intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo bé trong trường mầm non

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:33

4
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo bé trong trường mầm non" nhằm nghiên cứu thực trạng kỹ năng sống của trẻ lứa tuổi mẫu giáo bé (3 - 4 tuổi) trong trường mầm non; Tìm ra các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo bé (3 - 4 tuổi) trong trường mầm non.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo bé trong trường mầm non

  1. A. ĐẶT VẤN ĐỀ “Học để cùng chung sống” là một trong những vấn đề then chốt của giáo dục thế giới. Chính vì vậy, vào đầu thập kỷ 90, các tổ chức Liên hiệp quốc như WHO (Tổ chức y tế thế giới), UNICEF (Quỹ cứu trợ nhi đồng Liên hiệp quốc), UNESCO (Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hiệp quốc) đã chung sức xây dựng chương trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em. Kỹ năng sống là kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội giúp trẻ chuyển đổi những gì trẻ biết (nhận thức), những gì trẻ cảm nhận (thái độ) và những gì trẻ quan tâm (giá trị) thành những năng lực thực thụ giúp trẻ biết mình phải làm gì và làm như thế nào (hành vi) để giải quyết các tình huống khác nhau trong cuộc sống. Trẻ em là giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển nhân cách, do đó cần giáo dục trẻ kỹ năng sống để trẻ có nhận thức đúng và có hành vi ứng xử phù hợp ngay từ khi còn nhỏ. Kỹ năng sống là những kỹ năng nền tảng giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách toàn diện. Đối với trẻ mầm non đây là giai đoạn trẻ học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển nhân cách. Trẻ rất dễ bộc lộ cảm xúc, chưa có nhiều kỹ năng ứng phó với căng thẳng, vốn hiểu biết về thế giới xung quanh còn hạn chế do đó nhiều trẻ còn thụ động, không biết ứng phó với các tình huống nguy cấp, không biết tự bảo vệ mình trước nguy hiểm hoặc tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác. Do đó, việc dạy kỹ năng sống cho trẻ là rất cần thiết bởi nó thúc đẩy sự phát triển cá nhân trẻ, giúp trẻ có nhận thức đúng và hành vi ứng xử phù hợp ngay từ độ tuổi mầm non. Thật vậy, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế rất nhiều bậc phụ huynh có ít thời gian để quan tâm và hướng dẫn con cái. Chính vì vậy, trẻ thường hay ỷ lại, hay dựa dẫm vào người lớn và không thể tự lo cho bản thân vì thiếu kỹ năng sống, thiếu kỹ năng tự lập. Khi gặp khó khăn là chúng tìm ngay đến người lớn mà không tự tìm cách giải quyết. Điều này ảnh hưởng đến sự phát triển nhận thức, tình cảm của trẻ. Trong những năm học gần đây các cấp lãnh đạo ngành Giáo dục đào tạo và cả xã hội đã rất quan tâm đến vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Đặc biệt trong kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học 2016 - 2017 của Sở giáo dục và Đào tạo, Phòng giáo dục và Đào tạo huyện, trường mầm non nơi tôi đang công tác, nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một trong những nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên mầm non. Thực tế ở lớp tôi, lớp mẫu giáo bé (3 - 4 tuổi) trong quá trình chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ tôi thấy rằng: Các cháu còn thiếu sót rất nhiều các kỹ năng: Kỹ năng tự phục vụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày như tự đi vệ 1/30
  2. sinh, tự xúc ăn, tự cất dọn đồ chơi, tự lau mặt, xúc miệng, tự rửa tay trước khi ăn, sau khi đi đại tiện…, chưa có kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao tiếp còn hạn chế như chưa biết chào hỏi lễ phép với người lớn, chưa biết đưa, nhận bằng hai tay, trẻ còn nhút nhát, chưa tự tin…, và kỹ năng tự bảo vệ bản thân cũng còn yếu. Đứng trước thực trạng của trẻ lớp mình, là một giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề, với lòng yêu nghề, mến trẻ, có tinh thần và trách nhiệm trong công việc tôi luôn trăn trở rất nhiều về việc làm sao để giáo dục cho trẻ biết ứng xử tốt với mọi tình huống, mọi hoàn cảnh trong cuộc sống đời thường một cách văn minh và hồn nhiên, đúng với độ tuổi của trẻ. Mong muốn trẻ có được những kỹ năng sống để trẻ tự phục vụ bản thân mình, không còn phụ thuộc, ỷ lại vào người lớn. Chính vì vậy, tôi đã luôn suy nghĩ để tìm các biện pháp rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ lớp mình. Qua một năm áp dụng các biện pháp đó tôi thấy kết quả trẻ lớp tôi đã có những tiến triển rất tốt. Sau đây tôi xin mạnh dạn chia sẻ cùng chị em đồng nghiệp một số biện pháp mà tôi đã áp dụng có hiệu quả dưới dạng đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo bé trong trường mầm non”. * Mục đích nghiên cứu của đề tài: - Nghiên cứu thực trạng kỹ năng sống của trẻ lứa tuổi mẫu giáo bé (3 - 4 tuổi) trong trường mầm non. - Tìm ra các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo bé (3 - 4 tuổi) trong trường mầm non. * Đối tượng nghiên cứu: - Các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo bé (3 - 4 tuổi) trong trường mầm non. * Phạm vi áp dụng - Trẻ lứa tuổi mẫu giáo bé (3 - 4 tuổi) trong trường mầm non năm học 2016 - 2017. 2/30
  3. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÝ LUẬN. Kỹ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một số cá nhân về một hoặc nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải quyết tình huống hay công việc nào do phát sinh trong cuộc sống. Kỹ năng sống là những trải nghiệm có hiệu quả nhất, giúp giải quyết hoặc đáp ứng các nhu cầu cụ thể, trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của con người, bao gồm cả hành vi vận động của cơ thể và tư duy trong não bộ của con người. Kỹ năng sống có thể hình thành một cách tự nhiên, thông qua giáo dục hoặc rèn luyện con người. Kỹ năng sống hướng vào việc giúp con người thay đổi nhận thức, thái độ và giá trị trong những hành động theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây dựng. Chính vì vậy, ngay từ giai đoạn mầm non, trẻ cần được trang bị kỹ năng sống để định hướng phát triển một cách tốt nhất. Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên nhưng mang tính nền tảng rất quan trọng đối với việc giáo dục trẻ sau này. Tâm hồn trẻ thơ như tờ giấy trắng, rất non nớt, rất trong sáng và rất dễ tiếp thu những cái tốt cũng như những cái xấu bên ngoài. Tuy nhiên, ở lứa tuổi này nếu chúng ta không biết cách uốn nắn và dạy dỗ trẻ đến nơi đến chốn thì sẽ gây khó khăn cho các bậc học tiếp theo. Chính vì vậy mà người lớn chúng ta cần phải rèn luyện cho trẻ những thói quen tốt ngay từ nhỏ. Như ông bà ta đã từng nói: “Dạy con từ thuở còn thơ”. Lứa tuổi mầm non là giai đoạn học - tiếp thu - lĩnh hội giá trị sống để phát triển nhân cách. Kỹ năng sống là những kỹ năng nền tảng để hình thành nhân cách cho trẻ, phát triển về các mặt thể chất, tình cảm - xã hội, ngôn ngữ, nhận thức giúp trẻ sẵn sàng đi học. - Về thể chất: Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ an toàn, mạnh khỏe, tăng cường thể chất, sự kiên trì, bền bỉ, tháo vát. Thông qua các bài học và các hoạt động vận động trong quá trình dạy kỹ năng sống, trẻ sẽ được rèn luyện sự dẻo dai, khéo léo, giúp trẻ nhanh chóng thích ứng với các điều kiện sống thay đổi. - Về tình cảm: Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ biết lắng nghe, chia sẻ,, biết yêu thương, đồng cảm với mọi người xung quanh, biết ơn công lao của cha mẹ. - Về nhận thức: Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ có một nền tảng kiến thức, thích ứng với mọi hoạt động học tập như: sẵn sàng hòa nhập, vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ... xây dựng cho trẻ niềm ham mê học tập suốt đời. - Về giao tiếp - ngôn ngữ: Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ tự tin, mạnh dạn, tôn trọng người khác, có khả năng giao tiếp tốt với mọi người, đặc biệt rèn luyện cho trẻ biết lắng nghe, nói chuyện lễ phép, hòa nhã. 3/30
  4. Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng từ 3 - 4 tuổi là giai đoạn “cửa sổ vàng” cho trẻ học tập. Còn theo chuyên gia, tuổi lên ba là cột mốc quan trọng, bởi trong giai đoạn này trẻ phát triển nhanh về não bộ, nhu cầu khám phá bản thân và khả năng học hỏi, sáng tạo của trẻ rất cao. Bắt đầu từ độ tuổi này, ngoài việc chăm sóc thể chất, cha mẹ và cô giáo cần tạo môi trường giáo dục phù hợp, giúp trẻ xây dựng nền tảng vững chắc về phẩm chất và kỹ năng sống. Các nhóm kỹ năng có thể dạy trẻ 3 - 4 tuổi như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thích nghi, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng tự bảo vệ…Các kỹ năng này không tách rời nhau mà có liên quan chặt chẽ với nhau, được thể hiện đan xen vào nhau, có thể thực hành trong bất cứ tình huống nào xảy ra hàng ngày. Cho nên việc giáo dục và vận dụng tốt sẽ giúp trẻ có nhân cách tốt. Khi giáo dục kỹ năng sống còn góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ cho trẻ. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN. 1. Mô tả thực trạng: - Trường mầm non nơi tôi đang công tác nằm ở huyện ngoại thành, được xây dựng khang trang, sạch sẽ, thoáng mát, kiên cố, đã được công nhận chuẩn quốc gia mức độ I năm học 2011 - 2012 và kiểm định chất lượng giáo dục năm 2015 đạt cấp độ 3. Trường có khung cảnh rộng, thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông, không gian hoạt động an toàn cho trẻ, có đầy đủ đồ dùng cần thiết cho các hoạt động giáo dục. Trường có 02 khu với 16 phòng học ở vị trí trung tâm thuận lợi cho việc gửi con của phụ huynh. Trường còn trang bị đầy đủ các phòng chức năng: phòng năng khiếu, phòng Kidsmart…và cơ sở vật chất, trang thiết bị để phục vụ công tác chăm sóc và nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. - Năm học 2016 - 2017 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công phụ trách lớp mẫu giáo bé (3- 4 tuổi). Lớp có 4 cô, cả 4 cô đều có trình độ chuyên môn trên chuẩn và có lòng nhiệt tình yêu nghề, mến trẻ. - Tổng số trẻ trong lớp là 58 trẻ, 25 trẻ gái, 33 trẻ trai. Trẻ đúng độ tuổi phát triển, tâm sinh lý ổn định, hòa đồng với mọi người. - Phụ huynh trẻ luôn quan tâm đến trẻ, nhiệt tình, tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà trường, của nhóm lớp. Trong quá trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tại trường mầm non tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau: 2. Thuận lợi: - Bản thân tôi là một giáo viên có nhiều kinh nghiệm, luôn nhiệt tình, tâm huyết với nghề. Luôn luôn có ý thức học hỏi, tìm tòi và sáng tạo trong công việc 4/30
  5. tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục cho trẻ mọi lúc, mọi nơi sao cho phù hợp với lứa tuổi, với khả năng của trẻ. - Trẻ lớp tôi 100% đúng độ tuổi, có 24 trẻ chiếm 41% đã học qua lớp nhà trẻ nên đã có thói quen, nề nếp trong học tập, sinh hoạt, vui chơi, vệ sinh cá nhân, biết cách hợp tác. Trẻ khỏe mạnh và rất hào hứng, sôi nổi với các hoạt động do cô tổ chức, lĩnh hội nhanh các kiến thức cô giáo truyền đạt. - Nhà trường và Ban giám hiệu luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi cả về vật chất lẫn tinh thần cho giáo viên trong việc tổ chức, trang trí không gian lớp học để chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ nói riêng như: Phân công giáo viên đi học, kiến tập các trường bạn trong các quận, huyện, trong trường và thường xuyên thăm lớp, dự giờ để rút kinh nghiệm cho những hoạt động. Tích cực bồi dưỡng cho giáo viên về chuyên môn, xây dựng phương pháp, đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, tạo mọi điều kiện giúp tôi có đủ những nguyên vật liệu, tài liệu để làm đồ dùng dạy học và đồ chơi phục vụ cho việc rèn kỹ năng sống cho trẻ. - Lớp tôi được trang bị đồng bộ đồ dùng, dụng cụ để phục vụ rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ: Có đầy đủ bàn, ghế, bát, thìa, hạt, chậu rửa, vòi nước, khăn mặt, tủ cốc, các giá ở các góc chơi, ti vi có kết nối mạng internet, giá dép, tủ đựng ba lô, bộ chăm sóc cây, bộ giáo cụ chuẩn để rèn kỹ năng sống…phù hợp với trẻ để trẻ thực hiện các kỹ năng được thuận lợi, có hiệu quả nhất. - Phụ huynh lớp tôi đa số vẫn còn trẻ, rất quan tâm và chăm sóc con chu đáo. Luôn nhiệt tình tham gia các hoạt động của trường, lớp và thường xuyên ủng hộ một số nguyên vật liệu để làm đồ dùng, đồ chơi sáng tạo cho các con. 3. Khó khăn: - Bản thân tôi chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. - Trẻ trong lớp đông nên việc đưa trẻ vào nề nếp gặp nhiều khó khăn, 34 trẻ chiếm 59% chưa được học qua lớp nhà trẻ nên sự nhận thức của trẻ không đồng đều, các kỹ năng sống của trẻ còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, đa số trẻ là con các gia đình ít con nên được nuông chiều dẫn đến trẻ hay ỷ lại vào người lớn, thiếu đi các thói quen kỹ năng cần thiết cho chính bản thân mình. Một số trẻ nhút nhát nên không tự tin tham gia vào các hoạt động. Một số trẻ lại quá hiếu động nên khi hoạt động chưa có chú ý vào sự hướng dẫn của cô. - Cơ sở vật chất của lớp tôi tương đối đầy đủ tuy nhiên, nhiều khi các đồ dùng, đồ chơi lại chưa phù hợp với các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ và chưa đáp ứng đủ theo nhu cầu tổ chức các hoạt động rèn luyện cho trẻ. 5/30
