Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giúp trẻ 4 – 5 tuổi phát huy tính tích cực bảo vệ môi trường trong trường mầm non
lượt xem 0
download
Sáng kiến "Một số biện pháp giúp trẻ 4 – 5 tuổi phát huy tính tích cực bảo vệ môi trường trong trường mầm non" được hoàn thành với mục tiêu nhằm giáo dục trẻ phát huy tính tích cực BVMT được lồng ghép vào các hoạt động hàng ngày tạo điều kiện để trẻ được trải nghiệm những vốn sống của bản thân. Để làm được điều này trẻ được nhìn nhận sự việc một cách khách quan, trẻ được trải nghiệm lĩnh hội kiến thức, từ những việc làm rất nhỏ nhưng ý nghĩa lớn giúp cải thiện BVMT.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giúp trẻ 4 – 5 tuổi phát huy tính tích cực bảo vệ môi trường trong trường mầm non
- PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Tên đề tài: “ Một số biện pháp giúp trẻ 4 – 5 tuổi phát huy tính tích cực bảo vệ môi trường trong trường mầm non” 2. Lý do chọn đề tài “ Hãy chung tay bảo vệ môi trường” Đó chính là thông điệp được phổ biến rộng rãi trên toàn cầu. Thông điệp muốn nhắn nhủ chúng ta hãy sống hòa cùng môi trường. Muốn có một sức khỏe tốt ngoài vấn đề ăn uống, con người cần phải được sống trong môi trường sạch sẽ, lành mạnh và an toàn. Môi trường có một tầm quan trọng đặt biệt đối với sức khỏe con người, đối với sự phát triển về mọi mặt như: Kinh tế, văn hóa, xã hội của toàn nhân loại. Trong giai đoạn hiện nay, môi trường đang bị suy thoái, hủy hoại và bị ô nhiểm nghiêm trọng, ảnh hưởng nhiều đến đời sống con người, làm giảm đi chất lượng cuộc sống. Một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng trên chính là do sự thiếu ý thức, thiếu hiểu biết của mỗi một con người trong việc giữ gìn và bảo vệ môi trường. Giáo dục bảo vệ môi trường là một vấn đề cấp bách, có tính chiến lược toàn cầu không chỉ đối với người lớn mà ngay cả trẻ ở lứa tuổi mầm non. Việc cho trẻ mầm non tiếp cận với các nội dung giáo dục bảo vệ môi trường là rất cần thiết, sớm hình thành những nề nếp, thói quen vệ sinh tốt, hành vi tích cực và cách ứng xử có văn hóa trong việc giữ gìn và bảo vệ môi trường. Vì vậy tôi đã chọn đề tài “Một số Biện pháp giúp trẻ 4 - 5 tuổi phát huy tính tích cực bảo vệ môi trường trong trường mầm non” để cho môi trường ngày càng thêm sanh - sạch - hơn. 2.1. Cơ sở lý luận: Như chúng ta đã biết môi trường sống là vấn đề vô cùng quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của mỗi con người. Môi trường sống bao gồm các yếu tố tự nhiên, xã hội và vật chất nhân tạo bao quanh con người. Môi trường có xanh - sạch - đẹp hay không là do hành động và ý thức của mỗi chúng ta. Giáo dục bảo vệ môi trường (GDBVMT) không phải là việc làm tính theo thời gian một ngày một tháng hay một năm, mà là việc làm thường xuyên, liên tục, mọi lúc mọi nơi và lợi ích, sự ảnh hưởng của nó tồn tại lâu dài. Duy trì một môi trường sống lành mạnh nơi chúng ta đang sinh sống là việc làm cần thiết và quan trọng hơn nếu trẻ em được tìm hiểu về môi trường vì trẻ em là thế hệ tạo ra sự thay đổi trong tương lai có thể ngăn chặn hoặc đẩy lùi các vấn đề về môi trường. “Môi trường hôm nay Thế giới ngày mai” Đúng vậy, chúng ta luôn thấy những khẩu hiệu về bảo vệ môi trường (BVMT) ở khắp mọi nơi. Vấn đề về BVMT luôn được Đảng và nhà nước quan tâm hàng đầu. Vậy môi trường là gì? Vì sao phải BVMT? Phải làm gì để BVMT? Vậy GDBVMT cho trẻ mầm non là cung cấp cho trẻ những kiến thức sơ đẳng về môi trường phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ nhằm tạo ra thái độ, hành động đúng của trẻ đối với môi trường xung quanh. Việc giáo dục ý thức BVMT được hình thành và rèn luyện từ lứa tuổi mầm non giúp trẻ có những khái niệm ban đầu về môi trường sống của bản thân mình nói riêng và con
- người nói chung là cần thiết từ đó biết cách sống tích cực với môi trường nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh của cơ thể và trí tuệ. 2.2.Cơ sở thực tiễn Được sự phân công của nhà trường, năm học 2020 - 2021 tôi được phân công giảng dạy lớp 4 - 5 tuổi, với tổng số trẻ là 19 cháu. Việc giáo dục trẻ mầm non phát huy tính tích cực BVMT được hực hiện trong các hoạt động hằng ngày của trẻ tại lớp. Từ lúc đón, đến các hoạt động học, hoạt động chơi, ăn, ngủ....đều được giáo viên thực hiện lồng ghép việc giáo dục tính tích cực BVMT cho trẻ. Như ở lớp tôi phụ trách tôi đã thực hiện một số biện pháp giúp trẻ phát huy tính tích cực BVMT thông qua tranh ảnh, tôi đàm thoại cùng trẻ về hành động, việc làm của các bạn nhỏ về ý thức BVMT ( bỏ rác vào thùng, trồng cây...) hay tổ chức các buổi lao động dọn sân trường, giao nhiệm vụ cho từng nhóm trẻ, hay giáo dục trẻ phát huy tính tích cực BVMT thông qua trò chơi nhưng đạt hiệu quả chưa cao. Trẻ chỉ nhớ được lúc đó nhưng sau thì lại quên ngay, và khi lao động trẻ làm một cách miễn cưỡng, coi đấy là nhiệm vụ của mình phải làm. Trẻ chỉ làm khi người lớn yêu cầu, chưa có tính tự giác nên tôi rất lo lắng về vấn đề tích cực BVMT của trẻ. Vì vậy tôi đã chọn đề tài: “Một số Biện pháp giúp trẻ 4 - 5 tuổi phát huy tính tích cực bảo vệ môi trường trong trường mầm non” tại lớp 4 tuổi B1 trường Mầm Non nơi tôi đang cồng tác. 3. Mục đích nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục trẻ phát huy tính tích cực BVMT được lồng ghép vào các hoạt động hàng ngày tạo điều kiện để trẻ được trải nghiệm những vốn sống của bản thân. Để làm được điều này trẻ được nhìn nhận sự việc một cách khách quan, trẻ được trải nghiệm lĩnh hội kiến thức, từ những việc làm rất nhỏ nhưng ý nghĩa lớn giúp cải thiện BVMT. Nhận thấy rằng tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng cao, nguồn nước, không khí, ngày càng ô nhiễm một cách trầm trọng, bão lũ lụt, hạn hán, sóng thần….hậu quả của việc hủy hoại môi trường đã và đang làm thiệt hại cả về con người và tài sản, nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, kinh tế của đất nước. Do đó việc BVMT là cấp thiết, để BVMT chúng ta phải thực hiện nhiều biện pháp khác nhau, trong đó biện pháp giúp trẻ phát huy tính tích cực BVMT được xem là có hiệu quả nhất ở lứa tuổi mầm non. 4. Đối tượng nghiên cứu Căn cứ vào tình hình thực tế của nhà trường tôi chọn đối tượng nghiên cứu là trẻ 4 - 5 tuổi B1, số lượng là 19 cháu tại lớp tôi phụ trách. 5. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm: Khảo sát cơ sở vật chất: Đồ dùng phục vụ cho môi trường, trang thiết bị dạy học Khảo sát về trình độ năng lực của giáo viên về việc giúp trẻ phát huy tính tích cực BVMT. Khảo sát về phụ huynh về việc giúp trẻ phát huy tính tích cực BVMT. Khảo sát về trẻ: Một số vấn đề khi giúp trẻ phát huy tính tích cực BVMT. Thực trạng cho trẻ phát huy tính tích cực BVMT . 6. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp giao tiếp Phương pháp trực quan Phương pháp thực hành
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá Phương pháp động viên, khuyến khích. 7. Thời gian thực hiện: Từ tháng 9 năm 2020 đến tháng 4 năm 2021. Củng cố và thực hiện cho các năm tiếp theo. PHẦN II. NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1.Cơ sở lý luận liên quan trực tiếp đến đề tài: BVMT đang là vấn đề nhức nhối của toàn cầu. Qua đó quyết định của thủ tướng chính phủ số 1363 QĐ-TTG ngày 17/10/2010 về việc phê duyệt đề án đưa ra các nội dung BVMT vào hệ thống giáo dục quốc dân. Căn cứ vào hướng dẫn BVMT trường mầm non (Bộ giáo dục và đào tạo vụ giáo dục mầm non). Căn cứ vào nhiệm vụ năm học 2020 – 2021 của trường nơi tôi công tác Căn cứ vào tình hình thực tế của trẻ tại trường tôi công tác. Đối với giáo dục mầm non sẽ cung cấp cho trẻ hiểu biết ban đầu về môi trường sống của bản thân và con người, biết cách sống tích cực với môi trường, nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh về cơ thể và trí tuệ. 2.Thực trạng điều tra ban đầu: * Thuận lợi: - Về cơ sở vật chất Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu nhà trường về cơ sở vật chất phục vụ cho công tác chăm sóc và giáo dục trẻ, lớp tôi được trang bị đầy đủ đồ dùng đồ chơi theo thông tư 02, môi trường an toàn và thân thiện Trường lớp rộng rãi, thoáng mát, có khu vệ sinh khép kín tại các nhóm lớp, có thùng đựng rác có nắp đậy tại các nhóm lớp và ngoài sân trường thuận tiện cho phụ huynh và học sinh để rác. - Về giáo viên Là giáo viên có tinh thần trách nhiệm và đầy lòng nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, bản thân tôi luôn tìm tòi vận dụng các phương pháp, hình thức đổi mới vào các hoạt động nhằm thu hút trẻ tham gia tích cực. - Về phụ huynh
- Tất cả phụ huynh rất quan tâm đến con em mình, thường xuyên đưa đón trẻ đi học chuyên cần và trao đổi tình hình sức khỏe, học tập khi ở nhà cũng như ỏ trường với giáo viên của lớp. - Về học sinh Lớp tôi phu trách có 19 cháu ( trong đó số lượng trẻ nam 14 cháu, trẻ nữ 05 cháu), tất cả trẻ đều phát triển bình thường, nhanh nhẹn, hoạt bát. - Bên cạnh những thuận lợi, nhà trường còn gặp một số khó khăn sau: * Khó khăn: - Về cơ sở vật chất - Việc giáo dục môi trường trong nhà trường hiện nay đôi lúc còn mang tính lý thuyết, chưa chú trọng yếu tố thực tiễn một cách sâu sắc, nghĩa là chưa thực hiện tốt phương châm “Học đi đôi với hành; lý luận gần gũi với thực tiễn”. * Về giáo viên - Một số giáo viên còn hạn chế trong việc tìm tòi, chuẩn bị bài giảng trước khi lên lớp còn sơ sài, không chi tiết cụ thể. Đồ dùng trực quan dạy học chưa phong phú, chưa đẹp, không thu hút kích thích sự thích thú khám phá tìm tòi của trẻ….do đó chưa rèn được nhiều kĩ năng và kết quả đạt được trong các hoạt động về BVMT chưa cao. * Về phụ huynh Là một xã thuộc miền núi, hầu hết phụ huynh là nông dân, làm ruộng nên họ nhận thức về môi trường rất khác nhau do đó có sự trênh lệch rõ ràng về nhận thức cũng như hành vi về BVMT, dẫn đến hình thành cho trẻ các nhận thức, kĩ năng BVMT còn nhiều hạn chế, giáo dục về môi trường cho con em còn thiếu quan tâm, tỉ mỉ và chính xác. * Về học sinh - Trẻ còn nhỏ chưa có có tính tích cực về BVMT , một số trẻ còn giẫm đạp lên vỏ sữa, bim bim....và coi đó là trò chơi hấp dẫn. Hay nhiều lúc trẻ vẫn chạy một cách vô tư chưa biết nhặt rác ngay dưới chân mình để bỏ vào thùng, thậm chí còn bẻ cành cây bẻ hoa vườn trường, đi vệ sinh, rửa tay chưa biết khóa vòi nước lại. Kết quả khảo sát được thể hiện qua bảng khảo sát đầu năm. Trước tình hình thực tế như vậy, bản thân tôi băn khoăn lo lắng và suy nghĩ, tìm ra: “Một số Biện pháp giúp trẻ 4 - 5 tuổi phát huy tính tích cực bảo vệ môi trường trong trường mầm non” cụ thể như sau: 3. Những biện pháp chính * Biện pháp 1: Lồng nghép giáo dục bảo vệ môi trường thông qua hoạt động học. * Biện pháp 2: Dạy trẻ giáo dục bảo vệ môi trường ở mọi lúc mọi nơi * Biện pháp 3: giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ thông qua hoạt động tham quan * Biện pháp 4: Làm đồ dùng đồ chơi từ phế liệu * Biện pháp 5: Phối kết hợp cùng với địa phương, phụ huynh và nhà trường 4. Những biện pháp từng phần 4.1. Biện pháp 1: Lồng nghép GDBVMT thông qua hoạt động học.
- Thông qua việc dạy trẻ, tôi nhận thấy rằng chúng ta có thế sử dụng kiến thức về BVMT vào các hoạt động học có chủ đích, tùy theo từng chủ đề và hoạt động học khác nhau mà lồng ghép BVMT khác nhau. Qua đó tạo điều kiện để trẻ được trải nghiệm những vốn sống của bản thân, tôi đã lồng ghép BVMT vào các hoạt động học cụ thể như sau: * Hoạt động khám phá khoa học: Tôi nhận thấy rằng hoạt động khám phá khoa học giúp trẻ gần gũi với thiên nhiên, động vât, thực vật, con người và tất cả những gì tồn tại xung quanh trẻ. Tôi tổ chức cho trẻ quan sát, làm thí nghiệm thực nghiệm đơn giản, như: “Cây cần gì để lớn lên” (Nước, không khí, ánh sáng) trẻ sẽ hiểu được sự cần thiết của nước, không khí và ánh sáng, làm thí nghiệm nước sạch và bẩn (do rác, không khí ô nhiễm, khói bụi)…Qua đó khi tôi dạy trẻ hoạt động khám phá khoa học tôi luôn lồng ghép BVMT. Ví dụ: Với kế hoạch giáo dục tháng 4, chủ đề nước và các hiện tượng tự nhiên. Tên bài dạy “Lợi ích của nước”. Tôi cho trẻ quan sát các nguồn nước có trong tự nhiên ( Nước mưa, nước maý, nước biển, nước ao hồ….), từ đó đưa ra các câu hỏi mở. Tôi hỏi trẻ lợi ích của nước đối với con người, động vật, thực vật? Hỏi trẻ nước có quan trọng không? Nếu không có nước thì con người, động vật, thực vật sẽ như thế nào? Vậy hiện trạng bây giờ các nguồn nước đang như thế nào?.....Tôi yêu cầu trẻ hãy đưa ra một hành động cụ thể để bảo vệ giữ gìn nguồn nước (Không vứt rác xuống ao hồ sông suối, rửa tay xong phải vặn chặt vòi nước, tiết kiệm nước…..) Qua đó trẻ biết BVMT luôn sạch đẹp không làm ô nhiễm nguồn nước * Hoạt động tạo hình: Mọi người vẫn luôn cho rằng với hoạt động tạo hình thì cần rất nhiều đồ dùng cho cả cô và trẻ thực hiện, do vậy lượng lớn rác thải, cũng như phế liệu từ tiết học là lớn. Tuy nhiên tôi đã giúp cho hoạt động tạo hình đơn giản và thân thiện với môi trường hơn. Ví dụ: Với tên bài dạy: “Xé dán hoa” Kế hoạch giáo dục tháng 2. Tôi chuẩn bị giấy màu, hồ dán cho trẻ xé dán. Khi trẻ thực hiện, cô đã chuẩn bị trên mỗi nhóm trẻ rổ, đĩa đựng đồ dùng (Cô tận dụng đĩa ăn sử dụng 1 lần gắn thành hình bông hoa và làm thành đĩa đựng nguyên vật liệu phục vụ tiết học) trẻ để giấy, hồ dán gọn gàng phía trước và xé dán theo hướng dẫn của cô. Khi trẻ xé để sản phẩm xé được vào rổ, để giấy xé thừa vào rổ khác, không vứt rác bừa bãi ra lớp, khi dán bôi hồ vừa phải. Sau khi trẻ thực hiện cô nhắc và rèn kĩ năng cất dọn đồ dùng vào đúng nơi quy định, lau và rửa tay sạch sẽ. Cô cùng trẻ phân loại rác, tận dụng những phế liệu sau mỗi tiết học làm đồ dùng cho các hoạt động khác. * Hoạt động làm quen với toán: Những biểu tượng toán ban đầu được hình thành khi trẻ đến lớp được tham gia hoạt động “Bé làm quen với toán”. Tôi cũng đã khéo léo lồng ghép BVMT vào trong từng tiết dạy, từ đó tôi giúp trẻ phát huy kĩ năng cất dọn đồ dùng vào đúng nơi quy định và giữ gìn đồ dùng góp phần BVMT làm cho môi trường thêm sạch đẹp. Ví dụ: Với tên bài dạy“Nhận biết phân biệt cao thấp”. Cô để các đồ vật với các vị trí khác nhau xung quanh lớp. Trẻ tìm các đồ vật theo yêu cầu của cô đồng thời cất dọn các đồ vật vào đúng nơi quy định. Thông qua hoạt động dạy tôi lồng ghép giáo dục trẻ cất dọn đồ dùng vào đúng nơi quy định cả ở lớp cũng như ở nhà. Từ đó trẻ có ý thức giữ gìn vệ sinh sạch sẽ. * Hoạt động làm quen văn học: Trong tất cả các hoạt động học thì “Hoạt động làm quen văn học” có vai trò rất lớn trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở lứa tuổi mầm non. Ngoài ra các bài thơ, các câu chuyện cũng chứa
- đựng trong nó những nội dung rất gần gũi, thân quen, giáo dục trẻ biết yêu thương, giúp đỡ mọi người…. và trở thành những người có ích cho xã hội. Hiểu được điều đó tôi đã khai thác triệt để nội dung từng bài học và lồng ghép BVMT trong từng bài dạy như sau: Ví dụ: Với tên bài dạy trẻ đọc thơ Bài thơ “Cô dạy” chủ đề Bản thân. CÔ DẠY (TG: Phạm Hổ) “Mẹ, mẹ ơi! Cô dạy: Phải giữ sạch đôi tay, Bàn tay mà giây bẩn, Sách, áo cũng bẩn ngay….” Qua bài thơ tôi dạy trẻ biết vâng lời người lớn, đồng thời tôi lồng ghép giáo dục trẻ luôn giữ cho đôi tay sạch sẽ, bằng cách không nghịch bẩn, sau khi chơi, sau khi đi vệ sinh và trước khi ăn phải rửa cho đôi tay luôn sạch sẽ và phải rửa bằng xà bông, rửa tay dưới vòi nước sạch và mở vòi nước vừa phải, tắt khi không sử dụng tránh lãng phí nguồn nước. * Hoạt động giáo dục âm nhạc: Âm nhạc là nhu cầu của cuộc sống, là món ăn tinh thần không thể thiếu được đối với đời sống con người. Là giáo viên tôi nhận thấy rằng mỗi khi dạy trẻ học hát, học múa cùng với tiếng đàn thì trẻ rất hứng thú, say xưa, tích cực học tập và ngoài nội dung của bài hát tôi cũng đan xen tính tích cực BVMT cho trẻ với mỗi tiết học, những lúc đó tôi nhận thấy kết quả đạt được là rất tốt. Trẻ đã biết giữ gìn BVMT hơn, quan tâm thân thiện với môi trường hơn. Ví dụ:Với tên bài dạy: Dạy trẻ hát bài hát “Em đi trồng cây” Kế hoạch giáo dục tháng 2. Tôi giáo dục trẻ trồng cây xanh để cho sân trường có nhiều bóng mát, cho không khí trong lành để môi trường thêm xanh- sạch- đẹp. * Hoạt động giáo dục thể chất Chúng ta đều biết rằng thể dục thể thao giúp cho cơ thể được khỏe mạnh, dẻo dai hơn. Ở trường lớp mầm non trẻ được tập các bài tập thể dục do cô hướng dẫn, từ bài tập phát triển chung đến các vận động cơ bản đã giúp cho trẻ phát triển về thể lực và thể chất qua đó trẻ còn biết hợp tác chia sẻ cùng bạn, ngoài ra tôi còn lồng ghép BVMT vào trong các tiết dạy để tiết dạy sinh động và giáo dục trẻ toàn diện hơn. Ví dụ: Với tên bài dạy: “Đi theo đường zích zắc” Kế hoạch giáo dục tháng 11. Tôi sẽ làm con đường bằng vỏ hộp sữa, các loại chai lọ, bìa cattong, nhựa bỏ, giấy xốp màu… đã được làm sạch, lấy những dây buộc bằng ni lông tết thành quả bông cho trẻ tập bài tập phát triển chung….từ đây sẽ hạn chế được rác thải và tận dụng được các nguyên vật liệu bỏ làm đồ dùng dạy học tự tạo đa dạng và phong phú. Giáo dục trẻ để có cơ thể khỏe mạnh ngoài vệ sinh sạch sẽ cần phải chăm tập thể dục. Mỗi 1 chủ đề tôi lựa chọn nội dung lồng ghép phù hợp như: Kế hoạch giáo dục tháng10 (Tôi lồng ghép vai trò cũng như ảnh hưởng của môi trường với sức khỏe con người) Kế hoạch giáo dục tháng 2 và tháng 3 (Tôi lồng ghép sự cần thiết và ảnh hưởng của môi trường với cây cối và
- các con vật) kế hoạch giáo dục tháng 4(Tôi lồng ghép môi trường sạch và chưa sạch là như thế nào)… 4.2. Biện pháp 2: Dạy trẻ giáo dục bảo vệ môi trường ở mọi lúc mọi nơi Ngay từ đầu năm học tôi đã tạo cho trẻ có một môi trường lớp học sạch đẹp thân thiện, làm nhiều góc mở, gần gũi với thiên nhiên với trẻ. Ở sân trường nhà trường có các thùng rác có nắp đạy để giữ gìn vệ sinh môi trường như không vứt rác bừa bãi, bỏ rác vào đúng nơi quy định….Từ đó kích thích sự tìm tòi khám phá, ham hiểu biết cuả trẻ. Tôi còn tạo ra những biển báo “Cấm” như không sờ vào ổ điện, hay biển báo đơn giản nhưng gần gũi với trẻ để trẻ có thể nhìn vào và có thể biết đó là biển báo gì. Từ đó mà trẻ đến lớp có thể thực hiện đúng nội quy quy định của trường của lớp. Theo tôi việc giúp trẻ phát huy tính tích cực BVMT phải đi đôi với giáo dục kỹ năng sống. Chúng ta muốn hiệu quả việc giúp trẻ phát huy tính tích cực BVMT luôn bền vững thì cần phải giáo dục cho các em những thói quen tốt, những kỹ năng sống liên quan đến BVMT. Thông qua lịch hoạt động 1 ngày của trẻ tôi đã dần dạy trẻ những kĩ năng đó như: - Giờ đón trả trẻ: Tôi nhắc trẻ cất dọn đồ dùng vào đúng nơi quy định, như cất dép vào giá dép, ba lô vào ngăn tủ của mình. Qua một ngày tôi quan sát trẻ nhận thấy những hành vi tốt của trẻ như cất dọn đồ dùng vào đúng nơi quy định, tiết kiệm nước khi rửa tay rửa chân, vứt rác vào thùng rác… Nếu có trẻ để đồ, dùng đồ chơi chưa gọn gàng ngăn nắp, hay để nước tràn ra ngoài không khóa vòi nước, vứt rác bừa bãi….thì tôi nhắc nhở nhẹ nhàng giúp trẻ hiểu những việc làm đó làm ảnh hưởng xấu đến môi trường, từ đó trẻ có kĩ năng, kiến thức thực hành BVMT. Tôi luôn là người cô gương mẫu để trẻ noi theo tôi nhắc nhở trẻ kiên trì thực hiện những việc làm tốt qua đó giáo dục trẻ biết yêu quý gần gũi với môi trường và đánh giá hành vi tốt và xấu của con người trong việc chăm sóc BVMT. - Giờ hoạt động góc: Khi cho trẻ hoạt động góc tôi hướng dẫn, gợi mở cho trẻ hướng vào các góc chơi có gắn nội quy góc chơi, tôi chuẩn bị đồ dùng đồ chơi phong phú, đa dạng nhằm thu hút trẻ chơi. Tôi luôn lồng ghép, kết hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong hoạt động một cách phù hợp để qua đó giáo dục học sinh có ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân, phòng học lớp học, khu nhà vệ sinh, không vứt rác bừa bãi, không viết vẽ bậy trên bàn, trên tường và hình thành thói quen tự giác nhặt rác trong trường bỏ vào thùng rác đúng nơi qui định. Khi tham gia chơi tôi nhắc nhở trẻ chơi và giao tiếp với nhau nhưng không gây ồn ào, không vứt, ném đồ chơi bừa bãi, chơi song cất đồ dùng đồ chơi đúng nơi quy định. Ví dụ: Tại vị trí phòng lớp thoáng mát, có ban công, tôi đặt góc thiên nhiên ngoài ban công lớp tôi cho trẻ trồng và chăm sóc cây để giữ cho môi trường luôn xanh - sạch - đẹp và tạo cảnh quan môi trường. Tôi đã dạy cho trẻ cách chăm sóc tưới nước cho cây, lau lá cây, xới đất tơi xốp. - Giờ hoạt động ngoài trời: Tôi cho trẻ hoạt động ngoài trời phù hợp với từng chủ đề và kết hợp lồng ghép GDBVMT. Ví dụ: Kế hoạch giáo dục tháng 2 ( Thực vật) tôi cho trẻ quan sát vườn rau của bé, quan sát cây cối, các loại hoa, các loại rau….Tôi đưa ra câu hỏi mở để trẻ trả lời: Để có thật nhiều rau, củ, quả ăn thì chúng ta phải làm gì? Nếu không chăm sóc, tưới cây hàng ngày thì điều gì sẽ xảy ra?…., từ đó trẻ nói lên được các hành động bảo vệ môi trường hoặc làm hại cho môi trường như: Động tác cuốc đất trồng cây, tưới nước, bắt sâu là hành động có lợi cho môi trường, còn động tác gây tổn hại cho môi trường là chặt cây, dẫn lên cỏ, đốt rừng.
- Như vậy, khi trẻ tham gia hoạt động ngoài trời kiến thức sẽ được khắc sâu trẻ học mà không biết là mình đang học. Đó sẽ là nền tảng để trẻ trở thành một tuyên truyền viên tốt về chăm sóc và bảo vệ cây xanh cũng như môi trường xung quanh trẻ. - Giờ lao động: Tôi thường xuyên giao nhiệm vụ cho trẻ qua bảng phân công trực nhật hàng ngày. Trẻ biết giúp cô lau dọn giá đồ dùng, đồ chơi, biết xắp xếp đồ dùng đúng nơi quy định, biết lau lá cây và chăm sóc cây xanh. từ đó, trẻ biết yêu thiên nhiên yêu lao động. Dạy trẻ lao động tự phục vụ bản thân: Như trẻ tự đi vệ sinh, biết xả nước sau khi đi vệ sinh xong, khi ăn trẻ không làm rơi vãi cơm ra ngoài biết tiết kiệm bảo vệ môi trường. Qua đó kích thích sự thích thú hăng say rèn luyện lao động, cùng cô và các bạn bảo vệ môi trường gia đình và nhà trường luôn sạch sẽ. - Hoạt động vệ sinh cá nhân: Thông qua hoạt động vệ sinh cá nhân mọi lúc mọi nơi tôi luôn nhắc nhở trẻ phải biết tiết kiệm nguồn nước, biết vệ sinh để cơ thể luôn sạch sẽ như: Hàng ngày phải chăm tắm rửa, cắt móng tay móng chân ( một tuần giáo viên cắt cho trẻ vào chiều thứ 6), rửa tay, rửa mặt đúng cách. Tôi hỏi trẻ làm thế nào để tiết kiệm nước, hướng dẫn trẻ cách sử dụng nước vừa phải đúng cách, hướng dẫn trẻ rửa đúng quy trình, không làm nước bắn tung tóa ra ngoài tránh làm ướt quần áo và lãng phí nguồn nước khi rửa xong vặn chặt vòi nước. Từ đó trẻ biết vệ sinh cá nhân sạch sẽ và giáo dục sự quan trọng và cần thiết của nước. - Giờ bình cờ và trả trẻ: Trước đây tôi cho trẻ bình cờ nói một cách chung chung nhận xét trẻ còn chưa đầy đủ tỉ mỉ vì vậy mà lợi ích đem lại của hoạt động bình cờ là chưa cao. Sau khi nghiên cứu tôi đã thay đổi và nhận ra rằng để tận dụng được lợi ích triệt để của hoạt động bình cờ và kết quả rất tốt như: Tôi luôn nêu gương việc tốt người tốt trong ngày. Qua một ngày tôi quan sát trẻ nhận thấy những hành vi tốt của trẻ như cất dọn đồ dùng vào đúng nơi quy định, tiết kiệm nước khi rửa tay rửa chân, vứt rác vào thùng rác…tôi sẽ khuyến khích động viên cho cắm cờ. Nhắc trẻ cất đồ dùng và ghế vào đúng nơi quy định khi ra về. Nếu có trẻ để đồ, dùng đồ chơi chưa gọn gàng ngăn nắp, hay để nước tràn ra ngoài không khóa vòi nước, vứt rác bừa bãi….thì tôi nhắc nhở nhẹ nhàng giúp trẻ hiểu những việc làm đó làm ảnh hưởng xấu đến môi trường, từ đó trẻ có kĩ năng, kiến thức thực hành BVMT. Tôi luôn là người cô gương mẫu để trẻ noi theo tôi nhắc nhở trẻ kiên trì thực hiện những việc làm tốt qua đó giáo dục trẻ biết yêu quý gần gũi với môi trường và đánh giá hành vi tốt và xấu của con người trong việc chăm sóc BVMT. 4.3. Biện pháp 3: GDBVMT cho trẻ thông qua hoạt động tham quan: Khi tổ chức cho học sinh đi tham quan tôi sẽ nhắc nhở trẻ không được vứt bừa bãi như giấy gói, bao bì thức ăn, chai lọ, vỏ đồ hộp…không đúng nơi đổ rác. Không ồn ào, ăn uống mất vệ sinh tại nơi công cộng. Khi nhìn thấy người khác vứt rác không đúng chỗ, tôi dạy trẻ có trách nhiệm nhắc nhở lịch sự để giữ gìn nhà trường luôn sạch đẹp, vệ sinh. - Với trẻ 4-5 tuổi sau mỗi chủ đề sự kiện tôi cho trẻ thăm quan1 lần. Địa điểm là khu vực xung quanh trường phù hợp với nội dung từng chủ đề và tôi nhận thấy trẻ rất hào hứng và vui vẻ khi được cô cho đi tham quan. Ví dụ: Chủ đề sự kiện “Trường mầm non của bé”, tôi tổ chức cho trẻ thăm quan môi trường sống tại trường mầm non như phòng học, phòng chức năng, sân chơi từ đó trẻ nhận biết môi trường sạch, môi trường bẩn và hành vi BVMT. Tôi đưa ra các câu hỏi gợi mở như: Kể tên các phòng ban trong trường, cho trẻ quan sát và hỏi trẻ khu vực nào sạch và khu vựa nào bẩn? Vì sao? Quan sát sân trường hôm nay như thế nào? Sạch hay bẩn? Vì sao? Cần làm gì để sân trường luôn sạch
- đẹp và mát? Phải làm gì để môi trường lớp học, sân trường và ở nhà luôn sạch sẽ? Ai là người đã giữ cho môi trường trường lớp chúng ta luôn sạch đẹp? Tôi nhận thấy khi cho trẻ tham quan quanh sân trường hay có điều kiện cho trẻ đi tham quan một số khu vực danh lam thắng cảnh tại địa phương gần gũi với trẻ sẽ giúp ích rất nhiều trong việc giáo dục trẻ đoàn kết cùng nhau giữ gìn và bảo vệ môi trường luôn sạch đẹp. 4. 4: Biện pháp: Làm đồ dùng đồ chơi từ phế liệu: Hàng ngày do nhu cầu sinh hoạt mà 1 lượng lớn rác thải được thải ra môi trường đây chính là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Để giải quyết 1 phần vấn đề đó tôi đã đặt ngoài hành lang góc lớp 4 tuổi B1 ngôi nhà trong đó học sinh, phụ huynh, cô giáo hàng ngày sẽ đem các phế liệu đặt vào ngôi nhà đó, tôi sẽ chọn phân loại nguyên vật liệu khác nhau để sử dụng làm đồ dùng tự tạo “ Hành động nhỏ ý nghĩa lớn” Qua đó giảm thiểu được lượng rác thải ra ngoài môi trường, tránh ô nhiễm môi trường. -Tôi kết hợp cùng với giáo viên trong lớp lựa chọn những phế liệu, nguyên vật liệu trong cuộc sống sinh hoạt đảm bảo an toàn vệ sinh tuyệt đối cho trẻ. Được Vỏ hộp bánh kẹo, vỏ hộp sữa, bìa cat tong, chai lọ nhựa, sách báo cũ……) vì vậy mà giảm được chi phí và lượng rác thải trong nhà trường và môi trường, sưu tầm thêm các mẫu đồ chơi trên mạng internet, sách báo, hội thi đồ dùng đồ chơi các cấp phù hợp với từng chủ đề từng loại nguyên vật liệu hướng dẫn cô cùng trẻ làm thành những đồ dùng đồ chơi cho trẻ chơi tại các góc lớp. Là đồ dùng đồ chơi tự tạo do đó tạo sự hứng thú cho trẻ khi được khám phá các loại nguyên vật liệu ấy và tự tay mình làm những món đồ chơi mình thích. Tôi cho rằng làm tốt công tác này thì hiệu quả giờ học được tăng cao. 4.5 Biện pháp 5: Phối kết hợp cùng với địa phương, phụ huynh và nhà trường: Địa phương, gia đình là nơi gần gũi thân quen với trẻ nhất và nó có ảnh hưởng rất lớn đến cách hiểu cũng như suy nghĩ hành động của trẻ về thế giới xung quanh và môi trường. Được sống trong môi trường người người có ý thức về BVMT, môi trường luôn xanh - sạch - đẹp, thì trẻ sẽ thấy rằng việc giữ gìn BVMT là cần thiết và quan trọng. Cộng đồng và gia đình luôn cho trẻ thấy được việc làm sai trái ảnh hưởng xấu tới môi trường như: Không vứt rác bừa bãi, nếu ko để rác đúng nơi quy định sẽ làm cho đường phố, xóm làng và nhà cửa bẩn nhiều ruồi muỗi, mùi hôi thối khó chịu làm ô nhiễm không khí và nguồn nước. Không ngắt lá bẻ cành làm như vậy cây sẽ chết không có hoa thơm trái ngọt và bóng mát. Hàng năm có những dịp địa phương và gia đình cùng trồng cây như: “Tết trồng cây, trồng cây gây rừng….” giúp trẻ hiểu “Cây xanh là lá phổi của môi trường” giúp trẻ thêm yêu và chăm sóc bảo vệ cây xanh hơn. Kết hợp với hệ thống truyền thanh của xã và của các thôn với các nội dung: Vai trò vị trí của cấp học mầm non, tầm quan trọng của công tác BVMT, giáo dục trẻ ở trường mầm non, đặc biệt là việc BVMT xanh - sạch - đẹp đến người dân nơi đây. Một năm nhà trường tổ chức họp phụ huynh 2 lần/ năm, tôi cũng tận dụng cơ hội này đan xen nội dung tuyên truyền BVMT đến từng phụ huynh, giúp phụ huynh thực hiện đúng nội quy quy định của trường như: Không đi xe vào trong sân trường, dừng xe tắt máy phía bên ngoài cổng trường, nhà trường đặt các thùng rác có nắp đậy thuận tiện tại các vị trí trên sân trường nhắc nhở phụ huynh để rác đúng nơi quy định. Tuyên truyền phụ huynh ủng hộ chậu hoa, cây cảnh cho môi trường trong và ngoài lớp thêm phong phú và đa dạng và ủng hộ các phế liệu để cô và trẻ làm đồ dùng đồ chơi tự tạo. Thông qua công tác tuyên truyền, vận động này Phụ huynh sẽ hiểu rõ hơn tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho con trẻ không phải chỉ ở phía nhà trường mà còn ở gia đình nữa.
- Tôi luôn trò chuyện hỏi thăm và trao đổi với phụ huynh thường xuyên động viên nhắc nhở trẻ nhớ những lời cô giáo dạy trên lớp về giữ gìn bảo vệ môi trường cả trên lớp và ở nhà từ đó giúp trẻ có kĩ năng BVMT tốt sau này. Ví dụ: Hôm nay tại giờ vệ sinh lớp bạn Thu Trà, Hoàng Nguyên đã biết giúp cô lau dọn giá góc xây dựng. Và phụ huynh cũng trao đổi lại con đã biết cất gọn dép vào tủ dép ngăn nắp gọn gàng khi đi lớp về…. Trao đổi với phụ huynh mua cho trẻ tranh ảnh, những bài thơ, câu truyện, tấm gương về bảo vệ môi trường phù hợp với trẻ 4-5 tuổi. Từ đó trẻ thấy được hình ảnh, hành động đúng sai về môi trường như lời Bác Hồ đã ân cần dạy bảo: “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ Tùy theo sức của mình” Để có những hành động cụ thể BVMT trên lớp học thì ở nhà các bé cũng cần phải làm việc giúp đỡ gia đình như: Quét nhà, vứt rác, tiết kiệm nước, cất giầy dép, ca cốc sau khi sử dụng, …..Phụ huynh là người giúp đỡ nhắc nhở trẻ thực hiện. Ví dụ: Trong thời gian nghỉ dịch Covid-19 tôi đã quay những vi deo về các kỹ năng như: Đánh răng, rửa tay, rửa mặt, kỹ năng đeo khẩu trang gửi qua za lô nhóm lớp để phối kết hợp với phụ huynh ở nhà cho con được ôn lại các kỹ năng cũng như là các con biết cách tự phục vụ, chăm sóc bản thân. Qua các video tôi cũng lồng ghép giáo dục cho trẻ ở nhà biết giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, không đưa tay lên mắt, mũi, miệng, biết tiết kiệm nước, khi đi ra ngoài phải đeo khẩu trang, thường xuyên rửa tay với xà phòng hoặc nước sát khuẩn, không tụ tập đông người, không vứt rác bừa bãi mà phải vứt rác vào thùng rác để bảo vệ môi trường. PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết quả thực hiện đề tài Một năm thực hiện mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng được sự quan tâm, tạo điều kiện của nhà trường, sự giúp đỡ của bạn bè đồng nghiệp, sự cộng tác nhiệt tình của phụ huynh và những nỗ lực của bản thân, tôi đã thu được kết quả như sau: - Về cơ sở vật chất Nhà trường đã trang bị đầy đủ cơ sở vật chất cho việc giáo dục giúp trẻ phát huy tính tích cực BVMT. Đã mua sắm thên thùng rác có nắp đạy, tranh ảnh về BVMT cho trẻ quan sát. - Về giáo viên Tôi đã có kinh nghiệm trong việc giáo dục trẻ phát huy tính tích cực BVMT, luôn tích cực tìm tòi, lên những bài giảng hay. Đồ dùng đẹp, phong phú, kích thích sự khám phá của trẻ. - Về phụ huynh Tất cả phụ huynh rất quan tâm đến con em mình, có sự phối kết hợp giữa phụ huynh với giáo viên giáo dục trẻ phát huy tính tích cực BVMT. Phụ huynh yên tâm khi thấy con em mình có ý thức BVMT. - Về học sinh
- Trẻ phát huy tính tích cực về việc BVMT, không bẻ cành, hái hoa, biết nhặt rác bỏ vào thùng đúng nơi quy định. Có kỹ năng cất dọn đồ dùng đồ chơi gọn gàng ngăn nắp, biết tự vệ sinh cá nhân, có ý thức tiết kiệm nước khi sử dụng. Qua một quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, tôi rất vui vì thấy trẻ của lớp đạt, thể hiện được tính tích cực về việc BVMT tăng lên rõ rệt cụ thể: Biết cất dọn giữ gìn, đồ dùng, đồ chơi gọn gàng ngăn nắp đúng nơi quy địnhtăng 42.1% Biết giữ gìn trật tự, vệ sinh trường lớp, nhặt rác, vứt rác đúng nơi quy định tăng 47.3% Biết tự vệ sinh cá nhân, biết tiết kiệm nước khi sử dụng và tắt khi không sử dụng tăng 42.1% Phân biệt được những hành động đúng, hành động sai đối với môi trường tăng 36.8% Sau khi thực hiện các biện pháp GDBVMT tôi nhận thấy: Trẻ hứng thú tham gia các hoạt động, trẻ chú ý lắng nghe, cảm nhận và có những việc làm hành động cụ thể đúng đắn, trẻ mạnh dạn tự tin bày tỏ quan điểm, hiểu biết của bản thân phù hợp giúp cải thiện và bảo vệ môi trường như: Biết thu dọn rác, sắp xếp đố dùng đồ chơi gọn gàng, biết chăm sóc bảo vệ thiên nhiên Trẻ có được kiến thức đơn giản ban đầu về môi trường sống của con người, về động vật, thực vật và biết bảo vệ môi trường nơi trẻ ở. Trẻ gần gũi yêu quý thiên nhiên hơn. Trẻ có kỹ năng tự phục vụ, vệ sinh cá nhân, vệ sinh lớp học, nhà ở và nơi công cộng. Biết sử dụng điện nước tiết kiệm. Từ những kết quả đạt được tôi trao đổi cùng với giáo viên trong khối lớp, cùng nhau tìm tòi, áp dụng những biện pháp hợp lí, phù hợp trong tất cả các hoạt động của trẻ trên lớp học do vậy mà trẻ trong lớp 4 tuổi B1 cũng như trẻ trong khối 4-5 tuổi có ý thức rất tốt về bảo vệ môi trường. 2. Kết luận: Qua quá trình thực hiện đề tài trên, tôi đó rút ra được một số bài học kinh nghiệm như sau: Giáo viên là người thực sự có kiến thức về BVMT, hiểu được tầm quan trọng, thấy được sự cần thiết về việc cung cấp kiến thức cũng như kĩ năng sống và hành vi cho trẻ mầm non về GDBVMT từ đó trẻ tự khẳng định mình, nhận thức được khả năng của mình BVMT luôn sạch đẹp. Chuẩn bị tốt về kiến thức cũng như đồ dùng trước khi tổ chức các hoạt động. Đồ dùng dạy trẻ phong phú, đa dạng, đẹp hấp dẫn trẻ. Có các thí nghiệm minh chứng cụ thể với từng tiết dạy. Có sự sáng tạo trong mỗi tiết dạy, luôn có sự đổi mới trong phương pháp dạy trẻ, GDBVMT được lồng ghép tích hợp trong tất cả các lĩnh vực giáo dục. Lồng ghép tích hợp GDBVMT vào các hoạt động từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, gần gũi không xa lạ, gắn với thực tế địa phương, phù hợp với độ tuổi của trẻ không trùng lặp. Giáo dục trẻ nhận thức được môi trường sạch - môi trường bẩn, biết tiết kiệm điện nước, giữ gìn đồ dùng đồ chơi. Gần gũi với phụ huynh, làm tốt công tác tuyên truyền với các bậc phụ huynh. Luôn quan tâm chú ý trẻ, động viên khuyến khích trẻ kịp thời. Bản thân tôi luôn cố gắng học tập, học hỏi để nâng cao kiến thức, phối kết hợp với đồng nghiệp, cộng đồng, làm tốt nhiệm vụ được giao.
- 3. Khuyến nghị: - Kính mong được sự tham mưu của Ban Giám Hiệu nhà trường, sự phối hợp của các giáo viên trong toàn trường về ý nghĩa của việc giáo dục phát huy tính tích cực BVMT cho trẻ . - Kính đề nghị Phòng giáo dục huyện Ba Vì mở lớp tập huấn cho giáo viên trong toàn huyện về lồng ghép GDBVMT cho trẻ mầm non. - Mở lớp bồi dưỡng nâng cao về kiến thức, kĩ năng, việc làm, hành động cụ thể về GDBVMT cho giáo viên trong toàn huyện tham gia giúp có phương pháp dạy trẻ lồng ghép thích hợp.. - Tổ chức cho giáo viên đi tham quan các Trường điểm trong và ngoài thành phố. Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã áp dụng trong việc giúp trẻ phát huy tính tích cực BVMT, rất mong sự đóng góp của các đồng chí lãnh đạo, ban giám hiệu nhà trường, các bạn đồng nghiệp đóng góp ý kiến cho tôi để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tôi xin cam đoan bài viết của tôi là hoàn toàn thực tế không sao chép của ai. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm sử dụng đồ dùng, đồ chơi hấp dẫn cho trẻ 5-6 tuổi làm quen với toán
17 p | 1794 | 338
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp quản lý hồ sơ công tác chăm sóc bán trú trong trường mầm non Tuổi Hoa
16 p | 24 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ mầm non
11 p | 25 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ trong trường mầm non
19 p | 44 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi trong trường mầm non Tuổi Hoa - Long Biên - Hà Nội
10 p | 28 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Ứng dụng hướng tiếp cận Reggio Emilia trong trang trí môi trường lớp học tại trường mầm non
15 p | 50 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục luật lệ an toàn giao thông đường bộ cho trẻ Mẫu giáo 4 - 5 tuổi tại trường mầm non Tuổi Hoa
11 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp dạy trẻ 5-6 tuổi làm một số đồ dùng đồ chơi sáng tạo từ nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương
19 p | 14 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giúp giáo viên tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non
16 p | 13 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Ứng dụng hướng tiếp cận Reggio Emilia trong trang trí môi trường lớp học tại trường mầm non
15 p | 25 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3-4 tuổi
12 p | 29 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi trong trường mầm non
18 p | 16 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phòng, tránh ngộ độc thực phẩm trong trường mầm non
12 p | 21 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 3-4 tuổi hoạt động làm quen với toán ở trường mầm non
12 p | 18 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3 - 4 tuổi trong trường mầm non Tuổi Hoa
20 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ 3-4 tuổi cách phòng tránh tai nạn thương tích trong trường Mầm non Tuổi Hoa
14 p | 23 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi ở trường mầm non
16 p | 8 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp tạo cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn trong trường mầm non
16 p | 14 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn