intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phát triển khả năng nghe và nói cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi A - khu trung tâm, tại trường mầm non Mậu Lâm

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

15
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài này nhằm tìm ra một số biện pháp, hữu hiệu nhất và phù hợp để giúp trẻ phát triển khả năng nghe và nói cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi A – khu trung tâm tại trường mầm non Mậu Lâm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phát triển khả năng nghe và nói cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi A - khu trung tâm, tại trường mầm non Mậu Lâm

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NHƯ THANH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG NGHE VÀ NÓI CHO TRẺ 24 – 36 THÁNG TUỔI A - KHU TRUNG TÂM, TRƯỜNG MẦM NON MẬU LÂM Người thực hiện: Nguyễn Thị Trang Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Mầm non Mậu Lâm SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn THANH HÓA, NĂM 2022
  2. MỤC LỤC TT Tên mục Trang MỤC LỤC 1 Mở đầu 1 1.1 Lý do chọn đề tài 1 1.2 Mục đích nghiên cứu 2 1.3 Đối tượng nghiên cứu 2 1.4 Phương pháp nghiên cứu 2 2 Nội dung 3 2.1 Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu 3 2.2 Thực trạng của vấn đề nghiê cứu 3 2.2. Thuận lợi 4 1 2.2. Khó khăn 4 2 2.2. Kết quả khảo sát đầu năm 4 3 2.3 Các giải pháp đã sử dụng đễ giải quyết vấn đề 5 2.3. Biện pháp 1: Xây dựng môi trường giáo dục nhằm phát triển 5 1 khả năng nghe và nói của trẻ 2.3. Tạo tình huống giao tiếp để phát triển khả năng nghe, nói ở trẻ 8 2 2.3. Biện pháp 3: Áp dụng một số trò chơi dân gian để phát triển 10 3 khả năng nghe và nói cho trẻ 2.3. Biện pháp 4: Tổ chức các hoạt động cho trẻ phát triển khả năng nghe nói 11 4 qua quan sát, sử dụng đồ chơi, vật thật Biện pháp 5: Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong 15 2.3. hoạt động chơi – tập có chủ đích nhằm giúp trẻ phát triển khả 5 năng nghe, nói 2.3. Biện pháp 6: Phối kết hợp với cha mẹ trẻ để phát triển khả 16 6 năng nghe và nói ở trường và tại nhà 2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 18 3 Kết luận, kiến nghị 19 3.1 Kết luận 19 3.2 Kiến nghị 20 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  3. 1. Mở đầu 1.1. Lý do chọn đề tài Ngôn ngữ đối với con người nói chung, với sự phát triển của trẻ mầm non nói riêng (đặc biệt là trẻ 2 – 3 tuổi) có một vị thế hết sức quan trọng. Nó là một trong những cơ sở, tiền đề để cho trẻ phát triển toàn diện về cả thể chất lẫn tinh thần. Vì vậy phát triển khả năng nghe nói cho trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ không chỉ giúp trẻ tiếp thu tri thức nhân loại, giúp trẻ biết lắng nghe và thể hiện suy nghĩ, tình cảm của trẻ khả năng nghe tốt giúp trẻ hiểu được vấn đề mà người khác đang truyền đạt, khả năng nói tốt giúp trẻ thể hiện được những điều trẻ nghĩ, tình cảm của trẻ và cả hành động của trẻ [1] “Nghe và nói là phương tiện để phát triển tư duy” đúng vậy nghe và nói luôn có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ là công cụ để giúp phát triển tư duy và là phương tiện để giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Trong giáo dục trẻ mầm non hiện nay, chúng ta càng thấy rõ vai trò của nghe và nói với việc giúp trẻ trở thành những con người phát triển về mọi mặt: đức, trí, thể, mỹ và hình thành những cơ sở ban đầu của nhân cách con người. Vấn đề phát triển khả năng nghe và nói một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng [2]. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, phần lớn các phụ huynh đều bận rộn lo toan cho cuộc sống, thời gian phụ huynh trò chuyện với trẻ để phát triển vốn từ còn ít. Một số phụ huynh của trẻ nhận thức về tầm quan trọng của việc rèn luyện khả năng nghe và nói cho trẻ còn hạn chế. Do vậy khả năng nghe, nói phát triển vốn từ của trẻ nhà trẻ ngày nay phát triển chậm và ít, chủ yếu trẻ được tiếp xúc và phát triển ngôn ngữ thông qua ti vi, phim ảnh…chưa được sự chỉ bảo, uốn nắn của người lớn. Việc rèn luyện và phát triển khả năng nghe và nói cho trẻ mầm non là vô cùng quan trọng và đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ - viên gạch đầu tiên của nền móng giáo dục mầm non là cả một quá trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi phải kiên trì, cô giáo, bố mẹ là người gương mẫu để trẻ noi theo. Cô phải hiểu được khi nào cần rèn luyện khả năng nghe, khi nào là cần rèn luyện khả năng nói và khi nào thì cần phối hợp cả 2 để phát triển một cách tốt nhất cho trẻ. Ở trường mầm non hoạt động sư phạm của cô giáo mầm non có định hướng, có mục đích để giáo dục, phát triển trẻ. Tác động sư phạm của cô giáo phải luôn luôn thay đổi, phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ để trẻ có cảm tình, hứng thú [3]. Vì thế nên thủ thuật chủ yếu của cô được thể hiện ở chỗ phải biết hòa nhập vào thế giới của trẻ, hòa mình vào với tâm hồn của trẻ thơ để biến mình thực sự trở thành một người bạn đích thực của trẻ. Hơn nữa, cô còn phải biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ, từ đó sẽ khiến trẻ cởi mở, gần gũi hơn với cô, biết nghe theo, vâng lời cô một cách thoải mái, vui vẻ. Vì thế, trẻ sẽ có được những hiểu biết nhất định, có đầy đủ điều kiện về thể lực, kiến thức đồng thời là hành trang ban đầu cho trẻ hình thành và phát triển nhân cách, đức tính tốt sau
  4. này, để trẻ có thể tự tin, vững vàng hơn trong tương lai. Tư duy của trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ là tư duy trực quan, khả năng tri giác về các sự vật hiện tượng bắt đầu được hoàn thiện, trẻ hay bắt chước những cử chỉ, và lời nói của người khác. Do vậy ngôn ngữ của cô giáo phải rõ ràng và chính xác và ngay cả người lớn trong nhà cũng là tấm gương để trẻ noi theo. Trên thực tế, sự chênh lệch về vốn từ của trẻ ở cùng một độ tuổi trong lớp là khá lớn. Qua đó, vốn từ của trẻ không phụ thuộc vào điều kiện vật chất, kinh tế của gia đình mà trước hết liên quan rất nhiều đến thời gian người thân trò chuyện với trẻ như thế nào? Bố mẹ có lắng nghe bé kể chuyện về các hoạt động của trẻ ở trường hay những thắc mắc của trẻ về cuộc sống xung quanh? Có thường xuyên kể chuyện cho bé nghe và hướng dẫn bé kể lại không? Ngày nghỉ có đưa bé đi chơi công viên hay đi thăm họ hàng hay không? Tất cả những điều đó không chỉ làm tăng số lượng vốn từ của trẻ, sự hiểu biết nghĩa của từ, cách dùng từ của trẻ mà còn làm phong phú hiểu biết về thế giới xung quanh và bồi dưỡng xúc cảm cho trẻ. Năm học 2021 - 2022 tôi được nhà trường phân công dạy lớp 24 - 36 tháng tuổi A – khu trung tâm. Tôi thấy hầu hết trẻ lớp tôi khả năng nghe và nói của trẻ còn hạn chế, tất cả những khả năng đó đều xuất phát là do vốn từ của trẻ rất ít. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, phần lớn các phụ huynh đều bận rộn lo toan cho cuộc sống, ít có thời gian bố mẹ trò chuyện với trẻ để phát triển vốn từ của trẻ. Một số cha mẹ của trẻ chưa nhận thức hết về tầm quan trọng về khả năng nghe và nói của trẻ. Do vậy khả năng nghe và nói của trẻ độ tuổi 24 – 36 tháng tuổi nói chung và trẻ lớp tôi nói riêng còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp phát triển khả năng nghe và nói cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi A - khu trung tâm, tại trường mầm non Mậu Lâm.” làm đề tài nghiên cứu góp phần vào mục tiêu phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi. 1.2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của bản thân khi viết đề tài này nhằm tìm ra một số biện pháp, hữu hiệu nhất và phù hợp để giúp trẻ phát triển khả năng nghe và nói cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi A – khu trung tâm tại trường mầm non Mậu Lâm. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Một số biện pháp phát triển khả năng nghe và nói cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi A – khu trung tâm tại trường mầm non Mậu Lâm. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Trong bài viết sáng kiến kinh nghiệm tôi đã sử dụng các phương pháp sau: * Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận Phương pháp tổng hợp và phân tích Phương pháp hệ thống hóa * Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn Phương pháp đàm thoại: Trao đổi trực tiếp với trẻ trong quá trình chơi.
  5. Phương pháp nghiên cứu * Phương pháp tổng kết kinh nghiệm 2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lý luận Bác Hồ đã từng dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó”. Để thực hiện được điều đó thì chúng ta nên phát triển khả năng nghe nói cho trẻ nhà trẻ, đặc biệt là trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi A. Phát triển khả năng nghe và nói tốt ngay từ độ tuổi nhà trẻ là đặt nền móng vững chắc cho giáo dục mầm non. Để đạt được kết quả thì cô giáo cần phải đảm bảo các nguyên tắc trong giáo dục học: Tính khoa học, tính hệ thống, tính trực quan, nguyên tắc vừa sức tiếp thu và nguyên tắc lý luận kết hợp với thực tiễn. Ngoài ra, cô giáo là người chịu trách nhiệm chỉ bảo cho trẻ mọi điều và việc quan trọng hơn cả là phải chú ý, quan tâm đến trẻ hơn về mọi mặt để xem trẻ phát âm có chuẩn không, nói có đầy đủ bộ phận không [4]. Đặc biệt quan tâm đến những trẻ phát triển ngôn ngữ còn kém; quan tâm hơn tới những trẻ có khả năng nghe, nói chưa tốt; những trẻ có khả năng nghe nói tốt thì cần được phát huy hơn nữa kích thích trẻ nói được nhiều, được thành thạo [5]. Ở các hoạt động giao tiếp hàng ngày: Tạo cơ hội cho trẻ được giao tiếp với người khác, khuyến khích trẻ sử dụng các câu hoàn chỉnh ở các thời điểm thích hợp, tăng cường cho trẻ sử dụng các loại từ, câu khác nhau sẽ giúp trẻ biết cách lắng nghe và sử dụng lời nói trong giao tiếp. Trong các hoạt động chơi tập, chơi hay khám phá trải nghiệm đều giúp trẻ phát triển khả năng nghe và phát triển ngôn ngữ một cách hiệu quả. Đối với lứa tuổi nhà trẻ qua quan sát những giờ hoạt động chơi tập và giờ hoạt động vui chơi, tôi thấy các cháu rất thích được giao tiếp, thích được trò chuyện và thích được nói, nhưng vì ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế, nên tôi thấy mình cần phải tìm nhiều biện pháp tác động để kích thích ngôn ngữ của trẻ phát triển [4]. Mục tiêu của phát triển ngôn ngữ với trẻ 24 - 36 tháng tuổi A đó chính là có khả năng lắng nghe hiểu lời nói trong giao tiếp hàng ngày và biểu đạt bằng nhiều cách khác nhau( lời nói, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ…), diễn đạt rõ ràng và giao tiếp có văn hóa trong cuộc sống hàng ngày, khả năng lắng nghe và kể lại sự việc, kể lại truyện theo cách của trẻ, cảm nhận được vần điệu, nhịp điệu bài thơ, ca dao, đồng dao, phù hợp với độ tuổi. Có thể nói, nghe và nói được sử dụng trong tất cả các hoạt động như giao tiếp, trò chuyện, đọc, kể chuyện, chơi, khám phá trải nghiệm…Chính vì vậy, ta phải tổ chức đa dạng các hoạt động, tạo điều kiện tối ưu để trẻ được thực hành trải nghiệm phát triển khả năng của mình. 2.2.Thực trạng việc phát triển khả năng nghe và nói cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi A ở trường mầm non Mậu Lâm, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hoá
  6. Năm học 2021 - 2022 tôi được phân công chủ nhiệm lớp nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi A tại trường mầm non Mậu Lâm trong quá trình thực hiện đề tài tôi gặp những thuận lợi và khó khăn như sau: 2.2.1. Thuận lợi Trường mầm non Mậu Lâm là trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 1 nên về cơ sở vật chất trang thiết bị tương đối đáp ứng được việc dạy và học của cô và trẻ. Trường luôn đi đầu thực hiện các chương trình mới, việc thực hiện các chuyên đề cũng như thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục đã thấm nhuần đến từng cán bộ giáo viên. 100% các lớp trong nhà trường thực hiện chương trình giáo dục mầm non, từ quản lý đến giáo viên đã nắm vững nội dung chương trình và có nhiều kinh nghiệm trong chỉ đạo thực hiện. Đa số các cháu đi học đều và ngoan, lễ phép, biết vâng lời cô giáo. Bản thân luôn cố gắng học hỏi, áp dụng phương pháp dạy học tích cực trong các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ, sưu tầm làm đồ dùng đồ chơi đa dạng và phong phú, thiết kế môi trường học tập để trẻ có hứng thú trong các hoạt động học. Bên cạnh đó tôi luôn yêu nghề, mến trẻ, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục mầm non. Được sự ủng hộ của các bậc phụ huynh học sinh đã phối hợp chu đáo, nhiệt tình trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. 2.2.2. Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi trên thì cũng có rất nhiều những khó khăn: Nhận thức của trẻ không đồng đều. Vì trẻ ở độ tuổi không đều có trẻ thì 24 tháng tuổi, có trẻ thì 36 tháng tuổi,... nên nhận thức của trẻ chưa đồng đều. Một số trẻ sức khỏe yếu ảnh hưởng đến việc học tập của trẻ. Một số trẻ còn chưa nói được, nói còn ngọng, khả năng trả lời các câu hỏi còn chậm, đa số trẻ nói chưa đủ câu, đủ ý. Trẻ còn nhút nhát, khả năng giao tiếp hạn chế trẻ chưa mạnh dạn, thiếu tự tin trong các hoạt động. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập của trẻ. Còn một số phụ huynh trẻ chưa quan tâm đến việc học hành của con em mình, chưa nhận thức rõ tầm quan trọng về việc phát triển khả năng nghe và nói của trẻ. Họ cho rằng trẻ còn nhỏ biết gì, làm được gì mà mà phải đến lớp, đến trường, sau này lớn lên sẽ tự nghe, tự hiểu và sẽ nói thành thạo. Một số gia đình do ít con cho nên chiều chuộng và dẫn đến trẻ ít hoạt động mà luôn có tính ỷ lại vào người khác. Chính vì vậy việc phối hợp với các bậc phụ huynh trong việc dạy khả năng nghe và nói cho trẻ tôi gặp nhiều khó khăn. 2.2.3. Kết quả khảo sát đầu năm Căn cứ vào tình hình thực tế của lớp, để thực hiện tốt các biện pháp giáo dục khả năng nghe và nói cho trẻ sát với thực tế, tôi đã đề ra một số tiêu chí khảo sát trên 25 trẻ lớp tôi phụ trách để ghi lại thật cụ thể những trẻ nào có những khả năng nghe, khả năng nói tốt, trẻ nào có các khả năng nghe, khả năng nói cơ bản còn hạn chế, nguyên nhân vì sao và tiến hành khảo sát hoạt động của
  7. trẻ như sau: Bảng kết quả khảo sát tháng 9/2021 Kết quả Tổng Chưa số trẻ Đạt STT Nội đung khảo sát đạt trong Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ lớp lượng % lượng % Khả năng sử dụng vốn từ 1 25 9 36% 16 64% của trẻ Kỹ năng nói đúng ngữ 2 pháp và lịch sự, lễ phép 25 9 36% 16 64% trong giao tiếp Kỹ năng nghe hiểu ngôn 3 ngữ và phát âm rõ ràng 25 10 40% 15 60% mạch lạc Kỹ năng phản ứng nghe và 4 nói phù hợp với người 25 9 36% 16 64% xung quanh. * Nhận xét Qua khảo sát thực tế về chất lượng trẻ của lớp tôi phụ trách, tôi nhận thấy: Số trẻ có khả nghe và nói ở mức đạt thấp( dao động từ 40% đến 55%). Mức độ chưa đạt chiếm tỷ lệ cao. Đứng trước tình hình như vậy, tôi luôn đắn đo suy nghĩ làm thế nào để nâng cao kết quả giáo dục khả năng nghe và nói cho trẻ, tạo cơ hội để trẻ vận dụng kiến thức kĩ năng vào thực tiễn cuộc sống, để những kĩ năng đó trở thành thuộc tính vững chắc trong nhân cách trẻ. Qua tài liệu, tôi đã tìm ra được một số biện pháp giáo dục rèn khả năng nghe và nói cho trẻ như sau. 2.3. Một số biện pháp phát triển khả năng nghe và nói cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi A – khu trung tâm tại trường mầm non Mậu Lâm 2.3.1.Biện pháp 1: Xây dựng môi trường giáo dục nhằm phát triển khả năng nghe và nói của trẻ Môi trường giáo dục trong trường mầm non là tổ hợp những điều kiện tự nhiên và xã cần thiết, trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ ở trường mầm non và hiệu quả của những hoạt động này nhằm góp phần thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ. Để phát triển khả năng nghe và nói nhằm phát triển ngôn ngữ, vốn từ cho trẻ thì vấn đề tạo môi trường cho trẻ cũng là vấn đề quan trọng không thể thiếu. Một môi trường sạch sẽ, an toàn, có sự bố trí khu vực chơi và học trong lớp và ngoài trời phù hợp, thuận tiện có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với sự phát triển thể chất của trẻ, mà còn thỏa mãn nhu cầu nhận thức, mở rộng hiểu biết của trẻ, kích thích trẻ hoạt động tích cực, sáng tạo. Môi trường giao tiếp cởi mở, thân thiện giữa cô với trẻ, giữa trẻ với trẻ và giữa trẻ với môi trường xung quanh sẽ tạo cơ hội cho trẻ được chia sẻ, giãi bày tâm sự, nguyện vọng, mong ước của trẻ với cô, với bạn bè, nhờ vậy mà cô hiểu trẻ hơn, trẻ hiểu nhau hơn, hoạt động
  8. phối hợp nhịp nhàng hơn nên hiệu quả hoạt động cũng cao hơn, trẻ yêu trường, yêu lớp yêu cô giáo và bạn bè hơn. Môi trường trong lớp học Ngoài số lượng các khu vực chơi đảm bảo theo quy định, các khu vực chơi được bố trí, sắp xếp hợp lí động, tĩnh không gần nhau; Đồ dùng, đồ chơi trong các khu vực phong phú về thể loại. Tôi còn trang trí, sắp xếp phòng, lớp các khu vực chơi đảm bảo thẩm mĩ, thân thiện, an toàn, phù hợp với nội dung giáo dục, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Các đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu đa dạng, phong phú, hấp dẫn sẽ tạo cho trẻ thích tương tác với nhau, từ đó giúp trẻ phát triển các khả năng: Nghe, hiểu ngôn ngữ và phát âm, khả năng giao tiếp, khả năng diễn đạt, khả năng nói đúng ngữ pháp, nói rõ ràng mạch lạc, để từ đó phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Ví dụ: Trong lớp tôi đã bố trí một khu vực đó là “Thư viện của bé”, Khu vực này thì tôi bố trí nơi có nhiều ánh sáng và yên tĩnh, ít người qua lại. Ở đó có thảm, đệm đã làm khu vực này trở nên ấm cúng hơn và mời gọi hơn với trẻ. Tại khu vực này trẻ có thể theo đuổi các hoạt động như: Xem tranh ảnh về các câu chuyện, các con rối tay, rối que cho trẻ kể với nhau, kể cho nhau nghe, trao đổi thông tin với nhau, làm các quyển ambun về các câu chuyện, dùng bút màu vẽ hoặc tô các câu chuyện trên những viên đá to để tạo thành một câu chuyện. Ngoài ra, tôi cùng giáo viên phụ trách trong lớp làm những đồ dùng tự tạo để trang trí, làm các quyển ambun về các câu chuyện, làm những khung rối làm từ các vỏ thùng catton, những cuốn sách làm từ những bìa lịch cũ, những con rối que, rối bóng , rối ngón tay cho trẻ diễn rối, tập đóng kịch… Với những việc đã làm trong khu vực “Thư viện của bé” trở nên ngộ nghĩnh và sinh động hơn rất nhiều, tạo cho trẻ tích cực hoạt động và giao tiếp từ đó khả năng diễn đạt, khả năng giao tiếp, khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ, khả năng nói đúng ngữ pháp, nói rõ ràng mạch lạc của trẻ đã tiến bộ hơn nhiều. Từ đó kho từ vựng của trẻ đã tăng thêm góp phần phát triển toàn diện cho trẻ. (Ảnh về khu vực thư viện của bé)
  9. Việc cùng trang trí môi trường trong lớp với đồ dùng, đồ chơi được sắp xếp thay đổi theo từng chủ đề; cung cấp thêm các đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu mở đa dạng, phong phú; sắp xếp khoa học, hợp lí sao cho cô và trẻ dễ thấy, dễ lấy, dễ sử dụng, sẽ rất thu hút sự chú ý của trẻ, giúp cho quá trình giao tiếp của trẻ với đồ vật, của trẻ với trẻ sẽ tăng lên làm phát triển khả năng nghe và nói của trẻ trong quá trình giao tiếp. Ví dụ: Trong chủ đề “Những con vật đáng yêu” tôi cùng trẻ đã trang trí mảng tranh chủ đề về các loài động vật: Có động vật sống trong rừng, những con vật nuôi trong gia đình, những con côn trùng,... Các con vật tôi không trang trí thành “mảng chết” mà tôi dùng cách trang trí “di động” như: Các con vật tôi có thể thay đổi theo kế hoạch của chủ đề nhánh như “Những con vật nuôi trong gia đình” thì tôi làm các con vật vào bìa cứng, cô cùng trẻ trang trí các con vật và dùng băng dính nhám để dính vào để có thể thay đổi vị trí trên mảng tường. Cứ như thế tới chủ đề nhánh khác tôi lại làm tương tự. Không những thế từ việc trang trí đó tôi có thể cho trẻ hoạt động trong các giờ nhận biết tập nói như: Nhận biết tập nói “Con chó - con mèo” thì tôi dùng tranh “Con chó, con mèo” để gắn lên và cho trẻ hoạt động: Có thể vào phần gây hứng thú, phần củng cố bằng trò chơi..... Bên cạnh đó hàng ngày khi trẻ tới lớp, trẻ luôn được hoạt động với các đồ chơi trên mảng tường đó cùng cô và các bạn làm thêm các đồ chơi, đồ dùng và tranh ảnh tiếp theo để hoạt động... Từ việc đó đã kích thích trẻ tích cực hoạt động, tích cực nói, khả năng nghe và nói của trẻ sẽ hình thành và phát triển. Trong quá trình trẻ hoạt động, trải nghiệm, tôi luôn quan tâm, hướng dẫn cho trẻ, tạo cơ hội cho trẻ hứng thú tham gia và hoạt động thực hành, vui chơi, giao tiếp, giúp trẻ đoàn kết, giúp đỡ, nhường nhịn lẫn nhau, qua đó hình thành nhân cách cho trẻ. * Về môi trường xã hội Môi trường chăm sóc, giáo dục trong trường mầm non cần phải đảm bảo về mặt tâm lí, tạo thuận lợi giáo dục các kĩ năng xã hội cho trẻ. Hành vi, cử chỉ, lời nói, thái độ của giáo viên đối với trẻ và những người khác luôn mẫu mực để trẻ noi theo. [4]. Chính vì vậy việc chú trọng tạo môi trường xã hội thuận lợi để cho trẻ thường xuyên được giao tiếp, tương tác, thể hiện mối quan hệ thân thiện giữa giáo viên với trẻ, trẻ với trẻ, giữa trẻ với những người xung quanh. Để phát triển khả năng nghe, nói cho trẻ tôi cho trẻ thường xuyên trò chuyện với trẻ và khuyến khích trẻ nói. Khi trẻ có khó khăn hay có tâm lý ngập ngừng, nhút nhát, tôi khích lệ, hỗ trợ, động viên để trẻ tích cực trò chuyện. Khi giao tiếp với trẻ, tôi chú ý đến giọng nói và thái độ, giọng nói dịu dàng, ánh mắt trìu mến, tình cảm nồng ấm của mình từ đó sẽ khiến trẻ tự tin hơn rất nhiều. Khuyến khích trẻ cố gắng sử dụng ngôn ngữ để lưu lại những ý tưởng và suy nghĩ của mình. Tôi luôn có tác phong sư phạm và lời nói chuẩn mực, với ngôn ngữ giao tiếp trong sáng luôn biết lắng nghe và trân trọng trẻ.
  10. Ví dụ: Tôi tổ chức các buổi tham quan, dạo chơi ngoài trời như thăm quan vườn rau của bé, thăm quan các khu vực trong nhà trường như phòng ban giám hiệu, phòng chức năng, phòng hội họp, phòng bếp.... Khi tham gia hoạt động này thì trẻ rất hứng thú tham gia và thường xuyên trao đổi với cô và các bạn. Từ đó đã khích lệ trẻ giao tiếp và tạo điều kiện cho trẻ được giao tiếp với cô, với bạn và với mọi người. Trong quá trình thăm quan thì tôi luôn có những lời nói chuẩn mực, ngôn ngữ giao tiếp trong sáng để cho trẻ học tập và làm theo như cách chào hỏi khi đến, cách chào khi về, trong quá trình giao tiếp, ... để từ đó trẻ phát triển thêm vốn từ, củng cố khả năng nghe, nói của trẻ trong quá trình giao tiếp và ứng xử của mọi người. Ảnh: Cô cùng trẻ dạo chơi tham quan vườn rau của bé Âm thanh từ các môi trường khác nhau có tác dụng kích thích thính giác cũng như các giác quan của trẻ rất lớn. Chính vì thế, tôi còn tạo cơ hội để trẻ được nghe các âm thanh khác nhau từ môi trường. Ví dụ: Tiếng kêu của các con vật, tiếng đàn, tiếng mưa rơi, âm thanh của các phương tiện giao thông… Từ việc chuẩn bị môi trường xã hội và môi trường lớp học tôi đã thấy trẻ hứng thú hơn khi tới trường, tới lớp, tích cực giao tiếp với bạn, với cô và mọi người xung quanh. Chính vì thế mà trẻ ngày một mạnh dạn hơn, tự tin hơn trong giao tiếp góp phần phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ và phát âm, khả năng giao tiếp, khả năng nói đúng ngữ pháp, khả năng diễn đạt , nói rõ ràng, mạch lạc, ....... làm tăng cường và củng cố vốn từ cho trẻ để từ đó phát triển toàn diện nhân cách trẻ. 2.3.2. Biện pháp 2: Tạo tình huống giao tiếp để phát triển khả năng nghe, nói ở trẻ Như chúng ta đã biết tạo tình huống giao tiếp là quá trình trao đổi chia sẻ
  11. thông tin giữa người nói và người nghe nhằm đạt được mục đích nào đó. Giao tiếp là hoạt động mà con người phải trải qua nhiều nhất trong cuộc đời của mình, và chắc chắn trong giao tiếp sẽ xuất hiện rất nhiều tình huống từ đơn giản đến phức tạp để ta phải ứng xử. Hiểu được tầm quan trọng của tình huống giao tiếp, tôi đã chú trọng đến việc tạo tình huống giao tiếp nhiều hơn để phát triển khả năng nghe nói cho trẻ. Tôi thực hiện ở mọi lúc mọi nơi như trong giờ đón, trả trẻ; trong hoạt động chơi tập có chủ đích; trong hoạt động chơi tập ở các khu vực chơi; ở hoạt động dạo chơi ngoài trời; trong khi tổ chức cho trẻ ăn… Tạo tình huống giao tiếp để trẻ nghe hiểu lời nói Ví dụ : Trong giờ đón trẻ, trả trẻ. Để trẻ nghe hiểu lời cô nói. Tôi đã lựa chọn giao tiếp bằng hình ảnh. Ở cửa lớp học của trẻ 24 - 36 tháng tuổi A tôi dán các biểu tượng về hình ảnh như trái tim biểu tượng cho vòng tay ôm, hình ảnh bàn tay xinh biểu tượng cho cái bắt tay, hình ảnh cái miệng biểu tượng cho một nụ hôn lên má. Đến lớp chỉ cần đặt tay lên biểu tượng đó và nói là trẻ đã hiểu ngay là cô đang vẫy tay chào mình, cô muốn ôm mình, hay mình muốn hôn lên má cô. Giao tiếp bằng cách này rất thú vị, trẻ hiểu được lời cô nói và trẻ thể hiện bằng ngôn ngữ và hành động để cô cũng hiểu được lời trẻ nói. Những buổi tới lớp cũng như khi ra về với trẻ trở thành niềm vui, sự gần gũi. Tạo tình huống giao tiếp để trẻ nghe nhắc lại âm thanh và các tiếng các câu Ví dụ 1 : Trong hoạt động âm nhạc: Dạy hát “ Cô và mẹ”. Để giúp trẻ nhớ được bài hát, tôi đã tạo tình huống giao tiếp giữa cô và trẻ hoặc là giữa trẻ với âm nhạc. Thứ nhất, tôi dạy trẻ nghe từng câu cô hát, yêu cầu trẻ hát lại. Thứ hai, tôi cho trẻ nghe một bạn nào hát trên video và yêu cầu trẻ hát lại. Thứ 3, tôi sử dụng các dụng cụ âm nhạc như đàn, thanh gõ, phách để cho trẻ hát theo nhạc điệu. Từ các giao tiếp tương tác đó trẻ trong lớp tôi đã nhớ rất nhanh lời bài hát và hát đúng theo lời, giai điệu của bài hát. Ví dụ 2: Trong hoạt động nhận biết tập nói “Ô tô”. Mục đích thúc đẩy tương tác của trẻ, tạo hứng thú trẻ nghe và nói lại được các câu, các từ. Tôi cần chuẩn bị ô tô, đồ chơi chuyển động, phần thưởng trẻ thích. Bước 1: Yêu cầu trẻ đẩy xe vào nhà xe và nói với bác bảo vệ là “ mẹ cháu gửi ô tô”. Bước 2: Tôi đến nhà xe lấy xe và lái đi. Khi tôi lái thì tôi phát ra tiếng kêu của xe là rin rin…Tôi đưa xe cho trẻ và bảo trẻ thử lái xem. Yêu cầu trẻ nói được âm thanh của xe như khi tôi lái. Tạo tình huống giao tiếp để trẻ sử dụng ngôn ngữ Ví dụ 1: Trước khi trẻ ngủ đọc cho trẻ nghe câu chuyện, sau đó hỏi trẻ tên nhân vật chính trong chuyện, các sự việc sảy ra với nhân vật chính. Cách làm này tôi không chỉ giúp bé tăng khả năng nhớ mà còn tạo cho trẻ tự tin manh dạn trong giao tiếp. Ví dụ 2: Tôi mở một đoạn phim hoạt hình mang tính giáo dục. Trong những giờ chơi,hoạt động theo ý thích. Cô và trẻ cùng xem đoạn phim đó. Sau
  12. đó, tôi khuyến khích tính chủ động cũng như khả năng ghi nhớ của trẻ như: Con cảm thấy thế nào? Con thấy nhân vật trong phim ra sao? Con thích nhân vật nào trong đó?…Làm như vậy, trẻ sẽ được rèn khả năng nghe nói và tìm cách trả lời các câu hỏi của cô theo hướng hợp lý nhất. Ngoài ra, tôi cũng có thể đọc chuyện và yêu cầu bé tái hiện lại câu chuyện thông qua các câu hỏi giao tiếp cô đưa ra. Từ khi áp dụng biện pháp tạo tình huống giao tiếp này tôi thấy: Đã tạo cho trẻ cảm giác an toàn, thoải mái, tự tin, gần gũi với trẻ. Tạo sự tò mò tìm hiểu khám phá trải nghiệm của trẻ. Đã kích thích cảm xúc để trẻ tự nghe, tự hiểu và tự nói. 2.3.3. Biện pháp 3: Áp dụng một số trò chơi dân gian để phát triển khả năng nghe và nói cho trẻ Trò chơi dân gian là trò chơi rất thu hút trẻ bởi nó không chỉ dễ chơi mà lại gắn các lời đồng dao quen thuộc nên trẻ rất thích. Hiểu được điều đó nên mỗi chủ đề tôi đã sử dụng các trò chơi dân gian phù hợp nhằm giúp trẻ phát triển khả năng nghe, nói của mình. Trò chơi dân gian có thể thực hiện được nhiều nội dung phát triển ngôn ngữ như: nghe hiểu giọng nói, giọng điệu khác nhau, Phát âm các âm khó, các từ có chứa các âm gần giống nhau; đọc thơ, ca dao, đồng dao; trả lời và đặt câu hỏi; sử dụng lời nói trong giao tiếp; chủ động, tự tin trong giao tiếp…“Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì chơi khuyến khích việc sử dụng và thực hành ngôn [4]. Tôi áp dụng lồng ghép, tích hợp để phát triển khả năng nghe và nói cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi A tại lớp mình. Ví dụ: Trò chơi: Thả đĩa ba ba. Chủ đề: Bé và các bạn Mục đích: Phát triển khả năng nghe, nói ở trẻ thông qua trò chơi. Thả đĩa ba ba. Đổ mắm, đổ muối Chớ bắt đàn bà Đổ chuối hạt tiêu Phải tội đàn ông Đổ niu nước chè Cơm trắng như bông Đổ phải nhà nào Gạo mềm như nước Nhà ấy phải chịu. Cách chơi: - Số trẻ: Tốp, nhóm, tổ hoặc cả lớp. - Vẽ một vòng tròn giữa sân hoặc giữa nhà…(to nhỏ tuỳ theo số lượng trẻ) - Các bạn đứng thành một vòng tròn xung quanh một bạn ở giữa. Bạn này cùng các bạn vừa đọc lời ca vừa chỉ tay vào từng bạn xung quanh theo nhịp của bài. Tiếng cuối cùng của bài rơi vào bạn nào thì bạn đó phải làm “đỉa” đứng giữa ao. Các bạn khác giả vờ xuống ao rửa chân tay và nói “ đỉa ra xa - tha hồ tắm mát”. “ Đỉa” phải rình chạy vào bờ để bám vào một bạn nào đó đang tắm rửa dưới ao. Ai không kịp chạy lên bờ để ra khỏi ao bị “đỉa” bám vào thì phải thay thế vai “đỉa”. Trò chơi cứ thế tiếp diễn. Hay trò chơi: Dung dăng dung dẻ. Chủ đề “Mẹ và những người thân yêu của bé”. Mục đích: Phát triển vốn từ, phát triển phát âm mạch lạc ở trẻ. Cách chơi: Các cháu cùng nắm tay, vừa đi vừa đung đưa đọc theo nhịp
  13. đồng dao. Đến câu “ngồi xụp xuống đây” thì tất cả cùng ngồi xổm một lát, rồi lại đứng dậy vừa đi vừa đọc tiếp bài đồng dao. Dung dăng dung dẻ Cho cóc về quê Dắc trẻ đi chơi Cho dê đi học Đến cổng nhà trời Xì xà xì xụp Lậy cậu lậy mợ Ngồi xụp xuống đây. Ảnh: Cô và trẻ chơi trò chơi dung dăng dung dẻ 2.3.4. Biện pháp 4: Tổ chức các hoạt động cho trẻ phát triển khả năng nghe nói qua quan sát, sử dụng đồ chơi, vật thật Trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kinh tế phát triển đồ chơi của trẻ cũng rất phong phú hiện đại. Đặc điểm lứa tuổi của trẻ là hoạt động với đồ vật, hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo của tuổi nhà trẻ. Đó là hoạt động hết sức quan trọng. Nó giúp phát triển trí tuệ, thể lực, ngôn ngữ. Thông qua hoạt động với đồ vật mà chức năng của đồ vật lần đầu tiên được bộc lộ ra trước khiến trẻ thu hút sự chú ý, tạo cho trẻ hào hứng chơi và học hỏi, khám phá. Từ đó tôi đã mạnh dạn tìm tòi nghiên cứu tạo điều kiện cho trẻ được hoạt động
  14. với đồ vật nhiều hơn, giúp giáo dục toàn diện về thể chất trí tuệ cho trẻ . Đặc biệt là tạo điều kiện cho trẻ khả năng nói lưu loát, mạnh dạn ở trẻ. Trong đó tôi rất chú trọng cho trẻ sử dụng nguyên vật liệu sẵn có, nguyên vật liệu tái sử dụng, an toàn để phát triển khả năng nghe và nói tới trẻ. Ví dụ: Trong hoạt động chơi tập có chủ đích: Truyện: Đôi bạn tốt Để phát triển khả năng nghe, nói tốt cho trẻ tôi sử dụng đồ dùng đồ chơi như sau: - Chuẩn bị: Mũ con gà, con vịt từ bìa các tông; Hai ngôi nhà màu xanh, màu đỏ làm từ thùng giấy hỏng và bọc màu. - Thực hiện: Chia lớp thành 2 đội, một đội là gà con, một đội là vịt con. Tôi giấu 2 bạn trong 2 ngôi nhà nhỏ màu xanh và màu đỏ. + Bạn trong ngôi nhà màu xanh sẽ lên tiếng: Chiếp, chiếp, chiếp, cứu tôi với, cứu tôi với! + Tôi hỏi cả hai đội đó là tiếng của con gì? + Khi các bạn bước ra khỏi căn nhà. Tôi hỏi trẻ rằng: Đố các bé biết bạn đó là ai? Tiếng kêu của gà con như thế nào? + Bạn trong ngôi nhà màu đỏ sẽ lên tiếng: Vít, vít, vít. + Tôi hỏi cả hai đội đó là tiếng của con gì? + Khi các bạn bước ra khỏi căn nhà. Tôi hỏi trẻ rằng: Đố các bé biết bạn đó là ai? Tiếng vịt con kêu như thế nào? Với những chất liệu rất đơn sơ, dễ kiếm như: Vỏ hộp bánh, vỏ hộp sữa chua,vỏ sò, vỏ ốc, xốp, lõi giấy vệ sinh…tôi đã sử dụng để làm rất nhiều đồ dùng, đồ chơi sáng tạo để trẻ được trò chuyện cùng cô. Hay Ở chủ đề “Đồ dùng đồ chơi của bé” tôi sử dụng những nguyên vật liệu sẵn có như: Xốp để làm hộp thả hình ở khu vực hoạt động với đồ vật, vỏ hộp bánh để làm tủ lạnh, lò vi sóng ở góc bán hàng, vỏ chai nhựa, vỏ hộp sữa … để làm đồ dùng, đồ chơi cho các cháu. Ở chủ đề “ngày tết vui vẻ” tôi đã dùng vỏ hộp bánh để làm bánh chưng, lõi giấy vệ sinh để làm giò, giấy màu để làm cành đào, cành mai…và một số đồ dùng, đồ chơi sáng tạo ở khu vực vận động như: quả tạ, cổng chui… Những đồ dùng, đồ chơi sáng tạo với màu sắc đa dạng, sinh động thu hút trẻ tập trung chú ý, tận dụng được ưu điểm này nên ở mọi lúc mọi nơi tôi thường sử dụng đồ chơi sáng tạo để dạy trẻ giúp trẻ nhà trẻ nhận biết tập nói được tên gọi, đặc điểm, công dụng của các đồ dùng đồ chơi làm giàu vốn từ, từ đó giúp trẻ nhà trẻ phát triển về ngôn ngữ. Trong những giờ học và giờ chơi có sử dụng đồ chơi sáng tạo tôi thấy các cháu rất hứng thú, trẻ được nói nhiều hơn, thích chơi đồ chơi cùng với cô và các bạn.
  15. Ảnh: Trẻ trải nghiệm với đồ chơi từ nguyên vật liệu sẵn có. Để tăng khả năng nghe và nói thì tôi còn gây hứng thú cho trẻ qua việc sử dụng đồ dùng tự tạo vào các hoạt động như sau: Ví dụ: Khi tổ chức cho trẻ chơi khu vực hoạt động với đồ vật ở chủ đề “Mẹ và những người thân yêu của bé” - Nội dung chơi: + Khu vực thao tác vai: Nấu ăn, bế em, bác sỹ. + Khu vực học tập: Xem tranh gia đình, làm ambum gia đình. + Khu vực hoạt động với đồ vật: Xây nhà cho bé, xâu vòng tặng mẹ. * Mục đích: - Phát triển khả năng giao tiếp nói năng lưu loát. - Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn. - Trẻ hứng thú khi hoạt động với đồ vật. * Chuẩn bị: - Bộ đồ chơi nấu ăn, bộ đồ chơi bác sỹ, búp bê làm em bé… - Các hột hạt, hoa bằng xốp cho trẻ xâu vòng, bìa, giấy, báo chí cũ cho trẻ làm anlbum gia đình… - Các hộp nhựa, hộp sữa chua làm hàng rào, các hộp giấy cho trẻ xếp nhà, các nguyên vật liệu như đá sỏi… để trẻ sắp xếp xây nhà bé. * Tổ chức hoạt động: Trẻ sẽ tự nhận vai chơi, khu vực chơi mà trẻ thích hoặc đổi vai chơi nếu trẻ thích vì trẻ là chủ thể cả sự hoạt động. Cô sẽ là người bao quát, hướng lái và phát huy tối đa khả năng giao tiếp ở trẻ khi hoạt động với đồ vật. Ví dụ: Khu vực chơi thao tác vai: Một trẻ đóng vai mẹ hỏi: - Cô ơi, búp bê ốm! ( cháu vai mẹ) - Con mang đến bác sỹ khám đi. (cô) - Búp bê, bị nóng. (cháu vai bác sỹ) - Nóng phải uống thuốc gì? ( cháu vai mẹ) - Cho uống thuốc này nhé!( cháu vai bác sỹ) - Cho búp bê ăn cháo gà rồi uống thuốc. (cháu vai bác sỹ)
  16. - Mai lại mang tới đây khám nhé. (cháu vai bác sỹ) - Thế mẹ nấu gì cho búp bê ăn chưa? (cô) Ảnh: Trẻ đang chơi ở khu vực thao tác vai Ngoài ra, tôi còn sử dụng đồ dùng trực quan để trẻ được hoạt động. Đồ dùng trực quan là nền tảng để thực hiện việc phát triển ngôn ngữ của trẻ. Vì vậy, tôi thường xuyên sử dụng đồ dùng trực quan vào các tiết học. Hệ thống các câu hỏi mà tôi đưa ra phải rõ ràng, ngắn gọn, khi trẻ trả lời tôi hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu, không nói cụt lủn hoặc cộc lốc. Trong các hoạt động chơi tập có chủ đích, tôi thường đặt câu hỏi kết hợp với đồ dùng trực quan: Đồ chơi, tranh ảnh, vật thật về môi trường xung quanh, về các chủ đề cụ thể, các đồ dùng đồ chơi gần gũi với trẻ hàng ngày. Khi sử dụng đồ dùng trong các tiết học tôi sử dụng một cách triệt để, có tính khoa học, gọn nhẹ tránh rườm rà để trẻ dễ quan sát. Khi cho trẻ quan sát tôi gợi ý các câu hỏi để trẻ trả lời đúng nội dung câu hỏi của cô. Qua đó vốn từ của trẻ ngày càng mở rộng hơn dần dần trẻ sẽ chủ động tích cực sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp hơn. Ví dụ: Ở tiết nhận biết tập nói tôi cho trẻ quan sát một số loại quả như: “Quả xoài - Quả cam”. Tôi đưa quả cam (vật thật) cho trẻ quan sát và hỏi trẻ: + Đây là quả gì? ( Đây là quả cam ạ) + Quả cam có màu gì? (Quả cam có màu xanh) + Vỏ quả cam như thế nào? (Tôi cho trẻ lên sờ vào quả cam và trẻ nói được “Vỏ quả cam sần sùi ” ) Tôi bổ quả cam ra hỏi trẻ: + Bên trong quả cam có gì? (Bên trong quả cam có múi, có hạt ạ) + Cho trẻ nếm xem quả cam có vị gì? (Khi nếm trẻ sẽ nói được quả cam
  17. có vị chua hay ngọt) + Tương tự quả chuối. Tôi dùng đồ dùng trực quan là vật thật để cho trẻ quan sát lúc đó trẻ được sờ, nếm vị của các loại quả. Trẻ không chỉ phát triển ngôn ngữ của mình mà còn phát triển được các giác quan: xúc giác, cảm giác, vị giác… Từ đó trẻ nói lên được nhận xét của mình về các loại quả, màu sắc, hình dạng. Ngoài 2 loại quả mà tôi cho trẻ làm quen tôi còn cho trẻ kể tên những loại quả mà trẻ biết, qua đó làm phong phú thêm vốn từ cho trẻ. Hình ảnh: Hoạt động nhận biết tập nói Ví dụ: Trong giờ nhận biết tập nói con vịt - con gà Trẻ biết tên gọi con vịt, biết con vịt kêu quạc quạc, con vịt có 2 chân có màng, … biết bơi ở dưới nước. - Tôi cho trẻ quan sát mô hình hoặc vật thật các con vật và hỏi trẻ: + Đây là con gì? (Con vịt) + Con vịt có đặc điểm gì? (Màu sắc, môi trường sống, …) + Tương tự đưa câu hỏi đối với con gà. Trẻ phải trả lời “Con thưa cô con vịt ạ” nhưng đa số trẻ chỉ nói được “Con vịt”, “vịt” chứ không nói được cả câu, có cháu thì nói ngọng chỉ nói được “Con ịt”. Chính vì thế tôi đã nhắc lại câu trả lời, cho trẻ nhắc lại nhiều lần, gọi bạn khác để giúp trẻ phát triển khả năng nghe, nói. Tôi cố gắng gọi nhiều cá nhân trẻ trả lời sau đó đến cả lớp nói. Qua đó trẻ phải tư duy, suy nghĩ để trả lời các câu hỏi của cô, rèn sự phát âm, cung cấp thêm các vốn từ cho trẻ. Ngoài việc cho trẻ phát âm, gọi tên con vịt - con gà, tôi còn gây hứng thú cho trẻ bằng cách kể cho trẻ nghe đoạn truyện “ Đôi bạn nhỏ” rồi cùng hát bài hát trong chuyện, làm tiếng kêu của gà con kêu “ chiếp chiếp cứu với”, tiếng kêu của vịt “ vít vít” để cũng cố khả năng nghe nói của trẻ. Như vậy, trẻ sẽ được khắc sâu hình ảnh con vịt - con gà, đồng thời vốn từ của trẻ cũng được cung cấp thêm, nó không chỉ dừng lại ở việc gọi tên con vật mà còn biết rõ các đặc điểm, cách di chuyển của con vật. Khi trẻ trả lời các câu hỏi thì sẽ phát triển ở trẻ khả năng quan sát và sự
  18. chú ý, ghi nhớ có chủ định. Với những câu hỏi cô đặt ra cho trẻ khi cho trẻ đi dạo quan sát đều khích lệ ở trẻ nhu cầu giao tiếp, truyền đạt bằng ngôn ngữ của mình. Trẻ được nói lên suy nghĩ, nhận xét của mình về các sự vật hiện tượng trong cuộc sống làm tăng thêm số lượng từ cho trẻ. 2.3.5. Biện pháp 5: Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động chơi – tập có chủ đích nhằm giúp trẻ phát triển khả năng nghe, nói. Công nghệ thông tin nói chung và các phần mềm tin học nói riêng giúp giáo viên thiết kế ra những bài giảng trực quan, sinh động, hấp dẫn tạo nên môi trường học tập tích cực cho trẻ. Qua các phần mềm video converts, powerPoint e-learning, windows movie maker… trẻ không chỉ nghe, nhìn, mà trẻ còn được thực hành nội dung bài học một cách bài bản qua các đoạn video, các hình ảnh… hết sức sinh động, hấp dẫn. Hầu hết trong các hoạt động chơi tập có chủ đích tôi đã sữ dụng các phần mềm tạo ra các bài dạy, video…cuốn hút trẻ tham gia vào hoạt động nhằm giúp trẻ phát triển khả năng nghe và nói của mình. Ví dụ: Hoạt động “Nhận biết tập nói con gà – con vịt” chủ đề những con vật đáng yêu. Tôi sử dụng phần mềm video converts xây dựng video gây hứng thú cho trẻ vào bài (kể chuyện về con gà, con vịt cho trẻ nghe), tiếp đến tôi sử dụng phần mềm e-learning tạo nên các hình ảnh động, âm thanh động về các con vật, con gà – con vịt cho trẻ nghe (tiếng kêu con gà, con vịt, con chó, con mèo…) để cho trẻ nghe và nói tên các con vật đó. Với hình ảnh, âm thanh sinh động sẽ thu hút trẻ tham gia vào hoạt động kích thích trẻ lắng nghe và nói những gì trẻ nghe và nhìn thấy qua đó phát triển khá năng nghe, nói của trẻ. Hình ảnh: Hoạt động nhận biết tập nói “con gà” Hay ở chủ đề “Bé biết nhiều thứ” hoạt động âm nhạc: Dạy hát bài “Búp bê” nội dung kết hợp trò chơi âm nhạc “Hãy lắng nghe”. Tôi sử dụng phần
  19. mềm video e-learning xây dựng video, giáo án điện tử bài hát cho trẻ lắng nghe và hát theo giai điệu của bài hát, với hình ảnh sinh động hấp dẫn trẻ rất chú ý quan sát và lắng nghe để thể hiện bài hát. Có thể nói với việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc dạy trẻ phát triển khả năng nghe, nói đạt hiệu quả rất cao, bởi lẽ với trẻ nhỏ rất thích các hình ảnh sinh động, cùng với những âm thanh rất thật trẻ rất hứng thú đây là một trong những phương pháp dạy trẻ phát âm, lắng nghe…để phát triển ngôn ngôn ngữ cho trẻ. 2.3.6. Biện pháp 6: Phối kết hợp với cha mẹ trẻ nhằm phát triển khả năng nghe và nói cho trẻ phù hợp với bối cảnh địa phương. Môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là nhà trường và gia đình. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp rất quan trọng. Sau khi khảo sát trẻ đầu năm, tôi thấy khả năng nghe, nói của trẻ chưa cao đây là điều tôi trăn trở. Bên cạnh việc tìm tòi đưa ra các biện pháp phát triển khả năng nghe và nói ở lớp. Tôi muốn phụ huynh hiểu và nhận biết được tầm quan trọng về khả năng nghe và nói, nhận biết được mức độ phát triển nghe, nói của con họ, để từ đó hỗ trợ cùng nhà trường trong việc chăm sóc giáo dục trẻ một cách tốt nhất. Chính vì vậy, ngay từ cuộc họp phụ huynh đầu năm của lớp, tôi đã trò chuyện với phụ huynh về việc khả năng nghe nói của trẻ 24 – 36 tháng tuổi nói chung và lớp mình phụ trách nói riêng. Cho phụ huynh xem lại các video các hoạt động giúp trẻ phát triển khả năng nghe và nói. Từ đó, tuyên truyền, trò chuyện và đưa ra ra các biện pháp phối hợp, hỗ trợ cùng giáo viên trong việc chăm sóc giáo dục trẻ. Vận động phụ huynh đóng góp, ủng hộ sách báo, tranh truyện, đồ dùng, nguyên vật liệu sẵn có để làm đồ dùng đồ chơi đa dạng, phong phú cho trẻ được chơi, được trải nghiệm. * Một số biện pháp giúp huynh phát triển khả năng nghe nói cho trẻ trong thời gian nghỉ dịch tại nhà Với mục tiêu giáo viên xây dựng kế hoạch giáo dục tổ chức các hoạt động giáo dục qua chơi với trẻ tại gia đình phù hợp bối cảnh và tình hình thực tế tại địa phương. [6] Năm học 2021 – 2022 là năm học dịch covid – 19 diễn ra phức tạp. Dựa trên kế hoạch đã chuẩn bị tại trường, tôi lựa chọn các nội dung, hoạt động giáo dục phù hợp với độ tuổi mình phụ trách để hướng dẫn phụ huynh tại nhà. Giúp phụ huynh nhận thấy sự thích thú, tầm quan trọng khi giao tiếp cùng, nhận thấy sự tiến triển của con trong quá trình “ chơi mà học” hoặc “ quan điểm” ngừng đến trường nhưng không ngừng học trong quá trình tương tác hàng ngày. Tôi làm đồ dùng, đồ chơi, xây dựng video hướng dẫn phụ huynh gửi về nhà trường, sau khi được chuyên môn nhà trường thẫm định tôi sẽ gửi video, hình ảnh vào nhóm zalo của lớp để cho tất cả phụ đều biết và nắm được cách thức, dễ hình dung hơn trong quá trình hướng dẫn con vui chơi tại nhà. Hằng ngày phụ huynh nên chơi cùng con, trò chuyện cùng con bất cứ khi
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2