  6. - Một số phụ huynh bận công việc, ít dành thời gian trò chuyện để hiểu được trẻ, để giáo dục trẻ mà chỉ biết chiều theo mọi đòi hỏi của trẻ. Bên cạnh đó, cũng có phụ huynh đi làm xa nên thường nhờ ông bà, người thân đưa đón nên việc phối hợp với giáo viên trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ còn hạn chế. III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 1. Biện pháp 1: Tự học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và kỹ năng tổ chức các hoạt dộng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Tuy là một giáo viên đã có kinh nghiệm nhiều năm trong nghề, nhưng đây là một nhiệm vụ vẫn còn khá mới mẻ nên kỹ năng rèn luyện cho trẻ của tôi vẫn còn khá hạn chế. Do vậy để nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ lớp mình với mong muốn các con có những kiến thức cơ bản, những kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng tự bảo vệ, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác để trẻ luôn cảm thấy tự tin, biết cách xử lý những tình huống xảy ra hàng ngày và hình thành cho trẻ những thói quen tốt thì tôi phải là người nắm chắc các kiến thức, kỹ năng tổ chức các hoạt động và phải làm mẫu chuẩn khi thực hiện các thao tác của từng kỹ năng. Hơn nữa, ông cha ta đã có câu: “Trẻ lên ba cả nhà học nói” ý muốn nói trẻ ở lứa tuổi này thường bắt chước rất nhanh nên giáo dục trẻ, rèn kỹ năng cho trẻ hàng ngày lâu dần sẽ trở thành thói quen, kỹ năng của trẻ. Chính vì vậy, tôi càng phải học hỏi, trau dồi kiến thức, bồi dưỡng chuyên môn để tự tin tổ chức các hoạt động rèn luyện cho trẻ, hình thành những kỹ năng, thói quen tốt nhất và phù hợp nhất đối với trẻ. * Cách làm: - Bản thân tôi thường xuyên tự bồi dưỡng qua thực hành trải nghiệm, qua thực tế làm việc song song với việc nghiên cứu và học tập kiến thức thông qua các cuốn tài liệu hướng dẫn về cách tổ chức, rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ mầm non đặc biệt là những kỹ năng sống dành cho trẻ 3 - 4 tuổi. Bên cạnh đó, tôi còn đọc các tạp chí Giáo dục mầm non do Bộ giáo dục phát hành, tìm hiểu qua mạng internet, xem phim ảnh, học trực tuyến qua truyền hình những nội dung liên quan đến rèn kỹ năng sống cho trẻ, tìm hiểu thêm về các phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non của các trường quốc tế như Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước châu Âu như Waldorf, Montessori và Reggio Emilia trên kênh youtube để tham khảo, học hỏi cũng như tích lũy thêm cho mình kinh nghiệm hay để có thể áp dụng cho trẻ lớp tôi. - Bên cạnh đó, thông qua các buổi họp chuyên môn của khối, của trường, tôi thường xuyên xin ý kiến, chỉ đạo của Ban giám hiệu, của Tổ trưởng chuyên môn và của các chị em đồng nghiệp về những vấn đề liên quan đến cách tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ và những vấn đề mà tôi chưa biết. Tôi 6/30
  7. luôn lắng nghe, ghi chép tỉ mỉ, cẩn thận để ghi nhớ những nội dung mà nhà trường, tổ chuyên môn, các chị em đồng nghiệp hướng dẫn, chia sẻ để từ đó nắm bắt được kịp thời và điều chỉnh những kiến thức, kỹ năng của mình cho phù hợp. - Tôi luôn chủ động đề xuất với Ban giám hiệu để được tham gia vào các buổi kiến tập, tập huấn, các chương trình bồi dưỡng về chuyên đề giáo dục kỹ năng sống do Sở giáo dục và Đào tạo, Phòng giáo dục và Đào tạo huyện và các trường bạn tổ chức. Qua đó tôi đã học hỏi và rút ra cho mình được rất nhiều kinh nghiệm quý báu cũng như học được các bước tiến hành chuẩn của từng kỹ năng do các thầy cô của Sở, của Phòng giáo dục truyền đạt. - Quan trọng nhất là tôi đã tự học hỏi, rèn luyện bản thân vì tôi luôn ý thức được rằng mình phải làm mẫu chuẩn để các con bắt chước và làm theo. Bên cạnh đó, tôi luôn tích cực đổi mới các phương pháp rèn luyện ở mọi lúc, mọi nơi nhằm khuyến khích sự chú ý, tập trung tích cực và khai thác, phát huy các kỹ năng rèn luyện của từng trẻ, hướng sự sáng tạo của trẻ khi tham gia các hoạt động. Nhưng tôi không gò ép trẻ mà luôn quan tâm, hướng dẫn trẻ để trẻ có một tâm thế thoải mái nhất trong mọi hoạt động.( Phụ lục II.a kèm theo) * Kết quả đạt được: Thông qua cách làm trên bản thân tôi đã nâng cao được trình độ, tich lũy được nhiều kinh nghiệm và kiến thức cần thiết để rèn luyện cho trẻ một cách tốt nhất, có hiệu quả nhất. Qua đó, tôi đã xác định được những kỹ năng sống phù hợp với trẻ mẫu giáo bé (3 - 4 tuổi) để giáo dục cho trẻ lớp mình như: - Kỹ năng tự phục vụ: chăm sóc bản thân, chăm sóc môi trường, vận động tinh + Kỹ năng chăm sóc bản thân: Rửa tay, rửa mặt, lấy và cất ghế, lấy và cất cốc, cài và cởi cúc áo, khóa áo, mặc và gấp quần áo, đi dép, cất dép, lau mũi… + Kỹ năng chăm sóc môi trường: Lau bụi, làm sạch đồ dùng, đồ chơi trong lớp, giữ vệ sinh lớp học, lau bàn, cất đồ dùng, đồ chơi ngăn nắp, chăm sóc cây. + Kỹ năng phát triển vận động tinh: Cầm thìa đúng cách và xúc, rót/ đổ, chuyển đồ vật, đóng và mở cửa. - Kỹ năng thích nghi với các loại thức ăn và có thói quen ăn uống văn minh: Biết ăn uống đa dạng, không kén chọn, có nề nếp thói quen tốt trong ăn uống như: ngồi ngay ngắn, tự xúc ăn, mời trước khi ăn, không đùa nghịch, nói chuyện trong khi ăn, nuốt thức ăn trước khi nói, che miệng khi ho, hắt xì hơi… - Kỹ năng phát triển sự tự tin: Cảm nhận được mình là ai, tự tin bày tỏ cảm xúc của mình với người khác, tự tin tham gia các hoạt động. - Kỹ năng tự bảo vệ: Không bỏ một số vật lạ, vật cứng vào miệng, tai, mũi, biết đội mũ khi đi ngoài mưa, nắng, không nghịch bẩn, không theo người lạ… 7/30
