intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng phát triển ngôn ngữ qua môn nhận biết

Chia sẻ: Bobietbo | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

37
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là giúp trẻ phát triển vốn từ, nói rõ chữ, rõ ý, hiểu và làm theo lời nói của cô giáo và những người xung quanh. Nhận biết, tập nói chính xác các đặc điểm của đối tượng từ đó nâng cao vốn từ của trẻ. Giúp giáo viên lựa chọn phương pháp, hình thức phát triển ngôn ngữ cho trẻ phù hợp với kiến thức của bài dạy để áp dụng vào thực tế ở địa phương.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng phát triển ngôn ngữ qua môn nhận biết

  1. ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO  TRẺ 24 – 36 THÁNG QUA MÔN NHẬN BIẾT I. PHẦN MỞ ĐẦU: 1. Lí do chọn đề tài:   Trong một lần nói chuyện với lớp cán bộ đào tạo mẫu giáo, Bác Hồ đã   từng  nhắc nhở:  “...làm mẫu giáo tức là thay mẹ  dạy trẻ. Muốn làm thế  thì   trước hết phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ  hay quấy, phải bền bỉ, chịu khó mới   nuôi dạy được các cháu. Dạy trẻ như trồng cây non. Trồng cây non được tốt   thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này cháu trở thành người tốt”.  Xuất phát từ nhận thức  ấy tuân theo lời căn dặn của Người. Hiện nay  trẻ em, những thế hệ mầm non đang rất được quan tâm vì các em là ­ “mầm   nhân tài”, “mầm trí tuệ”  của đất nước. Do đó người giáo viên mầm non  không chỉ chú trọng đến nội dung chăm sóc mà cần chú trọng đến cả phương  pháp dạy học và giáo dục trẻ.                        "Trẻ em như búp trên cành                          Biết ăn biết ngủ biết học hành là ngoan" Con người dù lớn hay nhỏ, muốn xinh tồn cần phải ăn, ngủ và làm việc .  Vì vậy giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc   dân. Nếu làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời thơ ấu nhằm   tạo ra cơ sở quan trọng của con người việt nam mới, người lao động làm chủ  tập thể, phát triển toàn diện nhân cách. Vậy việc phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  là nhiệm vụ  quan trọng hàng đầu  trong suốt quá trình phát triển của trẻ.Việc phát triển ngôn ngữ đối với trẻ 24  ­ 36 tháng, nếu cứ thực hiện theo phương pháp cũ mà trước kia đã thực hiện   thì sẽ  không đưa lại hiệu quả cao, tính chủ  động tích cực sẽ  không phát huy   được khả  năng sáng tạo, đồng thời kết quả  về  mặt trí tuệ  của trẻ  sẽ  thấp,  trẻ sẽ phát triển một cách thụ động.Vì vậy chỉ có đổi mới hình thức tổ chức   thì mới tạo ra được môi trường hoạt động tốt và tạo ra những cơ hội tốt cho  trẻ  phát huy khả  năng sáng tạo một cách toàn diện. Trẻ  mầm non nói chung   và trẻ  nhà trẻ  nói riêng đặc biệt là trẻ  24 ­ 36 tháng tuổi. Nếu cô tạo điều  kiện cho trẻ hoạt động dưới hình thức thông qua hoạt động hàng ngày ở mọi   1
  2. lúc mọi nơi thì việc phát triển ngôn ngữ lời nói cho trẻ  sẽ được kết quả  cao   hơn. Mặt khác phát âm đúng sẽ góp phần bảo vệ sự trong sáng của tiếng việt  và giữ gìn giá trị văn hóa của dân tộc việt nam. Bên cạnh đó trẻ  còn dùng ngôn ngữ    để  thể  hiện tình cảm, khát vọng  mong muốn của mình để người khác hiểu được. Đồng thời ngôn ngữ  còn là   phương tiện giáo dục tình cảm, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ cho trẻ.  Nếu ngôn ngữ  của trẻ  phát triển chậm, sẽ  kìm hãm sự  phát triển toàn diện  của trẻ. Tuy nhiên trong thực tế của lứa tuổi 24 ­ 36 tháng mọi bước đầu biết sử  dụng ngôn ngữ  để  giao tiếp, đặc điểm phát triển ngôn ngữ  còn rất hạn chế  do kinh nghiệm sống của trẻ chưa có nhiều và phạm vi tiếp xúc còn hạn hẹp,  vốn từ của trẻ còn nghèo nàn, nhưng nhu cầu tiếp xúc, giao tiếp và khám phá  thế  giới xung quanh của trẻ  thì rất cao. Vì vậy mà nhu cầu phát triển ngôn  ngữ cho trẻ là rất cần thiết và quan trọng. Bản thân tôi là một giáo viên được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và  giáo dục trẻ. Tôi thấy mình phải có trách nhiệm nhận thức đầy đủ về vị trí và  tầm quan trọng của môn học này. Tôi luôn trăn trở suy nghĩ tìm ra những giải   pháp, biện pháp tối  ưu nhất để  trẻ  được tiếp thu một cách có hiệu quả  đáp   ứng được yêu cầu giáo dục hiện nay,  chính vì vậy tôi chọn đề  tài “ Một số  biện pháp giúp trẻ  24 ­ 36 tháng phát triển ngôn ngữ qua môn nhận biết” để  làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: 2.1. Mục tiêu: Đề tài nghiên cứu các biện pháp giúp trẻ phát triển tốt ngôn ngữ cho trẻ  nhà trẻ độ tuổi 24 – 36 tháng nhằm mục tiêu: * Đối với trẻ: ­ Giúp trẻ  phát triển vốn từ, nói rõ chữ, rõ ý, hiểu và làm theo lời nói  của cô giáo và những người xung quanh. ­  Nhận biết, tập nói chính xác các đặc điểm của đối tượng từ đó nâng  cao vốn từ của trẻ. * Đối với giáo viên: 2
  3. ­ Giúp giáo viên lựa chọn phương pháp, hình thức phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  phù hợp với kiến thức của bài dạy để  áp dụng vào thực tế   ở  địa  phương.. 2.2. Nhiệm vụ của đề tài: ­  Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến việc thực hiện đề tài. ­ Tìm hiểu, khảo sát thực trạng việc sử dụng ngôn ngữ và sự phát triển   ngôn ngữ  của trẻ  qua môn nhận biết  ở  nhóm trẻ  24 – 36 tháng trung tâm   trường mầm non Hồng Thái Tây. ­ Thiết kế và thử nghiệm các biện pháp giúp trẻ phát triển tốt ngôn ngữ  cho trẻ tại nhóm /lớp. ­ Đánh giá, kết luận việc thực hiện đề tài. 3. Đối tượng nghiên cứu:           ­ Đối tượng: Nhóm trẻ  24­ 36 tháng tại Trường mầm non Hồng Thái  Tây – Đông Triều – Quảng Ninh. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:           Đi sâu nghiên cứu mọi  hoạt động của trẻ, đặc biệt là tìm ra biện pháp   tốt nhất phát triển ngôn ngữ  cho trẻ 24 – 36 tháng thông qua môn nhận biết.  Đây là một lứa tuổi đang hình thành và phát triển về  mọi mặt, thì đó là một  vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn, cần có sự điều tra đầu tư về chất xám  và thời gian rất dài. Song vì điều kiện thời gian có hạn, cũng như  trình độ  năng lực, kinh nghiệm trong công tác chưa nhiều.....Do đó trong nội dung đề  tài này tôi chỉ  tập trung đi sâu nghiên cứu khả  năng và phương pháp giúp trẻ  24 – 36 tháng phát triển   ngôn ngữ  tốt nhất thông qua môn nhận biết tại  Trường mầm non  Hồng Thái Tây 5. Phương pháp nghiên cứu:       Trong đề  tài này tôi đã chọn và sử  dụng những phương pháp nghiên cứu  sau:            ­ Phương pháp dùng lời nói. ­ Phương pháp hoạt động với đồ vật. ­ Phương pháp trực quan hành động. ­ Phương pháp dùng hình ảnh minh hoạ. II. PHẦN NỘI DUNG:  3
  4. 1. Cơ sở lý luận:                Theo  điều  23  luật   GDMN  2005 ban  hành  số  38/2005  QH11  ngày   14/6/2005  yêu cầu về nội dung và phương pháp GDMN đã ghi: Phương pháp  giáo dục mầm non chủ yếu là thông qua việc tổ chức các hoạt động vui chơi  để giúp trẻ em phát triển toàn diện,.          Theo chương trình Giáo dục mầm non  (Ban hành kèm theo Thông tư   số : 17/2009/TT­BGDĐT ngày  25  tháng 7  năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo  dục và Đào tạo) cũng đã nêu rõ: Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ  em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu   tố  đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị  cho trẻ  em vào lớp một; hình thành và  phát triển ở trẻ emnhững chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang  tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy  và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các  cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời. * Sinh lý:        Trong sự phát triển về ngôn ngữ của trẻ thì đây là giai đoạn bắt đầu của  ngôn ngữ chủ động. Do vậy, trong quá trình phát triển ngôn ngữ trẻ còn mắc   một số hạn chế sau: + Phát âm chưa chính xác hay ngọng chữ n – l; x – s; dấu ngã – dấu sắc; dấu   hỏi – dấu nặng. + Đồng thời do vài kinh nghiệm còn ít  ỏi nên trẻ  còn nhầm lẫn, khi tri giác  chủ yếu dựa vào những đặc điểm bên ngoài để nói. + Một số đặc điểm nữa là giai đoạn này tư duy trực quan cụ thể là chủ  yếu,  nghĩa là lời nói luôn luôn gắn liền với mọi hành động đồ  vật cụ  thể  thì trẻ  mới hiểu được. * Tâm lý: + Trẻ thích giao tiếp với người xung quanh và có nhu cầu bằng trực quan, cần  giải đáp thắc mắc mà trẻ gặp phải, trẻ thích được người lớn khen, động viên  kịp thời, thích đồ  chơi sặc sỡ  về  màu sắc và có âm thanh và một đặc điểm  nữa là trẻ rất hay bắt chước người lớn.           Trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ nhà trẻ  từ  3 đến 36 tháng,  môn nhận biết là một môn học giúp trẻ  nhận biết và tập nói về  tên gọi và  4
  5. một số đặc điểm nổi bật của các đối tượng gần gũi xung quanh để tăng thêm   vốn từ và mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh. Những kiến thức mà trẻ  nắm được  ở  môn học này là một quá trình quan sát, ghi nhớ, tư  duy, tưởng   tượng. Từ đó thấy được ý nghĩa quan trọng của ngôn ngữ  và thấy rằng việc  phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ qua môn nhận biết là công việc hàng đầu  của giáo dục, giúp trẻ  không chỉ  biết lắng nghe để  thể  hiện suy nghĩ, tình  cảm và ý kiến của mình mà còn chuẩn bị  cho việc làm quen với văn học và  chữ viết ở những lớp học trên.  Hoạt động nhận biết của trẻ  nhà trẻ  là việc dạy trẻ  phát triển ngôn  ngữ  qua việc sử  dụng ngôn ngữ  đối thoại (miệng nói, tai nghe) và việc kết  hợp trực quan minh hoạ bằng hành động, bằng hình ảnh.  2. Thực trạng:  2.1. Điều kiện thực tế: ­ Tống số học sinh trong nhóm/ lớp: 25 cháu.  ­ Môi trường lớp học chưa đảm bảo về  diện tích, ánh sáng và trang  thiết bị dạy và học. ­ Giáo viên: 3cô/ nhóm. ­ Trình độ: Đại học: 01Trung cấp: 02. 2.2. Thực trạng về việc phát triển ngôn ngữ của trẻ tại nhóm lớp: * Về nhận biết tên gọi: ­ Trẻ nhận biết và gọi được tên của đối tượng, song chủ  yếu là do cô   nói trước rồi trẻ bắt chước nói theo, trẻ nói còn ngọng chưa rõ lời vì vậy tên   gọi của đối tượng về cơ bản không chính xác. *Về nhận biết các đặc điểm, công dụng của đối tượng:  ­ Trẻ  có thể  nhận biết được một số  đặc điểm nổi bật của đối tượng,   song trẻ chưa hiểu và nói được hết công dụng của các đặc điểm đó. Đó là cơ  sở của hoạt động làm quen với môi trường xung quanh sau này. ­ Việc phân biệt giữa 2 đối tượng dựa nhiều vào cảm tính, trực quan  đồ vật. Trẻ nhận biết và phân biệt các đối tượng bằng trực quan, chưa có kỹ  năng vì vậy còn  ảnh hưởng bởi sự  tác động của các yếu tố  bên ngoài như:   màu sắc, kích thước, sự phân bố không gian. 5
  6. * Về mở rộng kiến thức: ­ Trẻ  đã nói được một số  đối tượng gần gũi quen thộc song trẻ  chưa   mở rộng được những đối tượng khác ngoài bài dạy. Từ  những đặc điểm trên đây cùng với kinh nghiệm của bản thân tôi  thấy để trẻ 24­ 36 tháng phát triển tốt ngôn ngữ qua hoạt động nhận biết thì   trong mỗi tiết học, mỗi hoạt động cô giáo cần phải khuyến khích trẻ  phát   triển ngôn ngữ bằng hình thức cho trẻ tập nói theo cô nhiều lần, dạy trẻ nói   rõ chữ, rõ ý, không nói ngọng. Bên cạnh đó cô giáo cần nghiên cứu sử  dụng  các đồ dùng trực quan đa dạng (vật thật, đồ chơi, tranh ảnh) bằng các nguyên  vật liệu khác nhau, kích thước khác nhau để  khuyến khích trẻ  hứng thú phát  triển ngôn  ngữ.  Để   một   tiết  học  về  cơ   bản  vẫn  đảm  bảo  về   nội  dung,   phương pháp, thời gian quy định mà vẫn mang hình thức là một giờ chơi.           2.3.  