intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tại trường mầm non

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:20

7
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tại trường mầm non" nhằm đưa ra các giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tại trường mầm non; Thông qua việc hình thành, phát triển và tích luỹ, mở rộng vốn từ phong phú, giúp trẻ phát âm đúng và diễn đạt ngôn ngữ một cách mạch lạc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tại trường mầm non

  1. A. ĐẶT VẤN ĐỀ Lúc sinh thời Bác Hồ đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó”. Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ Mầm Non nói riêng thì ngôn ngữ đóng một vai trò rất quan trọng. Ngôn ngữ là công cụ để tư duy, là phương tiện để giao tiếp giúp con người thể hiện sự hiểu biết về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ nói rất quan trọng, đặc biệt đối với trẻ mầm non lại càng quan trọng hơn, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh. Độ tuổi 24 - 36 tháng tuổi là giai đoạn phát triển rất phong phú của trẻ trên nhiều lĩnh vực khác nhau, từ nhận thức, hoạt động chủ đạo, ý thức bản thân và đặc biệt là ngôn ngữ. Bởi phát triển ngôn ngữ của trẻ giai đoạn 24 - 36 tháng tuổi là nền tảng để kích hoạt toàn diện não bộ: Khả năng quan sát, ghi nhớ, tập trung... là tiền đề vững chắc cho sự thành công trong tương lai của trẻ. Trẻ từ 24 - 36 tháng tuổi đã tiếp nhận khá nhiều vốn từ vựng và biết sử dụng chúng để tạo thành các ngữ câu để giao tiếp với mọi người xung quanh. Vốn từ của trẻ phát triển theo giai đoạn, trong đó giai đoạn trẻ 24 - 36 tháng vốn từ của trẻ có khoảng 243 - 486 từ (danh từ và động từ chiếm tỷ lệ nhiều). Trẻ học được nhiều từ mới bằng cách lắng nghe người thân, bố mẹ, ông bà hay những người khác trò chuyện. Trẻ bắt đầu thể hiện sự quan tâm của mình nhiều hơn thông qua giao tiếp với mọi người. Nhưng hai năm vừa qua do dịch Covid - 19 kéo dài, lây lan rộng trên khắp địa bàn cả nước và trên thế giới. Nó đã làm thiệt hại biết bao tiền của và đã cướp đi hàng triệu sinh mạng con người. Trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương và có nguy cơ lây nhiễm cao nhất vì vậy trẻ không được giao tiếp với mọi người xung quanh. Trong đại dịch Covid - 19, trẻ phải giãn cách ở nhà không được đến trường và tiếp xúc với thiết bị điện tử nhiều hơn. Tiến sĩ Heuvel, bệnh viện Nhi tại Canada đã nghiên cứu và đưa ra kết luận: những thiết bị điện tử có thể liên quan đến khoảng 50% nguy cơ chậm nói và ít giao tiếp ở trẻ. Sử dụng các thiết bị điện tử quá nhiều sẽ khiến trẻ không có nhu cầu tương tác với người khác. Trẻ có thể sẽ thu mình, ngại nói, ngại tiếp xúc dẫn tới dẫn tới phát triển ngôn ngữ chậm, thậm chí chậm nói. Điều này đã gây trở ngại rất lớn khi trẻ đến trường: Trẻ sợ người lạ, không thích giao tiếp, vốn từ ít… Là một giáo viên mầm non tôi nhận thấy việc giúp trẻ phát triển ngôn ngữ là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Đầu năm học này tôi thấy trẻ lớp tôi khi đến lớp có nhiều trẻ nhút nhát, trẻ chậm nói, hạn chế về vốn từ, phát âm không rõ
  2. 2 tiếng….Vì thế trẻ cần được dạy nói và nói nhiều mới có khả năng nói rõ ràng mạch lạc, rõ tiếng, nói đủ câu để trẻ tự tin giao tiếp với mọi người xung quanh và tự tin tham gia vào các hoạt động nơi đông người. Từ những lý do trên tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tại trường mầm non”. Nhằm mục đích giúp trẻ lớp tôi có thể phát âm rõ ràng, diễn đạt đủ câu, làm giàu vốn từ cho trẻ một cách tốt nhất. * Mục đích nghiên cứu: Nhằm đưa ra các giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tại trường mầm non. Thông qua việc hình thành, phát triển và tích luỹ, mở rộng vốn từ phong phú, giúp trẻ phát âm đúng và diễn đạt ngôn ngữ một cách mạch lạc. * Đối tượng nghiên cứu: Trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi tại trường mầm non. * Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp điều tra khảo sát. Phương pháp quan sát. Phương pháp đàm thoại. Phương pháp học tập, nghiên cứu. * Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 09/2022 đến tháng 04/2023. * Phạm vi nghiên cứu: Trường mầm non A xã Liên Ninh.
