Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tuổi có nề nếp thói quen tốt trong ăn uống
lượt xem 9
download
Qua thực tế của việc chăm sóc giáo dục trẻ của trẻ nhà trẻ ở lớp, nhận thấy tầm quan trọng của việc rèn một số nề nếp, thói quen tốt trong ăn uống đối với sự phát triển toàn diện cho trẻ ở trường mầm non. Đề tài này sẽ giúp các bạn nắm được một số biện pháp giáo dục trẻ!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tuổi có nề nếp thói quen tốt trong ăn uống
- ĐỀ TÀI: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ 2436 THÁNG TUỔI CÓ NỀ NẾP THÓI QUEN TỐT TRONG ĂN UỐNG” 1. PHẦN MỞ ĐẦU: 1.1. Lý do chọn đề tài: Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Trẻ em như búp trên cành Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”. Tất cả trẻ em sinh ra đều có quyền được hưởng sự quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội. Để giúp trẻ phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ thì ngay từ nhỏ, trẻ phải được hưởng nền giáo dục phù hợp và hiện đại về mọi mặt. Trẻ đến trường được tham gia và trải nghiệm các hoạt động, qua đó trẻ được tiếp thu lĩnh hội các kiến thức, kỹ năng cơ bản từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó nhằm hình thành và phát triển toàn diện về nhân cách ban đầu cho trẻ. Trong thực tế, mỗi trẻ là một cơ thể duy nhất và hành động theo cách của mình nên một lớp học có bao nhiêu trẻ thì có bấy nhiêu sự khác biệt cá nhân về thể chất, năng lực, sự hứng thú.. Vì thế, cô giáo cần tạo cho trẻ có một tâm thế tốt khi đến lớp, một không khí tình cảm yêu thương, tôn trọng trẻ. Điều này giúp trẻ nghe lời cô và phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có của mình. Trẻ chỉ có thể phát triển khoẻ mạnh, thông minh, có nề nếp, khi được sống trong môi trường thật sự yêu thương chăm sóc và chú ý khuyến khích giúp đỡ của người lớn. Đó là một quá trình lâu dài đòi hỏi rất nhiều sự âu yếm, kiên trì, hiểu biết về chăm sóc và dạy bảo của cha mẹ, ông bà và cô giáo. Trong những năm qua, các cấp lãnh đạo luôn quan tâm, chỉ đạo, giám sát hoạt động nuôi dưỡng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ tại cơ sở giáo dục mầm non. Ngành giáo dục huyện nhà đã có những biện pháp tuyên truyền, chỉ đạo quản lí chặt chẽ chât lượng bưa ăn ở những nơi tổ chức ăn bán trú, vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định. Đặc biệt sau khi thực hiện chuyên đề "Nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm" thực hiện các biện pháp phòng chống suy dinh dưỡng, phòng chống béo phì cho trẻ, đã thu được kết quả rất cao. Bên cạnh đó việc dạy cho trẻ có những thói quen nề nếp trong ăn uống là một trong những nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong việc nuôi dạy, giáo dục trẻ ở trường. Thông qua việc làm này, đã góp phần giúp trẻ có thói quen tốt trong ăn uống, trong sinh hoạt; đồng thời giúp trẻ phát triển, củng cố những tố chất vận động, sự khéo léo, tính kiên trì, kỷ luật....góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ. Bởi nếu trẻ có thói quen ăn uống xấu thì 1
- không những ảnh hưởng đến ham muốn ăn uống mà còn ảnh hưởng đến sự hấp thu dinh dưỡng. Cho nên khi trẻ đến lớp, giáo viên nhất thiết phải chú ý rèn luyện thói quen ăn uống tốt cho trẻ từ nhỏ. Chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ từ lứa tuổi mầm non chính là cơ sở giúp trẻ phát triển toàn diện, là nền tảng cho quá trình học tập suốt đời của trẻ. Chính vì vậy, tôi luôn quan tâm đến những biện pháp dạy trẻ có nề nếp, thói quen tốt trong ăn uống, đặc biệt là ở lứa tuổi tôi đang giảng dạy trẻ 2436 tháng tuổi. Ở độ tuổi này trẻ còn rất bé, nhưng đặc điểm sinh lý trẻ phát triển rất mạnh, vì vậy tôi thấy việc giáo dục đưa các cháu vào nề nếp để tham gia mọi hoạt động trong ngày của trẻ là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong suốt quá trình phát triển của các cháu. Vậy làm thế nào để nhanh chóng đưa trẻ vào nề nếp thói quen ngay từ những ngày đầu, những ngày mà trẻ mới chập chững đến lớp bắt đầu làm quen với cô giáo và các bạn, là vấn đề khiến bản thân tôi hết sức băn khoăn trăn trở. Qua việc tìm tòi, nhận thức sâu sắc ý nghĩa vai trò quan trọng để tạo cho trẻ có nề nếp, thói quen tốt trong ăn uống đối với sự phát triển của trẻ. Bản thân tôi đã mạnh dạn lựa chọn và thực hiện đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ 2436 tuổi có nề nếp thói quen tốt trong ăn uống”. * Điểm mới của đề tài Giai đoạn trẻ 24 36 tháng là giai đoạn khởi điểm của việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ, các mặt phát triển của trẻ hoà quyện vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, không tách bạch rõ nét. Trẻ hoàn toàn còn non nớt, nhạy cảm với tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc trẻ phát triển rất nhanh về mọi mặt, trẻ rất dễ bị tổn thương về tâm lý. Muốn hình thành và phát triển nhân cách tốt nhất cho trẻ, tạo tiền đề cho trẻ vững vàng, tự tin hơn thì vấn đề rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ phải được chú trọng thường xuyên, liên tục và không ngừng được đổi mới. Đội ngũ giáo viên phải thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên được tiếp thu đầy đủ các chuyên đề, tiếp cận với cái mới một cách kịp thời để thực hiện việc chăm sóc giáo dục trẻ, đặc biệt là rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ đạt kết quả cao. Nếu cứ thực hiện theo phương pháp cũ mà trước kia đã thực hiện thì sẽ không đưa lại hiệu quả cao như mong đợi, tính chủ động tích cực sẽ không phát huy được khả năng sáng tạo của trẻ, đồng thời kết quả về mặt trí tuệ sẽ thấp, nó sẽ phát triển một cách thụ động. Vì vậy, đổi mới hình thức tổ chức cho trẻ, tạo ra môi trường hoạt động tốt và tạo ra những cơ hội tốt nhất cho trẻ phát huy khả năng chủ động, sáng tạo một cách triệt để; nhằm tìm ra một số biện pháp để rèn luyện nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ một cách nhẹ nhàng, trẻ được 2
- thoải mái, tự nhiên hoạt động không gò bó, để việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ đạt được kết quả tốt nhất, chính là điểm mới trong đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ 2436 tuổi có nề nếp thói quen tốt trong ăn uống” của tôi. 1.2. Phạm vi áp dụng đề tài. Qua thực tế của việc chăm sóc giáo dục trẻ của trẻ nhà trẻ ở lớp, tôi thấy tầm quan trọng của việc rèn một số nề nếp, thói quen tốt trong ăn uống đối với sự phát triển toàn diện cho trẻ ở trường mầm non. Đề tài này tôi nghiên cứu, đúc rút từ công tác giảng dạy ở đơn vị của tôi, với đối tượng là lớp do tôi phụ trách: trẻ nhà trẻ 24 36 tháng. Và có thể áp dụng cho các đơn vị khác ở trong huyện, trong tỉnh. 2. NỘI DUNG: 2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu. Quá trình thực hiện việc chăm sóc giáo dục trẻ ở độ tuổi 2436 tháng tuổi, trong một năm qua bản thân tôi đã gặp một số thuận lợi và khó khăn sau: * Thuận lợi. Nhà trường đã tổ chức cho trẻ ăn bán trú tại trường đã nhiều năm nên thuận lơi nhiều trong công việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ trong ăn uống hàng ngày. Nhà trường luôn chú trọng đầu tư mua sắm cũng như bổ sung cơ sở