intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi thông qua hoạt động cho trẻ làm quen tác phẩm văn học ở trường mầm non

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:14

22
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài tập trung nêu ra những biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển và mở rộng vốn từ thông qua các hoạt động làm quen tác phẩm văn học từ việc áp dụng quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi thông qua hoạt động cho trẻ làm quen tác phẩm văn học ở trường mầm non

  1. SÁNG KIẾN CẢI TIẾN KỶ THUẬT Đề  tài: “Một số  biện pháp phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  24­36 tháng   tuổi thông qua hoạt động cho trẻ làm quen tác phẩm văn học ở trường mầm   non” 1. Phần mở đầu 1.1. Lý do chọn đề tài Ông cha ta đã từ có câu: “Trẻ lên ba cả nhà học nói” Đúng vậy, trẻ  từ  0 ­ 6 tuổi là “giai đoạn vàng” để  phát triển toàn diện   nhất, đặc biệt là khả  năng ngôn ngữ. Đây là giai đoạn mà khả  năng ngôn ngữ  của trẻ  phát triển mạnh mẽ  nhất trong suốt cuộc  đời. Trẻ  có thể  học được   nhiều hơn so với những gì chúng ta tưởng tượng, không chỉ  với tiếng Việt mà  với cả các ngoại ngữ khác. Việc phát triển ngôn ngữ  cho trẻ cũng là một trong  những mục tiêu quan trọng nhất trong Chương trình Giáo dục Mầm non định   hướng. Vì ngôn ngữ sẽ giúp trẻ bày tỏ, trao đổi và giao tiếp với nhau trong học   tập cũng như  vui chơi. Ngôn ngữ  còn là phương tiện để  giáo dục trẻ  một cách  toàn diện bao gồm sự  phát triển về  đạo đức, tư  duy nhận thức và các chuẩn   mực hành vi văn hoá.  Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang tiến hành đổi mới  chương trình giáo dục trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ  chức các hoạt động  phù hợp sự  phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ  hoạt động một  cách chủ  động tích cực, hồn nhiên vui tươi, đồng thời tạo điều kiện cho giáo  viên phát huy khả  năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ  chức các hoạt động   chăm sóc, giáo dục trẻ  một cách linh hoạt, thực hiện phương châm “học mà  chơi ­ chơi mà học” đáp ứng mục tiêu phát triển của trẻ một cách toàn diện về  mọi mặt.Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và   trẻ mầm non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng đặc biệt không   thể thiếu được. Bởi: Ngôn ngữ có vai trò là một phương tiện hình thành và phát triển nhận thức  của trẻ về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận   thức về  môi trường xung quanh, thông qua cử  chỉ  và lời nói của người lớn trẻ  làm quen với các sự  vật, hiện tượng có trong môi trường xung quanh, trẻ  hiểu  những đặc điểm, tính chất, công dụng của các sự vật cùng với từ tương ứng với  nó. Nhờ có ngôn ngữ  trẻ nhận biết ngày càng nhiều các sự  vật, hiện tượng mà  trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày.  Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm  mĩ. Ngôn ngữ  là phương tiện để  giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với   trẻ  nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ  giao lưu cảm xúc với những người xung   quanh hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ  là công cụ  giúp trẻ  hoà  nhập với cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những   1
  2. lời chỉ dẫn của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của   cộng đồng mà mọi thành viên trong cộng đồng phải thực hiện, mặt khác trẻ  cũng có thể dùng ngôn ngữ để bày tỏ những nhu cầu mong muốn của mình với   các thành viên trong cộng đồng điều đó giúp trẻ hoà nhập với mọi người. Đặc biệt đối với trẻ nhà trẻ 26 – 36 tháng, nhờ có ngôn ngữ thông qua các  bài thơ, bài ca dao, đồng dao, câu chuyện trẻ  dể  dàng tiếp nhận những chuẩn   mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn. Trẻ từ 24 đến 36 tháng  tuổi có số  lượng từ  tăng nhanh, vốn từ  của trẻ  phần lớn là những danh từ  và  động từ, các loại khác như tính từ, đại từ, trạng từ xuất hiện rất ít và được tăng  dần theo độ tuổi của trẻ. Trẻ ở lứa tuổi này không chỉ hiểu nghĩa các từ biểu thị  các sự vật, hành động cụ thể mà có thể hiểu nghĩa các từ biểu thị tính chất màu  sắc, thời gian và các mối quan hệ. Tuy nhiên mức độ hiểu nghĩa của các từ này  ở trẻ từ 2 đến 3 tuổi còn rất hạn chế và có nét đặc trưng riêng, trẻ sử dụng các   từ  biểu thị  thời gian chưa chính xác trẻ  nhận thức về  công cụ  ngữ  pháp và sử  dụng nó còn rất hạn chế. Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ từ 24 tháng tuổi   đến 36 tháng tuổi nói riêng, chúng ta cần phải giúp trẻ phát triển mở rộng các từ  loại trong các từ, biết sử  dụng nhiều loại câu, bằng cách thường xuyên trò  chuyện với trẻ  về  những sự  vật, sự  việc trẻ  nhìn thấy trong sinh hoạt hàng  ngày, nói cho trẻ biết các từ biểu thị về các đặc điểm, tính chất, công dụng của  chúng. Cho trẻ xem tranh, cho trẻ đọc thơ, kể cho trẻ nghe các câu chuyện đơn  giản qua tranh hay đặt các câu hỏi cho trẻ trả lời như thế từng bước người lớn   giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Không những thế,  học nói cũng là bước đầu giúp trẻ phát triển tốt về trí  tuệ. Vậy lam thê nao đê giup tre phat triên ngôn ng ̀ ́ ̀ ̉ ́ ̉ ́ ̉ ữ môt cach hiêu qua? Làm sao ̣ ́ ̣ ̉   để  trẻ  có thể  nói tốt, câu từ  mạch lạc, và "chuẩn" về  ngữ  nghĩa?  Là một giáo  viên trực tiếp dạy trẻ  24­36 tháng tuổi tôi luôn có những suy nghĩ trăn trở  làm   sao để  dạy các con phát triển vốn từ. Tôi thấy mình cần phải tìm hiểu kỹ  vấn  đề  này và làm thế  nào để  vốn từ  của trẻ  ngày càng được mở  rộng, giúp trẻ  khám phá thế giới xung quanh trẻ một cách có hiệu quả  nhất. Đó chính là lí do   tôi chọn đề tài “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 đến 36 tháng   tuổi thông qua hoạt động cho trẻ  làm quen tác phẩm văn học   ở  trường mầm   non” làm đề tài sáng kiến kỹ thuật cho bản thân trong năm học 2018­2019. 1.2. Điểm mới, phạm vi áp dụng của đề tài. 1.2.1. Điểm mới của đề tài Đề tài tập trung nêu ra những biện pháp giúp trẻ 24­36 tháng tuổi phát triển  và mở rộng vốn từ thông qua các hoạt động làm quen tác phẩm văn học  từ việc  áp dụng quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm      Đề  tài tập trung vào những mặt đã làm được, đề  xuất những hình thức  mới mà giáo viên đã áp dụng phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm để tổ  chức cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học có hiệu quả  mà phương pháp   2
  3. truyền thống trước đây chưa làm được; cụ  thể  thông qua các bài thơ, bài đồng  dao, ca dao, các câu chuyện với nhiều hình thức khác nhau nhau giáo viên cho trẻ  đọc thơ, kể chuyện cho trẻ nghe, đóng vai đơn giản, dạy trẻ kể lại chuyện cùng  cô, ở đó trẻ được hóa thân vào các nhân vật để thể hiện nhân vật qua các lời đối  thoại từ đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, mở rộng vốn từ và đặc biệt hơn những  ngôn ngữ mà khi trẻ thể hiện lời nói, cử  chỉ điệu bộ  của các nhân vật thì ngôn   ngữ  đó xuất phát từ  bản thân trẻ  tức là việc phát triển ngôn ngữ  và giàu thêm   vốn từ cho trẻ. 1.2.2. Phạm vi áp dụng: Đây là một sáng kiến mới được tôi áp dụng lần đầu tiên tại trường năm   học 2018 ­2019 và có thể sử dụng rộng rãi đối với các trường Mầm non trên địa  bàn huyện, các trường mầm non của tỉnh nói riêng và có thể áp dụng cho tất cả  các trường mầm non trên toàn quốc. 2. Phần nội dung 2.1. Thực trạng của đề tài Phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  thông qua các môn học, các hoạt động trong  trường mầm non là một vệc làm vô cùng quan trọng. Trong những năm qua đội   ngũ giáo viên mầm non đã từng bước khẳng định về chuyên môn nghiệp vụ của  mình, đã đầu tư vào bài dạy, các hoạt động một cách tích cực. Song đối với việc  thực hiện chương trình nhà trẻ  vẫn còn nhiều lúng túng nhất là độ  tuổi 24 đến   36 tháng giáo viên vẫn còn xem nhẹ  việc tạo cơ  hội cho trẻ  được hoạt động,  giao tiếp để phát triển ngôn ngữ. Có đầu tư vào bài dạy, nhưng phương pháp và  biện pháp để cho trẻ được tham gia vào các hoạt động ngôn ngữ là rất ít. Khi tổ  chức các giờ   dạy trẻ  đọc thơ, kể  chuyện cho trẻ  nghe mà cô có thể  khai thác   nhiều biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, giáo viên chưa biết linh hoạt tạo   cơ  hội cho trẻ  hệ  thống câu hỏi đàm thoại, giáo viên đưa ra hầu như  toàn câu  hỏi đóng, trẻ không thể tư duy và ít sử dụng hệ thống câu đầy đủ chủ ngữ và vị  ngữ, từ đó dẫn đến việc trẻ hay nói cộc lốc, chưa rõ từ, câu chưa trọn vẹn. Trong quá trình dạy trẻ, bản thân tôi thấy rất lo lắng đến vấn đề này, nếu   như không tìm ra các biện pháp phù hợp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ  sẽ  là một  thiệt thòi lớn cho trẻ, bởi trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi là thời kỳ vàng cho sự phát   triển ngôn ngữ. ̉ ̃ ̀ ̉ ̀ ̣ ̣ ̉ ̣ Ban thân tôi đa tim hiêu tai liêu, hoc hoi kinh nghiêm, suy nghi va tim toi ̃ ̀ ̀ ̀  ̉ ̀ đê lam