  8. - Kỹ năng hợp tác: Biết hợp tác với các bạn trong khi chơi, tham gia hoạt động nhóm với các bạn khi học, vui chơi, lao động… - Kỹ năng giao tiếp, ứng xử có văn hóa: chào mẹ, chào cô khi đến lớp, khi ra về, biết nói cám ơn khi nhận được quà hoặc khi nhận được sự giúp đỡ, nói lời xin lỗi khi làm sai, lễ phép với người lớn, xếp hàng và chờ đợi. 2. Biện pháp 2: Khảo sát thực trạng và lập kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ a. Khảo sát thực trạng Ngay từ đầu năm học tôi đã phối hợp với các giáo viên trong lớp tiến hành khảo sát toàn bộ 58 trẻ trong lớp để nắm rõ đặc điểm, tâm lý, kỹ năng sống của trẻ từ đó có cơ sở xây dựng kế hoạch rèn luyện các kỹ năng sống cho trẻ hợp lý. Bên cạnh đó, còn xác định được nhiệm vụ cơ bản đối với từng trẻ với việc dạy kỹ năng ở mọi hoạt động trong quá trình chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. * Cách làm: Sau khai giảng năm học mới tôi đã phối hợp cùng 3 giáo viên trong lớp chia trẻ làm 4 nhóm, mỗi cô phụ trách và đánh giá một nhóm. Giữa các nhóm tôi đã cân đối số trẻ trai, trẻ gái, trẻ sinh đầu năm, cuối năm để đảm bảo các nhóm có nhận thức đồng đều nhau. Tôi đã tổ chức và lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động như: Hoạt động học, hoạt động ngoài trời, giao lưu, lao động, hoạt động góc, hoạt động ăn, ngủ, hoạt động chiều, giờ đón, trả trẻ, các hoạt động lễ hội, tham quan. Thông qua các hoạt động này, tôi và các giáo viên trong lớp đã đánh giá được mức độ nhận thức và kỹ năng của trẻ. Ngoài ra, tôi còn đánh giá trẻ thông qua phát phiếu thăm dò và trao đổi với phụ huynh để nắm bắt rõ hơn đặc điểm riêng của trẻ để đưa ra các biện pháp rèn kỹ năng sống phù hợp nhất đối với trẻ. BẢNG KẾT QUẢ KHẢO SÁT KỸ NĂNG CỦA TRẺ LỚP MẪU GIÁO BÉ ( 3- 4 TUÔI) ĐẦU NĂM THÁNG 9/2016 ST Mức độ Tốt Khá TB Yếu T Kỹ năng SL % SL % S % SL % L 1 Kỹ năng tự phục vụ 7 12,0 10 17,2 21 36,2 20 34,5 2 Kỹ năng giao tiếp 9 15,5 12 20,6 22 37,9 15 25,8 3 Kỹ năng hợp tác 10 17,2 9 15,5 18 31,0 21 36,2 4 KN thích nghi với thức ăn 10 17,2 17 29,3 19 32,7 12 20,6 5 KN phát triển sự tự tin 7 12,0 10 17,2 18 31,0 23 39,6 6 Kỹ năng tự bảo vệ 4 6,8 9 15,5 15 25,8 30 51,7 b. Lập kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 8/30
  9. Để giáo dục và rèn kỹ năng sống cho trẻ thì khâu lập kế hoạch là khâu đầu tiên và hết sức quan trọng. Nó như kim chỉ nam dẫn đường định hướng cho giáo viên thực hiện hoạt động để đạt được mục tiêu đã đề ra. Việc kế hoạch hóa các tác động sư phạm cụ thể trong hoạt động của cô và trẻ xuyên suốt quá trình rèn luyện kỹ năng sống thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp cho trẻ mẫu giáo bé 3 - 4 tuổi có ý nghĩa quan trọng đảm bảo sự phát triển liên tục của trẻ trong quá trình rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ. * Cách làm: - Để xây dựng một bản kế hoạch đầy đủ sát với thực tế tôi phải dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Có những trẻ mới đi học chưa thích nghi được mọi sinh hoạt trong lớp, trẻ suy dinh dưỡng, thấp còi nhiều nên thể lực yếu vì thế hay nghỉ học. Do đó, việc rèn kỹ năng cho trẻ sẽ bị gián đoạn, chưa thường xuyên. - Ngoài ra, tôi căn cứ vào mục tiêu giáo dục trẻ theo độ tuổi và kế hoạch giáo dục trẻ hàng tháng, căn cứ vào nguyên tắc tổ chức các hoạt động trong ngày để xây dựng kế hoạch rèn kỹ năng cho trẻ đạt hiệu quả tốt nhất. Tôi đã xây dựng được kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ như sau: KẾ HOẠCH GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ MẪU GIÁO BÉ (3 – 4 TUỔI) NĂM HỌC 2016 - 2017 S Thời Nội dung Kết quả mong đợi T gian T Tháng Rèn trẻ kỹ - Trẻ mong muốn giao tiếp, chia sẻ ý tưởng của 9/2016 năng giao tiếp, mình với cô, với các bạn. ứng xử có văn - Trẻ biết chào mẹ, chào cô khi đến lớp, khi ra về. hóa - Trẻ biết nói lời cảm ơn khi nhận được sự giúp 1 đỡ của người khác hoặc khi nhận được quà. - Trẻ biết nhận lỗi và nói lời xin lỗi khi làm sai. Tháng Tiếp tục rèn - Trẻ biết giao tiếp lễ phép với người lớn 10/2016 trẻ kỹ năng - Xếp hàng và chờ đợi giao tiếp - Trẻ biết che miệng khi ho, hắt xì hơi. Rèn trẻ KN tự - Trẻ biết các thời điểm cần phải thực hiện việc phục vụ. rửa tay.Trẻ nắm được quy trình rửa tay +KN chăm sóc - Trẻ thao tác đúng kỹ năng. bản thân: - Biết xếp hàng trong khi rửa tay và rửa tay khéo 1. Rèn trẻ kỹ léo để không làm bắn nước ra ngoài năng rửa tay. - Biết khóa vòi nước khi rửa tay xong. - Biết lau tay bằng khăn khô sau khi rửa tay. 9/30
  10. 2. Rèn trẻ kỹ - Trẻ biết các thời điểm cần phải thực hiện việc năng lau mặt lau mặt. - Trẻ nắm được quy trình lau mặt. - Trẻ thao tác đúng kỹ năng. - Biết xếp hàng lần lượt trong khi lau mặt - Biết trải khăn xuống khay khi lau mặt xong. 3. Rèn trẻ kỹ - Dạy trẻ kỹ năng bê, kê ghế vào bàn đúng cách. năng bê, kê - Trẻ biết được cách cất và xếp ghế đúng cách. ghế vào bàn và - Trẻ biết cách bê và kê ghế vào bàn. cất ghế. - Trẻ nắm bắt được các quy trình và các bước để bê, kê ghế, cất ghế.Trẻ thao tác đúng kỹ năng. - Biết làm lần lượt từng thao tác. 4. Rèn trẻ kỹ - Trẻ nhận biết được kí hiệu của mình. năng lấy và cất - Trẻ biết lấy đúng cốc của mình và cất cốc đúng cốc nơi quy định sau khi dùng xong. - Trẻ thao tác đúng kỹ năng. Tháng Tiếp tục rèn - Dạy trẻ các kỹ năng đi dép, cởi dép đúng cách. 11/2016 trẻ KN chăm - Trẻ biết được cách xếp lần lượt dép lên sóc bản thân giá.Trẻ biết cách đi, cài dép. 5. Rèn trẻ KN - Trẻ nắm bắt được các quy trình và các bước để đi dép, cởi dép, đi, cởi, xếp dép đúng cách. xếp dép đúng - Trẻ thao tác đúng kỹ năng. cách - Biết làm lần lượt từng thao tác. 6. Rèn trẻ kỹ - Dạy trẻ kỹ năng cài, cởi cúc, khóa áo đúng cách. năng cài, cởi - Trẻ biết cách cài, cởi cúc, khóa áo cúc, khóa áo. - Trẻ nắm bắt được các quy trình và các bước để cài, cởi cúc, khóa áo. Trẻ thao tác đúng kỹ năng. - Biết làm lần lượt từng thao tác. 3 7. Rèn trẻ kỹ - Trẻ biết cách mặc và cởi một số quần áo thông năng mặc, cởi thường hàng ngày. và cất quần áo - Trẻ biết mặc quần áo phù hợp với thời tiết. - Trẻ biết thay quần áo hoặc nhờ cô giáo giúp đỡ thay khi quần áo bị ướt, bị bẩn. - Trẻ biết giữ gìn quần áo sach sẽ. - Trẻ biết gấp và cất quần áo đúng nơi quy định. 4 Tiếp tục rèn trẻ KN: cài, cởi, xếp dép, cài cúc áo. mặc và cởi áo. 10/30
