Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 thực hiện tốt giải toán có lời văn theo bộ sách Cánh diều
lượt xem 1
download
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài "Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 thực hiện tốt giải toán có lời văn theo bộ sách Cánh diều" nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh đồng thời rèn kĩ năng giải toán có lời văn tốt hơn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 thực hiện tốt giải toán có lời văn theo bộ sách Cánh diều
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Tính cấp thiết phải tiến hành sáng kiến Bậc Tiểu học là bậc học đặt nền móng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Mỗi môn học ở bậc học Tiểu học đều góp phần vào hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu của nhân cách con người. Trong đó, môn Toán là môn học mà kiến thức và kĩ năng có nhiều ứng dụng vào cuộc sống thực tiễn, góp phần rèn luyện trí thông minh, sự nhanh nhạy trong tính toán. Để đáp ứng với sự phát triển của xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thời kỳ công nghệ thông tin phát triển như hiện nay thì môn Toán càng có vai trò quan trọng, giúp người học hình thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa, làm việc khoa học, tiếp cận kịp thời với xu thế phát triển của thời đại. Bên cạnh đó, môn Toán còn hỗ trợ nhiều cho việc học tập các môn học khác ở bậc Tiểu học và là nền tảng cho việc học toán ở các bậc học trên. Trong nội dung chương trình môn toán, phần giải toán có lời văn là một mảng kiến thức có vị trí vô cùng quan trọng. Giúp học sinh củng cố kiến thức, kĩ năng giải toán. Đồng thời giáo viên dễ dàng phát hiện những ưu điểm, những thiếu sót trong kiến thức, kĩ năng của học sinh để giúp các em phát huy những ưu điểm, khắc phục những thiếu sót. Thông qua dạy học giải toán sẽ giúp học sinh hình thành và phát triển khả năng suy luận, lập luận và trình bày các kết quả theo một trình tự hợp lí làm cơ sở cho quá trình học toán ở các lớp cao hơn. Việc giải toán giúp học sinh luyện được những đức tính và phong cách làm việc của người lao động như ý thức vượt khó, tính cẩn thận, chu đáo, làm việc có kế hoạch, có kiểm tra kết quả cuối cùng. Đồng thời từng bước hình thành và rèn luyện thói quen về khả năng suy nghĩ, tính toán độc lập, khắc phục được tính rập khuôn, xây dựng được tính ham thích, tìm tòi, sáng tạo, phát triển tư duy,... giải toán còn là hoạt động gồm những thao tác như xác lập được mối quan hệ giữa các dữ liệu, giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện của bài toán. Chọn được phép tính thích hợp, trả lời đúng câu hỏi của bài toán. Thực tế qua việc trực tiếp giảng dạy ở lớp 3, tôi nhận thấy học sinh khi giải các bài toán có lời văn thường chậm hơn so với các dạng bài tập khác. Các em
- thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính đúng nhưng không tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải chưa phù hợp. Một số em mới chỉ đọc đề toán chứ chưa hiểu được đề. Khi trả lời câu hỏi của cô giáo nêu: Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu tìm gì? thì còn lúng túng hoặc trả lời chưa chính xác. Chính vì thế, bản thân tôi đã trăn trở tìm hiểu thực trạng về giải các bài toán có lời văn, tìm tòi nghiên cứu giải pháp, biện pháp thực hiện để nâng cao chất lượng dạy học. Xin được đưa ra “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 thực hiện tốt giải toán có lời văn theo bộ sách Cánh diều” để đồng nghiệp cùng tham khảo và chia sẻ kinh nghiệm. 2. Mục tiêu của đề tài, sáng kiến. Nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh đồng thời rèn kĩ năng giải toán có lời văn tốt hơn. 3. Thời gian, đối tượng, phạm vi nghiên cứu. Năm học 2023 – 2024 Học sinh lớp: 3D Nghiên cứu tài liệu có liên quan đến sáng kiến; Nghiên cứu chương trình toán lớp 3 nói chung và toán có lời văn lớp 3 nói riêng; Nghiên cứu cách dạy của giáo viên cùng khối.