  3. 3 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lý luận: Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ Mầm Non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng không thể thiếu được. Đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của xã hội mà mọi người đều phải thực hiện theo những quy định chung đó. Với trẻ em, ngôn ngữ không chỉ là cơ sở của mọi sự suy nghĩ, là công cụ của tư duy, là phương tiện hữu hiệu nhất giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh mà ngôn ngữ còn có vai trò rất lớn trong việc hình thành, điều chỉnh hành vi và giáo dục cho trẻ những tình cảm thẩm mĩ cao đẹp ngay từ những năm tháng đầu tiên của cuộc đời. Có thể nói, một trong những thành quả quý giá mà trẻ đạt được ở giai đoạn 24 - 36 tháng tuổi chính là ngôn ngữ. Ở năm đầu tiên, ngôn ngữ của trẻ mang tính “phi xã hội” mà người lớn ít hiểu được. Đó là những tiếng phát ra một cách bản năng do các xung lực 2 thần kinh tạo ra. Dần dần bộ não của trẻ phát triển, cơ quan cấu âm được hoàn thiện và nhờ luyện tập theo cách dạy của người lớn mà trẻ đã bắt đầu biết nói. Từ việc nghe người lớn nói, trẻ bắt chước, nhắc lại đến chỗ trẻ biết quan sát việc dùng từ gắn với từng ngữ cảnh để kết hợp các từ với nhau tạo thành những câu mạch lạc. Theo năm tháng, vốn từ vựng của trẻ được hình thành và ngày càng mở rộng để thực hiện các chức năng giao tiếp, tư duy. II. Cơ sở thực tiễn: 1. Đặc điểm chung: Trường mầm non nơi tôi làm việc là một xã ngoại thành Hà Nội. Nhiều năm liền đạt danh hiệu trường tiên tiến cấp Huyện, luôn giữ vững danh hiệu: “Trường học thân thiện - Học sinh tích cực”. Trường được công nhận là trường chuẩn mức độ II vào tháng 3 năm 2022. Trường học được xây dựng khang trang, có khung cảnh sư phạm, môi trường sạch đẹp, trồng nhiều các loại hoa và cây xanh, được đầu tư nhiều trang thiết bị dạy học, nhiều đồ chơi ngoài trời, phân khu hợp lí và luôn đảm bảo là ngôi trường xanh - sạch - đẹp. Năm học 2022 - 2023 nhà trường phân công tôi dạy lớp nhà trẻ D2 lứa tuổi 24 - 36 tháng. Với tổng số trẻ là: 22 trẻ, trong đó có 15 cháu nam và 7 cháu nữ. Lớp có 2 cô với trình độ đại học sư phạm và tinh thần luôn học hỏi, nhiệt tình yêu nghề mến
  4. 4 trẻ. Với đặc điểm tình hình như vậy khi thực hiện đề tài này tôi thấy có một số thuận lợi và khó khăn sau: 2. Thuận lợi: Trong quá trình tôi được dạy lớp D2 lứa tuổi 24 - 36 tháng bản thân tôi nhận được nhiều sự quan tâm, tạo điều kiện của Ban giám hiệu nhà trường. Sự giúp đỡ nhiệt tình của đồng nghiệp, chị em trong khối Nhà trẻ. Phòng học đủ diện tích theo quy định, sạch sẽ, thoáng mát. Đồ dùng, đồ chơi phong phú về màu sắc và hình ảnh, hấp dẫn thu hút trẻ, thuận lợi cho việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trẻ khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, được học đúng độ tuổi. Trẻ thích nghe cô kể chuyện, đọc thơ, đồng giao, ca dao, tục ngữ… Giáo viên nhiệt tình làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo phục vụ cho việc cung cấp và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Giáo viên trong lớp có kinh nghiệm trong việc chăm sóc, rèn nếp cho trẻ và nhiệt tình trong công tác. Bản thân tôi đã có hơn 8 năm kinh nghiệm giảng dạy. Được tham gia học tập cũng như kiến tập nhiều chuyên đề về phát triển ngôn ngữ. Phụ huynh nhiệt tình trong việc trao đổi, phối kết hợp với tôi trong việc giáo dục ngôn ngữ cho trẻ. 3. Khó khăn: Trong thời đại công nghệ 4.0 hiện nay, đặc biệt là thời gian nghỉ dịch Covid - 19 dài trẻ tiếp xúc với tivi và điện thoại nhiều, trẻ không được đi chơi cũng như tiếp xúc nhiều với bạn bè và mọi người xung quanh làm gia tăng tỷ lệ trẻ chậm nói, rối loạn và chậm phát triển ngôn ngữ. Các cháu mới đi học còn khóc nhiều, chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt của lớp. Lớp có nhiều cháu nam nên nghịch nhiều, khả năng chú ý của trẻ chưa đồng đều, trẻ nhanh chán nhanh quên. Trẻ phát âm chưa rõ ràng, còn nói ngọng nhiều. Giáo viên chỉ chú trọng tới việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở hoạt động có chủ đích mà chưa chú trọng tới việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Còn nhiều phụ huynh chưa quan tâm đến trẻ. Còn ỷ lại vào sự chăm sóc, dạy dỗ của giáo viên. Chưa dành nhiều thời gian chơi, dạy trẻ nói và giao lưu với trẻ. Đầu năm học tôi đã khảo sát phân loại khả năng ngôn ngữ của trẻ thể hiện qua số liệu sau:
  5. 5 Bảng so sánh đối chiếu trước khi thực hiện đề tài: (Tổng số trẻ tham gia 22/22 = 100%) Trẻ đạt Trẻ chưa đạt STT Nội dung khảo sát Số trẻ Tỷ lệ Số trẻ Tỷ lệ 12 55% 10 45% 1 Vốn từ Trả lời các câu hỏi: “Ai đây?”, “Cái 2 gì đây?”, “…làm gì?”, “...thế nào?” 10 45% 12 55% (MT 23) Khả năng phát âm rõ tiếng (MT25) 9 41% 13 59% 3 Đọc được bài thơ, ca dao, đồng dao 4 với sự giúp đỡ của cô giáo (MT 26) 10 45% 12 55% 5 Nói được câu đơn (MT 27) 10 45% 12 55% Qua quá trình khảo sát sự phát triển ngôn ngữ ở trên đối với trẻ 24 - 36 tháng, tôi nhận thấy đa số trẻ còn hạn chế về ngôn ngữ nên bản thân tôi đã học hỏi, nghiên cứu và tìm ra những giải pháp hấp dẫn để trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất. III. Các biện pháp. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là việc tổ chức có kế hoạch, có khoa học nhằm cung cấp, làm giàu vốn từ, nâng cao khả năng hiểu nghĩa của từ, củng cố và tích cực hoá vốn từ cho trẻ, giúp trẻ biết vận dụng phù hợp vốn từ đó trong hoạt động giao tiếp. Chính vì vậy mà trong quá trình dạy trẻ tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp dạy trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua một số hoạt động sau: 1. Biện pháp 1: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động chơi tập có chủ đích. Trong giờ hoạt động chơi tập có chủ đích, hoạt động nào cũng giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Tuy nhiên với các hoạt động học như: Hoạt động nhận biết, hoạt động văn học, hoạt động âm nhạc… Là những hoạt động giúp trẻ phát triển vốn từ nhanh và diễn đạt câu rõ ràng, mạch lạc nhất. Hoạt động nhận biết: Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp vốn từ vựng cho trẻ. Hoạt động này giúp trẻ nhận biết những đặc
  6. 6 điểm, cấu tạo và các hành động gắn với từng sự vật... trên cơ sở đó cung cấp vốn từ vựng tương ứng. Ví dụ 1: Trong giờ nhận biết “Con thỏ” tôi muốn cung cấp vốn từ cho trẻ tôi đã chuẩn bị một con thỏ thật để cho trẻ quan sát. Trẻ sẽ sử dụng các giác quan như: sờ, nhìn... nhằm phát huy tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ đích. Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát tôi đưa ra hệ thống câu hỏi: + Tôi đọc câu đố: Con gì đuôi ngắn tai dài Mắt hồng lông mượt Có tài chạy nhanh? Đố là con gì? (Con thỏ ạ!) + Các con nhìn xem con thỏ đang làm gì? (Thỏ đang đi) + Thỏ đi bằng gì? (Thỏ đi bằng chân) + Thỏ nhìn bằng gì? (Thỏ nhìn bằng mắt) + Thỏ nghe bằng gì? (Thỏ nghe bằng tai) + Thỏ thích ăn gì nhất? (Thỏ thích ăn cà rốt) + Lông thỏ màu gì? (Màu trắng) + Lông thỏ như thế nào? (Lông thỏ mượt) + Các con có yêu quý thỏ không? Yêu thỏ các con làm gì? (Trẻ trả lời) Hình ảnh minh họa ở phụ lục: (Ảnh 1 ) Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói được cả câu theo yêu cầu câu hỏi của cô. Nếu trẻ nói cộc lốc, thiếu từ cô phải sửa ngay cho trẻ. Ví dụ 2: Giờ nhận biết: “Cái bát”: + Cô có cái gì đây? + Cái bát dùng để làm gì? + Cái bát có đặc điểm gì? + Cái bát này có màu gì? + Cái bát này được làm bằng gì? Cứ như vậy tôi đặt hệ thống câu hỏi từ tổng thể đến chi tiết để trẻ trả lời nhằm phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ, qua đó lồng liên hệ thực tế giáo dục trẻ biết giữ gìn đồ dùng trong gia đình cũng như khi ở trường lớp. Hoạt động văn học: Dường như trong tâm hồn của mỗi đứa trẻ khi còn thơ bé luôn có những hình ảnh rất đẹp về các nhân vật trong truyện. Chính vì thế mà giờ hoạt động văn học là biện pháp rất tốt để phát triển vốn từ cho trẻ. Giờ làm quen truyện: Là giờ học được nhiều trẻ yêu thích và cũng hấp dẫn được trẻ. Qua nội dung câu chuyện, cô sử dụng hệ thống câu hỏi đàm thoại ngắn
  7. 7 gọn giúp trẻ dễ nhớ và trả lời được các câu hỏi của cô. Khi kể chuyện cô sử dụng phương pháp và hình thức linh hoạt, sáng tạo giúp trẻ chú ý và hứng thú tham gia vào giờ học, đồ dùng trực quan như: nhân vật rối tay, rối dẹt, sa bàn, các hình ảnh động trên màn hình ti vi… trẻ rất hứng thú vào các hình ảnh đấy, giúp trẻ biết được nội dung truyện và nhớ được từ mới một cách hiệu quả. Hình ảnh minh họa ở phụ lục: (Ảnh 2 ) Ví dụ: Trong truyện: “Thỏ con không vâng lời” ngoài việc giúp trẻ thể hiện ngữ điệu, sắc thái tình cảm của các nhân vật trong truyện tôi còn sửa sai những từ trẻ hay nói ngọng để giúp trẻ phát âm chuẩn và động viên những trẻ nhút nhát mạnh dạn hơn khi trả lời. Trẻ nói ngọng các từ trong truyện như: + Thỏ con -> Chỏ con + Bác Gấu -> Bác ấu + Bươm bướm -> Bươn bướn Mỗi khi trẻ nói sai tôi dừng lại sửa sai luôn cho trẻ bằng cách: Tôi nói mẫu cho trẻ nghe 1 - 2 lần sau đó yêu cầu trẻ nói lại. Tôi cho trẻ thể hiện ngữ điệu của các nhân vật trong truyện “Thỏ con không vâng lời”: + Giọng Thỏ mẹ ân cần, nhẹ nhàng. + Giọng Thỏ con nhanh nhảu. + Giọng bác Gấu trầm, ồm. + Giọng Bươm Bướm vui vẻ. Giờ làm quen thơ: Qua các bài thơ ngoài những từ ngữ trẻ đã biết lại cung cấp thêm vốn từ mới cho trẻ để ngôn ngữ của trẻ thêm phong phú. Để cung cấp vốn từ chính xác cho trẻ bản thân giáo viên phải thuộc thơ, ngôn ngữ của cô phải trong sáng, giọng đọc phải diễn cảm, thể hiện được sắc thái của bài thơ. Khuyến khích trẻ đọc bài thơ cùng cô, khi trẻ thuộc cô động viên trẻ lên đọc theo nhóm, các nhân trẻ đọc, luyện cho trẻ đọc to, rõ ràng, mạch lạc. Trong bài thơ, cô giới thiệu nội dung, trích dẫn đàm thoại để trẻ biết nội dung bài, giảng giải từ khó cho trẻ biết nghĩa của từ. Ví dụ: Qua bài thơ “Bắp cải xanh” tôi muốn cung cấp cho trẻ từ “Sắp vòng quanh”. Tôi chuẩn bị một cây bắp cải thật để cho trẻ quan sát và tôi giải thích cho trẻ từ “sắp vòng quanh”: Các con nhìn xem lá bắp cải rất to có màu xanh, nhiều lớp lá già ở ngoài bao bọc lớp lá non thì nằm ở bên trong. Bên cạnh đó tôi cũng chuẩn bị câu hỏi để trẻ trả lời: + Cô vừa đọc bài thơ gì? (Bắp cải xanh ạ!) + Cây bắp cải xanh như thế nào? (Xanh man mát) + Lá bắp cải được miêu tả ra sao? ( Sắp vòng quanh ạ!)
  8. 8 + Búp cải non thì nằm ở đâu? (Nằm ở giữa ạ!) Với hoạt động văn học tôi nhận thấy những trẻ đã có vốn từ phong phú như Hoàng Linh, Ánh Dương, Minh Khang trẻ sẽ trả lời câu hỏi của tôi rõ ràng, đủ câu. Với trẻ chậm nói như Hải Vân, Đức Duy tôi nói trước và cho trẻ nhắc lại cả câu, nếu trẻ không nói được câu dài tôi sẽ cho trẻ nhắc lại từng từ, nếu trẻ nói ngọng tôi sẽ hướng dẫn trẻ, cho trẻ nhắc lại những từ đó, dần dần giúp trẻ nói rõ ràng, phát âm chuẩn hơn. Như vậy thơ, truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ mà còn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Hoạt động âm nhạc: Ca hát luôn có sức hấp dẫn đối với trẻ. Trẻ rất hào hứng với những điệu nhạc vui nhộn hay lời bài hát ngộ nghĩnh, vui tươi. Vì vậy, cách đơn giản nhất là hãy dành cho trẻ nhiều cơ hội nghe hát và được hát. Khi đó vốn từ của trẻ sẽ được tích lũy từ những lời hát lặp đi lặp lại đó. Những ấn tượng về lời hát, giai điệu, hình ảnh sẽ giúp trẻ dễ ghi nhớ và nhớ từ ngữ được lâu. Những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ bản để miêu tả những hình ảnh đẹp của bài hát. Ví dụ: Hát và vận động bài: “Vui đến trường”: + Câu đầu tiên: Con chim nó hót líu lo líu lo. (Trẻ đưa tay lên miệng giả làm mỏ chim). + Câu thứ hai: Khi ông mặt trời lên cao sáng rõ. (Hai tay đưa vòng lên trên đầu). + Câu ba: Em rửa mặt thật sạch, em trải trăng trắng tinh. (Hai tay đưa lên giả lau mặt, một tay chống hông tay còn lại dùng ngón trỏ đưa lên miệng giả làm động tác trải răng). + Câu cuối: Mẹ đưa em tới trường, gặp lại bạn gặp lại cô, vui vui vui. (Đưa từng tay ra phía trước, vỗ hai tay vào nhau). Trong giờ dạy hát trẻ hát theo cô, trẻ thuộc lời bài hát đồng nghĩa với việc vốn từ của trẻ được phát triển về số lượng. Kết quả: Trẻ tham gia nhiệt tình các hoạt động cô tổ chức trẻ phát âm chuẩn hơn, vốn từ của trẻ phong phú. Khả năng nghe và hiểu ngôn ngữ tốt hơn. Qua đó trẻ tích luỹ được những vốn từ mới ngoài ra còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc, rõ ràng hơn. 2. Biện pháp 2: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mọi lúc mọi nơi. Tất cả thời gian mà trẻ hoạt động trên lớp như giờ đón trẻ, trả trẻ, hoạt động ngoài trời, hoạt động góc, vệ sinh, giờ ăn, giờ ngủ… giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tối ưu nhất. Bởi nhu cầu sử dụng ngôn ngữ là nhu cầu cơ bản và trẻ phải được thực hành và học tập ở mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh.
  9. 9 * Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động đón trẻ, trả trẻ. Giờ đón trẻ là lúc cần tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ tới trường, tới lớp tôi luôn gần gũi, tích cực trò chuyện với trẻ. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mới có thể cung cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ. Ví dụ: Sáng nay ai đưa con đi học? Ở lớp con thích chơi đồ chơi gì?... Ngoài ra trong giờ đón trẻ, trả trẻ tôi luôn nhắc trẻ chào ông, bà, bố mẹ: Ví dụ: Tôi nhắc trẻ chào mẹ: Con chào mẹ ạ! Nhắc nhở trẻ chào các bạn: Tôi chào các bạn. Như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn, bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói quen lễ phép, biết vâng lời. Hình ảnh minh họa ở phụ lục: (Ảnh 3) * Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc. Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện được mà phải thông qua các hoạt động khác trong đó có hoạt động góc. Trong quá trình chơi trẻ phải giao tiếp với nhau, đưa ra những yêu cầu với bạn chơi, trẻ phải sử dụng các loại vốn từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung khác nhau. Ví dụ 1: Thao tác vai trong góc: “Bé chơi với búp bê” trẻ được chơi với em búp bê và khi trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày. + Ai đây các con? (Em búp bê). + Nếu em búp bê khóc các con phải làm gì? (Cho trẻ trả lời) + Các con phải dỗ nhẹ em là em rất thích em ngoan không khóc đâu. + Khi em bé đói các con làm gì? (Cho em ăn) + Em ăn no rồi muốn đi ngủ các con sẽ làm gì? (Ru em bé ngủ) Hình ảnh minh họa ở phụ lục: (Ảnh 4) Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe, hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương, gắn bó của con người. Ví dụ 2: Trong góc “Hoạt động với đồ vật” ở chủ đề: “Bản thân” tôi cho trẻ xâu vòng, vừa làm vừa trò chuyện với trẻ: + Linh ơi, con đang làm gì vậy? (Con đang xâu vòng ạ!) + Con xâu vòng như thế nào? (Con dùng dây và xâu hạt vòng vào ạ!) + Khang ơi, con xâu vòng tặng ai? (Con xâu tặng mẹ ạ!) + Khi tặng mẹ con sẽ nói thế nào? (Con tặng mẹ ạ!)
  10. 10 Ví dụ 3: Góc văn học: Chúng tôi trang trí nhiều đồ dùng mở cho trẻ hoạt động như: Nhân vật rối ngón tay, rối dẹt, rối bàn tay, sách tranh, làm khung rối di động cho trẻ thích diễn rối. Ngoài ra tôi còn khâu những con vật để trẻ kể những câu chuyện sáng tạo do trẻ nghĩ ra. Hình ảnh minh họa ở phụ lục: (Ảnh 5) Qua giờ chơi trẻ lớp tôi không những được dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe hiểu ngôn ngữ để giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương, gắn bó chơi đoàn kết với bạn. * Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời. Khi cho trẻ đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên giới thiệu tên các đồ chơi để trẻ gọi được tên các đồ chơi như: Đu quay, cầu trượt, bập bênh…Ngoài ra tôi còn giới thiệu cho trẻ biết cây xanh, cây hoa, nhặt lá rụng… Ví dụ: Khi nhặt lá rụng tôi yêu cầu trẻ không vứt lung tung mà để vào rổ và trò chuyện với trẻ: Hôm nay cô và các con đã làm gì? (Nhặt lá ạ!) + Tại sao lại nhặt lá rụng? (Nhặt lá cho sạch ạ!) + Nhặt lá xong các con để ở đâu? (Để vào rổ ạ!) Hình ảnh minh họa ở phụ lục: (Ảnh 6) Khi giới thiệu cho trẻ biết cây xanh, cây hoa ở vườn trường tôi hỏi trẻ: + Đây là cây gì? (Trẻ trả lời) + Cây hoa giấy có những bộ phận nào? (Tôi giới thiệu từng bộ phận của cây và cho trẻ nhắc lại: Thân, cành, lá, hoa…). + Bông hoa này màu gì? + Lá cây như thế nào? + Muốn cây được xanh tốt các con phải làm gì? Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những câu không có nghĩa. Vì vậy bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và nhắc nhở trẻ, nói mẫu cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại. * Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động vệ sinh, hoạt động ăn, hoạt động ngủ. Thông qua hoạt động vệ sinh, ăn, ngủ hàng ngày với sự hướng dẫn của giáo viên trẻ được hoạt động độc lập, hoạt động theo nhóm hoặc cả lớp nhưng cô vẫn cần cố gắng để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ bằng các cách khác nhau. Ví dụ 1: Trước khi ăn cơm cho trẻ đọc bài thơ: “Giờ ăn” sau đó hỏi trẻ: + Trước giờ ăn cơm chúng mình phải làm gì? + Trong khi ăn cơm các con phải làm như thế nào? Ngoài ra với việc giới thiệu tên món ăn và các chất dinh dưỡng có trong món ăn rồi cho trẻ nhắc lại đã góp phần mở rộng và cung cấp vốn từ cho trẻ.
  11. 11 Ví dụ 2: Trước khi đi ngủ cô chuẩn bị giường gối cho trẻ, cho trẻ đọc bài thơ: Giờ ngủ: Giờ đi ngủ Em lên Giường Nằm im lặng Hai mắt nhắm Ngủ cho ngoan + Cô: Một + Trẻ: Để tay lên bụng + Cô: Hai + Trẻ: Duỗi thẳng chân ra + Cô: Ba + Trẻ: Nhắm mắt mím môi + Cô: Bốn + Trẻ: Ngủ luôn + Những câu nói của trẻ đã góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Giáo viên chú ý nhắc trẻ nói rõ ràng, nói đủ câu. Kết quả: Với việc giáo dục ngôn ngữ ở mọi lúc mọi nơi đã mang lại hiệu quả cao. Trẻ đã mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, trẻ không còn nói trống không, nói ngọng nói lắp đã giảm. Từ đó vốn từ của trẻ được tăng lên, trẻ nói đúng câu, rõ ràng, mạch lạc. 3. Biện pháp 3: Sử dụng trò chơi dân gian để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trò chơi dân gian đã từng là trang ký ức đậm nét về quê hương làng xóm trong mỗi tâm hồn con người Việt Nam. Trò chơi dân gian không chỉ đơn thuần là trò chơi cho trẻ mà nó còn chứa đựng văn hoá dân tộc Việt Nam độc đáo. Trò chơi dân gian còn góp phần phát triển toàn diện cho trẻ. Trong đó, phát triển ngôn ngữ có mối quan hệ qua lại biện chứng với sự phát triển toàn diện về các mặt: Đức - trí - lao - thể - mỹ. Bởi lẽ, ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong việc tích luỹ kiến thức, phát triển tư duy và còn là phương tiện làm phong phú đời sống tinh thần của trẻ, đáp ứng nhu cầu giao tiếp giữa trẻ và mọi người xung quanh. Và là cơ sở cho việc làm phong phú hơn vốn từ, tạo môi trường rèn luyện ngôn ngữ nói cho trẻ. Có lẽ trẻ con thời nay không có cơ hội được cảm nhận những nét đẹp trong các trò chơi dân gian, thay vào đó là những hình ảnh siêu nhân, trò chơi game, trò chơi điện tử thông qua ti vi, iPad, điện thoại. Chính vì vậy tôi đã trao đổi với các bậc phụ huynh luôn tạo cơ hội và chơi cùng các con các trò chơi dân gian. Bởi trẻ ngồi chơi game và xem ti vi lâu quá sẽ ảnh hưởng đến đôi mắt, phần lớn trẻ bị cận
  12. 12 thị hoặc loạn thị rất sớm do mắt ít được điều tiết cũng như đôi mắt ít được nghỉ ngơi, trẻ không giao tiếp với mọi người xung quanh nên chậm nói thậm chí tự kỷ… Không đòi hỏi dụng cụ, những trò chơi dân gian cho trẻ mầm non vẫn vô cùng thu hút với trẻ nhỏ bởi sự thú vị, rộn ràng và đặc biệt là có thể chơi cả khi ít và nhiều trẻ như: Trò chơi 1: Chi chi chành chành: “Chi chi chành chành Cái đanh thổi lửa Con ngựa đứt cương Ba vương ngũ đế Bắt dế đi tìm Ù à ù ập Đóng sập cửa vào”. Cách chơi: Người điều khiển đứng xòe bàn tay ra, những trẻ khác giơ ngón trỏ của mình và đặt vào lòng bàn tay của người điều khiển. Người điều khiển vừa xòe tay vừa đọc nhanh lời đồng dao. Đến chữ “ập” thì người điều khiển nắm tay lại, các trẻ phải phán đoán để rút tay thật nhanh. Ai rút không kịp bị nắm lại thì sẽ phải thay thế người điều khiển để thực hiện trò chơi. Mục đích: Chi chi chành chành là trò chơi tập thể, yêu cầu trẻ phải thuộc và đọc đúng lời đồng dao theo nhịp nên mang lại những lợi ích sau đây: + Trẻ được hoạt động tập thể, rèn luyện khả năng phán đoán. + Rèn luyện cho trẻ cách đọc rõ ràng, đúng nhịp bài đồng dao. Luyện phát âm bằng các từ ngữ được lặp đi lặp lại: Chi chi, chành chành, ù à, ù ập. + Giúp bé có thêm bạn mới, khả năng giao tiếp, hòa đồng với mọi người. Hình ảnh minh họa ở phụ lục: (Ảnh 7 ) Trò chơi 2: Kéo cưa lừa xẻ: “Kéo cưa lừa xẻ Ông thợ nào khỏe Về ăn cơm vua Ông thợ nào thua Về bú tí mẹ.” Cách chơi: Cách chơi trò chơi kéo cưa lừa xẻ mỗi nhóm có 2 trẻ ngồi đối diện nhau. Cả 2 đều duỗi thẳng chân ra phía trước, 2 bàn chân đạp vào nhau. 2 bàn tay nắm lấy nhau, cùng đẩy qua đẩy lại như người đang cưa gỗ theo nhịp 2 - 2, miệng đọc lời đồng dao. Lời đồng dao kết thúc ở trẻ nào thì bàn cưa xẻ chúc theo trẻ đó. Để trò chơi hấp dẫn, sau mỗi lần kết thúc nên đổi lại lượt bắt đầu. Để cho mỗi trẻ đều được nhận là “ông thợ bị thua”.
  13. 13 Mục đích: Trẻ thuộc lời đồng dao và đung đưa theo đúng nhịp của bài. Hình ảnh minh họa ở phụ lục: (Ảnh 8) Trò chơi 3: Nu na nu nống: “Nu na nu nống Đánh trống phất cờ Mở cuộc thi đua Chân ai sạch sẽ Gót đỏ hồng hào Không bẩn tí nào Được vào đánh trống”. Cách chơi: Trẻ ngồi xếp thành hàng ngang, sát cạnh nhau, chân duỗi thẳng, bàn chân đứng, Tất cả đồng thanh đọc lời ca đồng dao. Cô hoặc một trẻ làm “quản trò” lấy tay đập nhẹ vào bàn chân của bạn đầu tiên (bạn ngồi ngoài cùng) theo nhịp của lời đồng dao. Bắt đầu từ “Nu na nu nống” cho đến cuối cùng. Tất cả các trẻ cùng đọc theo và quan sát xem “quản trò” có đập đúng chân của mình không và từ cuối cùng sẽ dừng ở chân của bạn nào để kịp rút chân lại. Mục đích: + Trẻ được vận động nhẹ nhàng cánh tay, ngón tay linh hoạt. Tập cho trẻ cách di chuyển bàn tay từ trái sang phải và ngược lại. + Trẻ thuộc lời bài đồng dao và đọc đúng theo nhịp bài đồng dao. Rèn cho trẻ khả năng phát âm rõ ràng, rành mạch theo vần điệu. Hình ảnh minh họa ở phụ lục: (Ảnh 9) Trò chơi 4: Lộn cầu vồng: “Lộn cầu vồng Nước trong nước chảy Có cô mười bảy Có chị mười ba Hai chị em ta Ra lộn cầu vồng”. Cách chơi: Đầu tiên, khi bắt đầu các bé chia thành từng cặp đứng đối diện và nắm tay nhau thành một vòng tròn. Trẻ vừa đọc lời đồng dao vừa đưa tay sang mỗi bên, mỗi từ của bài là tay đưa sang một phía. Khi đọc đến từ cuối cùng của bài đồng dao thì trẻ giơ cao cánh tay và cùng chui vào bên trong, lộn một vòng tay và quay mặt ra ngoài. Mục đích: + Rèn luyện cơ tay và cơ lưng cho trẻ.
  14. 14 + Trẻ thuộc lời đồng dao, biết làm đúng động tác theo nhịp của bài khi lộn cầu vồng. Hình ảnh minh họa ở phụ lục: (Ảnh 10) * Trò chơi 5: Dung dăng dung dẻ: "Dung dăng dung dẻ Dắt trẻ đi chơi Đến cổng nhà trời Lạy cậu lạy mợ Cho cháu về quê Cho dê đi học Cho cóc ở nhà Cho gà bới bếp Xì xà xì xụp Ngồi thụp xuống đây". Cách chơi: Tất cả các trẻ sẽ nắm lấy tay nhau, vừa đi vừa đung đưa tay và hát theo nhịp bài đồng dao. Khi nghe đến câu "Ngồi thụp xuống đây" trẻ nhanh chóng chạy đến các vòng tròn và ngồi thụp xuống. Mục đích: Trò chơi giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, khả năng ghi nhớ giúp trẻ vận động nhẹ nhàng đôi tay, thân thể. Hình ảnh minh họa ở phụ lục: (Ảnh 11) Từ những lợi ích trên của trò chơi dân gian, tôi đã đưa ra ý kiến trong các buổi sinh hoạt chuyên môn của trường, của khối giúp trẻ tiếp cận với các trò chơi dân gian thông qua các hoạt động học, hoạt động vui chơi và đặc biệt xây dựng trò chơi dân gian thành một chuyên đề không những giúp trẻ phát triển toàn diện mà còn góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc của con người Việt nam. Kết quả: Những trò chơi dân gian mang âm điệu vui tươi, sống động nhí nhảnh gần gũi với cuộc sống giúp trẻ dễ thuộc lời ca làm cho vốn từ của trẻ trở lên phong phú. Khi đọc đồng dao các từ được lặp lại trong các bài đồng giao còn giúp trẻ được luyện phát âm từ đó trẻ nói rõ ràng, mạch lạc hơn. Chơi trò chơi dân gian còn giúp trẻ gần gũi, đoàn kết, mạnh dạn giao tiếp với mọi người xung quanh. Qua việc trao đổi lợi ích của tôi về trò chơi dân gian nhà trường đã dựng góc dân gian để trẻ được tham gia các trò chơi dân gian tại góc này. Ngoài ra đồng nghiệp cũng nhiệt tình hưởng ứng và áp dụng với trẻ của các lớp mẫu giáo và nhà trẻ. Đồng nghiệp nhận xét trẻ rất phấn khởi, hứng thú và đoàn kết với bạn khi được tham gia các trò chơi dân gian. Phụ huynh cũng trao đổi lại với tôi khi chơi cùng con các trò chơi dân gian các con mạnh dạn, khéo léo, nói rõ ràng hơn.
  15. 15 4. Biện pháp 4: Ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy ở cấp học mầm non làm đa dạng hoá hình thức dạy học giúp trẻ được thay đổi không khí mới, hấp dẫn, trong giờ học, tạo cho trẻ niềm hứng thú, hăng say tích cực tham gia vào hoạt động, đạt hiệu quả giáo dục cao. Với các hoạt động như: Hoạt động văn học, hoạt động nhận biết, hoạt động âm nhạc, hoạt động tạo hình… tôi đã sử dụng phần mềm Power Point, Capcut, Canva… để thiết kế giáo án điện tử, đưa các hình ảnh vào giúp cho trẻ dễ cảm nhận và dễ nhớ từ mới. Ví dụ 1: Hoạt động truyện - đề tài: Chú cá vàng: Để dẫn dắt vào bài tôi đã cho trẻ hát và vận động bài “Cá mập con” rồi trò chuyện về nội dung bài hát. Hình ảnh minh họa ở phụ lục: (Ảnh 12) Ví dụ 2: Hoạt động tạo hình - đề tài: Làm tranh bằng chiếc lá: Tôi đã quay lại quá trình nhặt lá của cô và trẻ sau đó làm thành video và cho trẻ xem trước khi vào bài. Sau đó trò chuyện về nội dung đoạn video đó. Hình ảnh minh họa ở phụ lục: (Ảnh 13) Ví dụ 3: Hoạt động nhận biết - đề tài: Nhận biết hoa hồng - hoa cúc: Tôi lên mạng coppy hình ảnh, video bông hoa nở rồi làm giáo án điện tử để dạy trẻ. Trẻ được xem hình ảnh bông hoa nở và được cung cấp thêm từ “bông hoa nở”. Góp phần mở rộng thêm vốn từ cho trẻ. Ngoài ra tôi sưu tầm những bài thơ, bài hát trên mạng về cho trẻ xem từ đó trẻ cảm thụ vần, nhịp điệu khi đọc, qua đó trẻ sẽ đọc và hát theo. Kết quả: Với việc sử dụng công nghệ thông tin vào tiết dạy, trẻ đã rất thích thú và tích cực tham gia vào hoạt động, tham gia trả lời câu hỏi, trẻ được rèn phát âm, nói đủ câu được cung cấp thêm vốn từ, ngôn ngữ của trẻ ngày càng phong phú hơn, trẻ nói mạch lạc hơn. 5. Biện pháp 5: Phối kết hợp với phụ huynh. Như chúng ta đã biết môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp không thể thiếu. Phụ huynh chính là một nhân tố quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi nêu tầm quan trọng của lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là thông qua việc giao tiếp với người thân và mọi người xung quanh để phụ huynh hiểu và kết hợp với giáo viên giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất.
  16. 16 Trao đổi và vận động phụ huynh cố gắng dành thời gian để trò chuyện và lắng nghe trẻ nói, khi trò chuyện phải nói rõ ràng, mạch lạc, tốc độ vừa phải để trẻ nghe rõ, cha mẹ người thân cố gắng phát âm đúng cho trẻ bắt trước. Hình ảnh minh họa ở phụ lục: (Ảnh 14) Làm bản tin về chương trình dạy theo chủ đề trong tuần để phụ huynh biết và phối hợp với giáo viên rèn thêm cho trẻ ở nhà. Khuyến khích phụ huynh chơi cùng trẻ, đọc truyện cho trẻ nghe, đặt các câu hỏi cho trẻ, quay video trẻ đọc thơ, hát cho cả nhà nghe và gửi lên zalo để giáo viên mở cho các bạn cùng xem và động viên khen ngợi trẻ kịp thời. Hình ảnh minh họa ở phụ lục: (Ảnh 15) Gài các bài thơ, câu chuyện, bài hát ra bảng tuyên truyền của lớp để phụ huynh tham khảo thêm. Vận động phụ huynh sưu tầm và cho trẻ mang tới lớp những bài đồng dao hay, mới, sưu tầm những quyển thơ, truyện có chữ, hình ảnh to, rõ nét, nội dung phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ để cho trẻ làm quen và để xây dựng góc thư viện sách truyện của lớp. Ủng hộ lớp các nguyên vật liệu như: Bìa carton, gỗ, vỏ lon, vỏ chai nhựa, sỏi, đá, vải ren…để giáo viên làm đồ dùng dạy học, đồ chơi cho trẻ. Có những khi làm đồ dùng đồ chơi phải mua nguyên vật liệu nhưng được các bậc phụ huynh mang tới ủng hộ nên giáo viên đã không phải mua nữa qua đó tiết kiệm được kinh phí rất nhiều. Kết quả: Trẻ lớp tôi có sự tiến bộ rõ rệt về ngôn ngữ cũng là nhờ vào sự sự quan tâm của phụ huynh tới con em mình, thường xuyên trao đổi với cô về sự tiến bộ của trẻ như: Khi trẻ nói được câu dài 5 - 7 từ, trẻ thuộc nhiều bài hát, bài thơ và đọc cho cả nhà nghe. Phụ huynh còn chụp ảnh, quay lại video gửi cho giáo viên xem. Phụ huynh ngày càng tin tưởng vào cô giáo, ủng hộ lớp sách truyện có nội dung phù hợp với các con, ủng hộ nguyên vật liệu làm đồ dùng đồ chơi, có ý thức và trách nhiệm khi phối hợp cùng giáo viên để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. IV. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm: Qua thời gian áp dụng đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tại trường mầm non” cuối năm học lớp tôi đạt được những hiệu quả như sau: * Hiệu quả về mặt kinh tế: Các nội dung giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ được lồng ghép, tích hợp trong các hoạt động nhẹ nhàng, dễ thực hiện, tiết kiệm được kinh phí khi tổ chức các hoạt động cho trẻ. Để làm rõ hiệu quả về mặt kinh tế mà đề tài “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tại trường mầm non” mang lại, tôi xin phép được đưa ra ví dụ cụ thể như sau: Mỗi trẻ tham gia một lớp học giáo
  17. 17 dục chuyên biệt dành cho trẻ chậm nói hoặc tự kỷ với 1 tuần 3 buổi, 1 tháng 12 buổi, 1 buổi khoảng 150.000 đồng. Vậy phụ huynh cần trả kinh phí khoảng 1.800.000đ/tháng/1 trẻ. Một năm phụ huynh của lớp sẽ phải trả số kinh phí: 1.800.000đ x 12 = 21.600.000đ/ trẻ/1 năm. Ngoài ra lớp tôi được phụ huynh ủng hộ các nguyên vật liệu, gỗ, bìa carton, giấy A4, chai nhựa, vải... để làm đồ dùng đồ chơi, trang trí môi trường lớp học, phụ huynh ủng hộ tranh, ảnh, sách truyện có nội dung hay phù hợp lứa tuổi và có mục đích phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Với sự động viên về vật chất cũng như tinh thần của phụ huynh như vậy giúp giáo viên chúng tôi tiết kiệm được kinh tế và thời gian, cho chúng tôi có thêm động lực cố gắng hơn nữa trong công tác giáo dục trẻ. * Hiệu quả về mặt xã hội và giá trị làm lợi khác: Trẻ lớp tôi có sự chuyển biến rõ nét ngoài việc phát triển vốn từ cho trẻ, phát âm rõ ràng, nói được câu dài, trẻ đã mạnh dạn tự tin tham gia vào các hoạt động của trường lớp và ở mọi nơi, ứng xử phù hợp trong mọi tình huống của cuộc sống . Kết quả này được thể hiện qua bảng khảo sát sau: Bảng so sánh đối chiếu trước và sau khi thực hiện đề tài: (Tổng số trẻ tham gia 22/22 = 100%) STT Nội dung khảo sát Đầu năm Cuối năm Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ trẻ trẻ trẻ trẻ lệ 12 22 100% 0% 1 Vốn từ. 55% 10 45% 0 Trả lời các câu hỏi: “Ai đây?”, “Cái gì 2 10 45% 12 55% 21 95% 1 5% đây?”, “…làm gì?”, “...thế nào?” (MT 23) Khả năng phát âm rõ 9 41% 13 59% 21 95% 1 5% 3 tiếng. (MT25) Đọc được bài thơ, ca dao, đồng dao với sự 4 10 45% 12 55% 22 100% 0 0% giúp đỡ của cô giáo. (MT 26) Nói được câu đơn. 10 45% 12 55% 22 100% 0 0% 5 (MT 27)
  18. 18 Nhìn vào kết quả của bảng khảo sát, chúng ta có thể thấy các kỹ năng ngôn ngữ của trẻ tăng lên rõ rệt. Như vậy việc áp dụng các biện pháp trong sáng kiến đã bước đầu thu lại kết quả như mong đợi ở trẻ. * Đối với trẻ: Vốn từ của trẻ phong phú, thuộc nhiều bài hát, bài thơ, ca dao, đồng dao… trẻ đã biết vận dụng vốn từ vào cuộc sống hàng ngày. Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Khi giao tiếp trẻ nói được nhu cầu, mong muốn và hiểu biết bằng 1 - 2 câu đơn giản và câu dài. Phụ huynh không phải cho con theo học các lớp kỹ năng sống sẽ tiết kiệm được kinh tế cho gia đình. Trẻ nghe hiểu ngôn ngữ, trả lời được các câu hỏi: “Ai đây?”, “Cái gì đây?”, “…làm gì?”, “...thế nào?” … Trẻ phát âm rõ ràng, hạn chế nói ngọng, nói lắp. Giáo dục phát triển ngôn ngữ giúp trẻ định hình và phát triển tư duy, đạo đức, là phương tiện để trẻ giao tiếp, kết nối, bày tỏ quan điểm thái độ của mình. * Đối với giáo viên: Tôi thấy mình đã nâng cao được trình độ chuyên môn, phong cách nghệ thuật lên lớp, giọng kể, giọng đọc được trau dồi diễn cảm, thu hút trẻ tham gia vào hoạt động. Tạo được môi trường tốt cho trẻ phát triển ngôn ngữ ở các góc, đặc biệt là góc văn học. Mang lại cho trẻ năng lượng tích cực trong giờ học, niềm vui trong giờ chơi và mạnh dạn trong giao tiếp. Được chị em đồng nghiệp tin tưởng, tạo được niềm tin nơi phụ huynh, đó có lẽ là thành công lớn nhất. * Đối với phụ huynh: Phụ huynh tin tưởng giáo viên và quan tâm hơn tới lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ, thường xuyên trao đổi với cô giáo về trẻ. Phụ huynh thường xuyên sưu tầm và mang tới lớp ủng hộ giáo viên và học sinh những bài thơ, câu chuyện mới, đồng thời tìm kiếm những nguyên vật liệu có thể làm đồ dùng, đồ chơi gửi cho cô giáo. Phối hợp cùng giáo viên dạy trẻ các bài đồng dao, bài thơ, câu chuyện đã được giáo viên dạy trên lớp. * Hiệu quả có tính lan tỏa: Các biện pháp phát triển ngôn ngữ của tôi cũng được giáo viên lớp D1, D3, các lớp Mẫu giáo bé trong trường áp dụng và kết quả là trẻ đã mạnh dạn tự tin, vốn từ của trẻ phát triển rõ rệt. Điều đó chứng minh rằng thực nghiệm của tôi thành công, áp dụng các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ tôi đề ra rất phù hợp. Ngoài ra các biện pháp này còn có thể áp dụng với các trường mầm non trên địa bàn Huyện.
  19. 19 C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ I. Kết Luận: Có thể thấy, việc phát triển vốn từ ở giai đoạn 24 - 36 tháng tuổi là bước ngoặt đặc biệt quan trọng trong sự phát triển ngôn ngữ và nhận thức ở trẻ. Bởi đây là giai đoạn trẻ bắt đầu chuyển từ môi trường gia đình sang làm quen và sống trong môi trường tập thể - lớp học. Đặc biệt, việc phát triển vốn từ cho trẻ phải được thực hiện đồng thời với việc giúp trẻ luyện cách phát âm chuẩn, học ngữ pháp và tập diễn đạt một cách mạch lạc. Có như vậy mới giúp trẻ phát huy tối đa năng lực ngôn ngữ song song với việc hình thành, phát triển trí tuệ, đạo đức, thẩm mĩ và thể lực. Bản thân tôi là một giáo viên phụ trách lớp nhà trẻ D2 lứa tuổi 24 - 36 tháng, tôi đã xác định được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Vì vậy tôi đã nỗ lực tìm và thực hiện các biện pháp giúp trẻ lớp tôi khắc phục những yếu kém về ngôn ngữ một cách tốt nhất. Kết quả được thể hiện bằng bảng so sánh đối chiếu trước và sau khi thực hiện đề tài như sau: Về vốn từ cuối năm trẻ đạt 100% tăng 45% so với đầu năm. Trả lời các câu hỏi: “Ai đây?”, “Cái gì đây?”, “…làm gì?”, “...thế nào?”… cuối năm trẻ đạt 95% tăng 50% so với đầu năm. Khả năng phát âm rõ tiếng cuối năm trẻ đạt 95% tăng 54% so với đầu năm. Đọc được bài thơ, ca dao, đồng dao với sự giúp đỡ của cô giáo cuối năm trẻ đạt 100% tăng 55% so với đầu năm. Nói được câu đơn cuối năm trẻ đạt 100% tăng 55% so với đầu năm. * Qua quá trình thực hiện đề tài bản thân tôi đã rút ra được kinh nghiệm sau: Giáo viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ với việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ, không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, rèn luyện ngôn ngữ của mình để phát âm chuẩn. Mở rộng vốn từ cho trẻ và khuyến khích trẻ sử dụng vốn từ trẻ học được trong các hoạt động khác nhau, đặc biệt qua các trò chơi ngôn ngữ, dành thời gian gần gũi trò chuyện với trẻ đặc biệt là trẻ nhút nhát. Tích cực làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo hấp dẫn với trẻ và phù hợp với nội dung của bài dạy. Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa cô giáo và phụ huynh để nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ từ đó có kế hoạch phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Tuyên truyền bạn bè, đồng nghiệp cùng thực hiện các biện pháp mới của mình, của bạn để có chất lượng giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ đạt kết quả tốt nhất.
  20. 20 II. Khuyến nghị: Qua tìm tòi nghiên cứu và thực hiện đề tài tôi nhận thấy “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tại trường mầm non” là vô cùng cấp thiết. Vì vậy, kính mong Sở giáo dục và đào tạo, Phòng giáo dục và đào tạo bổ sung thêm trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi...phụ vục cho việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ, tiếp tục tổ chức các buổi kiến tập, tập huấn về chuyên đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ lứa tuổi 24 - 36 tháng để các trường tham gia các buổi kiến tập, trao đổi kinh nghiệm học hỏi lẫn nhau. Trên đây là “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tại trường mầm non” của tôi với mong muốn phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp, của Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm các cấp để bản thân tôi hoàn thiện hơn trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Hà Nội, ngày tháng năm 2023 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết Nguyễn Thị Hương Trà
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2