sao tim ra nhiêu bi ̀ ̀ ện pháp sang tao, đôi m ́ ̣ ̉ ới hình thức trong viêc tô ch ̣ ̉ ức  ̣ ̣ ̉ cac hoat đông cho tre làm quen v ́ ới các tác phẩm văn học qua áp dụng quan điểm  giáo dục lấy trẻ làm trung tâm để  phát triển ngôn ngữ  cho trẻ. Nhưng hiêu quã ̣ ̉  đat đ̣ ược tư khi vân dung sang tao va tô ch ̀ ̣ ̣ ́ ̣ ̀ ̉ ức thanh công nhiêu tiêt day thao giang, ̀ ̀ ́ ̣ ̉   ̣ ́ ̀ ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ ̀ ̀ ̃ ́ ̉ tâp huân, chuyên đê, hoat đông hoc, hoat đông hang ngay đa thuc đây qua trinh ́ ̀   phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Qua trinh th ́ ̀ ực hiên áp d ̣ ụng phương pháp lấy trẻ là   trung tâm để  giúp trẻ  phát triển ngôn ngữ  qua làm quen các tác phẩm văn học  3
  4. ̃ ́ ́ ược môt sô kinh nghiêm va l giúp tôi đa đuc rut đ ̣ ́ ̣ ̀ ựa chon đê tai: “ ̣ ̀ ̀ Một số  biện   pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ  24 đến 36 tháng tuổi thông qua làm quen tác   phẩm văn học trường mầm non”. Mong răng t ̀ ừ nhưng bi ̃ ện pháp nho nay co thê ̉ ̀ ́ ̉  gop phân vao viêc phát tri ́ ̀ ̀ ̣ ển ngôn ngữ môt cach tich c ̣ ́ ́ ực va đat đ ̀ ̣ ược hiêu qua h ̣ ̉ ơn. Năm học 2018­2019 bản thân tôi trực tiếp giảng dạy lớp nhà trẻ  24­36  tháng tuổi với tổng số là 20 cháu. Bước vào thực hiện đê tai nay l ̀ ̀ ̀ ớp chúng tôi có   được những thuận lợi và gặp một số khó khăn sau: 2.1.1. Thuận lợi: Hoạt động của lớp được sự  quan tâm chỉ  đạo chặt chẽ  của Phòng GD­ ĐT Lệ Thủy, ban giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn. Trương tôi la môt trong nh ̀ ̀ ̣ ưng đ ̃ ơn vi trong điêm cua bâc hoc huyên nha, ̣ ̣ ̉ ̉ ̣ ̣ ̣ ̀  được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kiên cô, trang thi ́ ết bị kha đ́ ầy đủ đam baỏ ̉   ̣ ̣ ̣ viêc hoc tâp va sinh hoat cua tre. ̀ ̣ ̉ ̉ Ban giám hiệu nhà trường có kinh nghiệm, chỉ  đạo sát sao vì vậy bản   thân tôi đã học hỏi được nhiều bài học quý báu trong công tác chăm sóc và giáo  dục trẻ. Trương la đ ̀ ̀ ơn vi đi đâu trong viêc th ̣ ̀ ̣ ực hiên ch ̣ ương trinh giao duc mâm ̀ ́ ̣ ̀   ̀ ̣ ̣ ̣ non, cac chuyên đê trong tâm phuc vu cho tâp huân cua S ́ ̣ ́ ̉ ở, Phong giao duc. ̀ ́ ̣ Đa số  phụ  huynh nhiệt tình, có nhận thức về  việc học tập của con em   mình. Tre ̉ ở cung môt đô tuôi nên m ̀ ̣ ̣ ̉ ưc đô nhân th ́ ̣ ̣ ưc t ́ ương đôi đông đêu vi vây ́ ̀ ̀ ̀ ̣   ̣ ̣ viêc day tre  ̉ ở  lơp rât thuân l ́ ́ ̣ ợi. Bản thân tôi cũng có nhiều cố  gắng trong quá   trình tự học, tự rèn luyện, tìm tòi những nội dung mới để  tạo hứng thú cho trẻ  khi tham gia hoạt động  làm quen với các tác phẩm văn học. Bản thân tôi luôn tận dụng những nguồn nguyên vật liệu phê thai rôi x ́ ̉ ̀ ử  ́ ̣ ly sach đ ể có thể biến chúng thành những dụng cụ học tập và đồ chơi đơn giản   phục vụ co việc cung cấp và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Đồ dùng phục vụ cho việc phát triển vốn từ cho trẻ phong phú về  hình   ảnh, màu sắc hấp dẫn (tranh ảnh, vật thật.. ) 2.1.2. Khó khăn: Trẻ  24­ 36 tháng tuổi do tôi phụ  trách là độ  tuổi còn non nớt, các cháu   bắt đầu đi học còn khóc nhiều, chưa quen với các cô và các bạn, chưa thích nghi   với chế độ  sinh hoạt cũng như  các hoạt động ở  lớp. Mặt khác, các cháu không  cùng tháng tuổi, mỗi cháu có một sở thích và cá tính khác nhau.  Trí nhớ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ chưa biết hết khối lượng các âm  tiếp thu cũng như  trật tự  các từ  khi nhắc lại câu nói của người lớn. Vì thế  trẻ  thường xuyên bỏ bớt từ, bớt âm khi nói. Đa số trẻ kinh nghiệm sống còn nghèo nàn, nhận thức còn hạn chế dẫn   đến tình trạng trẻ thường dừng từ không chính xác. 4
  5. Nhiều trẻ nói sai, phát âm sai do  ảnh hưởng ngôn ngữ của những người  lớn xung quanh. Đa số phụ huynh đều bận công việc hoặc có những lý do khách quan nào  đó ít có thời gian trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói.  Hoạt động phát triển ngôn ngữ  thông qua các tác phẩm văn học la môt ̀ ̣  ̣ ̣ hoat đông khó, nó d ễ  sinh ra nhà chán đối với trẻ. Vì vậy giao viên phai năm ́ ̉ ́   vưng ph ̃ ương phap môn hoc, linh hoat sang tao khi tô ch ́ ̣ ̣ ́ ̣ ̉ ức cac hoat đông cho tre. ́ ̣ ̣ ̉  ̣ Bên canh đo sô l ́ ́ ượng đô dung đô ch ̀ ̀ ̀ ơi cua cac công ty san xuât phuc vu cho môn ̉ ́ ̉ ́ ̣ ̣   ̣ hoc con it, đ̀ ́ ơn sơ va gia thanh cao. Trong l ̀ ́ ̀ ớp môt sô tre tiêp thu bai con han chê. ̣ ́ ̉ ́ ̀ ̀ ̣ ́ Phương pháp dạy truyền thống không làm trẻ hứng thú. Đầu năm học này tôi đã tổ chức môt sô gi ̣ ́ ờ học cho trẻ làm quen các tác  phẩm văn học qua đó tôi nhận thấy rằng một số trẻ chưa hứng thú tham gia vào  hoạt động hoặc tham gia không tích cực. ̣  Nhân thây kêt qua chât l ́ ́ ̉ ́ ượng trên cua tre ch ̉ ̉ ưa cao bản thân tôi luôn suy  nghĩ, tìm ra những biện pháp triển khai đặc biệt là áp dụng phương pháp dạy   học lấy trẻ  làm trung tâm trong các giờ  học để  trẻ  được phát triển ngôn ngữ  một cách tích cực, ngôn ngữ  của trẻ  được bổ  sung và mở  rộng giúp ngôn ngữ  của trẻ phát triển hơn. 2.2. Các giải pháp thực hiện:  2.2.1. Công tác tự bồi dưỡng, rèn luyện chuyên môn  ̉ Ban thân tôi luôn t ự  nghiên cưu tai liêu vê linh v ́ ̀ ̣ ̀ ̃ ực phat triên ngôn ng ́ ̉ ữ  (Lam quen v ̀ ơi các tác ph ́ ẩm văn học) đê tim hiêu vân dung co hiêu qua, trau dôi ̉ ̀ ̉ ̣ ̣ ́ ̣ ̉ ̀  ́ ưc, k kiên th ́ ỹ năng cho bản thân. Đồng thời tham gia đây đu cac buôi tâp huân vê ̀ ̉ ́ ̉ ̣ ́ ̀  chương trinh giao duc mâm non, b ̀ ́ ̣ ̀ ồi dưỡng thường xuyên do Sở, Phong, tr ̀ ương̀   ̉ ưc. Chu đông tim hiêu nghiên c tô ch ́ ̉ ̣ ̀ ̉ ưu  ́ ở  sach ch́ ương trinh, h ̀ ương dân th ́ ̃ ực  ̣ ̉ hiên, tham khao môt sô hoat đông đôi ṃ ́ ̣ ̣ ̉ ơi cho tre khi lam quen v ́ ̉ ̀ ơi các tác ph ́ ẩm   văn học vi thê khi tô ch ̀ ́ ̉ ức cac hoat đông tôi đa lông ghep va vân dung môt cach ́ ̣ ̣ ̃ ̀ ́ ̀ ̣ ̣ ̣ ́   ̣ ́ ̉ sang tao thu hut tre tham gia tich c ́ ́ ực, nhiêt tinh. ̣ ̀ Khi kể chuyện cho trẻ nghe tôi luôn danh th ̀ ơi gian trao đôi, hoc hoi kinh ̀ ̉ ̣ ̉   nghiêm t ̣ ừ  Ban giam hiêu, tô mang l ́ ̣ ̉ ̣ ươi chuyên môn, thao luân v ́ ̉ ̣ ơi chi em đông ́ ̣ ̀   nghiêp đê đ̣ ̉ ưa ra hinh th ̀ ưc tô ch ́ ̉ ưc hay nhât, phu h ́ ́ ̀ ợp vơi tre va phu h ́ ̉ ̀ ̀ ợp vơi đ ́ ặc   điểm tâm sinh lý của trẻ; đưa ra các phương pháp tối ưu để phát triển ngôn ngữ  cho trẻ. Nghiên cứu tài liệu về  phương pháp dạy trẻ  nhà trẻ  làm quen các tác  phẩm văn học như thơ, chuyện, đồng dao theo quan điểm giáo dục lấy trẻ  làm  trung  tâm.  Xây   dựng  kế  hoạch  phù  hợp  với  đặc  điểm  tâm  sinh  lý  của  trẻ,   thường xuyên rèn luyện mình các kỹ  năng đọc, kể  diễn cảm, diễn rối, sa bàn,  kể  chuyện qua hình  ảnh tạo sự  hứng thú và giúp trẻ  nhớ  lâu về  nội dung câu  chuyện. 5
  6. Thường xuyên trau dồi phẩm chất đạo đức của người giáo viên, luôn yêu   nghề mến trẻ. Thường xuyên nghe những băng, đĩa, các bài thơ, câu chuyện mẫu để  học hỏi những lời đọc, kể diễn cảm, cách nhập vai nhân vật… 2.2.2.  Tạo môi trường học tập, rèn luyện giúp trẻ  phát triển ngôn   ngữ Tôi luôn tận dụng diện tích phòng học, chú ý bố trí sắp xếp các học cụ,   đội hình để tạo môi trường học tốt và thoải mái cho trẻ. Khi thực hiện các hoạt  động trong giờ  kể  chuyện tôi luôn tận dụng   không gian lớp học để  trưng bày các dụng cụ  kể  chuyện như  khung sân khấu,  rối dẹt, rối tay, sắp đặt tranh và các con rối theo chủ đề sao cho trẻ dễ sử dụng,   kích thích trẻ  hoạt động tích cực hơn đồng thời tạo mọi cơ  hội có thể  để  trẻ  phát triển vốn từ  , mở rộng vốn từ về tên các nhân vật, màu sắc của các nhân   vật, cây xanh, hoa cỏ và cảnh vật, tên chuyện. Bản thân tôi trước khi tổ chức hoạt động cũng phải tự luyện giọng đọc­   kể, cách sử  dụng tranh, hình  ảnh, rối mô hình... để  giúp trẻ  cảm thụ  được câu   chuyện từ  lời thoại nhân vật, các hoạt động trong câu chuyện đó giúp trẻ  ghi   nhớ từ, cụm từ, câu thoại và trẻ biến ngôn ngữ của chuyện thành ngôn ngữ của  chính mình.  2.2.3.   Phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  thông qua các câu chuyện với   nhiều  hình thức: Các tác phẩm văn học nói chung, các câu chuyện nói riêng là phương tiện  quan trọng để  phát triển ngôn ngữ  cho trẻ. Bởi chuyện là phương tiện có hiệu  quả  mạnh mẽ  không chỉ  đối với việc giáo dục trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ  mà  còn  ảnh hưởng vô cùng to lớn đến sự  phát triển ngôn ngữ  của trẻ. Nhà văn  M.Gooki định nghĩa: “văn học là nghệ thuật ngôn từ” chính là đã chỉ rõ ngôn từ  là “kho vô tận về âm thanh, bức tranh khái niệm”. Các hình tượng văn học làm  phong phú những xúc cảm, tình cảm, đưa đến cho trẻ những hình tượng trong  truyện kể, trẻ  nhận thức được tính rõ ràng chính xác của từ, sự  hoàn hảo của  câu với cấu trúc ngữ  pháp phong phú. Những câu chuyện cổ  dân gian là những  mẫu mực của lời nói giản dị, có nhịp điệu, mở  ra trước mắt trẻ  sự biểu cảm  của ngôn ngữ, sự  giàu có của tính hài hước, lối so sánh diễn đạt sinh động và  giàu hình tượng.  Để  giúp trẻ  hứng thú và nhớ  câu chuyện nhanh, có thể  nhớ  các từ, tên   các nhân vật, tên các con vật hay nội dung, lời thoại câu chuyện tôi đã sử  dụng   nhiều hình thức khác nhau nhằm giúp trẻ có nhiều cơ  hội để  được nghe, được  nói từ đó phát triển ngôn ngữ cho trẻ * Kể chuyện bằng hình ảnh: Với bài dạy kể  chuyện cho trẻ  bằng hình  ảnh tôi sử  dụng màn hình  chiếu cho trẻ  quan sát. Các hình  ảnh được thiết kế  luôn  ở  trạng thái hình  ảnh  6