- 3 NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Hiện trạng vấn đề 1.1. Về phía Giáo viên Việc dạy học toán cho học sinh còn lệ thuộc nhiều vào sách giáo khoa và sách giáo viên. Chủ yếu cung cấp đủ số lượng các bài tập trong một tiết dạy, chưa chú trọng đi sâu vào việc phân tích, tổng hợp, tìm tòi cách giải bài toán, cách hướng dẫn học sinh từng bước giải. Còn hạn chế trong việc dẫn dắt học sinh quá trình tìm cái ẩn, mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết, giữa các đại lượng,... để từ đó học sinh tìm được đường lối chung giải bài toán, tìm câu trả lời, thực hiện phép tính tương ứng. Một số giáo viên còn vận dụng chưa linh hoạt các phương pháp dạy học truyền thống nên việc chiếm lĩnh tri thức của học sinh chưa tích cực. 1.2. Về phía Học sinh Việc tiếp thu kiến thức của học sinh một số em còn lệ thuộc vào người khác, ít động não suy nghĩ. Chính vì vậy mà các em nắm kiến thức không vững, không sâu, không hiểu được bản chất của vấn đề chỉ biết rập khuôn theo mẫu một cách máy móc, nên có những bài toán chỉ khác mẫu đi một chút hoặc thay dự kiện là học sinh không làm được, nếu làm được thì kết quả cũng không chính xác. Mặt khác ngôn ngữ của các em còn hạn chế nên việc tìm lời giải cho bài toán còn gặp nhiều khó khăn; Qua việc kiểm tra bài và trao đổi trực tiếp với học sinh, tôi phát hiện được một số học sinh còn mắc phải các lỗi sau trong giải toán: Có em đã biết giải đúng (đúng lời giải và phép tính tương ứng). Song có em chỉ thực hiện được phép tính đúng mà lời giải chưa phù hợp hay viết lời giải còn lủng củng chưa rõ ràng. Điều tra thực trạng tại lớp tôi cho thấy kết quả như sau:
- HS có HS có lời lời HS có giải và giải và phép phép phép tính tính Tổng tính đúng đúng, HS chưa giải được bài toán số đúng, mà lời trình trình giải bày bày chưa chưa khoa hợp lý khoa học học SL TL SL TL SL TL SL TL 40 15 em 37,5% 10 em 25% 11 em 27,5 4 em 10% em % Như vậy việc dạy và học giải toán có lời văn ở lớp 3 có vai trò cực kỳ quan trọng, đặc biệt là giải toán có đến 2 phép tính (vì đây là dạng toán các em mới tiếp cận). Vì thế để giúp học sinh biết giải toán đúng, giáo viên phải đặt ra yêu cầu cho học sinh đó là biết tìm hiểu đề toán, biết tóm tắt bài toán, biết tìm cách giải và hơn nữa là biết tìm lời giải phù hợp và cuối cùng là biết tự đánh giá kết quả. 2. Các giải pháp tổ chức thực hiện Để giúp học sinh lớp 3 biết giải toán có lời văn trong sách giáo khoa toán 3 và các bài toán phát triển dựa trên các bài toán đã cho để vận dụng giải các bài toán trong thực tế đời sống, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp như sau: Giải pháp 1: Phân loại đối tượng học sinh để nâng cao chất lượng dạy học Trong một lớp học thì lực học của học sinh thường không đồng đều nên việc giáo viên nắm bắt được lực học của từng học sinh trong lớp là nhiệm vụ đầu tiên và cũng hết sức quan trọng. Từ đó, giáo viên có những giải pháp giúp các em đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học. Chính vì vậy, qua theo dõi thực tế lực học của lớp, tôi chia học sinh thành các nhóm sau:
- 5 + Nhóm 1: Học sinh bị rỗng kiến thức ở lớp dưới: 6 em + Nhóm 2: Học sinh thiếu điều kiện học tập do hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ không quan tâm: 6 em. + Nhóm 3: Học sinh không chú ý học, nghịch ngợm: 8 em + Nhóm 4: Học sinh tiếp thu bài tốt, tích cực học bài: 20 em. Sau khi phân loại được đối tượng học sinh, tôi giải thích để các em hiểu và biết các em còn chưa đạt chuẩn phần kiến thức nào. Sau đó, tôi lập ngay kế hoạch kèm cặp giúp đỡ và bồi dưỡng học sinh theo từng nhóm. + Nhóm 1: Đây là nhóm học sinh tôi quan tâm nhiều nhất. Tôi vừa phải giúp các em nhớ lại kiến thức cũ, vừa phải đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng trong từng tiết học. Nên tôi liên tục kiểm tra các phép tính cộng, trừ, nhân, chia bằng nhiều hình thức khác nhau: đọc thuộc lòng, phiếu bài tập, chấm bài thường xuyên,… + Nhóm 2: Với đối tượng học sinh này, tôi sẽ tìm hiểu điều kiện hoàn cảnh của học sinh đó; vận động phụ huynh và học sinh trong lớp giúp đỡ về: sách vở, đồ dùng…. Ngoài ra, tôi luôn lắng nghe tâm sự để chia sẻ động viên các em kịp thời. + Nhóm 3: Trường hợp học sinh nghịch ngợm, không chú ý trong giờ học, tôi xếp cho các học sinh đó ngồi ngay bàn đầu và xếp em học sinh ngoan, học giỏi bên cạnh để giúp đỡ, kèm cặp. Trong giờ học, tôi thường xuyên quan tâm đến học sinh đó bằng cách gọi trả lời các câu hỏi, khen ngợi và động viên khích lệ các em khi có sự tiến bộ… + Nhóm 4: Là nhóm học sinh ngoan, tiếp thu bài tốt, ngoài những bài tập yêu cầu cần đạt chuẩn, tôi luôn chuẩn bị thêm một số bài tập nâng cao hơn để giúp các em phát huy khả năng của mình. Ngoài ra, với học sinh nhóm 1, 2, 3 tôi luôn đánh giá các em theo hướng động viên, khuyến khích còn nhóm 4 tôi đánh giá theo sự sáng tạo. Bên cạnh đó, trong thời gian dạy buổi 2, tôi dành nhiều thời gian để ôn tập củng cố lại các bảng nhân, chia, cộng, trừ với nhiều hình thức: đọc đồng thanh từng bảng nhân, chia; bằng cách nối tiếp, cá nhân, thi đọc thuộc lòng, hỏi vấn đáp nhanh các
- phép tính cộng, trừ trong bảng đã học ở lớp 2, giải các bài toán có lời văn 1 phép tính đơn giản… với mục đích giúp các em nhớ lại các dạng bài đã học. Sau thời gian được ôn tập và có hệ thống, học sinh lớp tôi có nhiều chuyển biến tích cực trong học tập: đi học chuyên cần, tích cực tự giác học bài và nắm vững được các dạng toán có lời văn đã học. Đó là cơ sở để các em thực hiện tốt các dạng giải toán cớ lời văn trong chương trình học lớp 3. Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh nắm chắc cách giải các bài toán đơn. Các bài toán đơn học sinh được học bao gồm các bài toán giải bằng một trong các phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Đây là các bài toán các em được học trong chương trình môn Toán của các lớp 1, 2 và nửa đầu học kì 1 ở lớp 3. Ngoài ra, các em còn được học khi giải các bài toán liên quan đến tính chu vi, diện tích của hình chữ nhật, hình vuông. Các bài toán đơn mà học sinh đã học đều là các bài toán thuộc các dạng toán điển hình. Khi dạy học Toán có nội dung chứa bài toán có lời văn mà học sinh đã được học ở các lớp 1, lớp 2, tôi luôn hướng dẫn các em tìm ra mối quan hệ giữa các dữ kiện đã cho và yêu cầu cần tìm để các em nhớ lại xem bài toán đó thuộc dạng toán nào đã học, để giải được bài toán đó thì cần sử dụng phép tính nào, có những cách đặt câu lời giải cho phép tính đó như thế nào,... Ở lớp 3, học sinh được ôn lại một số dạng toán đơn đã học như bài toán về nhiều hơn, bài toán về ít hơn, bài toán về tìm số hạng trong một tổng, bài toán về gộp hai số; bài toán về so sánh hai số hơn kém nhau bao nhiêu đơn vị. Đặc biệt, ở lớp 3, khi các em được học bảng nhân 6, bảng nhân 7, bảng nhân 8, bảng nhân 9, các bảng chia 6, bảng chia 7, bảng chia 8, bảng chia 9 thì các em đều được giải các bài toán đơn về gộp các nhóm bằng nhau, chia đều, chia thành các nhóm bằng nhau. Các dạng toán này còn được củng cố khi học về nhân số có 2; 3; 4; 5 chữ số với số có 1 chữ số và chia số có 2; 3; 4; 5 chữ số cho số có 1 chữ số. Vì vậy, khi gặp các bài toán này, tôi đã vận dụng những hiểu biết đã có của học sinh để các em tự tìm ra dạng toán và cách giải bài toán. Chính từ việc gợi ý của giáo viên để cùng cố, khắc sâu dạng toán mà các em luôn có tâm thế phải suy nghĩ phải tìm tòi, phải đưa ra được cách giải cho bài toán, từ đó các em sẽ nhớ lâu dạng toán
- 7 đã học. Việc dạy học bằng phương pháp gợi mở như trên, tôi đã giúp học sinh được rèn luyện, củng cố kiến thức đồng thời cũng đã giúp các em lấy việc giải các bài toán có lời văn làm phương tiện để phát triển tư duy. Còn khi dạy các dạng toán đơn mới ở lớp 3 như dạng toán về gấp một số lên nhiều lần, so sánh hai số gấp hoặc kém nhau bao nhiêu lần, giảm đi một số lần, tôi đều hình thành kiến thức mới cho các em từ những kiến thức đã học. Chẳng hạn như khi dạy bài "Gấp một số lên nhiều lần", tôi đã hình thành quy tắc từ kiến thức đã được học. Học sinh tự vẽ đoạn thẳng AB dài 2cm, tìm cách vẽ đoạn thẳng CD dài gấp 3 lần đoạn thẳng AB, tìm cách tính độ dài của đoạn thẳng CD. Từ những việc làm trên của học sinh, chính các em đã tự tìm ra cách gấp 2cm lên 3 lần, tự lấy được ví dụ về gấp một số nào đó lên một số lần rồi tìm ra quy tắc gấp một số lên nhiều lần. Sau mỗi dạng toán mà học sinh mới được học, tôi đều cho học sinh luyện tập củng cố kiến thức qua các bài luyện tập trong sách giáo khoa và trong các tiết dạy ở buổi hai. Ngoài ra, tôi còn cho học sinh củng cố mỗi dạng toán bằng những bài toán ngược để các em tránh bị nhầm lẫn. Giải pháp 3: Trang bị và áp dụng quy trình cho các dạng bài tập 1.1 Quy trình dạy học toán có lời văn Trên cơ sở nắm một cách chắc chắn các đối tượng học sinh lớp mình, nắm được cấu trúc chương trình các bài toán có lời văn tôi lựa chọn hình thức, phương pháp dạy học cho phù hợp. Quy trình dạy học giải toán có lời văn chia ra làm các bước sau: Bước 1: Đọc kĩ đề toán Là một công việc có ý nghĩa hết sức quan trọng, các em có đọc kĩ đề mới nắm bắt được các dữ kiện của bài toán, nếu đọc qua loa sẽ hiểu nhầm, hiểu sai về mối quan hệ giữa các dữ kiện của bài toán và gây khó khăn cho bước tiếp theo. Gạch dưới một số thuật ngữ toán quan trọng có trong đề bài. Chẳng hạn: "kém 2 lần”, “ hơn 2 đơn vị”, “ gấp 3 lần”, “ bằng một phần ba”...