Đánh giá thực trạng nhóm trẻ 24 – 36 tháng trung tâm trường  mầm non Hồng Thái Tây * Thuận lợi:   ­ Trong năm học được sự quan tâm giúp đỡ của Phòng GD, cũng như sự  quan tâm của các cấp chính quyền địa phương trong địa bàn xã, của ban giám  hiệu nhà trường:  ­ Lớp được biên chế  2 giáo viên, các cô có lòng nhiệt tình, yêu nghề,  mến trẻ. Nắm vững phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ  phù hợp với điều  kiện thực tế của địa phương. ­ Độ tuổi của trẻ đến lớp tương đối đồng đều. ­ Đa số trẻ được ăn ngủ  bán trú tại lớp (25/25 cháu). Tỉ lệ  chuyên cần   đạt khoảng 85%. ­ Phòng học đã được xây dựng kiên cố  nên rất thuận lợi cho việc dạy  và học của cô và trẻ. ­ Lớp học có đầy đủ  các trang thiết bị như: điện thắp sáng, quạt điện,   điều hòa, bàn ghế  đồng bộ  phù hợp với lứa tuổi trẻ   ở  nhà trẻ. Đặc biệt là   tranh chủ đề luôn thay đổi để trẻ nhận biết và tập nói để phát triển ngôn ngữ.   Trang trí đầy đủ  các góc theo chủ  đề  để  dạy trẻ  theo chương trình đổi mới   hình thức. 6
  7.     * Khó khăn:   ­ Địa bàn các điểm bản rộng nên  ảnh hưởng nhiều đến việc các bậc  phụ huynh đưa, đón con em đến lớp đúng giờ qui định. ­ Trình  độ  nhận thức của một số  phụ  huynh còn hạn chế  nên  ảnh   hưởng đến việc phối kết hợp chăm sóc giáo dục trẻ  giữa gia đình và nhà   trường. ­ Ngôn ngữ của trẻ phát triển chưa đồng đều, một số trẻ ở đầu độ tuổi   còn nói ngọng, bập bẹ, nhút nhát, khả năng nhận thức chậm. ­ Lứa tuổi của trẻ còn nhỏ, năm đầu tiên ra lớp nên việc sử dụng ngôn  ngữ  qua các hoạt động học tập và giao tiếp với cô còn rất nhiều hạn chế do   bất đồng ngôn ngữ. ­ Đồ  dùng, đồ  chơi phục vụ  cho các hoạt động nhận biệt còn thiếu  thốn, chưa đảm bảo về kích thước, màu sắc và độ rõ nét của đối tượng. ­ Môi trường cho trẻ hoạt động chưa đảm bảo, diện tích lớp học, sân   chơi chưa đảm bảo diện tích tối thiểu cho trẻ hoạt động. Từ những thuận lợi và khó khăn trên tôi đã tiến hành khảo sát đánh giá   đúng khả năng của trẻ để có phương hướng phấn đấu đạt được kết quả cao  trong giảng dạy, ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát đánh giá xếp   loại trẻ ở các câu hỏi, bài tập theo 3 mức độ: 1. Nhận biết gọi tên. 2. Đặc điểm, công dụng. 3. Mở rộng kiến thức liên hệ thực tế. Số  trẻ  thực hiện được yêu cầu của bài tập được xếp loại chung như  sau: Trung          Xếp loại Tốt Khá Không đạt bình Số  Số  Số  Số   Nội dung % % % % trẻ trẻ trẻ trẻ Tên gọi 3 15 6 30 3 15 8 40 Đặc điểm, công dụng 2 10 4 20 5 25 9 45 7
  8. Mở rộng kiến thức 1 5 5 25 4 20 10 50 Qua đó tôi thấy việc phát triển ngôn ngữ  qua môn nhận biết còn rất   kém, với kết quả trên bản thân tôi thấy cần phải tìm ra các biện pháp để giúp  trẻ phát triển tốt ngôn ngữ để từ đó nâng dần kết quả học tập của trẻ. 3. Giải pháp, biện pháp 3.1. Mục tiêu của giải pháp          Nhằm tìm ra biện pháp tốt nhất, đảm bảo kiến thức, kỹ năng, tính vừa   sức cho trẻ. Kế  hoạch của giáo viên phù hợp với đặc điểm của trẻ   ở  lớp   mình, phát huy khả năng của trẻ, mang lại hứng thú cho trẻ khi tham gia hoạt   động.          Trong quá trình tổ chức các hoạt động cho trẻ tại trường mầm non đặc   biệt là hoạt động nhận biết cho trẻ. Muốn thu được kết quả cao thì việc rèn  nề nếp học tập cho trẻ là vô cùng quan trọng. Khi xây dựng các giải pháp này  tôi mong muốn trẻ  của mình ngoan, có nề  nếp trong học tập. Đặc biệt trẻ  không nói chuyện gây mất chật tự hay đi lại tự do trong hoạt động. Từ đó trẻ  tập chunng cao độ vào sự hướng dẫn của giáo viên.    Có thể nói bộ môn nhận biết thúc đẩy sự phát triển trí tuệ của trẻ đó là  khả  năng chú ý, ghi nhớ  có chủ  định, khả  năng tư  duy, biết vận dụng hoạt   động nhận biết vào trong cuộc sống.   Qua một số  tiết học chất lượng trên trẻ  chưa cao, đa số  trẻ  còn thụ  động khi tiếp thu kiến thức, trẻ chưa bộc lộ rõ tính ham hiểu biết,chưa mạnh  dạn tự tin trong các hoạt động, chưa phát huy được tính tích cực ở trẻ vì vậy  chất lượng của môn học chưa cao           Từ nhận định trên tôi đã suy nghĩ và tìm ra các phương pháp, biện pháp  để vận dụng vào các đề tài của môn học nhằm truyền thụ kiến thức cho trẻ  một cách đầy đủ, khoa học, giúp trẻ có vốn kiến thức khi học môn học này. 3. 2.  Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp 8
  9. 3.2.1. Dùng thủ thuật khi dạy trẻ nhận biết tập nói: Môn nhận biết là môn học rất đa dạng và phong phú về ngôn từ, ở môn  học này trẻ rất thích được khám phá để  phát triển ngôn ngữ. Nắm được đặc  điểm này tôi đã áp dụng một số  thủ  thuật để  kích thích trẻ  phát triển ngôn  ngữ như: cho trẻ bắt chước tiếng kêu, động tác của đối tượng để trẻ đoán tên  và ngược lại  hay gợi ý một số đặc điểm nổi bật của đối tượng để  trẻ  đoán  tên. Qua quá trình đó tôi thấy trẻ hào hứng học bài hơn và thích được nói hơn.  Trong khi trẻ hứng thú tôi dần hướng trẻ vào tiết học một cách nhẹ nhàng, tự  nhiên. Trong quá trình dạy trẻ  nhận biết tôi thường sử  dụng những câu hỏi   đơn giản, dễ  hiểu phù hợp với lứa tuổi của trẻ  đặc biệt là với trẻ  nơi tôi  đang công tác.  VD: Khi dạy nhận biết con gà trống: tôi hỏi : Con gà gì gáy ò ó o?.... Sau khi dạy trẻ  nhận biết về  tên gọi tôi tiến hành cho trẻ  phân biệt  giữa các đối tượng. Tôi thường cho trẻ  phân biệt qua tên gọi, một số  đặc  điểm, tiếng kêu nổi bật như: Đặc điểm phân biệt Con chó Con mèo ­ Tên gọi ­ Con chó ­ Con mèo ­ Đặc điểm nổi bật ­ Tai thính ­ Mắt tinh ­ Tiếng kêu ­ Gâu gâu ­ Meo meo ­ Ích lợi ­ Nuôi để trông nhà ­ Nuôi để bắt chuột 9
  10. Với những phương pháp và thủ  thuật trên tôi thấy trẻ  phát triển đựợc   ngôn ngữ và đặc biệt hơn trẻ đã bước đầu tiếp thu được những kiến thức cơ  bản về tiếng việt. 3.2.2. Tăng cường khả năng diễn đạt cho trẻ: Khoảng thời gian này trẻ  đang dần hoàn thiện về  bộ  máy phát âm,   chính vì vậy phải tăng cường khả  năng diễn đạt cho trẻ, tôi luôn luôn chú ý  lắng nghe trẻ  thể  hiện tình cảm suy nghĩ của mình. Tôi đã áp dụng các “bài   tập” để dạy trẻ  nói chuyện lưu loát hơn theo các mức độ  từ  dễ  đến khó, từ  đơn giản đến phức tạp. Và kịp thời chỉnh sửa các lỗi dùng từ  hoặc phong  cách không hợp lý. Mới đầu tôi hướng dẫn trẻ “Tự giới thiệu về mình, về gia   đình mình”... Sau đó tôi dạy trẻ sử dụng các ngôn từ trong giao tiếp hàng ngày  như: cảm  ơn, xin lỗi, chào cô, các bạn, người lớn tuổi..., tập cho trẻ  thành   phản xạ nói tự nhiên. Và từ đó trẻ có thể thể hiện bản thân như: hát, đọc thơ  những bài cô đã dạy.... Qua những cách tập nói đó tôi thấy các cháu mạnh  dạn, tự tin hơn trong giao tiếp giữa cô với trẻ, trẻ với trẻ. 3.2.3.  Làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho tiết học Với tình hình thực tế tại địa phương, đồ  dùng đồ  chơi để phục vụ cho  giảng dạy còn rất thiếu thốn. Vì vậy để  giờ  học đạt được hiệu quả  cao tôi  luôn cố gắng làm những đồ  chơi sinh động, thu hút trẻ  nhưng vẫn đảm bảo   tính thẩm mỹ và mức độ an toàn trong khi sử dụng. Tôi tận dụng những thùng cát tôn, giấy bìa, sách báo cũ để  làm những  đồ dùng trực quan áp dụng vào bài dạy như: VD: Tôi dùng 1 thùng cát tôn xung quanh chiếc hộp này tôi dùng bút  màu vẽ về những đối tượng mà trẻ học như: Quả cam, con rùa, con voi... để  trẻ  nhận biết về  các đối tượng trên và kết hợp phát triển vận động thể  lực  bằng  cách phía trên chiếc  hộp tôi khoét 1 hình tròn, phía dưới góc của hộp  tôi khoét 1 hình vuông để  cho trẻ  chơi trò chơi “ Thi bỏ  bóng”, từ  đó trẻ  có  10
  11. thể nhận biết được hình tròn ở trên là để bỏ bóng, hình vuông ở dưới để nhặt   bóng. Với hoạt động này tôi thấy trẻ rất hứng thú tham gia, vừa cung cấp đầy  đủ vốn từ lại vừa phát triển vận động cho trẻ. Ngoài ra tôi còn làm một số đồ  dùng trực quan để sử dụng trong tiết dạy nữa như: dùng giấy báo, keo để bồi  các loại quả  (quả  cam, táo, lê...) và dùng mầu nước để  lên màu cho các loại   quả để cho trẻ nhận biết. Từ những đồ dùng tự tạo trên tôi thấy các cháu rất   thích thú được hoạt động và phát triển vốn từ. 3.2.4. Xem tranh ảnh, sách báo để phát triển ngôn ngữ Tôi đã đưa giờ  tranh  ảnh lồng ghép vào trong các giờ  hoạt động vui  chơi một cách tự  nhiên, không gây gò bó nhưng đạt hiệu quả  rất cao. Thông  qua xem tranh ảnh, tôi thấy các cháu nói được rất nhiều về sự hiểu biết của   mình như: tên con vật, đặc điểm của chúng.  