  11. Tháng + Rèn trẻ KN - Trẻ biết lau bụi, làm sạch đồ dùng trong lớp 12/2016 chăm sóc môi - Biết giữ vệ sinh lớp học, trong trường, và nơi trường sống: công cộng, không vứt rác bừa bãi. 1. Rèn trẻ kỹ - Trẻ biết lau bàn, cất dọn đồ dùng, đồ chơi gọn năng vệ sinh gàng, ngăn nắp, nhẹ nhàng. lớp học - Trẻ thao tác dúng kỹ năng. - Biết làm lần lượt các thao tác. 2. Rèn trẻ kỹ - Dạy trẻ cách gieo hạt và chăm sóc cây. năng chăm sóc - Trẻ biết cách gieo hạt, tưới nước cho cây. cây - Trẻ biết cách lau lá cây, nhặt lá cây. - Trẻ thao tác đúng kỹ năng. - Biết làm lần lượt từng thao tác. - Không ngắt lá, bẻ cành. KN phát triển - Trẻ biết tập trung chú ý quan sát để xúc hạt, vận động tinh: không để hạt rơi ra ngoài. 1. Rèn trẻ kỹ - Trẻ nắm được cách xúc hạt. năng cầm thìa - Trẻ thao tác đúng kỹ năng. đúng cách và - Biết xúc lần lượt qua từng bát. xúc - Trẻ biết thực hiện nhẹ nhàng, không gây ra tiếng động. Trẻ biết giữ gìn bát, thìa, hạt… 2. Rèn trẻ kỹ - Trẻ biết tập trung chú ý quan sát để rót, đổ, năng rót, đổ, chuyển đồ vật mà không làm rơi, làm đổ ra. chuyển đồ vật. - Trẻ nắm được cách rót, đổ, chuyển đồ vật - Trẻ thao tác đúng kỹ năng. - Trẻ biết giữ gìn và sử dụng các đồ dùng một cách khéo léo để không làm rơi, vỡ 3. Rèn trẻ kỹ - Trẻ biết tập trung chú ý quan sát để đóng và năng đóng và mở của.Trẻ nắm được cách đóng và mở cửa. mở cửa. - Trẻ thao tác đúng kỹ năng. - Biết xếp hàng lần lượt khi đóng và mở cửa. - Trẻ biết thực hiện nhẹ nhàng, không gây ra tiếng động. Trẻ biết giữ gìn không xô đẩy cửa. Tháng Tiếp tục rèn trẻ kỹ năng chăm sóc môi trường và vận động tinh 11/30
  12. 1/ 2017 Rèn trẻ KN - Trẻ biết tên các món ăn hàng ngày. thích nghi với - Trẻ biết ích lợi của thực phẩm đối với sức các loại thức ăn khỏe. Biết ăn nhiều loại thức ăn. và có hành vi - Trẻ có thói quen, hành vi tốt trong ăn uống: ăn uống văn + Ngồi ngay ngắn trong khi ăn. minh. + Biết mời cô, mời bạn trước khi ăn + Vét bát gọn gàng, sạch sẽ và tự xúc ăn hết suất của mình + Không nói chuyện, đùa nghịch trong khi ăn - Không nhai tóp tép, không gõ bát thìa. - Nuốt hết thức ăn trước khi nói. - Biết nhặt cơm rơi vãi vào đĩa và lau tay. - Biết che miệng khi ho và hắt xì hơi. Tháng Tiếp tục rèn trẻ kỹ năng thích nghi với các loại thức ăn và có hành vi văn minh trong ăn uống. 2/ 2017 Rèn trẻ kỹ năng - Trẻ cảm nhận được mình là ai. phát triển sự tự - Trẻ tự tin làm theo ý tưởng, tự tin bày tỏ cảm 6 tin. xúc của mình với người khác mà không e ngại. - Trẻ luôn tự tin tham gia các hoạt động - Luôn giơ tay phát biểu - Trẻ biết chia sẻ suy nghĩ của mình với người khác Tháng Tiếp tục rèn trẻ kỹ năng phát triển sự tự tin Rèn trẻ kỹ năng - Trẻ biết hợp tác với các bạn trong lớp 7 3/ 2017 hợp tác - Trẻ biết tham gia hoạt động nhóm với các bạn trong khi học, vui chơi, lao động… Tháng Tiếp tục rèn trẻ kỹ năng hợp tác. Rèn trẻ kỹ năng - Không bỏ một số vật lạ, vật cứng, đồ chơi 4/ 2017 tự bảo vệ bản ngậm vào miệng, mũi tai… thân - Biết đội mũ, mặc áo mưa khi nắng, mưa. - Không chơi nghịch nơi bẩn. 8 - Biết tránh xa những đồ dùng nguy hiểm: bếp gas, lửa, điện, nước sôi, ao, hồ… - Không theo người lạ... - Biết nghe lời người lớn khi tham gia giao thông 12/30
  13. 3. Biện pháp 3: Sưu tầm các bài thơ, bài hát, ca dao, đồng dao, trò chơi dân gian, câu chuyện, video clip để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Nói đến tuổi thơ là nói đến vui chơi, ca hát, các cháu hát trong lúc chơi, chơi trong lúc hát, các bài hát, bài thơ, đồng dao, ca dao, trò chơi dân gian thường có vần điệu, tiết tấu nhịp nhàng, dễ nhớ, dễ thuộc, hấp dẫn, có nội dung phù hợp, giúp trẻ vừa chơi, vừa học hỏi. Qua những lời thơ, lời văn nghe có vẻ đơn giản ấy là biết bao bài học quý giá, dạy trẻ em về thiên nhiên, xã hội, con người xung quanh, về cách cư xử, cách sống. Nó không chỉ cung cấp cho trẻ những kiến thức về thế giới xung quanh ta, về tự nhiên, về con người xã hội mà qua đó các em được rèn luyện về trí tuệ, thân thể, các giác quan, hưng phấn về tinh thần và là chất xúc tác cho trẻ nhận biết về sáng tạo trong cuộc sống, rèn luyện cho các em tính chủ động trong xử lý tình huống, hợp tác, tương tác với bạn bè, đoàn kết, giúp đỡ nhau, có lòng khiêm tốn, trung thực và khoan dung, mạnh dạn, lễ phép trong giao tiếp, ứng xử, tự tin trong mọi hoạt động, thân thiện với mọi người xung quanh và hình thành ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc “Hát chơi mà học thật, học làm người”. * Cách làm: Nhận thức được tầm quan trọng của những bài thơ, câu chuyện, ca dao, đồng dao, trò chơi dân gian đối với trẻ 3 - 4 tuổi là không nhỏ đối với việc rèn kỹ năng sống cho trẻ. Và hiểu được tâm lý của trẻ 3 - 4 tuổi là thích cái đẹp, thích được ca hát, vui chơi nên trong quá trình rèn luyện các kỹ năng sống thông qua các hoạt động trong ngày tôi đã sưu tầm những bài thơ, câu chuyện, ca dao, đồng dao, trò chơi dân gian có nội dung rõ ràng, dễ hiểu, dễ thuộc, có lời văn trong sáng, vui tươi, đặc biệt là phù hợp với lứa tuổi và trình độ nhận thức của trẻ, phù hợp với việc rèn các kỹ năng sống cho trẻ mà tôi đã đề ra. Ví dụ: Tôi sử dụng các bài đồng dao: “Kéo cưa lừa xẻ”,”Rồng rắn lên mây” hay trò chơi “Tay đẹp”, “Buổi sáng” hay bài hát “Bé ngoan”...để gây hứng thú cho trẻ, lôi cuốn trẻ vào các hoạt động rèn kỹ năng sống. Bên cạnh đó, tôi còn sử dụng các yếu tố nghệ thuật kể trên để giúp trẻ thực hiện đúng thao tác và giúp trẻ biết mình cần làm gì trong cuộc sống hàng ngày. Ví dụ: Đến giờ ăn tôi cũng đã sưu tầm một số bài thơ ngắn dẽ nhớ, dễ thuộc để dạy cho trẻ qua đó nhắc nhở trẻ thực hiện các kỹ năng cần thiết như: Giờ ăn Giờ ăn đã đến Bé cất đồ chơi Rửa tay cho sạch Vào bàn ăn cơm. 13/30
  14. Để việc giáo dục kỹ năng sống gây hứng thú và đạt hiệu quả cao hơn cho trẻ tôi đã tìm và sử dụng các đoạn video clip ngắn, có hình ảnh ngộ nghĩnh, hấp dẫn, ngôn ngữ giản dị, trong sáng, hóm hỉnh, gần gũi để giúp trẻ rất dễ tiếp thu lại có thể nhớ lâu. Mỗi một câu chuyện là một bài học hay, có ý nghĩa chuyển tải những thông điệp có giá trị, giúp trẻ có được những kỹ năng sống quý báu. Thông qua nội dung trẻ được nghe, được nhìn cùng với sự giảng giải của cô, trẻ sẽ thấm dần ý nghĩa của chúng, từ đó tích lũy cho mình những bài học kinh nghiệm trong cuộc sống. Bên cạnh đó, qua những câu chuyện bổ ích và lí thú này có thể giúp giáo dục và giáo dưỡng trẻ một cách tự nhiên, giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo phong phú, phát triển kỹ năng giao tiếp và tư duy. * Kết quả đạt được: - Tôi đã sưu tầm: 92 bài thơ, đồng dao, 30 bài hát, 7 truyện, 9 trò chơi, 10 đoạn video clip ( Phần phụ lục II.A.B.C.D và 1 đĩa VCD) - Qua biện pháp này, trẻ lớp tôi rất hào hứng, thích thú tham gia hát, đọc thơ, đồng dao, chơi các trò chơi dân gian và xem các đoạn video clip do tôi sưu tầm. Do đó, trẻ học hỏi được rất nhiều kỹ năng sống cần thiết và hình thành được rất nhiều thói quen tốt. 4. Biện pháp 4: Xây dựng môi trường lớp học, làm đồ dùng, đồ chơi sáng tạo để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Lứa tuổi mầm non “Trẻ học mà chơi, chơi mà học” thông qua chơi để trẻ lĩnh hội kiến thức. Vì vậy, việc tạo cơ hội cho trẻ được học tập, vui chơi trong môi trường thân thiện, trẻ sẽ phát triển toàn diện về thể chất, nhận thức thẩm mỹ và đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong việc rèn kỹ năng sống cho trẻ. Môi trường giáo dục lành mạnh, đa dạng, đồ dùng, đồ chơi đẹp, hấp dẫn, sẽ tạo điều kiện cho trẻ chủ động giao tiếp, hợp tác cùng nhau, kích thích trẻ tham gia. Từ đó, trẻ sẽ dần hình thành các kỹ năng sống cần thiết. Một đặc điểm nổi bật trong tâm lý của trẻ mẫu giáo bé là tính xúc cảm. Trẻ yêu thích cái đẹp, cái mới lạ và có những thái độ tích cực đối với chúng. Vì vậy, việc trang trí môi trường lớp học sao cho tự nhiên, biến không gian lớp học trở nên gần gũi, thân thiện, tích cực, làm nhiều đồ dùng, đồ chơi, các phương tiên trực quan sáng tạo, có kích cỡ phù hợp, tránh sự đơn điệu, nhàm chán, được bố trí, sắp xếp khoa học, gọn gàng, thuận tiện và có kích cỡ phù hợp, an toàn trong một không gian đủ rộng để trẻ tham gia một cách thường xuyên và từ đó hình thành cho trẻ kỹ năng sống của bản thân. * Cách làm: Tạo môi trường thân thiện, gần gũi với đầy đủ các góc chơi, trong các góc được bố trí đồ dùng, đồ chơi sáng tạo, hấp dẫn, sắp xếp gọn gàng, hợp lý và an 14/30
  15. toàn đối với trẻ. Ở các góc chơi, tôi đều dán các bảng hướng dẫn nội quy góc chơi bằng hình ảnh để qua đó trẻ sẽ hiểu được luật chơi và giáo dục trẻ cất đồ dùng, đồ chơi sau khi chơi xong. Ở các góc chơi này trẻ phải tự lấy kí hiệu của mình dán vào góc chơi mình đã chọn qua đó tôi giáo dục trẻ kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự phục vụ. - Đối với góc thực hành kỹ năng sống tôi đã kê giá và sắp xếp bộ giáo cụ chuẩn phục vụ cho việc rèn trẻ kỹ năng vận động tinh như: xúc hột, hạt và rót khô, kỹ năng tự phục vụ: cài, cởi cúc áo, kéo khóa áo. Bên cạnh đó tôi còn làm ra các sản phẩm tự tạo để trẻ được học các kỹ năng tự phục vụ như: cởi và buộc dây giày, chải ,tết tóc, mặc quần áo, hái quả, đan nong mốt…Những sản phẩm và hình ảnh tôi thay đổi thường xuyên theo tháng để phù hợp với kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mà tôi đã để ra. - Đối với góc bán hàng tôi cũng thường xuyên thay đổi và làm đồ dùng, đồ chơi mô phỏng: Quần áo, giày dép, hoa quả, bánh, hộp quà cũng như mua một số đồ thật như hoa quả, bánh kẹo, quần áo…để rèn trẻ các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thích nghi với thức ăn, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự bảo vệ, kỹ năng vận động tinh. ( Chùm ảnh minh họa số 1 trong phần phụ lục I) - Góc tạo hình tôi bố trí treo giá để bài của trẻ và giá để đồ dùng phục vụ cho việc hoạt động góc cũng như hoạt động tạo hình của trẻ như: Bút sáp, màu nước, phấn, ruy băng... sát tường, có kích cỡ, chiều cao phù hợp với tất cả trẻ, mỗi trẻ cũng có một ô đựng bài và dán ảnh của từng trẻ để trẻ tự lấy và cất được dễ dàng, thuận tiện. Bên cạnh đó, tôi cũng làm các hộp đựng đồ dùng của trẻ như bảng, đất nặn, bài lưu của trẻ, giấy màu, giấy một mặt và dán tên cũng như hình ảnh trên bề mặt hộp để trẻ tự lấy và cất đồ dùng đúng hộp mà tôi quy định. Ở góc chơi này trẻ cũng học được kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng hợp tác. - Góc bác sĩ tôi cũng bố trí quần áo, mũ bác sĩ, các dụng cụ khám, sổ, đơn thuốc, chai thuốc…để trẻ hoạt động góc được đầy đủ, dễ dàng. Ở góc chơi này trẻ học được kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự phục vụ. - Góc thiên nhiên: Phía sau lớp tôi đã dùng các hộp xốp, bồn, chậu từ các vỏ chai, lọ để xây dựng thành vườn rau của trẻ. Tôi trồng các loại rau ăn lá hoặc quả theo mùa để hàng ngày trẻ được ra quan sát, làm quen, tìm hiểu về cỏ cây, chăm sóc cây. Ở góc chơi này trẻ học được kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng hợp tác. (Chùm ảnh minh họa số 2 trong phần phụ lục I) - Góc văn học tôi làm sách tranh về các kỹ năng tôi sẽ dạy trẻ và tôi cũng sưu tầm thêm các bài thơ, câu chuyện kèm ảnh minh họa về kỹ năng sống. Bên cạnh đó, tôi còn trang trí đệm, gối, gấu bông, rối que, rối tay...để trẻ hứng thú, thoải mái vừa học, vừa chơi. Từ đó, trẻ sẽ hào hứng tham gia và sẽ tiếp thu một 15/30
  16. cách dễ dàng các kỹ năng trong sách tranh. Ở góc chơi này trẻ học được kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng phát triển sự tự tin, kỹ năng giao tiếp và kỹ năng hợp tác. - Góc xây dựng: Tôi đã tham mưu với nhà trường trang bị cho lớp tôi giá có nhiều ô, có chiều cao phù hợp với trẻ lớp tôi và những hộp đựng đồ dùng, đồ chơi để trẻ dễ dàng hoạt động và tạo cho trẻ thói quen lấy và cất dồ dùng, đồ chơi gọn gàng, ngăn nắp sau khi chơi xong. Ở góc chơi này trẻ học được kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự bảo vệ. - Góc âm nhạc tôi đã thiết kế sân khấu và nhiều đồ dùng âm nhạc để lôi cuốn trẻ hứng thú tham gia, giúp cho trẻ mạnh dạn, tự tin hơn và trẻ biết thêm được về cách sử dụng cũng như cảm nhận được giai điệu của các nhạc cụ dân tộc. Ở góc chơi này trẻ học được kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng phát triển sự tự tin, kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao tiếp. - Bảng “Hoa bé ngoan” tôi đã thiết kế thấp, thuận tiện cho trẻ dễ dàng lên cắm cờ. Trên bảng tôi luôn để hai hình ảnh tương ứng với hai tiêu chí phù hợp với kế hoạch tuần tôi đã để ra. Hàng ngày, trong quá trình giáo dục trẻ khi trẻ thực hiện tốt kỹ năng đúng với tiêu chí trên bảng thì trẻ sẽ được lên cắm cờ. Cuối tuần những trẻ gắn được nhiều cờ sẽ được tuyên dương trước cả lớp. Qua đó, trẻ sẽ phát triển kỹ năng phát triển sự tự tin. - Ở sát cạnh nhà kho có một cột tường trống nên tôi đã dán tranh công việc trẻ cần thực hiện hàng ngày để giúp cô và tôi lấy tên là “Tuần này bé làm gì?”. Tôi thay đổi tranh theo tuần để trẻ biết được kỹ năng mà mình cần làm trong tuần là gì? - Trong khu nhà vệ sinh tôi luôn đảm bảo sạch sẽ, khô ráo, thuận tiện, an toàn cho trẻ. Và được trang bị đầy đủ các đồ dùng phục vụ cho trẻ như: Bồn cầu cho nam, nữ riêng, bồn rửa tay, vòi xịt, xà phòng, khăn lau tay, dép, giá dể dép. Phía trước máng rửa tay tôi dán quy trình hướng dẫn trẻ rửa từng bước một để giúp trẻ dễ dàng quan sát và thực hiện kỹ năng rửa tay cho đúng. Bên cạnh đó, tôi còn dán hình ảnh để phân chia khu vực vệ sinh trai, gái. Trên mảng tường cạnh các bồn vệ sinh tôi cũng dán các hình ảnh hướng dẫn trẻ xả nước sau khi đi vệ sinh và hình ảnh nhắc nhở trẻ nhớ rửa tay sau khi đi vệ sinh. ( Chùm ảnh minh họa số 3, 4 trong phần phụ lục I) - Tủ đựng đồ dùng cá nhân của trẻ được đặt sát tường, có đủ cho mỗi trẻ một ngăn. Tôi đã dán tên và ảnh của trẻ ở mỗi ngăn để trẻ dễ dàng nhận ra ngăn tủ của mình và trẻ sẽ tự lấy, cất đồ dùng của mình mỗi khi đến lớp và khi ra về. - Giá để giày dép của trẻ được thiết kế có kích thước, độ cao phù hợp với trẻ. Tôi bố trí đặt ở cửa lớp để thuận tiện cho trẻ lấy, cất dễ dàng. Tôi dán ảnh 16/30
  17. của trẻ vào từng ô để trẻ cất dép đúng chỗ của mình. Phía trên giá dép tôi còn dán hình ảnh các bước hướng dẫn trẻ cách cất dép để trẻ biết cách cất cho đúng. - Khi tổ chức giờ ăn tôi kê bàn và xếp trẻ ngồi theo đúng quy định để đảm bảo khoảng cách giữa các bàn để trẻ có thể tự xúc cơm ăn mà không bị va vào bạn bên cạnh làm đổ, rơi vãi cơm. - Tủ cốc của trẻ tôi chia làm bốn ngăn cho bốn tổ và dán ký hiệu riêng cho từng tổ. Cốc của trẻ được xếp theo tổ, có dán ký hiệu riêng của trẻ để trẻ có thể tự lấy cốc uống nước, xúc miệng nước muối. Bên cạnh cây nước tôi cũng dán hình ảnh để hướng dẫn trẻ lấy nước. Hàng ngày, tôi pha nước muối và để sẵn cạnh cây nước để trẻ dễ dàng tự xúc miệng sau bữa ăn. - Vở của trẻ tôi để mỗi trẻ một túi. Tôi dán ảnh, tên của trẻ trên từng túi để trẻ tự lấy, cất trước và sau khi học bài. Tôi kê giá ở ngay của lớp để phụ huynh cũng có thế theo dõi được kết quả học tập của con mình. ( Chùm ảnh minh họa số 5 trong phần phụ lục I) * Kết quả đạt được: - Môi trường học tập của lớp tôi được xây dựng gọn gàng, sạch sẽ, phù hợp, đảm bảo an toàn cho trẻ. - Đồ dùng, đồ chơi, phương tiện giảng dạy phục vụ cho hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ và rèn các kỹ năng sống cho trẻ đầy đủ, đẹp, phong phú, hấp dẫn. - Kỹ năng xây dựng môi trường học tập, cách bố trí và sử dụng các đồ dùng, dụng cụ phục vụ cho các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ và rèn kỹ năng sống cho trẻ của tôi được nâng cao. - Trẻ rất hứng thú khi tham gia các hoạt động trong lớp và trẻ có thể lấy, cất và sử dụng đồ chơi dễ dàng, thuận tiện. 5. Biện pháp 5: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động trong một ngày. Thời gian trẻ ở lớp là rất dài và trẻ được trải qua mọi hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng cũng như giáo dục trong một ngày. Vì vậy, tôi thấy việc rèn kỹ năng sống cho trẻ thông qua chế độ sinh hoạt trong một ngày ở trường là rất cần thiết và vô cùng quan trọng. Ý thức được điều đó nên tôi đã thường xuyên quan tâm đến những hành động, hành vi của trẻ thông qua các hoạt động như giờ đón trả trẻ, học tập, vui chơi… tạo có hội cho trẻ tham gia một cách tự nhiên, hứng thú. Trẻ chơi mà học - học mà chơi nên trẻ phải cảm thấy thoải mái, không gò ép thì trẻ mới nắm được các bước thực hiện một số kỹ năng dễ dàng, có hiệu quả. Trong các hoạt động tùy theo nội dung của kế hoạch tôi đã đề ra, tôi tìm cách giáo dục trẻ hợp lý nhất để trẻ khắc sâu những thao tác mà trẻ được quan sát kết 17/30
  18. hợp cho trẻ thực hiện những hành động, hành vi đó nhiều lần, lặp đi lặp lại để hình thành kỹ năng, thói quen cho trẻ. * Cách làm: Giờ đón trẻ - Qua giờ đón trẻ, tôi thường kết hợp với các giáo viên trong lớp quan sát, hướng dẫn, nhắc nhở trẻ để giáo dục cho trẻ kỹ năng giao tiếp, ứng xử tốt như khoanh tay trước ngực chảo hỏi lễ phép với bố mẹ và cô giáo, cởi dép, cất dép và cất đồ dùng cá nhân đúng nơi quy định. Khi trẻ chào tôi tôi cũng chào lại trẻ. Trong khi cho trẻ thực hiện tôi cũng trao đổi với phụ huynh để phụ huynh đứng quan sát để rèn luyện các kỹ năng đó cho trẻ khi trẻ ở nhà. ( Chùm ảnh minh họa số 6 trong phần phụ lục I) - Trò chuyện với trẻ khi trẻ đã vào lớp để kích thích trẻ tham gia giao tiếp, đưa ra các câu hỏi để hỏi trẻ giúp phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ Ví dụ: Vào ngày đầu tuần khi trò chuyện tôi thường hỏi trẻ: “Cô đố các con hôm nay là thứ mấy?” “Chủ nhật con được bố mẹ cho đi chơi ở đâu? Các con hãy kể cho cô và các bạn nghe nào!”. “Ở đó con được chơi những gì?. “Con đã làm được những gì?”… Thế dục sáng: - Thể dục sáng là một hoạt động hấp dẫn đối với trẻ, khi trẻ tạm biệt bố mẹ để vào lớp với các cô thì đây là hoạt động đầu tiên mà trẻ tham gia khi ở lớp cả ngày. Qua giờ thể dục sáng tôi có thể kết hợp để rèn trẻ các kỹ năng chăm sóc bản thân như: tự lấy và cất dép, tự lấy dụng cụ thể dục để tập và cất gọn gàng sau khi tập xong, biết xếp hàng lần lượt, không xô đẩy nhau để đi ra sân tập thể dục và khi đi vào lớp. ( Ảnh minh họa số 7 trong phần phụ lục I) - Giờ điểm danh tôi cũng giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp lễ phép với người lớn như: cô gọi đến tên của trẻ nào thì trẻ đấy phải nói: “Con dạ cô” to, rõ ràng. Hoạt động học: Đây là hoạt động chính diễn ra trong ngày. Chính vì vậy, tôi đã lồng nội dung giáo dục kỹ năng sống như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng phát triển sự tự tin, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự bảo vệ, kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng thích nghi vào các môn học nhằm hình thành cho trẻ những thói quen tốt, hành vi có văn hóa. + Hoạt động phát triển thể chất: Tôi dạy trẻ các kỹ năng vận động và giáo dục trẻ phải siêng năng tập thể dục để có một cơ thể khỏe mạnh. Qua hoạt động này trẻ học được kỹ năng giao tiếp như: Trẻ biết xếp hàng, chờ đến lượt mình trong quá trình tập, không chen lấn, xô đẩy bạn. 18/30
  19. Ví dụ: Khi dạy trẻ đề tài: Vận động cơ bản: Chuyền bóng hai bên theo hàng ngang. Trò chơi vận động: Mèo đuổi chuột. Trước tiên, trẻ phải đi ra sân tập để chuẩn bị vào bài học thì tôi đã rèn trẻ kỹ năng tự phục vụ và kỹ năng giao tiếp thông qua hoạt động cho trẻ lấy dép, xếp hàng lần lượt để đi ra sân tập và nhắc nhở trẻ không chen lấn, xô đẩy nhau. Trong giờ học, khi cho trẻ tập bài tập phát triển chung tôi cũng rèn được trẻ kỹ năng tự phục vụ thông qua việc tự lấy đồ dùng để tập và tự tìm về chấm của mình để tập, cất đồ dùng sau khi tập xong. Khi cho trẻ thực hiện vận động cơ bản “Chuyền bóng bằng hai tay theo hàng ngang” tôi tiếp tục rèn trẻ kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác và kỹ năng tự phục vụ thông qua việc xếp hàng, chờ đợi đến lượt của mình, hợp tác cùng các bạn để chuyền bóng thật khéo léo sao cho bóng không bị rơi xuống sàn. Qua hoạt động Trò chơi vận động: “Mèo đuổi chuột” tôi cũng dạy được trẻ kỹ năng hợp tác, kỹ năng phát triển sự tự tin để chơi trò chơi cùng các bạn: một bạn đóng làm mèo phải hợp tác với một bạn đóng làm chuột và cả lớp phải hợp tác bằng cách nắm tay nhau và cùng đọc bài đồng dao “Mèo đuổi chuột”. + Hoạt động khám phá: Tôi giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp qua các đề tài như: Kỹ năng giao tiếp với người lớn thông qua việc giơ tay khi muốn trả lời, thưa gửi lễ phép với cô, cởi mở, tự tin trước đám đông (các bạn), lắng nghe người khác nói và chờ đến lượt mình nói, biết cách diễn đạt rõ ràng, đủ câu để người nghe hiểu được ý mình. Và thông qua các đề tài cho trẻ khám phá tôi thường giáo dục trẻ các kỹ năng sống phù hợp với đề tài đó. Ví dụ: Tôi dạy trẻ kỹ năng giao tiếp qua đề tài: Gia đình. Trẻ biết chia sẻ thông tin về gia đình, kể về các thành viên trong gia đình và những việc trẻ thường làm ở nhà. Kỹ năng sống trẻ học được đó là: Giao tiếp cởi mở với bạn, lắng nghe bạn nói, và chờ đến lượt mình nói. Biết nói rõ ràng để bạn hiểu. + Hoạt động tạo hình: Tôi dạy trẻ các kỹ năng tự phục vụ bản thân như: Lấy thảm ngồi vào bàn, cất thảm ngồi, lấy và cất đồ dùng: Bút sáp màu, màu dạ, khay đựng màu, lấy và cất khăn lau tay, lấy và cất vở, không xé vở, làm bẩn vở, biết lau tay trong quá trình làm bài, biết rửa tay sau khi học xong, biết vứt rác vào thùng đựng rác. Tôi còn cho trẻ kết hợp làm bài chung với nhau để phát triển kỹ năng hợp tác cho trẻ. + Hoạt động Giáo dục âm nhạc: Qua hoạt động này tôi cũng đã lồng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kỹ năng phát triển sự tự tin thông qua hoạt động cho trẻ lên biểu diễn theo tổ, nhóm, cá nhân và sau mỗi bài hát tôi luôn giáo dục trẻ để trẻ có những hành vi, thói quen tốt trong cuộc sống. 19/30
  20. Ví dụ: Khi dạy trẻ bài hát: “ Rửa mặt như mèo” tôi đã giáo dục trẻ thói quen tự vệ sinh thân thể sạch sẽ. + Hoạt động Làm quen văn học: Trong hoạt động này tôi cũng rèn trẻ kỹ năng giao tiếp, kỹ năng phát triển sự tự tin thông qua việc gọi nhiều trẻ lên trả lời các câu hỏi của cô sau đó tôi giáo dục trẻ thêm các kỹ năng khác phù hợp với từng câu chuyện tôi dạy trẻ. Ví dụ: Qua câu chuyện “Thỏ con ăn gì” tôi giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp, ứng xử văn minh như: Biết yêu thương, đoàn kết, giúp đỡ bạn bè, biết nhận lỗi và nói lời xin lỗi khi mình làm sai và biết nói lời cảm ơn chân tình khi được người khác giúp đỡ mình. Hoạt động ngoài trời - hoạt động giao lưu - hoạt động lao động Ở hoạt động này trẻ được giao lưu với nhau, được tương tác với nhau, được thể hiện bản thân mình, được cùng nhau trò chuyện, khám phá, tìm hiểu về một đề tài mà mình đang học giúp kiến thức của trẻ được mở rộng hơn, khắc sâu hơn. Trẻ được trải nghiệm thực sự, được mở rộng mối quan hệ để từ đó trẻ mạnh dạn, tự tin hơn. Trong các hoạt động này tôi có thể rèn trẻ các kỹ năng như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng phát triển sự tự tin, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng tự bảo vệ bản thân, kỹ năng thích nghi với các loại thức ăn. Kỹ năng tự phục vụ: lấy và cất đồ dùng phục vụ cho hoạt động, nhặt rác vào thùng rác, nhặt lá cây. Cho trẻ ra thăm vườn rau của trường, của lớp để trẻ khám phá, tìm hiểu về thế giới thiên nhiên, về nghề nông thông qua hoạt động trồng trọt, giúp trẻ nhận thức được lợi ích của việc trồng rau sạch đối với sức khỏe và môi trường sống xung quanh qua đó giáo dục trẻ biết ăn nhều loại rau để cung cấp vitamin cho sức khỏe. Dưới sự hướng dẫn của cô giáo trẻ được tham gia chăm sóc vườn cây: làm đất, gieo hạt, chăm sóc cây, thu hoạch cùng cô... là cả một trải nghiệm vô cùng hứng thú. Dạy trẻ biết xếp hàng để chờ đến lượt mình chơi, không chen lấn, xô đẩy, biết nhường nhịn, đoàn kết, biết chia sẻ đồ chơi với các bạn. Dạy trẻ biết bảo vệ và giữ gìn môi trường xanh- sạch- đẹp, biết giữ gìn vệ sinh thân thể sạch sẽ.( Ảnh minh họa số 8 trong phần phụ lục I) Ví dụ; Trong buổi dạo chơi ngoài trời, vừa quan sát trẻ chơi, vừa hướng dẫn trẻ biết cách chơi an toàn như: cách leo lên xuống thang, cách cầm chắc xích đu khi chơi, khi có bạn đang chơi xích đu thì không được đứng gần phía trước vì sẽ rất nguy hiểm, cách quay đu không quá nhanh, hướng dẫn trẻ biết kiên trì chờ đợi đến lượt mình chơi, tuyệt đối không xô đẩy, tranh giành đồ chơi, chỗ chơi với bạn. Ngoài ra, tôi đã tham mưu với BGH nhà trường để một tuần có ngày thứ tư trẻ được tham gia tham quan các phòng chức năng trong nhà trường và giao lưu 20/30
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2