- Ở bước này tôi luôn gọi những em giải toán chưa tốt đọc đề bài nhiều lần và nhấn mạnh ở những dữ kiện của bài toán và giúp cho học sinh hiểu một số thuật ngữ của bài toán. Bước 2: Tóm tắt đề toán Đây là dạng diễn đạt ngắn gọn đề toán, tóm tắt đúng sẽ giúp cho học sinh có cách giải dễ dàng hơn, thuận lợi hơn. Nhìn vào tóm tắt là định ra các bước giải bài toán. Có 4 cách tóm tắt đề toán: - Cách 1: Dưới dạng câu ngắn - Cách 2: Dưới dạng sơ đồ đoạn thẳng - Cách 3: Dưới dạng hình vẽ - Cách 4: Tóm tắt bằng kí hiệu Tuỳ vào dạng toán mà tôi hướng dẫn cho các em cách tóm tắt phù hợp .Khi tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng hoặc hình vẽ cần phải đảm bảo tính cân đối, chính xác. Ở những dạng toán học sinh mới gặp lần đầu, giáo viên có thể làm mẫu tóm tắt. Sau đó nên gợi ý, hướng dẫn học sinh tự mình tóm tắt đề toán thì tốt hơn. Sau khi tóm tắt xong giáo viên cho học sinh nhắc lại ngắn gọn đề toán ( bằng tóm tắt) mà không cần nhắc lại nguyên văn. Bước 3: Phân tích đề toán để tìm cách giải Bước phân tích đề toán để tìm ra cách giải là bước quan trọng nhất trong quá trình giải một bài toán của học sinh, đồng thời cũng là bước khó khăn nhất đối với các em.Vì vậy khi giải một bài toán tôi thường xuyên rèn luyện, hướng dẫn các em phân tích từng bước một cách rõ ràng, chính xác thông qua hệ thống câu hỏi, câu trả lời ngắn gọn, dễ hiểu. dần dần các em sẽ quen dần và sẽ biết phân tích, lập sơ đồ phân tích bài toán trong khi giải một cách đúng đắn và nhanh chóng. Ví dụ 1: Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6 lít dầu. Hỏi cả hai thùng đựng được bao nhiêu lít dầu? Ta có thể dùng phương pháp phân tích để hướng dẫn học sinh suy luận như sau:
- 9 H: Bài toán hỏi gì? ( Cả hai thùng đựng được bao nhiêu lít dầu?) H: Muốn biết cả hai thùng đựng được bao nhiêu lít dầu ta làm như thế nào?( Lấy số lít dầu thùng thứ nhất cộng số lít dầu thùng thứ hai) H: Số lít dầu thùng thứ nhất biết chưa? ( Biết rồi ) H: Số lít dầu thùng thứ hai biết chưa? ( Chưa biết). Muốn tìm số lít dầu thùng thứ hai ta làm thế nào? (Lấy số lít dầu thùng thứ nhất cộng 6) Có thể minh họa bằng sơ đồ sau: Bước 1 Bước 2 Khi phân tích một bài toán cần hướng dẫn cho học sinh có thói quen tự đặt câu hỏi, chẳng hạn: + Bài toán cho gì? + Bài toán hỏi gì? + Muốn trả lời câu hỏi của bài toán phải biết gì? Phải thực hiện những phép tính gì? Từ những dữ kiện đã cho có thể biết được gì? Muốn biết thì phải làm phép tính gì? Làm phép tính đó có cần thiết cho việc trả lời câu hỏi của bài toán không?... Khuyến khích hướng dẫn học sinh biết nhận xét, tìm cách giải bài toán bằng nhiều phương pháp khác nhau, đồng thời biết chọn cách giải hay nhất, đơn giản nhất. Điều đó có tác dụng rất lớn trong việc phát huy tính sáng tạo, rèn luyện tư duy linh hoạt, phát triển trí thông minh. Đồng thời nó đem lại niềm hứng thú cho học sinh trong khi học toán. Bước 4: Tổng hợp và trình bày bài giải Sau khi học sinh đã tìm được cách giải bài toán bằng phương pháp phân tích, lập sơ đồ giải toán,thì việc trình bày bài giải không phải là bước khó khăn
- lắm đối với các em.Tuy vậy cũng cần hướng dẫn cho các em biết viết lời giải và trình bày bài giải một cách khoa học rõ ràng, chính xác và đầy đủ theo phương pháp tổng hợp, ngược với phương pháp phân tích để tìm lời giải. Chẳng hạn, đối với bài toán ở ví dụ 1, từ sơ đồ này ta có thể đi ngược từ dưới lên để trình bày bài giải như sau: Bài giải Số lít dầu ở thùng thứ hai là: 18 + 6 = 24 (l) Số lít dầu cả hai thùng là: 18 + 24 = 42 (l) Đáp số: 42 lít dầu Bước 5: Kiểm tra và thử lại các kết quả Việc giúp cho học sinh có thói quen tự kiểm tra lại kết quả của bài toán đã tìm ra là một việc rất quan trọng, vì nó giáo dục các em đức tính