vật chất, đồ dùng, đồ chơi để đảm bảo chất lượng trong chăm sóc và giáo dục trẻ. Bản thân được sự quan tâm giúp đỡ, chỉ đạo sâu sát của ban giám hiệu nhà trường, của đồng nghiệp trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ, tạo điều kiện cho tôi được đi học hỏi, bồi dưỡng chuyên môn, học tập tham quan ở các trường bạn. Tôi luôn chú ý, tìm tòi, tích lũy thêm kiến thức để vận dụng vào công tác chăm sóc giáo dục trẻ đồng thời tôi cũng học hỏi các đồng nghiệp qua các buổi dự giờ hoạt động và tìm hiểu qua các loại sách báo để có kế hoạch sắp xếp hoạt động theo từng chủ đề với sự hứng thú của trẻ. Các giáo viên trong lớp đều có kinh nghiệm chăm sóc, giáo dục trẻ. Các cô đều nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, có năng lực chuyên môn . Đa số phụ huynh có nhiều thay đổi và nhận thức cao về việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ trong độ tuổi mầm non và rất quan tâm đến chất lượng bữa ăn hằng ngày của trẻ ở trường cùng như ở nhà. * Khó khăn. 3
- Là lớp có lứa tuổi nhỏ nhất trường, trẻ mới đi học nên chưa có ý thức, vẫn giữ thói quen thích gì được nấy như ở nhà, không có nề nếp trong mọi hoạt động. Trong giờ ăn trẻ chưa có nề nếp, còn có nhiều thói quen xấu như: bốc thức ăn, gõ bát, uống nước canh … hay còn ngậm cơm, kén chọn thức ăn… Một số trẻ vẫn phải ăn cháo, những trẻ nhỏ chưa biết tự xúc ăn. Một số phụ huynh nhận thức sai cho rằng: Trẻ quá nhỏ để đưa vào nề nếp và cần phải cho trẻ ăn những thứ trẻ thích miễn sao ăn nhiều. Đặc biệt giữa phụ huynh chưa có sự phối hợp cùng giáo viên để dạy trẻ có nề nếp, thói quen trong ăn uống. Vẫn còn một số trẻ không ăn hết suất của mình. * Khảo sát thực trạng. Đầu năm tôi đã khảo sát thực tế như sau: Đạ t Chưa đạt Số TT Nội dung khảo sát Số Tỷ Tỷ lệ lượn lượng lệ % % g 1 Trẻ xếp hàng đúng cách để vệ sinh 17 58,6 12 41,4 2 Trẻ tự nhắc và cất ghế 19 65,5 10 34,5 3 Trẻ tự xúc cơm ăn 16 55,1 13 44,9 4 Trẻ ăn hết suất của mình 20 69 9 31 5 Trẻ thích ăn rau, hành 19 65,5 10 34,5 6 Trẻ thích ăn cá, thịt 20 69 9 31 7 Trẻ tự cất bát, thìa sau khi ăn xong 18 62 11 38 8 Trẻ tự lấy, cất cốc và uống nước đúng 17 58,6 10 41,4 cách * Nguyên nhân: Khả năng nhận thức của trẻ còn chưa có, trẻ chưa chưa có nề nếp, thói quen. Trong lớp có một số cháu còn chậm chạp, khả năng tiếp thu kỹ năng, kiến thức của trẻ không đồng đều nên quá trình chọn đồ dùng cho các hoạt động trong ngày của trẻ còn lúng túng. Có nhiều trẻ nói chưa rõ, chưa biết những kỹ năng tự phục vụ đơn giản như: Có những trẻ muốn uống nước nhưng không biết lấy nước uống, không biết cách cầm cốc lấy nước sao cho đỡ đổ, một số trẻ ăn xong không tự cất bát thìa của mình. Tuy nhiên có một số trẻ lại có những kỹ năng tự phục vụ rất tốt 4
- nhưng thiếu tính chủ động nên trẻ luôn chờ đợi người lớn nhắc nhở mới thực hiện. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, song với lòng yêu nghề mến trẻ tôi đã tìm tòi một số biện pháp tối ưu, thu hút lôi cuốn trẻ tham gia vào các hoạt động một cách tích cực và có hiệu quả. 2.2. Các giải pháp. Giải pháp 1: Tạo cho trẻ thói quen vệ sinh cá nhân trước khi ăn. Chăm sóc dinh dưỡng và vệ sinh cá nhân cho trẻ trong trường mầm non là một nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp phát triển giáo dục Mầm non. Nhận thức được điều đó, nên tôi đặc biệt chú trong việc tạo thói quen vệ sinh các nhân cho trẻ trước khi ăn. Tạo cho trẻ có thói quen vệ sinh trước khi ăn không chỉ đảm bảo sức khỏe cho trẻ, phòng tránh được các dịch bệnh thường gặp dễ xâm nhập vào cơ thể non nớt của trẻ mà còn