intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp góp phần rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ ở trường mầm non

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:16

270
lượt xem
41
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sự cấp thiết của nhu cầu học kỹ năng sống của trẻ em là một trong những dấu hiệu đáng mừng của xã hội. Điều đó thể hiện sự quan tâm của các bậc phụ huynh đến việc giáo dục kỹ năng sống, giáo dục phẩm chất đạo đức, nhân cách cho con em mình. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây để nắm một số biện pháp giáo dục cho trẻ!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp góp phần rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ ở trường mầm non

  1.              CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: "Một số biện pháp góp phần rèn luyện kỹ  năng sống cho trẻ ở trường mầm non"     Quang Binh, tháng 12 năm 2016 ̉ ̀
  2. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: " Một số biện pháp góp phần rèn luyện kỹ  năng sống cho trẻ ở trường mầm non "  Họ và tên: Nguyễn Thị Thúy Mị Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Mầm non An Thủy Quang Binh, tháng 12 năm 2016 ̉ ̀
  3. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: Một số biện pháp góp phần rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ ở   trường mầm non. 1. Phần mở đầu: 1.1. Lý do chọn đề tài:  Có lẽ chúng ta đã nghe rất nhiều về cụm từ “kỹ năng sống” và “giáo dục   kỹ  năng sống cho trẻ”. Theo Tổ  chức Y tế  Thế  giới (WHO), kỹ năng sống là   những kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân cần có để  tương tác   với những người khác một cách hiệu quả  hoặc ứng phó với những vấn đề  hay  những thách thức của cuộc sống hàng ngày. Theo UNICEFF, kỹ  năng sống là   tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp cá nhân giúp cho con người  đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các   kỹ  năng tự  xử  lý và quản lý bản thân nhằm giúp họ  có một cuộc sống lành  mạnh và có hiệu quả. Như  vậy, kỹ  năng sống hướng vào việc giúp con người  thay đổi nhận thức, thái độ và giá trị trong những hành động theo xu hướng tích  cực và mang tính chất xây dựng. Chính vì vậy mà ngay từ  giai đoạn mầm non,   trẻ cần được trang bị kỹ năng sống để định hướng phát triển một cách tốt nhất.   Giáo dục mầm non luôn hướng tới mục tiêu giáo dục toàn diện cho trẻ, chuẩn  bị những năng lực, phẩm chất và các kỹ năng xã hội cần thiết. Giáo dục kỹ năng  sống cho trẻ mầm non đã và đang là một nhiệm vụ không thể  thiếu trong công  tác giáo dục mầm non, là vấn đề then chốt, là nền móng để phát huy tối đa hiệu   quả giáo dục.Giai đoạn tuổi mầm non, trẻ xuất hiện tình trạng thụ động, không  biết  ứng phó trong những hoàn cảnh nguy cấp, không biết cách tự  bảo vệ  bản   thân trước nguy hiểm, tìm kiếm sự  giúp đỡ... Có nhiều nguyên nhân khác nhau  gây ra tình trạng này, trong  đó việc thiếu kỹ năng sống  là nguyên nhân sâu xa  nhất. Do đó, việc dạy kỹ năng sống cho trẻ là rất cần thiết. Các nhóm kỹ  năng  sống có thể  dạy cho trẻ  em tuổi mầm non: nhóm kỹ  năng chăm sóc bản thân;   nhóm kỹ  năng quản lý cảm xúc; nhóm kỹ  năng giao tiếp; nhóm kỹ  năng đảm   nhận trách nhiệm; nhóm kỹ năng lãnh đạo. Trong quá trình phát triển nhân cách  nếu trẻ  được sớm hình thành và tôn vinh các giá trị  đích thực của mình thì các  em sẽ  có một nhân cách phát triển toàn diện, bền vững, có khả  năng thích ứng   và chống chọi với mọi biến động xã hội, biết tự  khẳng định mình trong cuộc   sống... Bên cạnh đó, trẻ mầm non đang ở trong giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội   những giá trị  sống để  phát triển nhân cách, do đó, cần giáo dục kỹ  năng sống   cho trẻ để trẻ có nhận thức đúng và có hành vi ứng xử phù hợp ngay từ khi còn  
  4. nhỏ. Các kỹ năng sống  được học tốt nhất thông qua các hoạt động tích cực của   trẻ, đối với trẻ mầm non, trẻ thường học các hành vi thông qua việc bắt chước,   nhập tâm, qua luyện tập thực hiện hàng ngày, lâu dần trở thành kỹ năng của trẻ.  Để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách hiệu quả, giáo viên có thể sử dụng  các biện pháp như: làm gương, trải nghiệm, trò chơi, trò chuyện, đàm thoại...  Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ có thể tiến hành trong tất cả các hoạt động giáo   dục hàng ngày như: vui chơi, học tập, chăm sóc sức khỏe, lễ  hội, tham quan...   Mỗi hoạt động có ưu thế riêng đối với việc dạy những  kỹ năng sống cần thiết   với cuộc sống của trẻ. Giáo dục kỹ  năng sống   cho trẻ  mầm non giúp trẻ  có   kinh nghiệm trong cuộc sống, biết việc nên làm và không nên làm, giúp trẻ  tự  tin, chủ  động và biết cách xử  lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả  năng tư  duy sáng tạo của trẻ, đặt nền tảng cho trẻ  trở  thành người có trách  nhiệm và có cuộc sống hài hòa trong tương lai. Do đó, cần thiết phải giáo dục   kỹ  năng sống cho trẻ  mầm non. Những năm gần đây, nhu cầu học kỹ  năng   sống, các chuẩn mực đạo đức của trẻ  em đã “bùng nổ”. Điều đó thể  hiện sự  quan tâm của các bậc phụ huynh đối với việc giáo dục con em mình.Tuy  nhiên,   về mặt lý luận, cũng như thực tế cho thấy, kết quả của giáo dục kỹ năng sống,  phẩm chất nhân cách, đạo đức cho trẻ  em cần sự  phối hợp của nhiều yếu tố  (gia đình, nhà trường, xã hội). Đã từ  lâu vấn đề  này đã được đặt ra và đến nay   nó vẫn là câu hỏi lớn! Sự cấp thiết của nhu cầu học kỹ năng sống của trẻ em là   một trong những dấu hiệu đáng mừng của xã hội. Điều đó thể hiện sự quan tâm   của các bậc phụ  huynh đến việc giáo dục kỹ  năng sống, giáo dục phẩm chất   đạo đức, nhân cách cho con em mình. Với những lý do trên, là một giáo viên  mầm non tôi chọn đề tài “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ   ở trường mầm non” để làm đề tài nghiên cứu.  1.2. Phạm vi áp dụng đề tài:             Qua thực tế của việc dạy và học của trẻ mẫu giáo, tôi thấy được tầm  quan trọng của việc rèn luyện kỹ  năng sống cho trẻ, làm hành trang cho trẻ  bước vào lớp 1 cũng như tương  lai của trẻ và của xã hội. Đề  tài này tôi nghiên  cứu, đúc rút từ công tác giảng dạy trẻ mẫu giáo ở đơn vị tôi và có thể  áp dụng   cho các đơn vị khác ở trong huyện, trong tỉnh và ngoài tỉnh. 2. Phần nội dung: 2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu:           Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học  thân thiện, học sinh tích cực”. Trong năm nội dung thực hiện có nội dung 3 “rèn  luyện kĩ năng sống cho học sinh”. 
  5. ̀ ́ ́ ậc cha me tre em luôn quan tâm đên viêc làm sao đ Vê phia cac b ̣ ̉ ́ ̣ ể  kích  thích tính tích cực học tập của trẻ, ai cũng muốn con mình được học đọc và học   viết ngay trong những năm tháng học ở mẫu giáo. ́ ơi giao viên m Đôi v ́ ́ ầm non thường tập trung lo lắng cho nhưng tre co ̃ ̉ ́  nhưng vân đê vê hanh vi va kha năng tâp trung trong nh ̃ ́ ̀ ̀ ̀ ̀ ̉ ̣ ững năm tháng đầu tiên  trẻ  đến trường. Đơn giản là vì những trẻ  này thường không có khả  năng chờ  đến lượt, không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho  trẻ không thể tập trung lĩnh hội những điều cô giáo dạy. Vì vậy, giáo viên phải  mất rất nhiều thời gian vào đầu năm học để  giúp trẻ  có được những kỹ  năng   sống cơ bản ở trường mầm non.           * Thuận lợi:           ­ Những năm gần đây Bộ Giáo dục ­ Đào tạo đã phát động phong trào thi   đua “Xây dựng trường học thân thiện ­ học sinh tích cực” với những biện pháp   cụ  thể  để  rèn kỹ  năng sống cho trẻ  một cách chung nhất, đây chính là những  định hướng giúp giáo viên thực hiện như: rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với  các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ  năng làm việc, sinh hoạt theo  nhóm, rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe... ­  Ở  trường mầm non nơi tôi công tác được ban giám hiệu nhà trường   quan tâm giúp đỡ về mọi mặt như: phương tiện dạy học, cơ sở vật chất... ­ Trẻ đã học qua các lớp trước  nên đã có kiến thức và kỹ năng nhất định.   Trẻ mạnh dạn ham học hỏi và thích khám phá tìm hiểu thế giới xung quanh trẻ. ­ Tập thể giáo viên trong trường sôi nổi nhiệt tình trong công tác, có lòng  yêu nghề mến trẻ. * Khó khăn:             Bên cạnh những thuận lợi nêu trên trong quá trình giáo dục trẻ do lớp tôi  phụ  trách vẫn còn một số  khó khăn vướng   mắc trong quá trình rèn luyện kỹ  năng sống cho trẻ: ­ Về  phía nhà trường chưa có biện pháp hữu hiệu để  rèn luyện kỹ  năng  sống cho trẻ. Phần lớn chỉ quan tâm đến việc truyền thụ kiến thức cho trẻ qua  các giờ học ít trú trọng đến việc rèn luyện kỹ năng sống.  ­ Một số  giáo viên chưa xem việc rèn luyện kỹ  năng sống là quan trọng  và cần thiết đối với trẻ. ­ Một số phụ huynh chưa quan tâm đến trẻ, thậm chí một số gia đình còn  thiếu kỹ năng sống làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc giáo dục cho trẻ ở nhà  trường. * Khảo sát thực trạng
  6. Vào đầu năm học, kết quả  khảo sát kỹ  năng sống của trẻ   đầu vào cho   thấy:  TT Tiêu chí Tỷ lệ 1 Mạnh dạn tự tin 53% 2 Kỹ năng hợp tác 47% 3           Kỹ năng thích khám phá học hỏi 58% 4 Kỹ năng trong giao tiếp 58% 5 Kỹ năng tự phục vụ 53% * Nguyên nhân: ­ Do tác động của xã hội làm cho trẻ bị ảnh hưởng một số thói quen xấu  nên việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ còn gặp nhiều khó khăn.  ­ Khó khăn về phía các bậc cha mẹ trẻ em luôn nóng vội trong việc dạy   con, do đó  khi trẻ về nhà mà chưa biết đọc,viết chữ, hoặc chưa biết làm  toán   thì lo lắng một cách thái quá. Đồng thời lại chiều chuộng, cung  phụng con cái  khiến trẻ  không có kỹ  năng tự  phục vụ, chỉ  chú ý đến khâu dạy, không chú ý  đến con mình ăn, uống như  thế  nào, trẻ  có biết sử  dụng những đồ  dùng, vật   dụng trong ăn uống hay không?   Và vì sao chúng ta cần những đồ  dùng, vật   dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì?   ­ Đối với giáo viên mầm non phong trào   “Xây dựng trường học thân  thiện, học sinh tích cực” tập trung nhiều nội dung chung cho các bậc học, giáo   viên chưa hiểu nhiều về  nội dung phải dạy trẻ  lứa tuổi mầm non nh ững k ỹ  năng sống cơ  bản nào, chưa biết vận dụng từ  những kế  hoạch  định hướng  chung để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ mầm non. Đa số giáo viên lớn tuổi có  nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến   khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý  thức vươn lên, rèn luyện   khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn,  giáo viên trẻ tuổi ít hơn,   năng động, sáng tạo nhưng lại khó trong công tác bồi dưỡng do nhận thức về  nghề chưa sâu sắc lại do giáo viên trẻ chủ  yếu là giáo viên hợp đồng nên giáo  viên mới thường không an tâm công tác. 2.2. Các giải pháp: Trong quá trình nghiên cứu đề tài và qua thực tế, tôi đã thực hiện các biện  pháp chung để giải quyết vấn đề như sau: Giải pháp 1:  Giúp trẻ  về việc rèn kỹ năng sống . Trong các năm học qua Bộ Giáo dục ­ Đào tạo phát động phong trào  “Xây   dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” qua đó giúp tôi hiểu được rằng  chương trình học chính khoá thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức văn  hoá trong suốt năm học, còn thực tế  trẻ  sẽ  học tốt nhất khi có được cách tiếp 
  7. cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kỹ năng nhận thức, cảm xúc và   xã hội.Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kỹ năng giao tiếp xã hội và các hành  vi  ứng xử  cơ  bản trong nhóm bạn, thì trẻ  sẽ  nhanh chóng sẵn sàng và có khả  năng tập trung vào việc học văn hoá một cách tốt nhất.  Giải pháp 2: Xác định những kỹ năng sống cơ bản cần dạy trẻ ở lứa   tuổi mẫu giáo 5­ 6 tuổi. Đối với tâm sinh lý trẻ em dưới sáu tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng  mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá. Thực tế kết quả của   nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kỹ  năng quan trọng nhất trẻ  phải học vào  thời gian đầu của năm học chính là những kỹ  năng sống như: sự  hợp tác, tự  kiểm soát, tính tự tin, tự  lập, tò mò, khả  năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác  định được các kỹ  năng cơ  bản phù hợp với lứa tuổi sẽ  giúp giáo viên lựa chọn  đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ .  Giải pháp  3:   Cụ  thể  hóa nội dung của những kỹ  năng cơ  bản mà  giáo viên cần dạy trẻ: +  Kỹ  năng sống tự  tin: một trong những kỹ  năng đầu tiên mà giáo viên  cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm   nhận được mình là ai, cả  về  cá nhân cũng như  trong mối quan hệ  với những   người khác. Kỹ  năng sống này giúp trẻ  luôn cảm thấy tự  tin trong mọi tình  huống ở mọi nơi.  Ví dụ: giờ hoạt động ngoài trời “Quan sát vườn rau” trong khi đang quan  sát và đàm thoại trẻ phát hiện ra có 1 con sâu đang bò trên là rau, trẻ tỏ ra rất sợ  hãi. Lúc này cô giáo chính là người giúp trẻ quên ngay nổi sợ hãi đó. Cô liền hỏi:  ­ Con sâu đó như thế nào?  ­ Con thấy con sâu đó đang làm gì? Nó có lợi hay có hại? Vì sao?  Con sâu không đáng sợ nhưng nó lại gây hại cho cây cối, mùa màng đấy.  ­ Để cho rau xanh tốt, nhanh lớn chúng ta phải làm gì? Và cô bắt ngay con sâu lên khỏi lá rau để  trẻ  thấy rằng con sâu không   đáng sợ mà cần phải diệt trừ nó. + Kỹ năng sống hợp tác: bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát  giáo viên   giúp trẻ học và cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với  trẻ lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc   với các bạn.  Ví dụ: góc xây dựng thì tất cả trẻ trong nhóm cùng nhau hoàn thành công  trình và để làm được điều đó tất cả trẻ cùng thảo luận, phân công công việc cho  
  8. nhau cùng nhau làm công việc được giao, cuối cùng trẻ  cùng nhau hoàn thiện   những cái cuối cùng của công trình. Đó là một cách hợp tác cùng làm việc. + Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: đây là một trong  những kỹ năng quan trọng nhất cần có  ở  trẻ  vào giai đoạn này là sự  khát khao   được học. Giáo viên cần sử  dụng nhiều tư  liệu và ý tưởng khác nhau để  khơi   gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện   hoặc các hoạt động và tư  liệu mang tính chất khác lạ  thường khơi gợi trí não   nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được.  Để  rèn và phát huy tốt kĩ năng này tôi đã sử  dụng nhiều biện pháp khác  nhau kết hợp các phương pháp giáo dục như: sử dụng lời nói, dùng tình huống,  sử dụng trò chơi: * Sử dụng lời nói nhằm giúp trẻ  nắm được các nội dung cần thực hiện.   Ở  phương pháp này đòi hỏi phải chú ý tới khâu dẫn dắt bởi đây là điểm mấu   chốt lôi cuốn hứng thú và sự  chú ý của trẻ, giúp trẻ  tiếp thu tốt kiến thức các  nội dung tiếp theo. * Sử dụng tình huống  nhằm hình thành cho trẻ kỹ năng giải quyết những   tình huống thường gặp trong cuộc sống hàng ngày. Các tình huống không có sẵn   và bản thân tôi phải phát hiện và tận dụng các tình huống có vấn đề  và biết   cách xử lí. Tuy nhiên, ở trong trường mầm non ít khi hay thậm chí không xảy ra  các tình huống như: lạc đường, bị bắt cóc, giúp đỡ người già… Vì thế, tôi tạo ra   một số tình huống thông qua xây dựng kịch bản chơi trò chơi đóng kịch. Ví dụ: với truyện “Cáo, Thỏ và Gà trống” (chủ đề thế giới động vật) Tôi xây dựng thành kịch bản tình huống và tổ  chức cho trẻ  tham gia gia   đóng kịch để  khắc sâu  ở  trẻ  tính cách mạnh mẽ, dũng cảm  ở  nhân vật “Gà  trống”. * Sử dụng trò chơi: trẻ được học tập các kiến thức, kĩ năng một cách tự  nhiên qua các trò chơi, đồng thời đây cũng là cơ hội để trẻ trãi nghiệm và kiểm  tra lại vốn kiến thức kỹ  năng của mình. Đây cũng được coi là hoạt động có ý  nghĩa trong phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Khi tham gia trò chơi trẻ  khám  phá môi trường tự  nhiên và xã hội xung quanh mình. Hoạt động vui chơi cũng  đặt ra cho trẻ  nhiều tình huống bất ngờ  đòi hỏi trẻ  sự  linh hoạt, nhạy bén và  sáng tạo để giải quyết tình huống chơi.  Ví dụ: khám phá tự nhiên “Sự phát triển của cây từ hạt”.  Tôi yêu cầu trẻ  xếp đúng thứ  tự quá trình phát triển của cây từ  hạt (Hạt   ­> mầm ­> cây con ­> cây nhiều cành, nhiều lá ­> cây có hoa ­> cây có quả.) ­ Đặc biệt với trò chơi khoa học là những trò chơi mang tính khám phá,  thử nghiệm nhằm cung cấp cho trẻ những tri thức tiền khoa h ọc, khuy ến khích 
  9. và nuôi dưỡng trí tò mò, ham hiểu biết, góp phần phát triển trí tuệ  và chuẩn bị  những kĩ năng nhận thức nhất định. Với trò chơi này tôi gần như  sử  dụng triệt  để nhằm rèn ky năng thích tò mò, ham hoc hoi, kh ̃ ̣ ̉ ả năng thấu hiểu cho trẻ. Ví dụ 1: Cho trẻ chơi với nước, thả vật nổi vật chìm: ­ Vì sao miếng xốp lại nổi? ­ Vì sao hòn sỏi lại chìm? Ví dụ 2: Cho trẻ thí nghiệm nam châm với sắt, nam châm với gỗ: ­ Khi nam châm đặt gần gỗ thì điều gì xảy ra? ­ Vì sao nam châm không hút được gỗ? ­ Chuyện gì sẽ xảy ra khi nam châm và sắt đặt gần nhau? Hay tôi cho trẻ chơi pha màu nước khi khám phá về sự kì diệu của nước: ­ Vì sao nước biến thành màu vàng? (pha bột màu vàng) ­ Tại sao nước bây giờ màu đỏ mà lại chua? (pha với nước chanh) ­ Để làm ra nước biển cần làm như thế nào? + Kỹ năng giao tiếp: giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn   đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị  trí, kiến  thức của mình trong  thế giới xung quanh nó. Đây là  một kỹ năng cơ bản và khá  quan  trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác   như  đọc, viết, làm toán và nghiên  cứu khoa học. Nếu trẻ  cảm thấy thoải mái  khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ  sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố  cần thiết để  giúp  trẻ sẳn sàng học mọi thứ.  Ví dụ: giờ đón trả trẻ tôi trò chuyện cùng trẻ về cách giao tiếp để tự bảo   vệ mình: ­ Nếu lạc đường sẽ tìm đến ai để hỏi? Con hỏi như thế nào? ­ Nếu có người lạ đụng chạm vào người con phải làm gì? ­ Nếu bị ai bắt nạt con kêu cứu như thế nào? Hay thỉnh thoảng cũng có khách của cô giáo, hoặc ban giám hiệu đến dự  giờ. Tôi dạy trẻ  ứng xử  lịch sự vui vẻ: tôi nhắc trẻ  đứng dậy khoanh tay chào   “Chúng cháu chào cô (bác) ạ!”.  Và tôi cũng cho trẻ  biết có nhiều người xấu  ẩn giấu trong cái vẻ  đàng  hoàng. Tôi dạy trẻ cách trả lời khách lịch sự và có khoảng cách an toàn.  + Kỹ năng lao động tự  phục vụ, rèn tính tự  lập như: biết tự rửa tay sạch  sẽ  trước khi ăn, chỉ  ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử  dụng những đồ  dùng, vật   dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai   nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, biết giúp người lớn  dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
  10. Hằng ngày tôi cũng khuyến khích trẻ  giúp cô thu dọn đồ  dùng, đồ  chơi  sau khi học xong, giúp cô xếp bàn ăn, chia cơm cho bạn và tôi thay đổi cho tất  cả trẻ đều được tham gia. Ví dụ 1: ­ Chuẩn bị đến giờ ăn rồi, hôm nay bạn nào sẽ  cùng cô sắp xếp   bàn ăn nào?    ­ Khi xếp chúng mình phải xếp như thế nào?    ­ Sau khi ăn xong con phải làm gì? Ví dụ 2 : chủ đề  “Nghề nghiệp”   Hoạt động chiều: tôi cho trẻ  “Nhận biết những nguy cơ cháy nổ có thể   gặp”, tôi sẽ cung cấp cho trẻ những kiến thức, và kĩ năng cơ bản sau: ­ Nhận biết các nguồn gây ra lửa (bếp gas, bật lửa, cồn, nến, dầu, xăng,..) ­ Biết ảnh hưởng tốt /xấu của lửa trong cuộc sống. ­ Biết cách dập lửa an toàn (khăn ướt, nước, bình xịt) ­ Tôi cho trẻ  đóng vai giả  làm chú lính cứu hoả     →    từ  đó trẻ  sẽ  được  trang bị kiến thức và kĩ năng cần thiết cho mình. Tôi đã dạy trẻ  cách  ứng phó từ  bây giờ  để  trẻ  biết cách thoát ra nếu   không may điều đó xảy ra trong tương lai. Đặc biệt, tôi khẳng định với trẻ:   “Không có gì quý hơn chính bản thân con”. Vì thế, con không cần mang theo bất  kể cái gì khi thoát ra. Khi nào thoát ra ngoài rồi, con cần phải kêu cứu. Nếu bé  nào cũng biết điều đó thì tỷ lệ tử vong do các thảm họa gây ra sẽ giảm tới mức   tối thiểu.  Giải pháp 4:  Xác định nhiệm vụ cơ bản trong việc dạy trẻ kỹ năng  sống. + Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến  khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy   năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ  là một nhân vật đặc   biệt, phải giáo dục trẻ  như  thế  nào để  trẻ  cảm thấy thoải mái trong mọi tình   huống của cuộc sống. + Giáo viên cần thường xuyên tổ  chức các họat động giáo dục chăm sóc   giáo dục trẻ một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: giúp trẻ phát triển  đồng đều các lĩnh vực: thể  chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm ­ xã hội và  thẩm mỹ. Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá  tim tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ  năng vào việc giải quyết các tinh   huống khác nhau.  + Giáo   viên   cần giúp trẻ  có được những mối liên   kết mật thiết với   những bạn khác trong  lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách   ứng xử, biết lắng nghe  trình  bày  và  diễn đạt được ý của mình  khi  vào  trong  
  11. các  nhóm  trẻ  khác nhau, giúp trẻ  luôn cảm thấy tự  tin khi tiếp nhận các thử  thách mới. Điều này liên quan tới việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự tin hay   không đối với mọi người xung quanh, cũng như  việc mọi người xung quanh   chấp nhận đứa trẻ  đó như  thế  nào? Cần chuẩn bị  cho trẻ  sự  tự  tin, thoải mái   trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ  vì những hành vi không đẹp của trẻ. Giải pháp 5: Tuyên truyền các bậc cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng sống  trong gia đình : + Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ,   trao đổi với phụ  huynh những nội dung và biện chăm sóc giáo dục trẻ  tại nhà,   bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải. + Tuyên truyền để cha mẹ trẻ không nên bực bội khi trẻ về đến nhà hoặc   cho rằng trẻ chỉ biết chơi suốt ngày. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn   của giáo viên và năng khiếu tò mò bẩm sinh của trẻ, trẻ  có thể  lĩnh hội kinh  nghiệm nhằm giải quyết các  vấn đề quan trọng, đọc, làm toán, thử nghiệm một   số kỹ năng khoa học khi chơi với nhau.  + Cha mẹ  trẻ  cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ  và hợp lý   bằng việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ  nên tham  gia vào các buổi trao đổi với giáoviên, tham gia các buổi họp của nhà   trường để  nắm bắt được tình hình để  cùng với nhà trường giáo dục trẻ  một  cách toàn diện hơn.  + Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của  cuộc sống. Nếu cha mẹ muốn giáo dục trẻ  biết tự  giữ  kỷ  luật, trước hết cần   đánh thức sự tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để  trẻ  luôn nghĩ về  bản thân   mình một cách tích cực và đừng bao giờ  phá vở  suy nghĩ tích cực về  bản thân  trẻ. + Trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất  cần thiết. Để trẻ  có được những kỹ xảo, thói quen sử  dụng đồ  dùng  một cách  chính xác thuần thục và  khéo  léo, không  chỉ  đòi  hỏi trẻ  phải thường  xuyên   luyện  tập, mà còn phải đáp  ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp   cho trẻ  những   mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của   chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ. + Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử  công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ. + Tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ vui chơi. Giải pháp  6:    Tạo các tình huống chơi trong chế  độ  sinh hoạt hàng  ngày của trẻ.
  12. +  Đối với trẻ chơi trò chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc rèn kỷ  năng sống cho trẻ. Trẻ lớn lên, học hành và khám  phá  thông qua trò chơi. Các  hành động chơi đòi hỏi trẻ phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý  tưởng.  Ví dụ: giáo viên có thể giới thiệu với trẻ về chữ cái và các con số  thông   qua các trò chơi đóng vai, các trò chơi xây dựng, các trãi nghiệm văn học và âm  nhạc. + Liên tục đọc sách, trò chuyện, kể  chuyện cho trẻ  nghe: Giáo viên cần   tranh thủ đọc sách cho trẻ nghe trong mọi tình huống như những giờ hoạt động   ngoài trời, hoạt động góc...Tăng cường kể cho trẻ nghe các câu chuyện cổ  tích  qua đó rèn luyện đạo đức cho trẻ, giúp trẻ  hoàn thiện mình, biết đọc sách, dạy   trẻ yêu thương bạn bè, yêu thương con người. Tạo hứng thú cho trẻ nhỏ qua các  truyện bằng  tranh  tùy  theo lứa tuổi, gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển  khả năng thấu hiểu ở trẻ. + Giúp trẻ  phát triển sở  thích, ý thích của mình và đảm bảo rằng người   lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để trẻ thực hiện ý thích đó. Ví dụ như  trẻ thích vẽ, ngoài việc cho trẻ học năng khiếu vẽ thì cô giáo,   cha mẹ có thể cho trẻ  thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho trẻ cách lưu giữ các  bức tranh để  tạo thành một bộ  sưu tập tranh vẽ  của chính trẻ  hoặc triển lãm   tranh của trẻ ở góc nhỏ trong nhà. + Cô giáo, cha mẹ  cần dạy trẻ  những nghi thức văn hóa trong ăn uống,   biết cách sử dụng các đồ dùng ăn uống, hơn nữa trẻ sẽ được dạy cách sử dụng   các đồ  dùng đúng chức năng một cách chính xác và thuần thục. Việc này được   thực hiện trong giờ  học, giờ  sinh hoạt hàng ngày của trẻ  tại lớp và trong bửa   cơm gia đình. Cụ  thể: trẻ  được làm quen với những đồ  dùng, vật dụng khác  nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ  uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen   nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ  dùng, vật dụng, thái độ,   ăn uống từ  tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những   cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ  chịu... tất cả  những yếu tốtrên sẽ  giúp trẻ  có thói   quen tốt để  hình thành kỷ  năng tự  phục vụ  và ý nghĩa hơn là kỹ  năng sống tự  lập sau này. Giải pháp 7: Giúp trẻ  phát triển các kỹ  năng sống qua việc tổ chức  các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường. + Nội dung phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích  cực”, trong đó có nội dung: nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể  thao một cách thiết thực, khuyến khích sự  tham gia chủ  động, tự  giác của học  
  13. sinh.Tổ  chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực  khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh. + Duy trì biện pháp tăng cường cho trẻ  chơi các trò chơi dân gian trong  giờ  hoạt động ngoài trời: Các hoạt động tự  chọn được duy trì mỗi tháng có sự  tham gia trực tiếp của cha mẹ để  cùng nặn, cùng vẽ  giúp con mình hoàn thành  sản phẩm, phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ  và hợp lý. Giáo viên chủ  động thay đổi nội dung, hình thức tổ  chức và luân phiên thay đổi thành phần   tham dự để tất cả các bậc cha mẹ đều được tham gia tình nguyện vào quá trình   giáo dục trong nhà trường.  3. Phần kết luận: Ý nghĩa của đề tài, sáng kiến, giải pháp: Trong quá trình thực các biện pháp trên tôi đã thu được một số  kết quả  sau: * Đối với bản thân:  Bản thân chịu khó trò chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi của trẻ, giải   quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ trong lớp.Trong   giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn. Mạnh   dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị, phối   hợp chặt chẽ, trao đổi thừơng xuyên với cha mẹ trẻ. * Đối với trẻ: ­ 100% trẻ đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích  khơi dậy tình  tò  mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin. ­ 100% trẻ  được rèn luyện khả năng sẳn sàng học tập ở trường hiệu quả  ngày càng cao. ­ 100% trẻ  có thói quen lao động tự  phục vụ, được rèn luyện kỹ  năng tự  lập; qua các hoạt động hàng ngày trong cuộc sống của trẻ;  ­ 100% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội; kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp;   chung sống hòa  bình, và  tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng   như ở gia đình. ­ 100 % trẻ  được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ  sức  khỏe, được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ  phát triển . Kết quả thể hiện rất rõ qua việc khảo sát chất lượng cuối năm: TT Tiêu chí Tỷ lệ 1 Mạnh dạn tự tin 95%  2 Kỹ năng hợp tác 89%
  14. 3 Kỹ năng thích khám phá học hỏi 89% 4 Kỹ năng trong giao tiếp 84%  5 Kỹ năng tự phục vụ 100% * Đối với phụ huynh: ­ Cha mẹ  luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo   dục trẻ ở nhà trường. ­ Các bậc cha mẹ  đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo   trong việc dạy trẻ  các kỹ  năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình   thức. ­ Giao tiếp giữa cha mẹ  và con cái tốt hơn, đa số  cha mẹ  dịu dàng, ít la  mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ  năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không  chiều chuộng, không còn hình ảnh mẹ  đi sau xách cặp cho con, ngược lại xuất   hiện khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo cặp, tự để đồ dùng ngay ngắn. Qua quá trình thực hiện tôi đã rút ra được vấn đề cụ thể sau: * Một số điều người lớn cần làm giúp trẻ rèn luyện kỹ năng sống: ̀ ̀ ̀ ước hết la cô giáo và cha m ­ Điêu cân lam tr ̀ ẹ trẻ phai la tâm g ̉ ̀ ́ ương sang,́   yêu thương, tôn trọng, đối xử  công bằng với trẻ  và đảm bảo an toàn cho trẻ.   Việc học của trẻ  nếu luôn đựơc người lớn khuyến khích, chia sẻ  thì trẻ  sẽ  tự  tin vào năng lực của bản thân và chúng thường hy vọng vào tương lai nhiều hơn.  Người lớn cần tạo cơ hội để trẻ chơi, từ đo giúp tr ́ ẻ tìm ra nhiều cách học khác  nhau, những kinh nghiệm trẻ nhận được trong các trò chơi là nền tảng tạo nên   sự hăng hái học tập lâu dài ở trẻ, bởi trẻ nhận ra rằng, học vừa vui mà vừa có ý  nghĩa. Đây chính là những kỹ năng cơ bản để sống và làm việc sau này.  ­ Thường xuyên chỉ  ra cái mới mà người lớn cũng tìm tòi một cách hăng  hái bằng nhiều cách, hãy trao đổi với trẻ về những thông tin mà cô giáo, cha mẹ  mới tìm thấy cho trẻ  thấy rằng học lúc nào cũng vừa vui, vừa thử  thách. Kể  chuyện cho trẻ hàng ngày: Cô giáo, cha mẹ hãy dành thời gian mỗi ngày để  kể  cho trẻ nghe những câu chuyện, dành thơi gian tro chuyên v ̀ ̀ ̣ ơi con tr ́ ẻ vì chuyêṇ   ́ ̉ ̣ ̉ ̣ ̉ ́ la kho bau cua dân tôc, kê chuyên cô tich la con đ ̀ ̀ ường ngăn nhât, đ ́ ́ ơn gian hiêu ̉ ̣   ̉ ́ ́ ̣ qua nhât giao duc nhân cach cho tr ́ ẻ. ­ Để  hình thành và phát triển  ở  trẻ  những thói quen, nghi thức văn hóa  trong ăn uống cần thiết không chỉ  có sự  tập luyện mà còn cần sự  thống nhất   những cách thức và phương thức giữa gia đình và lớp mầm non. Chỉ có sự  kiên  trì, nhẫn nại, sự đồng cả, sự  quan tâm, chú ý và sự  giúp đỡ  quý báu của người   lớn mới giúp trẻ  vượt qua những khó khăn, trở  ngại, mới tạo được một bầu   không khí thân ái, đầm ấm cần thiết trong bữa ăn.  * Một số điều người lớn cần tránh khi dạy trẻ kỹ năng sống:
  15.  ­ Không hạ thấp trẻ: cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả năng trẻ là  chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân trẻ.  ­ Không doạ  nạt trẻ: sự đe doạ  hoàn toàn có hại cho đứa trẻ  và sẽ  không giúp  cho hành vi của trẻ tốt hơn. ­ Không bắt trẻ hứa hẹn: vì sự hứa hẹn hoặc doạ nạt không có ý nghĩa đối với   trẻ vì nếu trẻ cảm nhận được và cắn rứt vì không làm tròn lời hứa thì ở  trẻ sẽ  phát triển cảm giác hối lỗi, ngược lại trẻ . ­ Không bao bọc trẻ  một cách thái quá sẽ  làm trẻ  yếu đuối: cha mẹ  thường   không đánh  giá đúng khả năng của trẻ cho rằng trẻ còn nhỏ sẽ không làm được  một điều gì cả.     ­ Không nên giáo huấn quá nhiều vì  ảnh hửơng của những ngôn ngữ  đó làm   cho đứa trẻ  ngưng hoạt động, nhưng trong thực tế  trẻ  không thể  ngưng hoạt   động sẽ dần làm cho trẻ nghĩ rằng mình là ngừơi có tội, làm nảy sinh tính tự ti,   đánh giá tiêu cực về bản thân sau này. ­ Không tước đoạt của trẻ  quyền làm trẻ  con hãy để  cho trẻ  được làm trẻ  con   thật sự, không nên cung cấp lượng kiến thức quá mức so với khả  năng tiếp   nhận của não bộ. Hãy giúp trẻ lớn lên là chính nó.   ­ Không thúc giục trẻ, sự nóng giận của người lớn đối với những sai sót của trẻ  không những làm trẻ ăn mất ngon, mất hứng thú đối với đồ ăn, mà còn gây cản   trở nghiêm trọng cho trẻ trong việc hình thành những thói quen ăn uống văn hóa.  3.2. Kiến nghị, đề xuất: Đối với nhà trường, cần thường xuyên phát động phong trào “Xây dựng  trường học thân thiện, học sinh tích cực”, trong đó có nội dung:  nhà trường cần   tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự  tham gia chủ  động, tự  giác của học sinh. Tổ  chức các trò chơi dân gian và các  hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh. Thường xuyên tạo điều kiện cho giáo viên được học tập, tham quan từ  những trường bạn snhiều hơn để mở mang tầm nhìn. Trên đây là " Một số  biện pháp góp phần rèn luyện kỹ năng sống cho   trẻ  ở trường mầm non " mà bản thân tôi đúc rút ra từ tình hình thực tế giảng   dạy. Những gì tôi đã làm tuy chưa cao nhưng cũng là sự cố gắng của bản thân. Tuy nhiên bài sáng kiến kinh nghiệm của tôi cũng không tránh khỏi những  hạn chế, kính mong được sự đóng góp ý kiến của Hôi đông thi đua nhà tr ̣ ̀ ường,  của các cấp quản lý giáo dục, cùng các bạn đồng nghiệp để bài viết được hoàn  chỉnh và có hiệu quả thực tiễn hơn./. 
  16.  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1