cẩn thận, chu đáo, ý thức trách nhiệm với công việc mình làm. Có thể dùng các hình thức kiểm tra sau: - Xét tính hợp lí của đáp số - Trong trường hợp bài toán có nhiều cách giải mà tất cả các cách giải đều dẫn tới cùng một đáp số thì đáp số đó là đúng. - Thử lại đáp số dựa vào các mối quan hệ giữa các số đã cho và các số phải tìm bằng cách lập bài toán ngược lại bài toán đã giải, coi đáp số tìm được là số đã biết và một trong những số đã cho là chưa biết. Nếu tìm thấy đáp số của bài toán ngược này đúng bằng số đã cho coi là chưa biết ấy thì bài toán đã được giải đúng. Ví dụ: Xét tính hợp lí của bài toán trên là: Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng 24 lít dầu.Vậy số lít dầu ở thùng thứ hai hơn thùng thứ nhất là: 24 – 18 = 6 (l) Cả hai thùng dầu đựng 42 lít mà thùng thứ hai có 24 lít , vậy thùng thứ nhất đựng số lít dầu là: 42 – 24 = 18 (l) Vậy bài toán giải đúng
- 11 1.2. Vận dụng quy trình chung để giải các bài toán ở mỗi dạng: Để giúp học sinh biết vận dụng quy trình giải toán có lời văn ở mỗi dạng trong SGK toán 3. Tôi chọn một số ví dụ điển hình cho dạng đang đề cập tới: Dạng 1: Bài toán giải bằng hai phép tính Ví dụ 1: (Bài 2, trang 85 sách Cánh Diều tập 1) Bài toán: Anh sưu tập được 35 vỏ ốc, em sưu tập được ít hơn anh 16 vỏ ốc. Hỏi cả hai anh em sưu tập được bao nhiêu vỏ ốc? Giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện trình bày bài giải theo 5 bước (quy trình giải) - Bước 1: Đọc kĩ đề toán - Bước 2: Tóm tắt đề toán (Học sinh đọc kĩ đề toán, phân tích đề toán, tóm tắt (sơ đồ đoạn thẳng) mô tả nội dung bài toán) Tóm tắt Anh có: 35 vỏ ốc Em có: ít hơn anh 16 vỏ ốc Hỏi: 2 anh em có bao nhiêu vỏ ốc - Bước 3: Phân tích đề toán để tìm cách giải Tìm số vỏ ốc của em (Chọn phép tính và thực hiện phép tính đúng: 35 - 16 = 19 (vỏ ốc)) Tìm số vỏ ốc của 2 anh em. (HS chọn phép tính và thực hiện phép tính đúng: 35 + 19 = 54 (vỏ ốc)
- - Bước 4: Tổng hợp và trình bày bài giải Bài giải Em có số vỏ ốc là: 35 - 16 = 19 (vỏ ốc) Số vỏ ốc của cả hai anh em là: 35 + 19 = 54 (vỏ ốc) Đáp số: 54 vỏ ốc Bước 5: Kiểm tra và thử lại các kết quả 35 - 16 = 19; 19 + 16 = 35; 35 - 16 = 19 (đúng) 35 + 19 = 54; 54 - 19 = 35; 35 + 19 = 54 (đúng) Dạng 2: Giải các bài toán có nội dung hình học Để các em nắm vững kiến thức và thành thạo trong việc giải các bài toán liên quan đến yếu tố hình học trong chương trình toán 3 cũng như trong đời sống thực tiễn tôi đưa ra một số bài tập để rèn kĩ năng giải toán cho các em từ đó phát triển tư duy sáng tạo, trí tưởng tượng bước đầu về hình học tạo đào cho học sinh tiếp tục học ở các lớp trên tốt hơn. Ví dụ 1: (Bài 2a, trang 111 sách Cánh Diều tập 1) Tính chu vi hình chữ nhật có: Chiều dài: 12 m, chiều rộng: 8m Để giúp học sinh giải các bài toán theo 5 bước tôi gợi ý theo các yếu tố sau: - Bước 1: Đọc kĩ đề toán - Bước 2: Tóm tắt đề toán (Học sinh đọc kĩ đề bài để nắm dữ kiện bài toán đã cho)
- 13 Chiều dài: 12m; chiều rộng: 8m Cái phải tìm: Chu vi - Bước 3: Phân tích đề toán để tìm cách giải Áp dụng công thức tính chu vi : Học sinh thực hiện phép tính: (12 + 8) × 2 = 40(m) - Bước 4: Tổng hợp và trình bày bài giải Bài giải Chu vi hình chữ nhật là (12 + 8) × 2 = 40 (m) Đáp số: 40m - Bước 5: Kiểm tra và thử lại các kết quả Thử lại: (12 + 8) × 2 = 40; 40 : 2 = 20; 20 × 2 = 40 (đúng) Học sinh tự kiểm tra việc tính toán của mình Dạng 3: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị Để học sinh có kĩ năng giải các bài toán này được thành thạo tôi đưa ra một số bài tập để rèn kĩ năng giải toán cho các em được tốt hơn. Ví dụ : (Bài 3, trang 6 sách Cánh Diều tập 2) Bài toán: Mỗi quả dứa ép được 200ml nước. Hỏi chị Lan ép 8 quả dứa như thế thì được bao nhiêu mi-li-lít nước dứa?