rèn cho trẻ ý thức tự giác, biết rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh và khi tay bẩn. Đó là một thói quen không thể thiếu trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Đặc điểm của trẻ ở giai đoạn này là hay bắt chước nhưng lại mau quên, nếu không nhắc nhở thường xuyên, không hướng dẫn cụ thể thì trẻ không thể hình thành thói quen được. Vì vậy, trước bữa ăn, tôi cùng với các giáo viên trong lớp cho trẻ ngừng mọi hoạt động vui chơi và chỉ định chỗ ngồi cho trẻ, không cho trẻ đùa nghịch, chạy nhảy hoặc di chuyển từ chỗ này qua chỗ khác. Khi trẻ đã ổn định chỗ ngồi, tôi tiến hành cho trẻ trong từng bàn xếp hàng để đi vệ sinh cá nhân. Khác với các lớp mẫu giáo, trẻ nhà trẻ chưa thể tự rửa tay một mình được nên cần có sự giúp đỡ của giáo viên trong lớp. Trẻ sẽ được cô giáo lau mặt mũi và rửa tay theo đúng quy trình rửa tay cho trẻ mà các cô đã được đào tạo. Khi vệ sinh cho trẻ, tôi cũng phải quan tâm đến vấn đề thời tiết nóng hay lạnh để có sự điều chỉnh kịp thời để đảm bảo sức khỏe cho trẻ. Mùa hè thời tiết ấm áp, cô dùng khăn mát và nước mát lau mặt, rửa tay cho trẻ. Nhưng khi mùa đông đến, thời tiết lạnh giá, tôi phải chuẩn bị khăn ấm, nước ấm để lau rửa cho trẻ. Việc vệ sinh sạch sẽ trước khi ăn sẽ giúp trẻ thấy thoải mái, phấn khởi, trẻ tự tin hơn khi tham gia vào hoạt động ăn cùng các bạn. Giải pháp 2: Rèn trẻ có thói quen ăn uống đúng giờ giấc, đủ khẩu phần và ăn hết suất. Muốn tạo cảm giác ăn ngon miệng ở trẻ tốt thì cô giáo, phụ huynh cần rèn cho trẻ thói quen ăn uống đúng giờ, nhằm hình thành cho trẻ phản xạ có điều 5
- kiện ăn uống về thời gian. Để biện pháp này có hiệu quả, tôi đã phối hợp với giáo viên trong lớp nghiêm túc thực hiện chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ, (không cắt xén, thay đổi tùy tiện) thực hiện đúng thời gian ăn theo quy định. Hằng ngày thông qua giờ học, giờ chơi dạy cho trẻ hiểu được các nhóm thực phẩm nấu ăn hằng ngày. Trẻ biết được cần ăn uống để sống, để học tập, vui chơi. Từ đó giúp trẻ ăn nhiều loại thức ăn, không kén chọn thức ăn, ăn hết suất. Ví dụ: Trong giờ ăn trưa, tôi giới thiệu các món ăn: “Hôm nay, các con sẽ được ăn món mặn là cá sốt cà chua, trong cá có nhiều chất đạm giúp cơ thể các con cao lớn, khỏe mạnh; cà chua có rất nhiều vitamin A tốt cho mắt. Món canh rau cải nấu thịt cung cấp nhiều vitamin và chất đạm nữa. Các món ăn này rất thơm ngon, vậy các con phải cố gắng ăn nhiều cho mau lớn nhé!” Bên cạnh đó tôi còn phối hợp với phụ huynh để những ngày nghỉ của trẻ ở nhà phụ huynh cũng làm theo thời gian biểu ở lớp. Có như vậy quá trình rèn luyện của trẻ mới không bị ngắt quãng, ngắt giai đoạn. Đồng thời, việc làm này đã làm tăng sự gần gũi giữa phụ huynh và giáo viên trong việc tạo nên thói quen tốt cho trẻ. Giải pháp 3: Động viên trẻ tự xúc ăn, nhắc nhở khen ngợi trẻ trong giờ ăn. Trẻ 2436 tháng rất thích tập làm người lớn, thích được ngồi ăn cơm với gia đình, có bát thìa riêng để ăn thì bé thích lắm, trẻ luôn tay sử dụng thìa để xúc cơm, xúc thức ăn (mặc dù được ít). Một số phụ huynh sợ con bẩn nên không cho trẻ dùng bát thìa hoặc tự xúc, như vậy vô tình chúng ta đã kìm hãm ham muốn ăn uống của trẻ, đồng thời trẻ không có thói quen tự lập xúc cơm ăn. Chính điều đó đã làm một số trẻ khi đến lớp không chủ động cầm thìa để xúc cơm ăn. Tôi đã kết hợp với giáo viên trong lớp kiên trì hướng dẫn dạy trẻ có thói quen tự xúc ăn. Trước hết, tôi kiên trì hướng dẫn cách cầm thìa để xúc cơm ăn, cách bỏ cơm rơi vãi vào dĩa trong giờ ăn cho trẻ. Khi dạy trẻ tập xúc cơm ăn, tôi nói: “Con cầm thìa bằng tay phải để xúc cơm thật khéo giống như cô thì sẽ không bị rơi vãi cơm và rất giỏi được cô khen nhé!”. Khi cho trẻ ăn, tôi xới cho trẻ một ít ăn trước, ăn hết lại xới thêm, để tăng thêm lòng tin ăn uống cho trẻ. Không ép trẻ ăn, để tránh sinh ra bực bội mà trẻ chán ăn. Ví dụ: Đối với những trẻ ăn bình thường với tiêu chuẩn 2 bát cơm/ 1 bữa. Nhưng với những trẻ lười ăn, cũng tiêu chuẩn đó, tôi chia ra làm những phần nhỏ để trẻ ăn ít một, hết lại lấy thêm. Trong khi ăn, tôi còn động viên, khen ngợi trẻ kịp thời: “Con ăn ngoan, ăn nhiều rau và cá thịt thì cơ thể con sẽ cao lớn và 6
- khỏe mạnh đấy”… Tuy trẻ ăn hơi lâu hơn các bạn nhưng tôi không hề thúc giục mà cứ để trẻ ăn từ từ nhai kỹ, đồng thời có những khích lệ kịp thời để trẻ ăn nhanh kịp các bạn khác. Phối hợp với giáo viên trong lớp theo dõi sát sao từng trẻ lười ăn, ăn chậm. Từ đó, nắm được đặc điểm riêng, cá tính của từng trẻ và kịp thời điều chỉnh cho phù hợp. Ví dụ: Cháu Tuấn hay ngậm cơm, đến giờ ăn tôi chú ý nhắc cháu nhai cơm, nuốt hết cơm trong miệng. Cháu Như chỉ ăn cơm canh, tôi động viên, khuyến khích cháu ăn thêm thức ăn mặn để đảm bảo đủ chất dinh dưỡng, tôi xúc thức ăn mặn cho cháu từng ít một để cháu tập ăn dần. Ngoài ra, tôi còn kết hợp với phụ huynh khi về nhà cũng dạy trẻ tập xúc ăn như ở lớp. Có như vậy việc dạy và rèn nề nếp thói quen tốt trong ăn uống cho trẻ của cô giáo mới có kết quả cao. Giải pháp 4: Giáo dục trẻ có thói quen tốt trong ăn uống thông qua các câu chuyện, bài thơ, bài hát. Hàng ngày các cháu đến lớp với các nội dung hoạt động: giờ ăn, giờ ngủ, vệ sinh, học tập, vui chơi, giờ đón, giờ trả... mọi sinh hoạt đều là những hình thức để trẻ được rèn luyện. Đối với độ tuổi này, để đưa trẻ vào nề nếp thói quen không phải là chuyện dễ dàng và đơn giản, bởi thực tế trẻ còn rất bé, chưa có ý thức được như các anh chị lớn, điều này cũng là một thử thách cho cô giáo. Vì vậy, muốn tạo cho trẻ có được thói quen tốt trong ăn uống, tôi phải luôn nhẹ nhàng gần gũi và tình cảm với trẻ, để uốn nắn và rèn luyện trẻ. Tôi còn chú trọng việc sưu tầm các bài hát, bài thơ, câu chuyện, trò chơi có nội dung nói về nề nếp thói quen tốt trong ăn uống để rèn luyện cho trẻ, nhằm giúp trẻ nhớ lâu và khó quên: Ví dụ: Tôi kể cho trẻ nghe câu chuyện: “Quả táo” “Đạt đang chơi đùa cùng các bạn thì mẹ Đạt đi chợ về và mua cho Đạt một quả táo rất ngon. Mẹ gọi Đạt về ăn táo, Đạt thích thú chạy về ngay và không kịp rửa tay, Đạt cầm luôn quả táo và ăn ngon lành. Khi ăn xong, Đạt lại định chạy ra chơi tiếp cùng với các bạn thì Đạt thấy đau bụng vô cùng. Mẹ hốt hoảng đưa Đạt tới bác sĩ để khám. Bác sĩ hỏi : “Cháu đã ăn những gì?” Đạt trả lời bác sĩ: “Cháu ăn quả táo mẹ mua”. Bác sĩ hỏi tiếp: “Thế trước khi ăn cháu có rửa tay không?” Lúc này Đạt cúi mặt xuống trả lời: “Cháu không ạ”. 7
- Bác sĩ liền mỉm cười trìu mến và nói với Đạt: “Lần sau cháu phải rửa tay trước khi ăn nhé, tay bẩn mà không rửa cứ thế ăn cháu sẽ bị đau bụng đấy”. Đạt bẽn lẽn trả lời: “Vâng ạ”. Từ đó, trước khi ăn gì Đạt cũng đều tự giác đi rửa tay thật sạch sẽ”. Qua câu chuyện này, tôi giáo dục cho trẻ phải biết rửa tay trước khi ăn. Hay qua bài thơ “Rửa tay sạch”, trẻ cũng được giáo dục phải rửa tay trước khi ăn: Rửa tay sạch “Cô dặn bé Trước giờ ăn Rửa tay sạch Khi tay bẩn Phải rửa ngay Với xà phòng Bé ghi lòng Lời cô dạy”. Bài thơ: “Giờ ăn” cũng giáo dục trẻ tự xúc cơm ăn gọn gàng, không làm rơi vãi cơm ra bàn và phải ăn hết suất. Giờ ăn “Đến giờ ăn cơm Vào bàn bạn nhé Nào thìa, bát, đĩa Xúc cho gọn gàng Chớ có vội vàng Cơm rơi, cơm vãi”. Bài thơ: “Ăn” giáo dục trẻ biết rửa tay trước khi ăn và ăn ngoan, ăn hết suất: Ăn “Rửa tay sạch Mặc yếm vào Bé đứng trước Lớn đứng sau Dắt tay nhau Ngồi vào ghế Nhai thật kỹ Nuốt cho ngon 8
- Ăn hết cơm Không rơi vãi”. Tất cả các bài thơ này được tôi đưa vào các giờ hoạt động trong ngày của trẻ, khuyến khích trẻ đọc mọi lúc mọi nơi, trước giờ vệ sinh hoặc trước giờ ăn cơm nhằm giúp trẻ nhớ được những nề nếp, thói quen tốt trong vệ sinh cá nhân và trong việc ăn uống hằng ngày. Giải pháp 5: Phối kết hợp với phụ huynh. Biện pháp này thực hiện tốt sẽ giúp cho giáo viên nắm bắt về đứa trẻ được nhanh nhất và chính xác nhất từ thói quen giờ giấc đến tâm sinh lý của từng trẻ. Dựa vào đó giáo viên đưa ra được các biện pháp tác động tới trẻ phù hợp và kịp thời. Chính vì thế, khi nhận trẻ vào lớp, đối với mỗi phụ huynh, tôi cùng kết hợp để điều tra về tâm lý, thói quen của trẻ trong ăn uống để từ đó, có những biện pháp thích hợp rèn thói quen tốt cho trẻ. Ví dụ: Qua việc trao đổi với mẹ của cháu Huy, tôi biết được cháu ở nhà khi ăn hay bị nôn trớ, không thích ăn rau. Để từ đó ở trên lớp, tôi nhắc trẻ ăn từ tốn, xúc từng thìa nhỏ để ăn, ăn chậm, nhai kỹ để không bị nôn trớ; đồng thời, tôi còn động viên, khuyến khích trẻ ăn canh rau, cứ mỗi ngày một ít để trẻ có thói quen ăn rau xanh. Ngoài ra, trong các buổi họp phụ huynh, tôi chú trọng việc tuyên truyền nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các bậc phụ huynh trong việc giáo dục con trẻ và phối hợp với cô giáo trong việc xây dựng và hình thành các nền nếp thói quen tốt cho trẻ trong vấn đề ăn uống. Ví dụ: Tôi tuyên truyền và vận động phụ huynh việc những ngày nghỉ ở nhà, phụ huynh cho trẻ thực hiện chế độ ăn theo đúng thời gian biểu trên lớp và khuyến khích trẻ tự xúc cơm ăn. Có như vậy, quá trình rèn luyện của trẻ mới không bị ngắt quãng, ngắt giai đoạn. Tôi còn trao đổi với phụ huynh không cho con mang quà vặt đến lớp, không cho con ăn vặt trước bữa ăn. Những bé thường xuyên ăn quà hoặc đồ ngọt thì thường thiếu cảm giác đói, không thèm ăn. Hơn nữa đường tiêu hoá cứ ở trạng thái làm việc không có cơ hội nghỉ ngơi, dễ xuất hiện công năng đường tiêu hoá rối loạn. Một cách đơn giản để tuyên truyền tới phụ huynh mang lại hiểu quả cao nhất đó chính là xây dựng góc tuyên truyền. Góc tuyên truyền này tôi bố trí ở ngoài lớp, chỗ mà phụ huynh có thể nhìn rõ nhất. Nội dung tuyên truyền thay đổi theo tháng, theo mùa, đặc biệt là rất phong phú về nội dung các bài, gần gũi với cuộc sống. 9
- Ví dụ: Trong góc tuyên truyền, tôi dán kế hoạch hoạt động một ngày của trẻ trên lớp để phụ huynh nắm được và kết hợp với giáo viên chặt chẽ hơn trong việc giáo dục con ở nhà. Tôi công khai cụ thể thực đơn các bữa ăn chính, ăn phụ của trẻ trong tháng để phụ huynh biết, từ đó có thể cân đối chế độ ăn linh hoạt và khoa học cho trẻ trong ngày khi ở lớp và ở nhà. Ngoài ra, tôi còn tuyên truyền thêm các kiến thức nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ khoa học với cha mẹ trẻ. Đồng thời, tôi cũng cập nhật thường xuyên kết quả cân đo, khám sức khỏe của trẻ qua từng đợt. Nhờ làm tốt việc phối kết hợp với phụ huynh mà chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ cũng như việc rèn nề nếp thói quen trong ăn uống cho trẻ ở trên lớp của tôi mang lại những kết quả tốt đẹp. 3. Kết luận: 3.1.Ý nghĩa của đề tài: Việc tạo cho trẻ có nề nếp thói quen và vệ sinh tốt trong ăn, uống là vô cùng quan trọng. Nó không chỉ giúp trẻ tăng thêm tính tự lập mà các thói quen này còn theo trẻ lên lớp mẫu giáo và trong suốt cả cuộc đời của trẻ. Qua việc áp dụng những sáng kiến của mình, nhờ có sự phối kết hợp ăn ý của các đồng nghiệp trong lớp, tôi nhận thấy những biện pháp của mình có tính tích cực. Nhờ có các biện pháp mà trẻ có tinh thần tự giác, tự lập cao, có thói quen, nề nếp, hành vi văn minh trong vấn đề ăn uống. * Đối với bản thân Nắm được mục đích, phương pháp tiến hành rèn nề nếp, thói quen tốt cho trẻ trong ăn uống. Nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Có nhiều hình thức phong phú rèn nề nếp, thói quen tốt cho trẻ trong ăn uống. Giáo dục trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ. * Đối với trẻ 100% trẻ thích đến trường. 100% trẻ đều được cha mẹ tạo điều kiện và khuyến khích khơi dậy tính tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin. 100% trẻ ăn ngoan, ăn hết suất. Trẻ có nề nếp, thói quen tự phục vụ: Tự xúc cơm ăn, tự uống nước sau khi ăn cơm, tự đi vệ sinh khi có nhu cầu. 10
- 100% trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển. 80% trẻ luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua bảng đánh giá trẻ tròn tháng. Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 95 % trở lên và ít gặp khó khăn khi đến lớp. Kết quả đánh giá trên trẻ cuối năm như sau: Cuối năm Đầu năm đạt đạt TT Nội dung khảo sát Số Tỷ lệ Số Tỷ lượng % lượng lệ % 1 Trẻ xếp hàng đúng cách để vệ sinh 17 58,6 28 96,5 2 Trẻ tự nhắc và cất ghế 19 65,5 29 100 3 Trẻ tự xúc cơm ăn 16 55,1 27 93,1 4 Trẻ ăn hết suất của mình 20 69 29 100 5 Trẻ thích ăn rau, hành 19 65,5 29 100 6 Trẻ thích ăn cá, thịt 20 69 29 100 7 Trẻ tự cất bát, thìa sau khi ăn xong 18 62 29 100 8 Trẻ tự lấy, cất cốc và uống nước đúng 17 58,6 28 96,5 cách * Đối với phụ huynh: Đa số phụ huynh thấy được tầm quan trọng và trách nhiệm của mình trong việc kết hợp với giáo viên cùng quan tâm chăm sóc giáo dục trẻ. Phụ huynh đã quan tâm hơn tới nội dung của các môn học, biết hướng dẫn, rèn luyện một số kỹ năng cơ bản cho trẻ lúc ở nhà. Phụ huynh luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ ở nhà trường. Phụ huynh đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ các nề nếp thói quen, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua bảng thông tin dành cho cha mẹ, bảng đánh giá trẻ ở lớp. *Qua quá trình thực hiện tôi đã rút ra được vấn đề cụ thể sau: Bản thân luôn phai la tâm g ̉ ̀ ́ ương sang, yêu th ́ ương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ. Người lớn khuyến khích, chia sẻ thì trẻ sẽ tự tin vào năng lực của bản thân và trẻ sẽ làm tốt hơn. 11
- Bản thân phải chịu khó trò chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi vụn vặt của trẻ, không la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa trẻ. Tích cực tham khảo tài liệu trong và ngoài chương trình, học hỏi đồng nghiệp để nâng cao trình độ, hình thức và phương pháp giảng dạy phù hợp. Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều. Cần có sự phối kết hợp với phụ huynh một cách khéo léo, lôi cuốn phụ huynh để phụ huynh cùng giáo viên chăm sóc giáo dục trẻ một cách tốt nhất. Giáo viên cần phải tạo ra nhiều cơ hội cho trẻ được tham gia vào các hoạt động, được tham gia giúp cô làm những việc phù hợp với khả năng của trẻ. 3.2. Kiến nghị và đề xuất: * Đối với ngành giáo dục. Tổ chức bồi dường thường xuyên cho các giáo viên mầm non về chuyên đề chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ để giúp giáo viên nắm bắt, tiếp cận những vấn đề đổi mới. Bổ sung, hỗ trợ tài liệu mới trong và ngoài nước để giáo viên được học hỏi, tiếp cận những cái mới. * Đối với nhà trường. Tạo điều kiện cho giáo viên tham quan, học hỏi từ các đơn vị bạn để nâng cao trình độ. Khuyến khích và tạo điều kiện cho giáo viên viết sáng kiến kinh nghiệm về công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ để giáo viên trong trường học hỏi lẫn nhau. Cần trang bị đầy đủ vật chất, đồ dùng dạy học cho cô và trẻ. * Đối với giáo viên. Tích cực học tập, học hỏi để nâng cao trình độ tay nghề. Chịu khó sưu tầm, nghiên cứu để tìm những hình thức và biện pháp rèn thói quen sinh hoạt cho trẻ. Kết hợp với phụ huynh để có biện pháp chăm sóc, giáo dục trẻ một cách tốt nhất ở gia đình và nhà trường. Trên đây là “Một số biện pháp giúp trẻ 2436 tháng tuổi có nề nếp thói quen tốt trong ăn uống” mà bản thân tôi rút ra từ thực tế chăm sóc, rèn luyện nề nếp ăn uống cho trẻ ở lớp. Dù đã cố gắng với tâm huyết của mình nhưng do khả năng có hạn nên sáng kiến kinh nghiệm của tôi không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của Ban giám hiệu, các bạn đồng nghiệp để bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! 12
- 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Sưu tầm và thiết kế một số trò chơi giúp trẻ 5 tuổi Làm quen chữ cái trong trường mầm non
22 p | 194 | 42
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non
12 p | 110 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Các bước xây dựng giáo án điện tử dạy trẻ lứa tuổi mầm non
20 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thông qua công tác chỉ đạo tăng cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho trẻ tại trường mầm non Sơn Ca, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng năm học 2020-2021
14 p | 105 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp hình thành biểu tượng toán về số lượng cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi C ở trường Mầm non 2/9
20 p | 169 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp quản lý, chỉ đạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường mầm non
24 p | 39 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Kinh nghiệm chỉ đạo Giáo viên thực hiện Chương trình Giáo dục Mầm non
21 p | 122 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc tổ chức chuyên đề trong trường mầm non
20 p | 63 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên mầm non nâng cao nghiệp vụ sư phạm giáo dục mầm non
13 p | 61 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Xây dựng đội ngũ đoàn kết nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc giáo dục trẻ trong trường Mầm non
16 p | 84 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở trường mầm non Yên Mỹ
6 p | 150 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ bảo vệ môi trường trong trường mầm non
23 p | 106 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Làm thế nào đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở trường mầm non
13 p | 116 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp xây dựng và chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục mầm non chất lượng cao
36 p | 100 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm xây dựng trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia mức độ II
24 p | 93 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non tại Trường MN Tân Mai
13 p | 134 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp thực hiện công tác phổ cập giáo dục mầm non trẻ năm tuổi ở trường mầm non
19 p | 104 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non
33 p | 66 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn