . Trong quá trình dạy tôi cũng phải thường xuyên sử  dụng những câu  nói, lời nói có tính chất động viên khích lệ  trẻ  để  lôi cuốn trẻ  tham gia vào   hoạt động như: “Cô đố  các con biết”, “Chúng mình cùng thi đua xem ai giỏi  hơn, ai nhanh hơn, ai thông minh hơn, ai khéo hơn…” Trong quá trình dạy,  thì tôi cũng đã xử lý những tình huống thật khéo   léo, tế nhị, vì trẻ  mẫu giáo còn nhỏ hay sợ sệt, nhút nhát và trẻ lại rất thích  khen ngợi nên tôi đã thường xuyên khen ngợi, động viên trẻ. Khi trẻ  trả  lời  19
  20. đúng và làm tốt những công viêc, nhiệm vụ được giao thì tôi luôn nêu gương,  khen ngợi trẻ kịp thời, còn khi trẻ trả lời chưa đúng hoặc làm chưa tốt thì tôi  không quát mắng trẻ, chê bai trẻ  hoặc lờ  đi mà tôi đã  nhẹ  nhàng động viên  trẻ, khéo léo gợi ý để trẻ hiểu ra và trả lời được câu hỏi của mình đưa ra. Với những lời nói nhẹ nhàng, tình cảm, nói diễn cảm thể hiện được đúng  nội dung của câu nói, nói đúng hoàn cảnh, tình huống kết hợp với ánh mắt, cử  chỉ, điệu bộ, thái độ của cô sẽ lôi cuốn trẻ, thu hút sự tập trung chú ý của trẻ  vào việc khám phá đối tượng  từ đó trẻ sẽ dễ dàng nắm được những kiến thức  mà cô truyền đạt. 7.2.9. Biện pháp 9: Ứng dụng công nghệ thông tin vào tiết dạy. Có những sự  vật, hiện tượng mà chúng ta muốn cung cấp kiến thức   cho trẻ chỉ có thể có được nhờ những hình ảnh sinh động, những cảnh quay  đẹp mắt và có những kiến thức cần cung cấp trong một quá trình dài như: sự  phát triển, quá trình tuần hoàn,..Do đó, cần phải  ứng dụng công nghệ  thông  tin một cách linh hoạt trong tiết dạy sẽ đạt được hiệu quả giáo dục rất cao. Để  tạo được hứng thú cho trẻ  tôi đã tìm kiếm những hình  ảnh sinh  động, hấp dẫn trên mạng Internet hoặc trong phầm mềm Vui học mầm non   để  làm giáo án điện tử  Microsoft Office PowerPoint và trình chiếu cho trẻ  xem, những hình  ảnh đó đã giúp trẻ  hứng thú và giúp trẻ  tìm hiểu được   những quá trình phát triển của sự vật nào đó trong một thời gian dài. Ví dụ: Khi cho trẻ tìm hiểu, khám phá về sự nảy mầm của hạt hoặc sự  phát triển của con Bướm,…tôi đã tìm và sưu tầm được những video về  quá  trình đó và trình chiếu cho trẻ quan sát. Việc sử dụng màn hình, đèn chiếu cũng là một hình thức sử dụng trực  quan đồng thời cũng là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giờ dạy.   Thông qua những cảnh quay, đoạn băng được đưa lên màn hình sẽ  tạo ra sự  thay đổi, sự  mới lạ cho trẻ bởi vì tất cả  các sự  vật hiện tượng trên thực tế  đều có thể quay lại, chụp lại để đưa lên màn hình. Những hình ảnh có thể là  tĩnh như ảnh chụp và có thể là động như cảnh quay và qua những cảnh quay  đã diễn tả lại mọi hoạt động của các sự vật hiện tượng và với màu sắc đẹp  của hình  ảnh,  tính thực tiễn sẽ  lôi cuốn trẻ, giúp trẻ  có hứng thú tham gia   vào việc khám phá kiến thức về đối tượng. Khi tổ  chức các hoạt động giáo dục có sử  dụng  ứng dụng công nghệ  thông tin đã làm cho trẻ  rất hứng thú, kích thích tính tò mò, ham hiểu biết  ở  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2