  7. động kèm âm thanh tương ứng phù hợp như tiếng các con vật, tiếng nước chảy,  gió, mưa… Ví dụ: Chủ  đề: “Thể  giới động vật” với đề  tài kể  chuyện “Quả  trứng”  khi cô kể “có một Bác gà trống đi tới” thì đồng thời hình ảnh con gà trống đi ra  cùng tiếng gáy “Ò ó o” hay lúc “Lợn con chạy đến, nó ngắm nghía quả trứng và  nói ụt à ụt ịt, trứng gà hay trứng vịt” thì xuất hiện  hình ảnh chú lợn hồng đáng   yêu cùng dáng đi dễ thương và tiếng kêu hài hước như  vậy sẽ  gây sự  chú ý và   hấp dẫn với trẻ hơn. Trẻ sẽ  ấn tượng với nhân vật thì trẻ sẽ nhớ nội dung câu  chuyện, lời thoại nhân vật dễ hơn. * Kể chuyện bằng rối tay. Tôi sử  dụng các nguyên liệu sẳn có  ở  địa phương như: Bông, vải,  ống  nhựa, xốp bìa, dây cước …để  làm rối các nhân vật nhằm đáp ứng những mong   muốn của trẻ Ví dụ : Kể chuyện “Cây táo” tôi sử dụng rối của các nhân vật khác nhau:  Ông, bé, gà trống, bươm bướm và Mặt trời. * Kể chuyện bằng sa bàn. Đây là một trong những hình thức dạy trẻ  thể loại kể chuyện mang lại  hiệu quả cao đối với trẻ, trẻ rất tò mò và muốn được quan sát những nhân vật   được làm từ  rối dẹt, cách diễn rối của cô trong hoạt động này đã mang lại cho   trẻ  những hình  ảnh những lời nói gây hứng thú với trẻ trẻ nhớ  lâu hơn về  nội  dung câu chuyện và có thể diễn lại rối dẹt về nội dung câu chuyện. 2.2.4 Dạy trẻ đóng kịch cùng cô Đóng kịch là một loại hình nghệ  thuật được trẻ  rất yêu thích, nó được  xem như  kim chỉ  nam của việc áp dụng quan điểm giáo dục lấy trẻ  làm trung   tâm trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua tiết kể chuyện, đồng thời nó có ý  nghĩa giáo dục toàn diện nhân cách cho trẻ, giúp trẻ  tích lũy kinh nghiệm sống  qua trải nghiệm các nhân vật trong tác phẩm, nó ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát  triển ngôn ngữ  và sự  phát triển xúc cảm tình cảm thẩm mỹ   ở  trẻ. Bởi qua trò  chơi đóng kịch trẻ  tự  hoàn thiện mình về  đạo đức, trẻ  sẽ  học được  ở  đó lòng   dũng cảm, tính trung thực, lòng yêu quê hương đất nước, yêu những điều thiện,  bênh vực kẻ yếu, lên án những cái xấu, cái ác… Đặc biệt trò chơi đã phát triển   ở trẻ tính tích cực cá nhân, tính độc lập sáng tạo. Trước tiên cô giáo phải cho trẻ làm quen với tác phẩm mà trẻ được đóng  kịch, tạo cảm giác thoải mái, tinh thần tập thể hòa đồng với bạn bè cũng là hình  thức phát triển ngôn ngữ, phát triển trí nhớ  nhằm khắc sâu tác phẩm văn học  cho trẻ, ngôn ngữ  đối thoại của nhân vật, con vật trong nội dung câu chuyện   đồng thời giúp trẻ  thể  hiện sắc thái ngữ  điệu. Khi dạy trẻ  đóng kịch, tôi đã  hướng dẫn và cùng làm với trẻ về cách hóa trang và bố trí sân khấu. Đối với trẻ  24­ 36 tháng, khi đóng kịch tôi chọn những câu chuyện lời thoại ngắn phù hợp   với độ tuổi và giúp trẻ  thể hiện được giọng điệu của từng nhân vật. Cho giúp  7
  8. trẻ  chọn vai mình thích, cô giúp trẻ  dựng cảnh sân khấu, cô làm người dẫn  chuyện cô hướng dẫn cho trẻ vào vai, với hình thức này trẻ rất thích học và đạt   kết quả cao.  Ví dụ 1: Khi đóng kịch “Cây táo” ­ Cô là người dẫn chuyện ­ Nhóm trẻ nam: Ông ­ Nhóm trẻ nữ: bươm bướm ­ Thể hiện giọng bươm bướm: “ Cây ơi, cây   lớn mau” ­ Một trẻ: Gà trống­ Thể hiện giọng gà trống: “ Cây ơi, cây lớn mau” ­ Một trẻ nữ: Bé gái Ví dụ 2: Chuyện: “Quả trứng” ­ Cô là người dẫn chuyện ­ Nhóm trẻ nữ: Gà trống ­ Trẻ thể hiện giọng gà trống: “Ò ó o, quả trứng  gì to to, quả trứng gì to to” ­ Nhóm trẻ nam: Lợn con­ Trẻ thể hiện giọng lợn con: “Ụt à, ụt ịt; trứng   gà hay trứng vịt” ­ Trẻ gái: Vịt con­ Trẻ thể hiện giọng vịt con: “Vít vít, vít vít” Như  vậy, ngoài hình thức khuyến khích phát triển ngôn ngữ  cá nhân cho  những trẻ  có ngôn ngữ  tốt, tôi đã  ưu tiên và nhấn mạnh vào từng nhóm trẻ  để  giúp trẻ có khả năng ngôn ngữ yếu hơn cùng phát triển qua hoạt động nhóm. 2.2.5 Phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  thông qua hoạt động làm quen với   thơ Thơ ca là sự nhịp nhàng cân đối các giai điệu, tiết tấu của ngôn ngữ. Thơ  ca  góp phần làm giàu vốn ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ  thi ca của trẻ. Và kết   quả  của những lần học thơ   ở  trường, lớp còn làm cho trẻ  cảm thấy hứng thú   với  ngôn ngữ của tác phẩm nghệ thuật, yêu thích ngôn ngữ  thơ  ca và yêu thích đọc  thơ. Từ đó, ngôn ngữ nghệ thuật trở thành sở hữu của đứa trẻ.  Để  dạy trẻ  học và đọc thuộc bài thơ  có tình cảm, để  bài thơ  làm rung  động tâm hồn trẻ, cô giáo phải gây hứng thú để trẻ bước vào hoạt động văn học  nghệ thuật, gợi lại cho trẻ ấn tượng về bài thơ, tác giả, tác phẩm bằng việc mở  cuộc thi đọc thơ có giải thưởng hoặc tạo một sân khấu nhỏ để lần lượt các em  lên đọc thơ. Sau đó, cô giáo cô giáo đọc lại bài thơ  thật diễn cảm, nghệ thuật để  gợi  cảm xúc thẩm mĩ, hướng trẻ ghi nhớ và đọc lại. Trong khi dạy trẻ đọc cùng cô, cô chú ý động viên trẻ  bằng cử chỉ, điệu   bộ nét mặt và cảm giác gần gũi. Để  giúp trẻ  phát triển ngôn ngữ  thì cô tổ  chức cho trẻ  đọc bài thơ  theo  nhiều hình thức khác nhau tổ, nhóm, từng cá nhân, giúp trẻ  có nhiều cơ  hội   8
  9. được đọc để  khả  năng phát âm của trẻ  được chính xác hơn. Tận dụng mọi cơ  hội cho trẻ đọc thơ để phát triển ngôn ngữ như hoạt động ngoài trời, tham quan   dạo chơi, hoạt động góc, chơi theo ý thích. Chọn các bài thơ  phù hợp với các   chủ đề:  Ví dụ:  + Thơ: “Bắp cải” (Chủ đề: Một số  loại rau)­ Khi đi tham quan vườn rau  tôi có thể cho trẻ đọc + Thơ: “Cây thược dược” (Chủ đề: Các loại hoa xưng quanh bé)­ Cho trẻ  đọc khi  quan sát vườn hoa + Thơ: “Yêu mẹ” (Chủ đề: Gia đình) ­ Hoạt động góc tặng mẹ 20/10. 2.2.6  Phát triển ngôn ngữ thông qua các bài đồng dao Tục ngữ, ca dao được ví như  tòa lâu đài ngôn ngữ  dân tộc, thứ  ngôn ngữ  giản dị mộc mạc đầy hình ảnh và giàu chất tượng trưng trong sáng. Mỗi câu tục  ngữ, thành ngữ là một đoạn ngữ chính xác, giàu hình tượng giúp cho sự diễn đạt  tư  tưởng một cách có hình  ảnh, làm giàu kho tàng ngôn ngữ  của trẻ. Tiếp xúc  với ca dao, trẻ học được bao từ mới biểu đạt được khái niệm, đặc biệt là ngôn   ngữ  nghệ  thuật. Đó là những từ  tượng thanh, tượng hình, những từ  láy, lối ví  von, so sánh...Những câu hát đồng dao không chỉ  giúp trẻ  cảm nhận nhịp điệu  lời   nói   mà  còn giúp trẻ phát âm chuẩn, thỏa mãn nhu cầu được nói có vần, có nhịp của trẻ.             Ví dụ 1: Con thỏ                Hai cái tai nho nhỏ                Hai cái chân đo đỏ                Thỏ nhai nắm cỏ                Em bỏ trong cái giỏ                Em xách thỏ đi chơi                Em yêu thỏ quá chừng Khi chọn bài đồng dao tôi chú ý chọn những bài đồng dao phù hợp với độ  tuổi của trẻ ngắn gọn, dễ hiểu, dễ đọc, dễ thuộc. Từ đó giúp trẻ mở rộng vốn   từ, mở rộng vốn hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh Ví dụ: “Nghé ọ nghé ơi Nghé ọ nghé ơi Nghé ra đồng lúa Nghé chạy đồng bông Nghé chở đi rong Hư bông gãy lúa Ơi à ơi”  Ví dụ: “Con rùa Rì rà rì rùa Đội nhà đi chơi 9
  10. Gặp khi tối trời Úp nhà đi ngủ Khi mặt trời lú Lại thò đầu ra Rì rà rì rùa” Đặc biệt một số bài đồng dao kết hợp với các trò chơi dân gian làm trẻ   thích thú  nên nhớ nhanh nên càng giúp trẻ giàu vốn từ, rồi trẻ biết sử dụng vốn  từ đó để đưa vào từng hoàn cảnh cụ thể thì càng giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn  và vốn từ phát triển mạnh  Ví dụ: “Lộn cầu vòng Lộn cầu vòng  nước sông nước chảy  Có cô mười bảy Có chị mười ba Hai chi em ta  Cùng lộn cầu vòng” 2.2.7. Phối hợp với phụ huynh: Xã hội hóa giáo dục mầm non là một bài học thành công trong quá trình  thực hiện nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ tại trường và cũng là một chủ trương   lớn của Đảng, nhà nước nhằm năng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng   nhân tài. Chúng ta biết rằng thời gian trẻ  ở  trường mầm non nhiều hơn thời gian   trẻ ở nhà. Những bài học ở trường mầm non giúp trẻ phát triển đúng tâm sinh lý  lứa tuổi, có sức khỏe tốt, tự  tin, mạnh dạn, tập trung để  học tập và sống tích  cực, phát huy tốt khả năng và sở trường của mình. Vào các đón trẻ, trả trẻ hàng ngày  tôi luôn trao đổi về trẻ với phụ huynh,   tôi luôn nhấn mạnh và tuyên truyền với các bậc phụ  huynh về tầm quan trọng  của việc phát triển ngôn ngữ, cách phải làm sao cho trẻ  luôn tự  tin, mạnh dạn  giao tiếp, vốn từ  của trẻ  luôn được mở  rộng và phát triển một cách tốt nhất.  Đặc biệt là giúp phụ huynh nâng cao nhận thức về việc phát triển ngôn ngữ cho   trẻ chơi thông qua các câu chuyện, các bà thơ, các câu ca dao, tục ngữ, đồng dao   ở gia đình hoặc ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào để giúp trẻ có điều kiện được   nói, được nghe, được bày tỏ  ý muốn, được mong muốn tìm hiểu, được hỏi khi   thắc mắc,….. Tôi hường xuyên lên mạng internet để  tìm kiếm các bài tuyên  truyền hoặc nhờ  sự  giúp đỡ  của các bậc phụ  huynh để  tìm kiếm các loại sách  chuyện, các tuyển tập, các tạp chí thiếu niên nhi đồng có các câu chuyện bài thơ  hay để áp dụng phù hợp nhằm phát triển vốn từ  cho trẻ. Tôi treo ở bảng tuyên   truyền để  các bậc phụ  huynh đọc hàng ngày theo từng chủ  đề. Qua đó nhằm  giúp trẻ  nhanh thuộc các bài thơ, các bai đồng dao, ca dao, tục ngữ, thuộc lời   đồng dao khi ứng dụng vào các tiết học, trẻ đọc trôi chảy, mạch lạc. Hoặc tôi in  10
  11. bài lời câu chuyện, bài thơ, đồng dao ca về cho phụ huynh, trẻ được đọc từ mẹ,   phát âm, tập đọc và được làm quen từ mới nếu được mẹ giải thích hướng dẫn,  Từ đó, trẻ đựợc học tại trường và tại nhà vốn từ của trẻ phát triển rõ nhanh và  chuẩn. Qua đó,  phụ  huynh cũng biết được một số  nội dung và biện pháp rèn  luyện ngôn ngữ cho trẻ, đồng thời  kết hợp chặt chẽ với giáo viên để thực hiện   tốt phát triển ngôn ngữ của trẻ, mở rộng vốn từ và giúp trẻ biết sử dụng vốn từ  đó phù hợp vào từng hoàn cảnh cụ thể.  Ngoài ra, tôi trao đổi và vận động phụ  huynh cố  gắng dành thời gian để  tâm sự với trẻ và lắng nghe trẻ nói, khi trò chuyện với trẻ phải nói rõ ràng mạch   lạc, tốc độ  vừa phải để  trẻ  nghe cho rõ, cha mẹ  người thân phải cố  gắng phát  âm đúng cho trẻ  bắt chước.Khuyến khích phụ  huynh cung cấp kinh nghiệm  sống cho trẻ. Tránh không nói tiếng địa phương, cần tránh cho trẻ  nghe những  hình thái ngôn ngữ không chính xác. 2.3. Kết quả đạt được.   Sau một thời gian áp dụng những biện pháp trên, cùng với sự chỉ đạo của   Ban giám hiệu nhà trường, sự góp ý của các bạn đồng nghiệp trong trường qua  các buổi dự giờ. Lớp tôi đã thu hoạch được những kết quả như sau: ­ Đối với giáo viên:    Trình độ chuyên môn của tôi được nâng lên rõ rệt. Bản thân tôi đã có năng   khiếu về  kỹ  năng tổ  chức cho trẻ  làm quen với tác phẩm văn học, đã tham gia  dạy các tiết chuyên đề, thao giảng, thi giáo viên dạy giỏi cấp trường đều được  đánh giá đạt kết quả cao, đã làm được nhiều đồ dùng đồ chơi có giá trị như sân  khấu rối, các loại con rối, các loại tranh thơ, chuyện chữ  to, tranh kể  chuyện   sáng tạo... Xây dựng được môi trường văn học phong phú, xây dựng hoàn chỉnh   góc cổ  tích, góc sách chuyện, trẻ  tích cực tham gia hoạt  động một cách tự  nguyện, hứng thú, say sưa sáng tạo qua các chủ đề. Đồ dùng đồ chơi phong phú,   đa dạng về chủng loại phục vụ đầy đủ cho các chủ đề  trong và ngoài lớp. Đặc  biệt đã tạo được niềm tin và sự quan tâm, hỗ trợ của các bậc phụ huynh.  ­ Đối với trẻ: Sau thời gian thực hiện các biện pháp phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  thông  qua hoạt động cho trẻ làm quen tác phẩm văn học tôi thấy trẻ lớp tôi ngôn ngữ  có những chuyển biến rõ nét, phần lớn số trẻ trong lớp đã có một số vốn từ rất   tốt, khả năng phát âm, khả năng hiểu từ, khả năng giao tiếp có nhiều tiến bộ rõ   rệt, trẻ mạnh dạn tự tin hơn, ngôn ngữ mạch lạc hơn.  Nhất là vốn từ, khả năng  phát âm, khả  năng hiểu từ, khả  năng giao tiếp của trẻ   phù hợp với mọi hoàn  cảnh.         Trẻ  trở  nên mạnh dạn, tự  tin, hứng thú tham gia vào mọi hoạt động. Đây   là một điều vô cùng phấn khởi và nó sẽ khích lệ tôi trong những năm công tác tiếp   theo. ­ Đối với phụ huynh: 11
  12.   Đã có sự  quan tâm và phối kết hợp với giáo viên trong việc rèn các kỹ  năng dạy trẻ  kể  lại chuyện diễn cảm, kể  chuyện sáng tạo, dạy trẻ  đọc thơ  diễn cảm, cung cấp học liệu cho giáo viên tổ  chức các hoạt động cho trẻ  làm  quen với các tác phẩm văn học và cả  trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ của   lớp cũng như của nhà trường. 3. Phần kết luận: 3.1. Ý nghĩa của đề tài: Ngôn ngữ  là phương tiện giao tiếp cơ  bản của con người, là một trong   những nhân tố  quan trọng trong sự  phát triển nhân cách trẻ  em. Ngôn ngữ  của  trẻ em chỉ phát triển khi được người lớn ­ những nhà giáo dục hướng dẫn, tập  luyện một cách tích cực. Phát triển ngôn ngữ  cho trẻ mầm non được thực hiện  bằng nhiều con đường với các phương tiện đa dạng, trong đó, các tác phẩm văn  học là một phương tiện quan trọng đối với việc phát triển nhân cách nói chung   và sự  phát triển ngôn ngữ  nói riêng cho trẻ  nhà trẻ  24­26 tháng. Thơ, truyện,  đồng dao là món ăn tinh thần không thể thiếu được đối với trẻ thơ. Nó thổi vào  đời sống tâm hồn các em những cảm xúc ­ tình cảm trong sáng, đẹp đẽ về thiên  nhiên, xã hội và tình người, nó mở  mang trí tuệ, làm giàu vốn từ  và phát triển  ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.  Văn học là phương tiện có hiệu quả  mạnh mẽ  không chỉ  đối với việc  giáo  dục trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ  mà còn  ảnh hưởng vô cùng to lớn đến sự  phát   triển  ngôn ngữ  của trẻ. Nhà văn M.Gooki định nghĩa: “văn học là nghệ  thuật ngôn  từ”  chính là đã chỉ rõ ngôn từ là “kho vô tận về âm thanh, bức tranh khái niệm”. Các   hình tượng văn học làm phong phú những xúc cảm, tình cảm, đưa đến cho trẻ  những hình tượng trong truyện kể, trẻ  nhận thức được tính rõ ràng chính xác  của  từ, sự  hoàn  hảo  của  câu  với  cấu  trúc  ngữ  pháp   phong  phú.  Những  câu  chuyện cổ  dân gian là những mẫu mực của lời nói giản dị, có nhịp điệu, mở  ra  trước mắt trẻ  sự biểu cảm của ngôn ngữ, sự  giàu có của tính hài hước, lối so  sánh diễn đạt sinh động và giàu hình tượng. Thơ ca là sự nhịp nhàng cân đối các  giai điệu, tiết tấu của ngôn ngữ. Thơ  ca góp phần làm giàu vốn ngôn ngữ, đặc  biệt là ngôn ngữ thi ca của trẻ. Và kết quả của  những lần học thơ ở trường, lớp  còn làm cho trẻ cảm thấy hứng thú với ngôn ngữ của tác phẩm nghệ thuật, yêu  thích ngôn ngữ  thơ  ca và yêu thích đọc thơ. Từ  đó, ngôn ngữ  nghệ  thuật trở  thành sở hữu của đứa trẻ.  Văn học có vai trò to lớn trong sư phát triển ngôn ngữ của trẻ. Không chỉ  là  rèn luyện cho trẻ phát âm đúng mà quan trọng hơn cả là phát triển vốn từ, dạy  trẻ  12
  13. nói đúng cấu trúc câu và phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Các tác phẩm truyện kể  có vai trò to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. Tiếp xúc với  ngôn ngữ  nghệ thuật,  ở  trẻ nảy sinh thái độ  sáng tạo ngôn ngữ, sáng tạo trong   biểu cảm lời nói, ý thức nói lời hay, ý đẹp, hứng thú sáng tạo bài thơ, câu  chuyện theo tưởng tượng chủ quan của mình, hình thành ở trẻ phong cách sống.  Có thể nói, qua tác phẩm văn học, trẻ học được tiếng mẹ đẻ, thấy được  sự  phong phú của tiếng Việt. Ảnh hưởng của thơ truyện đến sự phát triển ngôn  ngữ  của trẻ  được diễn ra theo cơ  chế  “đồng nhất hóa ­ bắt chước”. Trẻ  bắt  chước các nhân vật trong truyện cổ  tích, bắt chước lời nói, việc làm của các  nhân vật “tí hon” trong các tác phẩm viết cho thiếu nhi, thuộc những bài thơ của  lứa   tuổi   mầm   non.  Chính sự  đồng nhất hóa mình với các nhân vật yêu thích trong truyện cổ  tích,  truyện viết cho thiếu nhi, đọc, thuộc thơ... là yếu tố  quan trọng thúc đẩy sự  phát  triển ngôn ngữ  cho trẻ. Thơ  ­ truyện, ca dao, đồng dao là phương tiện quan  trọng để  phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  mầm non. Song để  phát huy được vai trò  của thơ truyện, ca dao, đồng dao trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ, người  lớn ­ những nhà giáo dục cần phải có phương pháp giúp trẻ làm quen  ­ cảm thụ  được   cái   hay,   cái   đẹp   trong   những   vần   thơ,   những   tình   tiết   câu   chuyện  của những tác phẩm thơ, chuyện để  đưa chúng đến với trẻ, để  làm giàu ngôn   ngữ cho trẻ, góp phần phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ. 3.2. Kiến nghị, đề xuất:    * Đối với nhà trường: Ban giám hiệu và các cấp quản lý cần tạo điều kiện tổ chức cho giáo viên  đi tham quan, dự giờ học tập các trường bạn ở trong và ngoài tỉnh. Đầu tư  nhiều hơn nữa về  kinh phí để  mua sắm các trang thiết bị, cơ  sở  vật chất, tạo môi trường trong và ngoài lớp phong phú, đa dạng nhằm nâng cao   hơn nữa chất lượng chăm só giáo dục trẻ nói chung và lĩnh vực phát triển ngôn  ngữ nói riêng. * Đối với phòng giáo dục: Tổ  chức nhiều hơn nữa các đợt tập huấn, sinh hoạt chuyên môn về  lĩnh   vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ để giáo viên chúng tôi có điều kiện học hỏi kinh   nghiệm. Trên đây là toàn bộ  nội dung sáng kiến kinh nghiệm về  “Một số  biện   pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24­36 tháng tuổi thông qua hoạt động cho trẻ   làm quen tác phẩm văn học  ở trường mầm non ” mà tôi đã thực hiện trong năm  học 2018 ­ 2019.  Rất mong được sự  tham gia góp ý của các đồng nghiệp, Hội đồng khoa   học nhà trường cũng như  hội đồng khoa học phòng giáo dục đào tạo Lệ  Thủy   để bản thân nâng cao hiệu quả trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 13
  14. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1