- Mỗi quả dứa ép được 200ml nước. Hỏi chị Lan ép 8 quả dứa như thế thì được bao nhiêu mi-li-lít nước dứa? - Bước 1: Đọc kĩ đề toán - Bước 2: Tóm tắt đề toán Tóm tắt 1 quả dứa ép : 200ml nước 8 quả dứa ép: ? ml nước - Bước 3: Phân tích đề toán để tìm cách giải - Bài toán cho biết gi? ( mỗi quả dứa ép được 200ml nước) Bài toán yêu cầu tìm gì? (8 quả dứa ép được bao nhiêu ml nước) - Bước 4: Tổng hợp và trình bày bài giải Bài giải Số ml nước ép trong 8 quả dứa là: 200 x 8 = 1600 (ml) Đáp số: 1600 ml nước ép Bước 5: Kiểm tra và thử lại các kết quả Thử lại: 200 x 8 = 1600; 1600 : 8 = 200; 200 x 8 = 1600 (ml) Từ bài toán trên tôi có thể thay đổi dự kiện để biến đổi thành bài toán mới Bài toán mới: Mỗi quả lựu ép được 100ml nước. Hỏi chị Lan ép 8 quả lựu như thế thì được bao nhiêu mi-li-lít nước lựu? Giải pháp 4 : Ứng dụng việc giải các bài tập trong sách giáo khoa Toán 3 vào thực tiễn đời sống. Để rèn luyện kĩ năng giải toán cho học sinh tôi đã lựa chọn một số bài tập mang tính điển hình cho mỗi dạng toán có lời văn trong SGK Toán 3 cũng như bài toán trong thực tiễn đời sống nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các em trong cách học môn Toán khoa học hơn, đặc biệt là với những học sinh có năng khiếu học toán là cơ hội để bộc lộ tài năng của mình. Dạng 1: Các bài toán giải bằng hai phép tính Ví dụ 1: (Bài 4, trang 82 sách Cánh Diều tập 2)
- 15 Có 1 690 thùng hàng cần chuyển đến các siêu thị. Người ta đã vận chuyển được 4 chuyển, mỗi chuyển 218 thùng hàng. Hỏi còn bao nhiêu thùng hàng chưa được chuyển đi? Đây là bài toán hợp có yếu tố số học, học sinh trình bày 2 cách Cách 1: Bài giải: Số thùng hàng đã vận chuyển được 4 chuyến là: 218 x 4 = 872 (thùng) Số thùng hàng chưa được chuyển đi là: 1 690 - 872 = 818 (thùng) Đáp số: 818 thùng Cách 2: Bài giải: Số thùng hàng chưa được chuyển đi là : 1 690 - (218 x 4) = 818 (thùng) Đáp số: 818 thùng Dựa vào bài toán trên tôi có thể phát triển thành các bài toán mới bằng cách thay đổi dữ kiện bài toán. Bài toán mới: Nhân ngày 20/11, hai chị em Hoà và Cúc rủ nhau hái hoa để tặng cô giáo. Hoà hái được 18 bông hoa. Cúc hai được số hoa bằng số hoa của Hoà. Hỏi hai bạn hái được bao nhiêu hoa?
- Tương tự học sinh giải bài toán này được thực hiện bằng một phép tính chia và một tính cộng (18 : 3 = 6); (18 + 6 = 24) đơn vị được ghi sau kết quả phép tính là “bông”. Dạng 2: Giải các bài toán liên quan hình học Ví dụ 1: (Bài 3a, trang 112 sách Cánh Diều tập 1) Tính chu vi tấm lưới thép hình chữ nhật có chiều dài là 10m, chiều rộng là 2 m. HS vận dụng giải các bài toán theo 5 bước như trên - Bước 1: Đọc kĩ đề toán - Bước 2: Tóm tắt đề toán Học sinh đọc kĩ đề toán, phân tích đề toán, tóm tắt (sơ đồ đoạn thẳng) mô tả nội dung bài toán. - Bước 3: Phân tích đề toán để tìm cách giải - Bước 4: Tổng hợp và trình bày bài giải Bài giải Chu vi tấm lưới hình chữ nhật (10 + 2) × 2 = 24 (m) Đáp số: 24 m Bước 5: Kiểm tra và thử lại các kết quả Bài toán mới: Mảnh vườn trồng ngô nhà em có chiều dài bằng 450m, chiều rộng bằng chiều dài. Tính chu vi mảnh vườn đó. Dạng 3: Các bài toán liên quan đến rút về đơn vị
- 17 Bài toán: Có 24 viên thuốc chứa đều trong 4 vỉ. Hỏi 3 vỉ thuốc đó có bao nhiêu viên thuốc? - Bước 1: Đọc kĩ đề toán - Bước 2: Tóm tắt đề toán - Bước 3: Phân tích đề toán để tìm cách giải Học sinh đọc kĩ bài toán, xác định được đây là dạng toán liên quan đến rút về đơn vị. - Học sinh chọn phép tính và thực hiện phép tính: 24 : 4 = 6 (viên) 3 vỉ như thế thì có bao nhiêu viên? (HS thực hiện phép tính: 3 6 = 18 (viên) - Bước 4: Tổng hợp và trình bày bài giải Bài giải Số viên thuốc trong mỗi vỉ là: 24 : 4 = 6 (viên) 3 vỉ thuốc có số viên là: 3 6 = 18 (viên) Đáp số: 18 (viên) Bước 5: Kiểm tra và thử lại các kết quả Thử lại 24 : 4 = 6; 6 4 = 24; 24 : 4 = 6 (đúng) 3 6 = 18; 18 : 6 = 3; 3 6 = 18 (đúng) Bài toán mới : Trong vườn có 450 cây cam được trồng thành 9 hàng. Hỏi 7 hàng đó có bao nhiêu cây cam? Học sinh tự giải: Bài giải Số cây cam trong mỗi hàng là: 450 : 9 = 50 (cây) Số cây cam trong 7 hàng là: 50 × 7 = 350 (cây) Đáp số: 350 cây cam Như vậy, việc rèn luyện kĩ năng giải toán và cách trình bày bài giải các bài toán trong SGK và các bài toán trong thực tiễn đời sống như trên đã giúp cho học sinh huy động những kiến thức đã học vào thực hành giải toán, bằng các
- phương pháp giải, bằng nhiều cách giải mà chọn cho mình con đường ngắn nhất, hay nhất để đi đến kết quả của bài toán. Từ đó tạo điều kiện cho các em biết vận dụng các kiến thức kĩ năng, kĩ xảo để giải toán. Ví dụ như các em biết tính được chu vi một số hình, tính được một số nền nhà, sân, vườn, bảng lớp, tính được số gạch cần lát nền nhà ở… đồng thời tạo cơ hội cho học sinh có năng khiếu học toán bộc lộ được khả năng của mình. Giải pháp 5: Tuyên dương khen thưởng học sinh Như chúng ta đã biết, tâm lí học sinh Tiểu học rất thích được khen ngợi, động viên, khích lệ. Do đó trong quá trình dạy học tôi luôn tránh chê bai học sinh chỉ nhắc nhở nhẹ nhàng khi các em làm bài chưa đúng, tạo cho các em sự gần gũi, tinh thần tự tin trong học tập và không khí học tập thoải mái. Thường xuyên động viên khuyến khích các em đặc biệt là những học sinh còn nhút nhát, học sinh chưa đạt chuẩn để các em mạnh dạn hơn trong học tập bằng những lời nói nhẹ nhàng như “Bạn nào xung phong lên bảng làm bài? Nếu sai cả lớp chúng ta cùng sửa và rút kinh nghiệm”. …Vì vậy mà học sinh lớp tôi đã mạnh dạn xung phong làm bài. Các em còn mạnh dạn hỏi cô giáo những bài chưa hiểu ở trên lớp qua điện thoại khi học ở nhà. Ngoài ra, tôi thường tổ chức cho các em các trò chơi “Ai nhanh ai đúng”, Thi tiếp sức … giúp học sinh ôn tập lại kiến thức sau từng bài học bằng cách hỏi đáp. Vào các tiết hoạt động tập thể tôi thường tổ chức cho các em trò chơi “Vườn hoa kiến thức” giúp các em ôn tập củng cố tất cả các môn học trong tuần cũng như các dạng bài trên. Thường xuyên quan sát, khích lệ các em bằng những lời khen, bằng những tràng pháo tay của các bạn trong lớp. Trong quá trình dạy học, cho các em học sinh thi đua làm bài nhanh và chính xác. Nhất là những em chưa đạt chuẩn mà có sự cố gắng giáo viên khen thưởng động viên cổ vũ tinh thần học tập của các em bằng những món quà nhỏ như cái bút, cái thước, .... các em rất phấn khởi từ đó tạo cho các em không còn tư tưởng ngại học, ngại làm bài mà trở nên yêu thích môn học hơn. Sau một thời gian, tôi thấy các em học sinh chưa đạt chuẩn có ý thức phấn đấu vươn lên trong học tập rất tốt. Có những em đã từ học sinh chưa đạt chuẩn