Ở  đây tôi đã dạy trẻ  phát triển   được ngôn ngữ và phát triển cho trẻ kỹ năng xem sách, lật sách. 3.2.5. Nghiên cứu phương pháp dạy để thu hút trẻ học bài. Để trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt và nắm được bài một cách cơ bản  và đầy đủ  nhất, người giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ  phương pháp của   môn học trước khi lên lớp. ­ Một tiết nhận biết tiến hành phải đầy đủ  3 bước: Quan sát­ luyện  tập­ trò chơi.            ­ Khi quan sát vật, cô không nên nói ra ngay tên gọi, đặc điểm của vật,   mà nên đặt thành câu hỏi ngắn gọn, chính xác để  hướng sự chú ý của trẻ và  phát huy tính chủ  động tích cực của trẻ. Nếu trẻ  không trả  lời được, cô nói  cho trẻ biết và đặt lại câu hỏi để trẻ nhắc lại. ­ Trong bước luyện tập, cô nên đưa ra nhiều dạng câu hỏi đối với trẻ  như: Con gì đây?, Cái gì đây?; Để  làm gì?. Với cùng một nội dung cô có thể  đặt dưới nhiều dạng câu hỏi khác nhau ( Gà mái kêu thế nào?; Con gì kêu cục  ta cục tác). 11
  12. ­ Phần trò chơi có thể cho trẻ chơi trò chơi lựa chọn các con vật, chọn  tranh lô tô hay thi  xem ai nói nhanh... Tõ những phương pháp cơ  bản đó tôi thấy trẻ   tiÕp thu rất tốt  về ngôn ngữ và kiến thức của bài dạy. 3.2.6. D¹y trÎ mäi lóc mäi n¬i. Để trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt qua hoạt động nhận biết thì không  chỉ  dạy trẻ   ở  các giờ  hoạt động chung mà cần phải dạy trẻ  phát triển ngôn  ngữ ở mọi lúc, mọi nơi như trong giờ đón, trả trẻ, hoạt động góc tôi tận dụng  thời gian trò chuyện cùng trẻ để trẻ có cơ hội được giao lưu, thể hiện những   điều mà trẻ  đã được trải nghiệm. Ngoài ra tôi còn phối kết hợp với các bậc  phụ huynh quan tâm hơn đến việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở gia đình như:   dành thời gian trò chuyện với trẻ, cho trẻ được tiếp xúc với các hiện tượng   xung quanh, lắng nghe và trả lời các câu hỏi của trẻ.  Qua việc rèn trẻ   ở  mọi lúc, mọi nơi tôi thấy việc phát triển ngôn ngữ  của trẻ  qua môn nhận biết  rất tốt, trẻ rất hứng thú học bài và trả  lời được   các câu hỏi của cô do đó chất lượng của môn học đã dần được nâng lên. 3.3.  Điều kiện thực hiện giải pháp        Được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường, sự chỉ đạo sát hợp của   hiệu phó chỉ đao chuyên môn cũng như các đồng nghiệp trong tổ cùng xem xét  kiểm tra kỹ lưỡng kế hoạch cho giáo viên trước khi thực hiện. Mang lại hiệu  quả cao khi tổ chức thực hiện trên trẻ.         Với các giải pháp rất sát hợp với thực tế của người giáo viên đứng lớp.  Khi thi thực hiện các giải pháp tôi thấy rất thuận lợi cho bản thân cũng như  cho trẻ của mình. Vì nó gắn liền với thực trạng của trẻ, của cô, khả năng của   bản thân giáo viên cũng như khả năng của trẻ trong độ tuổi 24­ 36 tháng.         Trẻ mầm non hoạt động vui chơi là chủ  đạo, vì vậy khi thực hiện các   giải pháp tôi luôn lồng ghép vào hoạt động vui chơi của trẻ. Tôi có thể  bồi  dưỡng trẻ  trong mọi hoạt động vui chơi khác mà trẻ  không cảm thấy gò bó   12
  13. khó chịu. Có nhiều thời gian tiếp xúc cùng trẻ, bồi dưỡng cho trẻ của mình,  mang lại niềm vui cho trẻ và hiệu quả với yêu cầu người giáo viên đặt ra.         Khi thực hiện các giải pháp này tôi gặp không ít khó khăn bởi đặc điểm   sinh lý của trẻ. Khả  năng tập trung chú ý của trẻ  chỉ  trong một khoảng thời   gian nhất định, trẻ  không thích sự  gò bó theo khuôn phép mà trẻ  thích hoạt   động tự do. Song nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ trong quá trình  thực hiện các giải pháp tôi luôn tạo hứng thú cho trẻ bằng cách tổ chức hoạt  động dưới hình thức trò chơi, thi đua giữa các tổ mang lại thích thú cho trẻ mà   trẻ vẫn giữ tốt nề nếp. 3.4. Kết quả  thu được qua khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn đề   nghiên cứu      Sau khi tiến hành khảo sát và thử nghiệm tại nhóm lớp tôi nhận thấy rằng   các cháu  ở  lớp tôi về  ngôn ngữ  phát triển rất tốt, các cháu nói được nhiều   hơn, mạnh dạn và tự  tin hơn trong giao tiếp, trong các giờ  hoạt động chung   đặc biệt là qua môn nhận biết.      Phần lớn khả năng tập trung chú ý, nhận xét và diễn đạt ý của trẻ tiến bộ  rõ rệt so với đầu năm. Trẻ  mạnh dạn tự  tin hơn rất nhiều khi tham gia học   tập và hoạt động như : Nói đủ câu, nói to, rõ ràng, giảm số trẻ nói ngọng.     Trẻ yêu thích các trò chơi trong các tiết học, các trò chơi ở các góc của lớp   trẻ chơi với bạn đoàn kết không còn tranh dành nhau đồ chơi và đánh bạn như  trước.       Số  trẻ  nói ngọng đã giảm nhiều so với đầu năm. Ngôn ngữ  diễn đạt rõ   ràng mạch lạc hơn cụ thể trong các tiết học phát triển ngôn ngữ và phát triển   nhận thức. III. KẾT LUẬN,  KIẾN NGHỊ: 1.Kết luận:  13
  14.    Việc dạy trẻ nhà trẻ học tốt môn nhận biết sẽ giúp trẻ phát triển ngôn ngữ,   nói rõ ý hiểu và làm theo lời nói của cô giáo và những người xung quanh cảm   thụ và nói chính xác khi trẻ phát âm sao cho  một cách tốt nhất.  Giúp trẻ tiếp   cận gần hơn với bộ môn nhận biết để trẻ  hiểu nội dung cũng như  hoà mình   vào các  sự vật hiện tượng có trong tự nhiên, trong cuộc sống hàng ngày của   trẻ . Chính vì vậy mà ngành học mầm non luôn coi trọng sự nghiệp chăm sóc  giáo dục trẻ là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đặt nền tảng cho sự nghiệp  giáo dục chung. Việc dạy cho trẻ  phát triển ngôn ngữ  qua môn nhận biết   nhằm hình thành cho trẻ những cơ sở đầu tiên cho giáo dục nhân cách và phát  triển toàn diện là nhiệm vụ hết sức khó khăn luôn được đặt hàng đầu. Vì thế  chúng ta phải biết kết hợp tốt và chặt chẽ  giữa nhà trường và gia đình để  chăm sóc nuôi dạy các cháu theo kiến thức khoa học. Có thể  nói rằng những   điều mà trẻ  bắt đầu được tiếp cận  ở  độ  tuổi này đều có ảnh hưởng lâu dài  đến việc hình thành toàn bộ nhân cách của trẻ sau này.          Việc dạy trẻ phát triển ngôn ngữ  qua môn nhận biết  là vô cùng quan   trọng, song công việc thật không đơn giản. Trình độ  nhận thức tiếp thu của  mỗi cháu khác nhau, điều kiện hoàn cảnh sống từng gia đình mỗi cháu không  đồng đều, vì vậy qua quá trình thực hiện tôi nhận thấy muốn thực hiện tốt   việc này, bản thân mỗi giáo viên cần phải:    + Trau dồi thêm kiến thức về phương pháp dạy trẻ nhận biết.    + Cô giáo là người mẫu mực, chịu khó kiên trì tìm tòi học hỏi, luôn có  biện pháp sáng tạo mới trong việc mình cần giáo dục.    + Cô dành thời gian, chú ý nhiều hơn đến những cháu cá biệt để  có  biện pháp giáo dục phù hợp, phải động viên khen thưởng, sửa sai kịp thời cho   trẻ nhằm kích thích trẻ hứng thú    + Cô giáo phải hết lòng yêu thương các cháu, giống như người mẹ thứ  2 của các cháu, cô giáo phải nhạy bén trước những diễn biến của các cháu,   hiểu được tâm sinh lý của các cháu, hiểu được hoàn cảnh sống của từng gia   đình. 14
  15.    + Gia đình thật sự  là mái  ấm tình thương của trẻ, bố  mẹ  phải là tấm   gương sáng để  trẻ  noi theo, phải quan tâm yêu thương trẻ, có trách nhiệm   giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ.    + Tuyên truyền với phụ huynh về công tác nuôi dạy trẻ. Kết hợp với   phụ  huynh ngoài việc nắm bắt đặc điểm của trẻ  còn có tác dụng hướng với  phụ  huynh củng cố lại kiến thức cho trẻ.  Do đó muốn giáo dục trẻ  đạt kết  quả  tốt thì phải có sự  thống nhất phương pháp giáo dục của 2 cô giáo trong   lớp, cũng như phải có sự  phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã   hội.    ­ Tôi tin với những biện pháp này trẻ lớp tôi sẽ ngày càng tiến bộ hơn,  trẻ nói được nhiều câu hơn, nói đúng, chuẩn, mạnh dạn, tự tin hơn. 2. Kiến nghị:          Để nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ hay cụ thể hơn là chất lượng  phát triển ngôn ngữ cho trẻ thì cần có sự quan tâm hơn nữa của Đảng, Nhà  nước và toàn xã hội: Mong được đón nhận sự quan tâm, ủng hộ nhiệt tình hơn nữa của lãnh  đạo cấp trên tạo điều kiện cho giáo viên có cơ hội được đi tham quan học hỏi   kinh nghiệm ở những nơi có tổ chức hoạt động phát triển ngôn gữ cho trẻ. Do đa phần toàn là giáo viên trẻ, giáo viên dân lập mức lương còn thấp  nên khó khăn trong việc tri phí đồ  dùng, đồ  chơi phục vụ cho công tác giảng  dạy.          Tạo điều kiện cho giáo viên học tập và nâng cao trình độ  chuyên môn   nghiệp vụ. Tổ chức các buổi trao đổi thảo luận để  thống nhất về biện pháp, hình  thức tổ chức hoạt động nhận biết cho trẻ mầm non. Tổ  chức chuyên đề  mang tính quy mô nhằm nâng cao nhận thức cho  giáo viên về việc tổ chức hoạt động nhận thức ở lĩnh vực này. 15
  16. Tăng cường sự  phối hợp giữa gia đình, nhà trường và điạ  phương về  công tác giáo dục mầm non: + Không ngừng đầu tư  thêm cơ  sở  vật chất và tuyên truyền nâng cao  nhận thức của các bậc phụ huynh và toàn xã hội về tầm quan trọng của giáo  dục mầm non                    + Bồi dưỡng kiến thức về  chăm sóc giáo dục trẻ  cho các bậc phụ  huynh để trẻ được chăm sóc giáo dục trong điều kiện tốt hơn.          + Ngoài ra còn cần có sự quan tâm của các bậc phụ huynh đến việc  chăm sóc, giáo dục trẻ và nhận thức về việc cho con em ra lớp đều, đúng độ  tuổi. Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong việc nâng cao chất lượng   tổ  chức hoạt động nhận biết tại trường mần non Hồng Thái Tây ­ Đông  Triều­ Quảng Ninh. Rất mong nhận được sự  quan tâm,tham gia góp ý kiến  của chị  em đồng nghiệp, Ban giám hiệu nhà trường và lãnh đạo cấp trên để  tôi có thêm nhiều kinh nghiệm hay hơn nữa, góp phần nâng cao chất lượng  của việc tổ chức hoạt động nhận biết cho trẻ trong trường Mầm Non. Kính mong hội đồng thi đua khen thưởng các cấp xét duyệt và ghi  nhận. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hồng Thái Tây,  ngày      tháng    năm 2017                                                                                 THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ XÁC NHẬN, ĐỀ NGHỊ NGƯỜI VIẾT ĐỀ TÀI                                                                                                   Ngô Thị Hoan 16
  17.                                                       IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài liệu tham khảo.  1.1. TS.Trần Thị  Ngọc Trâm, TS.Lê Thu Hương, PGS.TS.Lê Thị  Ánh Tuyết  (2010), Hướng dẫn tổ  chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non Nhà  Trẻ 3­36 tháng, Nxb Giáo dục Việt Nam. 1.2. Đào Thanh Âm (1995), Giáo dục mầm non tập I, Đại học sư  phạm Hà   Nội I. 1.3.  Đào Thanh Âm (1995), Giáo dục mầm non tập II, Đại học sư  phạm Hà   Nội II 1.4. Trần Thị  Thanh, Trung tâm CL$PTCTGDMN, Bồi dưỡng thường xuyên  chu kỳ 2. 1.5. Trịnh Thị Hà Bắc, Lý luận và phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ  em. 1.6. Phạm Thị  Thu Thủy, Tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ  mầm non theo hướng đổi mới. 17
  18. 2.Mục lục. Nội dung Trang I.PHẦN MỞ ĐẦU 1  1.Lý do chọn đề tài 1  2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 2 3. Đối tượng nghiên cứu 3 4. Giới hạn nghiên cứu 3 5. Phương pháp nghiên cứu 3 II. PHẦN NỘI DUNG 3 1.Cơ sở lý luận 3 2. Thực trạng 5 3. Giải pháp, biện pháp 7 3.1. Mục tiêu của biện pháp, giải pháp 7 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp và giải pháp 8 3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp 11 3.4. Kết quả  thu được qua khảo nghiệm, giá trị  khoa học của  12 vấn đề III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 13 1.Kết luận 13 2.Kiến nghị 14 IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO­ PHỤ LỤC 16 1. Tài liệu tham khảo. 16 2. Mục lục. 17 18
  19. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1