- 19 lên học sinh trung bình, học sinh khá. Chính vì vậy, số lượng học sinh chưa đạt chuẩn trong lớp tôi giảm hẳn. Đặc biệt, đến giờ học Toán cả lớp đều hứng thú, say sưa học bài. 3. Kết quả sau khi áp dụng giải pháp sáng kiến tại đơn vị: Để kiểm nghiệm tính khả thi của các biện pháp rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn đã nêu trên, tôi đã tiến hành bằng các tiết dạy ở lớp 3D. Sau một thời gian sử dụng các biện pháp trên vào dạy học, tôi ra đề kiểm tra khảo sát chất lượng, kết quả đạt như sau: HS có HS có lời giải lời giải HS có và và phép phép phép tính tính Tổng tính đúng đúng, HS chưa giải được bài toán số đúng, mà lời trình trình giải bày bày chưa chưa khoa hợp lý khoa học học SL TL SL TL SL TL SL TL 24 em 22 em 55% 12 em 30% 6 em 15% 0 0 Tôi nhận thấy: Chất lượng học sinh giải toán có lời văn lớp tôi dạy thực nghiệm được nâng lên rõ rệt. Nội dung kiến thức các bài đáp ứng được mục tiêu của chương trình, nhất là đáp ứng được sự đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng. Các em đã tự tin hơn trong quá trình giải toán, nắm được các dạng toán cơ bản, cách giải từng dạng bài và biết giải một số bài dạng tổng hợp nâng cao. Giờ học toán các em sôi nổi hơn, thú vị hơn. Có nhiều em đã biết vận dụng linh hoạt những kiến thức đã học vào giải toán trong thực tế. Các em đã tìm ra nhiều cách giải đi đến đáp số, luôn tự tin, chủ động, tích cực tìm hiểu
- và khám phá kiến thức, tạo đà để các em học tốt môn toán cho những năm tiếp theo. 4. Hiệu quả của sáng kiến. 4.1 Hiệu quả kinh tế Mặc dù hiệu quả kinh tế trực tiếp của sáng kiến rất khó đánh giá định lượng cụ thể, tuy nhiên có thể chỉ ra một số lợi ích kinh tế trực tiếp như sau: - Giảm thiểu việc mua và phụ thuộc vào nguồn tài liệu bài tập bên ngoài cho cả giáo viên và học sinh. - Giảm thiểu thời gian trên lớp của giáo viên và học sinh. Bên cạnh đó, là những hiệu quả gián tiếp lâu dài về mặt kinh tế như nâng cao hiệu suất công việc của giáo viên, giúp học sinh có hứng thú hơn với môn học và tự biết vận dụng linh hoạt những kiến thức đã học vào giải toán trong thực tế. 4.2 Hiệu quả về mặt xã hội Trực tiếp nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh. Giúp học sinh tiếp cận các kiến thức mới mẻ, có phương pháp học tập đúng đắn. Giúp giáo viên bổ sung và nâng cao kiến thức chuyên môn cũng như hiệu quả giảng dạy.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm sử dụng đồ dùng, đồ chơi hấp dẫn cho trẻ 5-6 tuổi làm quen với toán
17 p | 1805 | 338
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp quản lý hồ sơ công tác chăm sóc bán trú trong trường mầm non Tuổi Hoa
16 p | 25 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ mầm non
11 p | 28 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ trong trường mầm non
19 p | 50 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi trong trường mầm non Tuổi Hoa - Long Biên - Hà Nội
10 p | 34 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Ứng dụng hướng tiếp cận Reggio Emilia trong trang trí môi trường lớp học tại trường mầm non
15 p | 63 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục luật lệ an toàn giao thông đường bộ cho trẻ Mẫu giáo 4 - 5 tuổi tại trường mầm non Tuổi Hoa
11 p | 41 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp dạy trẻ 5-6 tuổi làm một số đồ dùng đồ chơi sáng tạo từ nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương
19 p | 27 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giúp giáo viên tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non
16 p | 15 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Ứng dụng hướng tiếp cận Reggio Emilia trong trang trí môi trường lớp học tại trường mầm non
15 p | 29 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3-4 tuổi
12 p | 33 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi trong trường mầm non
18 p | 19 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phòng, tránh ngộ độc thực phẩm trong trường mầm non
12 p | 32 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 3-4 tuổi hoạt động làm quen với toán ở trường mầm non
12 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3 - 4 tuổi trong trường mầm non Tuổi Hoa
20 p | 24 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ 3-4 tuổi cách phòng tránh tai nạn thương tích trong trường Mầm non Tuổi Hoa
14 p | 36 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi ở trường mầm non
16 p | 11 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp tạo cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn trong trường mầm non
16 p | 27 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn