intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn kỹ năng vệ sinh cho trẻ 4-5 tuổi phòng chống dịch bệnh tại trường mầm non

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:22

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến "Một số biện pháp rèn kỹ năng vệ sinh cho trẻ 4-5 tuổi phòng chống dịch bệnh tại trường mầm non" được hoàn thành với các biện pháp như: Chuẩn bị môi trường và điều kiện vật chất tối thiểu cần thiết cho hoạt động vệ sinh; Rèn kỹ năng vệ sinh cá nhân; Rèn kỹ năng vệ sinh phòng chống dịch bệnh cho trẻ thông qua các hoạt động trong ngày của trẻ tại trường mầm non.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn kỹ năng vệ sinh cho trẻ 4-5 tuổi phòng chống dịch bệnh tại trường mầm non

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ                                       SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG VỆ SINH CHO TRẺ  4 – 5 TUỔI PHÒNG CHỐNG DỊCH BỆNH  TẠI TRƯỜNG MẦM NON                   Lĩnh vực            : Giáo dục mẫu giáo                   Cấp học             : Mầm non                   Tên tác giả        : Lê Thị Ngọ                   Đơn vị công tác: Trường mầm non Yên Ngưu                   Chức vụ            : Giáo viên               Năm học: 2019 – 2020 1/15
  2. A.ĐẶT VẤN ĐỀ I . Lý do chọn đề tài. Sinh thời Bác Hồ nói: “Không sạch sẽ thì bẩn, bẩn thỉu sẽ sinh bệnh tật”. Bác luôn yêu cầu và kêu gọi: “Mọi người phải giữ gìn vệ sinh, bảo vệ sức khỏe”. Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng và nhà nước ta đã không ngừng quan tâm chăm sóc đến thế hệ trẻ vì trẻ em là mầm non tương lai của đất nước, là thế hệ kế tục và phát triển sự nghiệp của cha ông. Trẻ em phát triển tốt nhờ vào rất nhiều yếu tố nhưng quan trọng nhất là yếu tố vệ sinh phòng bệnh. Với trẻ mầm non tất cả những gì xung quanh đều mới lạ, hấp dẫn trẻ, kích thích sự tò mò, khám phá của trẻ. Trẻ tích cực hoạt động với các đồ dùng đồ chơi ở mẫu giáo như: Thích chơi với cát, với nước, thích trao đổi giao lưu với mọi người. Song trẻ chưa ý thức được việc vệ sinh cá nhân, việc phòng chống dịch bệnh. Bên cạnh đó, cơ thể trẻ còn non nớt, sức đề kháng còn yếu. Môi trường học tập, vui chơi của trẻ thường tập trung đông người. Tất cả những yếu tố trên rất dễ dẫn đến trẻ em mắc phải dịch bệnh. Chính vì vậy, người lớn cần làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh cho trẻ và hình thành ở trẻ những thói quen giữ gìn vệ sinh cá nhân, để phòng chống dịch bệnh xảy ra với trẻ. Là một giáo viên phụ trách lớp mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi, người trực tiếp giảng dạy và chăm lo cho trẻ từng bữa ăn, giấc ngủ tôi nhận thức sâu sắc về trách nhiệm của mình cũng như tầm quan trọng của việc rèn thói quen vệ sinh cho trẻ tại lớp mình. Chính vì vậy, tôi luôn tự hỏi mình: Làm sao? Làm như thế nào? và cần phải làm gì? để rèn cho trẻ thói quen vệ sinh một cách tốt nhất. Điều đó đã thôi thúc tôi lựa chọn đề tài: "Một số biện pháp rèn kỹ năng vệ sinh cho trẻ 4-5 tuổi phòng chống dịch bệnh tại trường mầm non", nhằm góp một phần nhỏ bé của mình vào công tác phòng chống dịch bệnh của nhà trường đạt kết quả tốt hơn. II. Mục đích nghiên cứu : Như chúng ta đã biết, xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống con người cũng không ngừng được nâng cao. Các xí nghiệp mọc lên nhanh chóng và hoạt động không mệt mỏi, đi đôi với sự phát triển ấy thì cũng kéo theo vô vàn thách thức: Không khí ô nhiễm, nguồn nước ô nhiễm, bệnh tật gia tăng... Sức khoẻ là vốn quý nhất của con người. Ngoài yếu tố di truyền, chăm sóc sức khỏe chế độ dinh dưỡng hợp lý thì phần lớn sức khỏe phụ thuộc vào yếu tố chăm sóc vệ sinh. Vì vậy, việc rèn thói quen vệ sinh cho trẻ là một việc làm thiết thực giúp trẻ khỏe mạnh, có thói quen vệ sinh và phòng tránh bệnh tật tốt hơn. III. Đối tượng nghiên cứu: - Học sinh lớp mẫu giáo nhỡ 4 -5 tuổi do tôi là giáo viên phụ trách. IV. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp quan sát. Phương pháp điều tra, khảo sát. Phương pháp trực quan: Làm mẫu, thực hành... Phương pháp dùng lời: Đàm thoại, giảng giải... 2/15
  3. Phương pháp nghiên cứu tài liệu. Với đề tài này tôi bắt đầu nghiên cứu và thực nghiệm trong 10 tháng (bắt đầu từ tháng 8 năm 2019 đến hết tháng 5 năm 2020). B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Chúng ta đã biết và công nhận rằng: Sức khoẻ là vốn quý của con người, là  điều kiện không thể  thiếu, để  giúp cơ  thể  khỏe mạnh và phát triển tốt. Vì thế  việc chăm sóc sức khỏe toàn diện cho trẻ  là một vấn đề  cấp thiết hiện nay. Có  được sức khỏe tốt sẽ giúp trẻ  học tập tốt và phấn đấu trở  thành những nhân tài  tương lai cho đất nước. Chăm sóc sức khỏe ban đầu đạt hiệu quả tốt là mục tiêu  quan trọng trong công tác giáo dục toàn diện cho trẻ trong trường học. Việc giáo  dục và bảo vệ sức khỏe cho trẻ hiện nay cũng là mối quan tâm lớn của Đảng và  Nhà nước, của mỗi gia đình và toàn xã hội. Đặc biệt đối với trẻ  em, sức khoẻ  ảnh hưởng đến sự  phát triển thể  lực, trí tuệ, là yếu tố  quyết định đến sự  phát  triển của trẻ  sau này. Sức khỏe có vai trò quan trọng trong việc hình thành và  phát triển về  mọi mặt. Vì vậy, để  trẻ  có sức khỏe vui chơi và học tập thì người  lớn cần tích cực quan tâm, chăm sóc cho trẻ và có những biện pháp giữ  gìn vệ  sinh cá nhân, vệ sinh phòng chống dịch bệnh, để bảo vệ sức khỏe cho trẻ. Đối với trẻ em, cơ thể còn non nớt, sức khỏe yếu rất dễ mắc phải các bệnh  truyền nhiễm, nguy cơ tử vong cao. Hiện nay, những biến đổi khí hậu tự  nhiên  cũng ảnh hưởng tới sức khỏe của trẻ. Môi trường tự nhiên: Đất, nước, ánh sáng,  khí hậu, thời tiết,…Khi khí hậu thời tiết thay đổi, tỉ lệ  mắc bệnh cũng thay đổi.   Có những bệnh thường gặp nhiều vào mùa đông, trái lại có những bệnh gặp  nhiều vào mùa hè. Cũng có những bệnh  ở  vùng này diễn biến nặng, nhưng khi   chuyển sang vùng khác thì diễn biến nhẹ hơn,… Tất cả những điều đó liên quan  tới việc cần phải phòng chống dịch bệnh và bảo vệ sức khỏe cho trẻ. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN 1. Đặc điểm chung: Là một giáo viên mầm non đã công tác nhiều năm và được phân công giảng dạy ở lớp mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi ở trường mầm non Yên Ngưu xã Tam Hiệp huyện Thanh Trì Hà Nội. Tôi nhận thấy rằng việc rèn kỹ năng vệ sinh cho trẻ 4- 5 tuổi phòng chống dịch bệnh trong trường mầm non là việc làm rất cần thiết. 2. Tình hình thực tế: - Năm học 2019-2020, tôi được phân công phụ trách lớp mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi). Với tổng số học sinh là 30 cháu trong đó có 20 nam và 10 nữ. Ở lớp tôi có 2 cô giáo phụ trách: 2 cô có trình độ ĐHSPMN. - Lớp học được Ban giám hiệu đầu tư tương đối đầy đủ về cơ sở vật chất, thuận lợi trong việc chăm sóc và giáo dục vệ sinh cá nhân trẻ. a.Thuận lợi: ­ Trường có phong y tê đầy đủ trang thiết bị sơ cấp cứu ban đầu cho trẻ. ̀ ́ - Được sự quan tâm của Phòng giáo dục và đào tạo huyện Thanh Trì và Ban giám hiệu đã chỉ đạo sát sao về công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho trẻ. 3/15
  4. - Bản thân tôi là một giáo viên có trình độ đại học sư phạm mầm non, đã công tác lâu năm tại trường, nhiệt tình tâm huyết với nghề, có kinh nghiệm trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục theo yêu cầu đổi mới của ngành. b.Khó khăn: ­ Nha trương không co nhân viên y tê nên viêc chăm soc sưc khoe ban đâu  ̀ ̀ ́ ́ ̣ ́ ́ ̉ ̀ cho trẻ con han chê. ̀ ̣ ́ ­ Vốn kiến thức, kỹ năng của trẻ về việc vệ sinh cá nhân còn hạn chế, thêm  vào đó trẻ  chưa có kỹ năng trong việc vệ  sinh cá nhân và bảo vệ  sức khỏe cho   bản thân. ­ Đa số  các bậc phu huynh bận buôn bán, làm đồng ruộng nên ít có thời   gian quan tâm chăm sóc con cái. Một số phụ huynh còn chủ quan, chưa tích cực   quan tâm chăm sóc trẻ được chu đáo, chưa dạy trẻ các kỹ năng vệ sinh cá nhân  thường xuyên. Có nhiều phụ  huynh còn nhận thức sai lệch về  các dịch bệnh,   chưa có hiểu sâu về  dịch bệnh, chưa nhận thức được tầm quan trọng của công   tác phòng chống dịch bệnh cho trẻ. ­ Xuất phát từ  những đặc điểm chung của trường, lớp và những khó khăn  thuận lợi trên. Nhận thức được tầm quan trọng của việc phòng chống dịch bệnh   cho trẻ  là rất cần thiết cho ngành giáo dục mầm non, cho y tế. Ban giám hiệu  yêu cầu. Bản thân tôi đã không ngừng đưa ra các mục tiêu, những giải pháp để  tháo gỡ  khó khăn và phát huy mọi thuận lợi để  ngăn chặn dịch bệnh xảy ra  ở  trường nói riêng và để phòng tránh dịch bệnh lây lan ra cộng đồng nói chung. III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN - Năm học 2019 -2020, tôi thấy rằng tỷ lệ trẻ mắc bệnh vào các thời điểm dịch bùng phát còn ở mức độ cao. Bản thân hiểu được sức khoẻ là rất quan trọng đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Từ đó, tôi đã nghiên cứu các biện pháp rè n trẻ kỹ năng vê ̣ sinh để phòng chống dịch bê ̣nh, trên cơ sở đó tôi tích hợp thêm một số kinh nghiệm của bản thân trong việc phòng chống dich, bệnh phù hợp để áp dụng vào công tác chăm sóc nuôi dưỡng ở lớp mình. Trướ c khi tiế n hành các biê ̣n pháp tôi đã tiế n hành khảo sát trẻ ở lớp mình. Khảo sát, lập kế hoạch rèn kỹ năng vệ sinh phòng chống dịch bệnh cho trẻ. * Bảng kết quả khảo sát trẻ đầu năm học 2019 - 2020: Nội Đạt Chưa đạt Dung Số trẻ % Số trẻ % Biết tự rửa tay bằng xà phòng, tự lau mặt, đánh 20 67% 10 33% răng. Biết sử dụng dung dịch nước sát khuẩn rửa tay 6 20% 24 80% khi không có xà phòng và nước. Biết rửa tay, lau mặt theo đúng quy trình. 25 83% 5 17% Biết cách xúc miệng, xúc họng bằng nước muối. 23 77% 7 23% Biết rửa tay bằng xà phòng hoặc nước sát khuẩn 19 63% 11 37% trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, ở nơi công cộng Biết đeo khẩu trang đúng cách vàcất khẩu trang 10 33% 20 67% 4/15
  5. đúng nơi quy định sau khi sử dụng. Cách sử lý khi ho 18 60% 12 40% Biết giữ gìn vệ sinh trường, lớp để bảo vệ sức 23 77% 7 23% khỏe. Biết nói với người lớn khi bị đau, chảy máu 20 67% 10 33% hoặc sốt. Biết đi vệ sinh đúng nơi quy định 22 73% 8 7% Kết quả thu được qua khảo sát cho thấy trẻ chưa có ý thức vệ sinh cá nhân cũng như vệ sinh môi trường. Vì vây, tôi đã đưa ra các biện pháp: 1. Biện pháp 1: Chuẩn bị môi trường và điều kiện vật chất tối thiểu cần thiết cho hoạt động vệ sinh. * Môi trường xã hội: Trong thời kì đô thị hóa, môi trường vệ sinh kém, không đủ nguồn nước sạch, khí hậu nóng tạo điều kiện cho các vi sinh vật phát triển, là nguyên nhân phát sinh bệnh tật. Nhất là ở các vùng đông dân cư, các vùng đô thị, trường học, nhà trẻ. Vì vậy, tôi nhận thấy rằng môi trường là một trong những yếu tố rất quan trọng nhất ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ. Muốn phòng trẻ có kỹ năng vệ sinh để phòng tránh dịch bệnh thì việc đầu tiên là phải tạo ra một môi trường đảm bảo vệ sinh đó là việc làm quan trọng góp phần vào phòng tránh dịch bệnh cho trẻ.Vì trẻ càng bé thì sức đề kháng càng yếu, khi đến tuổi đi mẫu giáo trẻ bắt đầu tham gia vào môi trường sinh hoạt tập thể đông người. Vì thế trẻ cần được sống trong môi trường đảm bảo vệ sinh, rộng rãi, thoáng mát, có đủ ánh sáng. Muốn trẻ hứng thú với hoạt động vệ sinh thì việc đầu tiên là phải gây được hứng thú cho trẻ khi đến lớp.Trẻ có thích đến lớp thì mới hứng thú tham gia vào các hoạt động khác. Chính vì vậy mà chúng ta cần xây dựng một môi trường thân thiện giúp trẻ tích cực, hứng thú với các hoạt động vệ sinh. Môi trường chăm sóc - Giáo dục trong trường mầm non cần đảm bảo an toàn về mặt tâm lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục các kỹ năng xã hội cho trẻ. Hành vi, cử chỉ, lời nói, thái độ của giáo viên đối với trẻ và những người khác luôn mẫu mực để trẻ noi theo. * Môi trường vật chất: Môi trường cho trẻ hoạt động trong phòng, nhóm lớp: Giáo viên xây dựng góc “Rèn kỹ năng sống cho trẻ” với các hình ảnh mang nội dung giáo dục vệ sinh dưới dạng mở để trẻ được thỏa sức lựa chọn những hình ảnh đúng - sai theo khả năng nhận thức của trẻ. Ảnh minh họa 1: Hình ảnh minh họa nội dung giáo dục kỹ năng sống (Phụ lục). Làm tốt công tác vệ sinh môi trường nề nếp của lớp. Các cháu ở lớp mẫu giáo thời gian rất dài, nếu cô sắp xếp đồ dùng gọn gàng, sạch sẽ, mọi sinh hoạt của lớp có nề nếp làm cho lớp học vui tươi đầm ấm. Tất cả những cái đó ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thói quen cho trẻ. Lớp học sạch đẹp cháu không nỡ vứt rác bừa bãi, cháu không vứt đồ chơi lung tung, khi mọi thứ trong lớp đều được sắp xếp theo đúng chỗ quy định. 5/15
  6. Ngoài ra giáo viên cần làm một số sách, tranh có nội dung giáo dục vệ sinh ở góc thư viện. Các hình ảnh trong sách, tranh phải rõ ràng, màu sắc tươi sáng, ngộ nghĩnh hấp dẫn với trẻ. Cô cần tạo môi trường gần gũi, phong phú bằng các hình ảnh ngộ nghĩnh tại bồn rửa tay hay trang trí góc vệ sinh cho trẻ. * Đồ dùng, dụng cụ vệ sinh Trong tất cả các hoạt động trong trường mầm non đặc biệt là hoạt động vệ sinh thì đồ dùng trực quan đóng vai trò quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao kết quả và ý thức vệ sinh cho trẻ. Ví dụ: Cô dạy trẻ úp ca cốc thì trong lớp học phải có giá để cốc cho trẻ thực hiện úp, có phương tiện lại được thực hiện thường xuyên ở lớp cũng như ở nhà, trẻ sẽ nhanh chóng hình thành được thói quen vệ sinh đó. Cô cùng gia đình kết hợp dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi, nếu có điều kiện để rèn luyện những kỹ năng thực hành vệ sinh cho trẻ. Để đảm bảo đồ dùng phục vụ cho hoạt động vệ sinh của trẻ ngay từ đầu năm học tôi đã thống kê đồ dùng, dụng cụ của lớp để kịp thời tham mưu với nhà trường bổ sung thêm đồ dùng, dụng cụ vệ sinh đảm bảo cho trẻ hoạt động. 2.Biện pháp 2: Rèn kỹ năng vệ sinh cá nhân. *Vệ sinh cá nhân sạch sẽ - Việc rèn các thói quen vệ sinh hàng ngày cho trẻ cần được thực hiện theo đúng quy trình nhất định để tạo cho trẻ có nề nếp, thói quen vệ sinh cá nhân sạch sẽ. - Tôi hướng dẫn trẻ các thao tác rửa tay, rửa mặt, yêu cầu trẻ thao tác nhiều lần và về nhà phải tự biết rửa mặt, rửa tay. Nhờ vậy trẻ lớp tôi có được thói quen và cách rửa tay, rửa mặt đúng thao tác vệ sinh. Trẻ biết tự rửa tay, rửa mặt khi bẩn, biết tự sửa sang lại quần, áo, đầu tóc gọn gàng hơn nhiều… - Đầu năm học tôi gặp rất nhiều khó khăn trong việc rèn kỹ năng vệ sinh cá nhân cho trẻ. Do điều kiện ở nông thôn, nhiều phụ huynh chưa chú ý đến trẻ nên khi đến lớp nhiều trẻ đầu tóc chưa được gọn gàng, quần áo sộc xệch, mặt mũi, chân tay nhem nhuốc, đã nhiều lần tôi nhắc nhẹ phụ huynh nhưng sự thay đổi chưa lớn. Nếu muốn thay đổi trước hết trẻ phải có ý thức giữ gìn vệ sinh sạch sẽ. - Hàng ngày tôi luôn trò chuyện, động viên, nhắc nhở trẻ luôn phải giữ gìn vệ sinh sạch sẽ thì sức khỏe mới tốt. - Tôi thường đưa ra cho trẻ những câu hỏi để trẻ tự suy nghĩ trả lời. VD: + Trước khi ăn các con phải làm gì? Tại sao lại phải rửa tay? + Sau khi đi vệ sinh phải làm gì? Vì sao? + Khi trời nóng bức mồ hôi ra nhiều, chiều tối chúng mình phải làm gì? Tại sao lại phải làm việc đó? + Để không bị sâu răng thì chúng ta phải như thế nào? + Nên đánh răng vào lúc nào trong ngày ? 6/15
  7. - Sau một thời gian kiên trì rèn nề nếp vệ sinh cá nhân trẻ lớp tôi đã có nề nếp vệ sinh rất tốt, cô không phải nhắc trẻ tự vệ sinh khi cần thiết. Vì vậy trẻ rất sạch sẽ, gọn gàng từ lúc đến trường cho đến khi ra về. Ảnh minh họa 2: Hình ảnh minh họa trẻ rửa tay trước giờ ăn (Phụ lục). * Đi vệ sinh đúng nơi qui định Một trong những điều quan trọng nhất trong việc hình thành thói quen trong vệ sinh là tạo cho trẻ có được thói quen đi vệ sinh đúng nơi qui định, để cho trẻ có được thói quen đó không phải dễ, đòi hỏi giáo viên cần có tính kiên trì, hiểu được đặc điểm tâm lý của trẻ và phải có nhiều thời gian để hướng dẫn rèn luyện kiên trì liên tục thì mới giúp trẻ có được thói quen nề nếp đi vệ sinh đúng nơi quy định. Những ngày đầu trẻ đi học tôi thấy nề nếp vệ sinh trẻ đã quên hết nên khi đến lớp đa số trẻ chưa có nề nếp vệ sinh đúng nơi quy định.Vì vậy trong những giờ trò chuyện tôi luôn luôn giáo dục trẻ ý thức đi vệ sinh đúng nơi quy định và đề ra biện pháp nếu ai phát hiện ra bạn đi vệ sinh bậy hoặc để cô giáo nhìn thấy, bố mẹ đến kể thì cuối tuần không thưởng phiếu bé ngoan, không được lên cắm cờ thi đua nữa. Sau một thời gian áp dụng biện pháp và nhắc nhở nhiều lần nên giờ trẻ lớp tôi không có trường hợp nào đi vệ sinh bừa bãi. 3. Biện pháp 3: Rèn kỹ năng vệ sinh phòng chống dịch bệnh cho trẻ thông qua các hoạt động trong ngày của trẻ tại trường mầm non. - Đặc thù của trẻ mầm non là “Học mà chơi, chơi mà học”. Để tạo cho trẻ một thói quen luôn giữ gìn vệ sinh môi trường lớp cũng như vệ sinh cá nhân sạch sẽ, tôi luôn nhắc nhở động viên trẻ ở mọi lúc mọi nơi như hoạt động ngoài trời hay lồng ghép vào các tiết dạy để trẻ có được thói quen biết giữ vệ sinh cá nhân sạch sẽ ở trường cũng như ở nhà. - Như khi ở nhà trẻ không vứt giấy, lá bừa bãi làm bẩn và ô nhiễm môi trường sẽ không gây ra nhiều bệnh tật. - Khi ở lớp trong giờ học không khạc nhổ bừa bãi ra lớp, không vứt đồ chơi lung tung, không xô đẩy bàn ghế, như thế đã hình thành cho trẻ một thói quen đã biết giữ vệ sinh chung. VD: Trong giờ hoạt động học, tôi tổ chức chơi các trò chơi, lồng ghép các bài thơ, câu chuyện vào chương trình dạy học. Một số bài thơ, bài hát cũng được tôi sưu tầm và đưa vào chương trình dạy học để giúp trẻ luôn ghi nhớ việc vệ sinh hàng ngày như. Ví dụ: Trò chơi: “Rửa tay” chỉ đơn giản là làm các động tác rửa tay trên không nhưng tôi tổ chức chơi nhiều lần cả trong và ngoài lớp học để tạo hứng thú chơi cho trẻ và nhắc trẻ luôn ghi nhớ các bước rửa tay theo đúng quy trình của bộ y tế. VD: Trong giờ hoạt động góc, khi chơi không được ném lung tung, chơi nhẹ nhàng không tranh nhau. Tôi hỏi trẻ để cho các đồ chơi được sạch sẽ bền đẹp thì chúng ta phải cất đồ chơi như thế nào? Nếu trẻ chơi xong mà quên thì tôi nhẹ nhàng nói với trẻ: Con cất đồ chơi vào đúng nơi qui đinh. VD: Trong giờ dạy Kỹ năng sống tôi cho trẻ đựơc trải nghiệm và cho trẻ chơi trò chơi” Hãy tìm lấy đôi của mình, tôi phát cho mỗi trẻ một đồ dùng bạn có gương thì tìm bạn có lược, bạn có bàn chải tìm bạn có thuốc đánh răng… 7/15
  8. Hoặc trò chơi tìm những hình ảnh nào sai đúng sau đó giáo dục trẻ biết chăm sóc bảo vệ giữ gìn vệ sinh thân thể. VD: Cho trẻ chơi ở ngoài trời cô cho trẻ chơi đồng thời giáo dục trẻ luôn giữ vệ sinh trường lớp sạch sẽ, không bứt lá, vứt giấy lá ra sân trường ra lớp. Không nghịch đất cát, không vẽ bừa bãi lên tường, lên cửa lớp. Để cho môi trường lớp và cá nhân trẻ được sạch sẽ cô luôn động viên nhắc trẻ ở mọi lúc mọi nơi thì mới tạo cho trẻ một thói quen vệ sinh môi trường và vệ sinh cá nhân sạch sẽ. - Sau giờ hoạt động ngoài trời: Sau những giờ vui chơi ngoài trời trẻ được quan sát, sờ, khám phá, trải nghiệm các đồ dùng trực quan, cây cối, được chơi với đất, cát thì đôi bàn tay của trẻ có thể nhiễm rất nhiều vi khuẩn do tiếp xúc với các đồ chơi, đất, cát, đã ẩn dấu rất nhiều vi khuẩn vì hầu hết trẻ em đều rất thích tự mình khám phá thế giới xung quanh. Trẻ sử dụng đôi bàn tay để cảm nhận và tìm tòi mọi điều mà chúng thắc mắc. Và ngẫu nhiên đôi bàn tay của trẻ lại là vật trung chuyển vi khuẩn gây hại vào cơ thể do tiếp xúc với các đồ chơi, đất, cát vì vậy giữ sạch đôi bàn tay cho trẻ là rất quan trọng. Vì thế, nên tôi cho trẻ loại bỏ các loại vi khuẩn ngay dưới vòi nước ở sân trường bằng cách rửa tay bằng xà phòng rồi mới cho trẻ vào lớp chuyển hoạt động khác. - Trước giờ ăn: Một số vi sinh vật hay gây bệnh là vi rút, vi khuẩn: các loại E.coli, phẩy khuẩn tả, lỵ trực khuẩn, Salmonella, kí sinh trùng…Các vi khuẩn này lây nhiễm qua đường thức ăn, nước uống và các dụng cụ cho trẻ ăn, uống hoặc có thể lây qua bàn tay bẩn của người phục vụ truyền tới trẻ. Rửa tay trước giờ ăn là hoạt động hàng ngày của trẻ nhưng trẻ rất hiếu động, hay nghịch, không để tay yên nên trước khi trẻ ngồi vào bàn ăn tôi lau lại bàn một lần nữa để vi khuẩn không có cơ hội xâm nhập vào cơ thể non nớt của trẻ. Đồng thời không quên cho trẻ hát bài “Giờ ăn đến rồi” để nhắc trẻ việc rửa tay trước giờ ăn là một việc quan trọng. - Với việc rèn cho trẻ thói quen vệ sinh ở mọi lúc, mọi nơi tôi thấy trong các hoạt động trẻ lớp tôi đã có ý thức giữ gìn vệ sinh trường lớp sạch sẽ như: Nhìn thấy lá rụng tự nhặt bỏ vào thùng rác, nhìn thấy vỏ hộp sửa của các em nhà trẻ vứt chạy ra nhặt bỏ vào thùng rác không cần cô phải sai. - Hoạt động chiều: Để dạy trẻ biết giữ vệ sinh đôi bàn tay đúng cách tôi thường xuyên rèn kỹ năng vệ sinh vào các buổi chiều nhất là kỹ năng rửa tay bằng xà phòng dưới vòi nước sao cho đúng quy trình. Để thu hút sự chú ý của trẻ vào hoạt động rèn kỹ năng rửa tay tôi thường cho trẻ xem hình ảnh, video clip đôi tay sạch trước sự tấn công của các vi khuẩn mang mầm bệnh trên màn hình như dịch chân - tay - miệng, dịch đau mắt và dịch Covid hiện nay… Vì thế trẻ đã tự giác hơn trong việc nâng cao thói quen vệ sinh của trẻ. - Trong nhà vệ sinh, ngay trước bồn rửa tay tôi sử sụng hình ảnh minh họa quy trình rửa tay để trẻ biết rửa tay đúng cách và gây hứng thú muốn vào rửa tay vì có những hình ảnh sống động, bắt mắt và khắc sâu ghi nhớ cho trẻ. Ảnh minh họa 3: Hình ảnh quy trình các bước rửa tay (Phụ lục) - Ngoài ra tôi còn tích hợp rèn kỹ năng vệ sinh vào mọi hoạt động học tập và vui chơi để trẻ ghi nhớ như: kỹ năng biết che miệng khi ngáp, khi hắt hơi, không cho các đồ chơi ngậm vào miệng, vứt rác đúng nơi quy định, tắm rửa vệ 8/15
  9. sinh sạch sẽ hàng ngày và giải thích cho trẻ hiểu che miệng, mũi khi ho hoặc hắt hơi bằng khăn vải, khăn giấy là để giữ vê sinh, giảm phát tán các dịch bệnh đường hô hấp. * Kết quả: Từ những hoạt động rèn kỹ năng hàng ngày thông qua các hoạt động, trò chơi, bài thơ, bài hát hết sức gần gũi và đơn giản. Đến nay trẻ lớp tôi đã ý thức được rằng một đôi tay sạch giúp trẻ luôn khỏe mạnh và tránh được rất nhiều loại bệnh. Đồng thời rất tự giác trong việc rửa tay bằng xà phòng dưới vòi nước sạch và biết rửa tay đúng quy trình. 4. Biện pháp 4: Lồng ghép thơ ca, câu chuyện, bài hát, trò chơi để giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ. Do đặc điểm tâm lý của trẻ là chóng nhớ nhưng rất mau quên, bên cạnh đó còn phải hình thành cho trẻ nhớ lâu và nhớ chính xác. Do vậy đòi hỏi người giáo viên không những phải thực hiện đầy đủ vệ sinh cho trẻ trong chương trình mà còn phải biết kết hợp dạy trẻ các hoạt động khác. Ngoài các hoạt động vệ sinh chính ra, khi dạy trẻ các hoạt động khác tôi cũng kết hợp lồng ghép để trẻ nhớ lâu. Cụ thể như sau, cứ đầu tuần tôi đều đưa ra tiêu chuẩn bé ngoan, sau đó tôi trò chuyện về ngày nghỉ, căn cứ vào kế hoạch tôi đã lựa chọn những bài thơ, câu truyện có nội dung phù hợp để dạy cho trẻ đọc. Lúc đầu rất khó khăn do lớp có nhiều trẻ tiếp thu chậm, lúng túng trong khi thực hiện khi thì rửa lòng bàn tay trước khi thì rửa mu bàn tay, khi thì cổ tay. Ban đầu tôi cho trẻ học đọc các bước rửa tay theo cô sau đó mô phỏng lại cách rửa trên tay khi trẻ tương đối nhớ, tôi mới cho trẻ thực hiện dưới vòi nước. Những lúc đó tôi thường cho trẻ đọc bài thơ “Rửa tay” Đồng thời tôi kết hợp vẽ các qui trình rửa tay. Rửa tay “Miếng xà phòng nho nhỏ Em lau khô bàn tay Em xát lên bàn tay Đôi bàn tay be bé Nước mát đây trong vắt Nay rửa sạch xinh xinh Em rửa đôi bàn tay Tấ t cả lớp chúng mình Khăn mă ̣t đây thơm phức Cùng giơ tay vỗ vỗ”. Để trẻ dễ nhớ cách rửa mă ̣t tôi dạy trẻ đo ̣c bài thơ: “Mô ̣t tay làm chẳ ng đươ ̣c Cô cấ t gio ̣ng nhỏ nhe ̣ Bé phải lau hai tay Làm thế nào nữa đây Bắ t đầ u từ mắ t này Bé gấ p đôi khăn ngay Lau từ ngoài vào nhé Lau hai bên má đỏ Nhich khăn lên các bé ́ Lau cái cổ cái cắ m Lau số ng mũi xuố ng đi Gấ p đôi mô ̣t lầ n nữa Sau đó đế n các gì Mắ t bé nhin chăm chăm ̀ Cái miêng xinh của bé ̣ Kia cô khen bé giỏi”. ̀ Chinh vì trẻ đươ ̣c đo ̣c thơ xong sẽ giúp trẻ nhớ lâu các thao tác và thành ́ tha ̣o, khi trẻ rửa mă ̣t xong tôi ngâm khăn vào xà phòng và giă ̣t phơi khô để ngày 9/15
  10. hôm sau trẻ thực hiê ̣n. Do trẻ đươ ̣c thực hiên thường xuyên nên trẻ nhớ đươ ̣c ký ̣ hiê ̣u riêng khăn của minh. ̀ Khi giáo du ̣c trẻ chăm sóc răng và biế t đánh răng đúng cách tôi đã chuẩ n bi ̣ mô hinh răng mẫu, bàn chải, kem,cô giáo phải thao tác đánh răng và giảng giải ̀ đánh răng đánh trên xuố ng và đánh dưới lên, đánh mă ̣t trong, đánh ngoài, sau khi thao tác xong tôi kế t hơ ̣p kể cho trẻ nghe câu chuyê ̣n: “Gấ u con bi ̣ sâu răng”: Trong rừng có một chú Gấu con rất thích ăn của ngọt. Mật ong, bánh gatô,  các loại kẹo, chú ăn bao nhiêu cũng chẳng chán. Gấu con nhai kẹo suốt ngày.  Nhiều hôm đi ngủ  rồi mồm vẫn còn ngậm kẹo. Một hôm, răng Gấu con đau  nhức. Nó ôm mặt khóc tu tu. Bao nhiêu bánh kẹo thơm ngon nhưng vì đau răng   nên chẳng nhấm nháp được tí nào. Ở lớp học, cô giáo Sơn Dương luôn căn dặn  học sinh: Sau khi ăn xong phải đánh răng, nhất là sau khi ăn đồ ăn ngọt! Nhưng   Gấu con chẳng chịu nghe lời. Nó bảo: Đánh răng trôi mất vị ngọt thì tiếc lắm!   Mẹ  đưa Gấu con đến bệnh viện, bác sĩ Voi nói ngay: Răng cháu bị  sâu hết cả  rồi! Gấu con ngạc nhiên nói: Cháu có ăn sâu bọ bao giờ đâu mà sâu lại cắn vào   răng cháu? Bác sĩ Voi cười phá lên giải thích: Cậu bé ngốc ơi! Đó là do thức ăn,   nhất là các loại bánh kẹo bám vào răng, không được đánh rửa sạch, lâu ngày sẽ  biến thành “sâu” đục thủng chân răng, làm răng đau nhức và có thể bị gãy hoặc   lung lay. Chắc chắn ăn nhiều đồ ngọt xong, cháu không chịu đánh răng chứ gì?  Gấu con cúi đầu khẽ vâng. Bác sĩ Voi ân cần chữa răng cho Gấu con và dặn: Từ  nay về sau, cháu phải đánh răng buổi sớm khi mới ngủ dậy, sau các bữa ăn, và   trước khi đi ngủ. Có thế  mới giữ  được những chiếc răng còn lại không bị  sâu.   Gấu con sung sướng đáp: Vậng ạ! Ngoài kể chuyện cô có thể cho trẻ đo ̣c thơ: “Gấ u con đau răng Miê ̣ng sưng to quá Nên phải nghỉ ho ̣c Đã ba hôm rồ i Thỏ nâu ân cầ n Sao đau răng thế Gấ u con nói rằ ng Vì ăn ke ̣o tố i Không chiu đánh răng ̣ Sâu chui vào cắ n”. Trước khi cho trẻ ăn cơm, trẻ đo ̣c bài thơ “Bé ơi nhớ nhé”. “Giờ ăn đế n rồ i Bé ơi nhớ nhé! Bé ơi nhớ nhé! Quay ra đằ ng sau Rửa tay sa ̣ch sẽ Tay che miêng mũi ̣ Trước khi ăn cơm Nế u không như thế Bé ngồ i ngay ngắn Làm mấ t vê ̣ sinh Mời cô mời ba ̣n Ba ̣n bè cười chê Cùng bé xơi cơm Chẳ ng đe ̣p tí nào 10/15
  11. Nhớ có hắ t hơi Bé ơi nhớ nhé!” Để giữ cho đôi chân luôn sa ̣ch sẽ tôi cho trẻ đo ̣c bài thơ “Giữ gin vê ̣ sinh”. ̀ “Con heo không đi dép Lúc nào cũng đi dép Chân nó bẩ n quá thôi Chân bé luôn sa ̣ch tinh Vừa mới rửa xong rồ i Nhớ lời cô giáo da ̣y La ̣i dẫm ngay xuố ng đấ t Bé giữ gìn vê ̣ sinh”. Qua hoạt động khám phá “Tìm hiểu về cơ thể của bé” tôi lồng ghép giáo dục vệ sinh vào vừa nhẹ nhàng vừa lôi cuốn trẻ giúp trẻ nhớ lâu và trẻ rất thích thú qua câu chuyện “Tại ai”. Câu chuyên có nội dung: “Bạn Mũi tâm sự, mấy hôm nay tôi bị ngứa như có con gì nằm trong đấy, còn Mắt thì vừa buồn vừa than: Tôi đỏ tấy lại còn nhức nữa, không biết vì sao? Khi ra đường cô chủ đeo khẩu trang và kính che bụi cho mình rồi mà. Mũi và Mắt chưa tìm ra nguyên nhân thì Miệng lên tiếng: Tôi nghe tâm sự của hai bạn rồi, các bạn biết không? Chỉ tại cô chủ mấy hôm nay cô chủ cho tay làm việc nhiều quá, nào là vẽ giữa sân, chơi xếp hình dưới nền nhà, chơi đùa với các bạn xong không chịu rửa tay còn ngoáy ngón tay vào bạn Mũi, nhụi vào bạn Mắt làm các bạn đau và ngứa đó thôi. Để Miệng nói với cô chủ phải thường xuyên rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, khi chơi xong…kẻo còn ảnh hưởng đến bạn Tai, bạn Bụng và cả tôi nữa đấy. Bạn Mắt còn nói thêm: Nhờ Miệng nói với cô chủ là khi nào dùng khăn lau chúng tôi phải rửa tay thật sạch bằng xà phòng rồi mới lấy khăn lau nhé, kẻo chúng tôi sợ đau lắm rồi”. Với giờ âm nhạc, tôi kết hợp vừa dạy hát vừa giáo dục vệ sinh cho trẻ một cách nhẹ nhàng, trẻ trả lời các gợi ý tôi đưa ra một cách hứng thú. Ví dụ: Qua bài hát: “Chiếc khăn tay” Tôi giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ một cách nhẹ nhàng. “Chiếc khăn tay mẹ may cho bạn nhỏ vì vậy bạn rất là yêu quý chiếc khăn tay của mẹ tặng cho mình. Bạn dùng khăn để mỗi khi rửa tay xong bạn lại lau cho đôi tay sạch sẽ”. Trong trò chơi đóng vai theo chủ đề tôi lồ ng ghép giáo du ̣c sức khỏe cho trẻ qua trò chơi “Bác si ̃ khám răng”. Hoă ̣c chơi trò chơi bán hàng tôi làm mô ̣t quầ y chuyên phu ̣c vu ̣ đồ dùng vê ̣ sinh như ca, cố c, bàn chải, lươ ̣c, gương, xô, châ ̣u….Người mua phải nói công du ̣ng thì người bán mới bán. Ngoài ra tôi còn sưu tầ m thêm các bài hát cho trẻ hát mang tinh giáo du ̣c như bài “Tay thơm, tay ́ ngoan” “ Khám Tay”.... Bằ ng cách da ̣y trên tôi thấ y trẻ có mô ̣t thói quen và nề nế p rõ rê ̣t như cháu Anh Đức, Quang Anh, Thu Trang… Tôi thấ y trẻ có ý thức tự phu ̣c vu ̣ khi thấ y tay bẩ n, trẻ tự đi rửa tay theo đúng qui trình mà không cần cô phải nhắc nhở. 11/15
  12. 5. Biên pháp 5: Tuyên truyề n phố i hơ ̣p với các bâ ̣c phu ̣ huynh. ̣ Hồ Chủ Tịch đã dạy “Giáo dục ở nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ở gia đình, ngoài xã hội. Giáo dục nhà trường dù có tốt đến mấy nhưng nếu thiếu giáo dục ở gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn” Để phối hợp với gia đình trong việc giáo dục thói quen văn hoá vệ sinh cho trẻ, giáo viên cần tiến hành trao đổi thường xuyên với phụ huynh trẻ thông qua giờ đón và trả trẻ hàng ngày, qua đó nắm bắt những đặc điểm, hành vi của trẻ ở gia đình. Đồng thời thông báo cho gia đình biết tình hình, những biểu hiện của trẻ ở lớp, những nội dung, yêu cầu giáo dục của cô đối với trẻ. Từ đó có cách thức tác động, phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục, rèn luyện hành vi văn hoá cho trẻ. Thói quen văn hoá vệ sinh cũng chính là thể hiện trình độ văn hoá của con người, có thói quen văn hoá vệ sinh mỗi cá nhân sẽ tự bảo vệ, nâng cao sức khỏe cho bản thân, có lối sống văn minh, lịch sự. Chính vì vậy, cần thiết phải giáo dục cho trẻ những thói quen văn hoá ngay từ khi còn nhỏ. Hoạt động này muốn đạt hiệu quả cao, trong công tác giáo dục, giáo viên mầm non cần phải có trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm tốt, phải nắm vững nội dung chương trình giáo dục, biết cách lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục, linh hoạt và sáng tạo trong tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ. Biết cách tạo cho trẻ sự hứng thú, tích cực tham gia vào các hoạt động. Để làm được điều đó người giáo viên phải có lòng yêu trẻ, nắm vững đặc điểm của trẻ, có sự kiên trì, nhẫn lại trong khi rèn luyện cho trẻ. Ảnh minh họa 4: Hình ảnh trao đổi tuyên truyền với phụ huynh về vệ sinh phòng tránh dịch bệnh cho trẻ (Phụ lục). Luôn gương mẫu trước trẻ trong việc thực hiện các hành vi văn hoá, vệ sinh. Thường xuyên trao đổi, kết hợp chặt chẽ với phụ huynh trong quá trình giáo dục trẻ. Làm tốt được điều này sẽ là biện pháp hữu hiệu góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mầm non. Nếu hàng ngày cô thực hiện nghiêm túc thời gian biểu cháu sẽ thực hiện đúng giờ nào việc đó. Vì những việc làm tốt được lặp đi lặp lại nhiều lần thì sẽ thành thói quen tốt. Phối hợp với gia đình trong quá trình giáo dục trẻ. Hàng ngày trẻ chỉ sinh hoạt ở trường mầm non với thời gian nhất định, còn lại trẻ sống ở gia đình, chịu sự giáo dục của gia đình. Vì thế, nếu có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường để thống nhất về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục tác động đến trẻ một cách đồng bộ, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, hình thành hành vi văn hoá vệ sinh cho trẻ. Muốn trẻ hình thành được các thói quen vệ sinh thì nhà trường và gia đình phải thống nhất yêu cầu giáo dục vệ sinh đối với trẻ. Nhà trường và giáo viên thông báo, yêu cầu biện pháp giáo dục vệ sinh cho phụ huynh biết, yêu cầu phụ huynh cần theo dõi giúp đỡ và cho biết tình hình thực hiện ở nhà để cùng phối hợp giáo dục rèn luyện cho trẻ. Cha mẹ trẻ là những người thầy đầu tiên và quan trọng nhất của trẻ. Sự tham gia của cha mẹ trong việc chăm sóc giáo dục trẻ là vô cùng quan trọng đối 12/15
  13. với trẻ trong trường mầm non, vì cha mẹ là người hiểu con mình nhất, nên họ có thể cung cấp cho giáo viên những thông tin quý giá về trẻ như tính cách, thói quen… Do đó tôi luôn coi phụ huynh là một phần quan trọng trong đời sồng nhà trường. Nhận thức được rằng công tác tuyên truyền là việc làm có tầm quan trọng lớn để đem đến hiệu quả cao trong việc phòng ngừa dịch bệnh cho trẻ. Nên ngay từ đầu năm học tôi đã tuyên truyền tới các bậc phụ huynh bằng nhiều hình thức khác nhau như qua các buổi họp phụ huynh, giờ đón trả trẻ, qua bảng tuyên truyền và qua loa đài phát thanh…Qua các buổi họp phụ huynh là thời gian để giáo viên và phụ huynh trao đổi về tình hình của trẻ nên tôi tận dụng thời gian này để tuyên truyền với phụ huynh những kiến thức về chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ tốt nhất để tăng cường sức đề kháng cho cơ thể trẻ. Giữ vệ sinh nhà ở, đảm bảo không khí thoáng mát, có ánh sáng , không đun nấu trong nhà hoặc không để trẻ hít thở khói thuốc lá, bui bặm đảm bảo vệ sinh sạch sẽ.. Hướng dẫn phụ huynh nên cho con vận động thường xuyên để có sức đề kháng tốt trước sự thay đổi của môi trường, khí hậu và hoàn cảnh sinh hoạt của gia đình và xã hội. Phối hợp với phụ huynh trong việc dạy trẻ các kỹ năng vệ sinh khi ở nhà, tạo cho trẻ thói quen giữ vệ sinh sạch sẽ cả ở nhà cũng như ở lớp để phòng tránh dịch bệnh. Để có mô ̣t sức khỏe tố t và hinh thành thói quen cho trẻ mô ̣t thói quen vê ̣ ̀ sinh các nhân sa ̣ch sẽ tôi thường xuyên trao đổ i với các bâ ̣c phu ̣ huynh cầ n quan tâm đế n các cháu vì các cháu còn bé viê ̣c đầ u tiên là không cho trẻ mang quà đế n lớp, nên đánh răng vào buổ i tố i trước khi đi ngủ, ăn cơm xong xúc miêng nước muố i, cắ t móng tay, thường xuyên trao đổ i với các bâ ̣c phu ̣ huynh để cùng thố ng nhấ t cách rửa tay, rửa mă ̣t ở lớp cũng như ở nhà nên rửa tay bằ ng xà phòng, rửa tay dưới vòi nước sa ̣ch. Trao đổ i gă ̣p riêng với bâ ̣c phu ̣ huynh nào có cháu thường xuyên ăn mă ̣c chưa gọn gàng, mặt mũi nhem nhuốc như ở lớp tôi có cháu Quang Anh, Thanh Tùng, Minh Hiếu … Tôi đưa ra một vài minh chứng về tầm quan trọng của việc giữ gìn vệ sinh cá nhân đối với sức khoẻ của con người đặc biệt là với trẻ. Trẻ còn non nớt, sức đề kháng chưa cao. Tôi đưa một số hình ảnh về trẻ bị chân, tay, miệng và cho phụ huynh biết bệnh đó là nguyên nhân chính là do vệ sinh cá nhân chưa sạch sẽ. Vì vậy nếu giữ vệ sinh sạch sẽ hàng ngày thì có thể tránh được 90% nguy cơ mắc bệnh. Đố i với cháu chưa có ý thức tố t tôi gă ̣p riêng với phu ̣ huynh trao đổ i để phu ̣ huynh kết hợp cùng cô giáo tìm ra một số biê ̣n pháp giáo du ̣c dạy trẻ mô ̣t cách tố t nhấ t. Tuyên truyề n với các bâ ̣c phu ̣ huynh cho trẻ đi khám bê ̣nh theo đinh kỳ, tiêm đầ y đủ cân đo hàng tháng để kip thời phòng và điề u tri ̣ như ở lớp tôi có ̣ cháu Kiên, Thảo Nguyên, My, Đại … bi sâu răng tôi gă ̣p riêng các phu ̣ huynh đó ̣ đô ̣ng viên trẻ cho trẻ đi khám răng và chữa sâu răng. Phụ huynh đã hiểu được tầm quan trọng của việc phòng chống dịch bệnh cho trẻ dành nhiều thời gian chăm sóc và gần gũi trẻ hơn. Chủ động thông báo cho giáo viên tình hình sức khỏe của trẻ khi trẻ nghỉ ốm. Phối hợp với giáo viên trong việc dạy trẻ các kỹ năng vệ sinh khi ở nhà, tạo cho trẻ thói quen giữ vệ 13/15
  14. sinh sạch sẽ cho trẻ. Từ đó phụ huynh rất nhiệt tình trong việc trao đổi với giáo viên để tìm ra những biện pháp tốt nhất trong việc bảo vệ trẻ trước những dịch bệnh có thể bùng phát bất cứ lúc nào mà đối tượng không ai khác là những thiên thần nhỏ bé của chúng ta. IV. Kế t quả 1. Đối với trẻ: - Giúp trẻ thực hiện được những kỹ năng vệ sinh để phòng chống dịch bệnh như: Biết tự rửa mặt, rửa tay, chải đầu, thay quần áo, sử dụng thành thạo dụng cụ vệ sinh. giữ nhà cửa, đồ dùng, đồ chơi sạch sẽ, biết bỏ rác vào giỏ, không vứt rác bừa bãi, biết đi tiêu tiểu đúng nơi quy định, trẻ không ăn quả xanh, uống nước lã, khi ăn cơm trẻ không làm rơi vãi. Các cháu đã thể hiện được nếp sống văn minh lịch sự, biết giữ vệ sinh lịch sự nơi công cộng, không khạc nhổ bừa bãi, khi ho, ngáp, hắt hơi đã biết lấy tay che miệng. * Kết quả đánh giá trẻ cuối năm: Tổng số trẻ được đánh giá: 30 trẻ. Đạt Chưa đạt Nội Dung Số Số trẻ % % trẻ Biết tự rửa tay bằng xà phòng, tự lau mặt, đánh 30 100% 0 0% răng. Biết sử dụng dung dịch nước sát khuẩn rửa tay 30 100% 0 0% khi không có xà phòng và nước. 14/15
  15. Biết rửa tay, lau mặt theo đúng quy trình. 27 90% 3 10% Biết cách xúc miệng, xúc họng bằng nước muối. 100 100% 0 0% Biết rửa tay bằng xà phòng hoặc nước sát khuẩn 28 93% 2 7% trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, ở nơi công cộng Biết đeo khẩu trang đúng cách và cất khẩu trang 30 100% 0 0% đúng nơi quy định sau khi sử dụng. Cách sử lý khi ho 28 93% 2 7% Biết giữ gìn vệ sinh trường, lớp để bảo vệ sức 30 100% 0 0% khỏe. Biết nói với người lớn khi bị đau, chảy máu, sốt. 30 100% 0 0% 15/15
  16. Biết đi vệ sinh đúng nơi quy định 30 100% 0 0% - Trẻ mắc các bệnh về mắt, răng, đường hô hấp đều giảm rõ rệt. Tỷ lệ chuyên cần trẻ đi học ở lớp tôi tương đối cao. Trung bình đạt 94%. 2. Đối với giáo viên: Nắm được mục đích, yêu cầu của hoạt động vệ sinh cho trẻ trong trường mầm non. Khai thác sâu nôi dung vệ sinh cho trẻ, xây dựng kế hoạch giáo dục vệ sinh cho trẻ theo chương trình giáo dục mầm non phù hợp với trẻ ở nhóm lớp. Nắm vững các phương pháp giáo dục vệ sinh cho trẻ, lồng ghép, tích hợp một cách sáng tạo nhằm rèn thói quen vệ sinh cho trẻ. Giáo viên tự tin hơn khi thực hiện các hoạt động vệ sinh cho trẻ. Xây dựng nội dung, cách thức tuyên truyền với các bậc phụ huynh một cách phù hợp, làm chuyển biến nhận thức của phụ huynh trong việc rèn thói quen vệ sinh cho trẻ. Thu hút được sự quan tâm của phụ huynh với nhà trường: Hợp tác cùng giáo viên rèn thói quen vệ sinh cho trẻ, ủng hộ một số đồ dùng, dụng cụ vệ sinh cho lớp. 3. Đối với phụ huynh: Sau khi nghiên cứu và triển khai đề tài tôi được sự ủng hộ của đa số phụ huynh trong lớp. Các phụ huynh đều rất nhiệt tình hỗ trợ tôi cùng rèn cho trẻ những thói quen vệ sinh và hành vi văn minh. Đa số phụ huynh đã nhận thức rõ vai trò, ích lợi của việc rèn thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ. Các phụ huynh còn nắm được các kĩ năng, phương pháp thực hành rèn các thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ. Phụ huynh tin tưởng vào sự chăm sóc giáo dục của cô giáo, nhà trường trong việc nuôi dạy trẻ. C. KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ 1. KẾT LUẬN. - Việc rèn trẻ mầm non phòng chống dịch bệnh là công việc rất cần thiết và không được chủ quan trong thời điểm hiện nay, đòi hỏi mỗi giáo viên, phụ huynh phải đặc biệt quan tâm, theo dõi sức khỏe cho trẻ một cách thường xuyên. Vì nguy cơ xảy ra dịch bệnh với trẻ có thể xảy ra bất kì lúc nào, nếu chúng ta không chủ động phòng tránh. Thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh, sẽ giúp trẻ có một cơ thể khoẻ mạnh, để trẻ tích cực tham gia các hoạt động. Góp phần phát triển toàn diện nhân cách trẻ. - Trong công tác chăm sóc sức khoẻ, dinh dưỡng và phòng chống bệnh dịch ở trường tôi đã thu được một số kết quả sau: 16/15
  17. - Nhà trường đã thực hiện tốt công tác chăm sóc trẻ và các quy định về cách phòng chống dịch bệnh. Lồng ghép kiến thức vào chương trình học của trẻ, giúp trẻ nhận thức được và có ý thức phòng dịch bệnh. - Tuyên truyền đến từng phụ huynh học sinh về cách chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ và phòng chống một số loại bệnh nguy hiểm. - Không để xảy ra bệnh dịch trong trường. Đảm bảo môi trường xanh sạch đẹp, an toàn. - Giáo viên, nhân viên nghiêm túc chấp hành quy chế, quy định của ngành về nuôi dưỡng trẻ và phòng chống dịch bệnh trong nhà trường. Có tinh thần trách nhiệm trong công việc, yêu nghề, mến trẻ, tận tình chăm sóc nuôi dưỡng, dạy dỗ trẻ. - Các bậc cha mẹ học sinh nhiệt tình, tích cực phối hợp với nhà trường . 2. Ý NGHĨA CỦA SKKN: Từ kết quả nghiên cứu lí luận và thực tiễn, có thể khẳng định các biện pháp mà tôi đã xây dựng bước đầu thể hiện tính khả thi. Cha mẹ và gia đình có trách nhiệm đầu tiên trong việc chăm sóc, nuôi dạy trẻ và tạo mọi điều kiện để giúp trẻ lớn lên và phát triển về mọi mặt ngay từ những năm tháng đầu đời của trẻ. Do vậy, một mặt cần khuyến khích các gia đình cho con đến nhóm lớp mầm non. Chú trọng việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ngay từ khi còn trong bào thai, mặt khác đẩy mạnh việc giáo dục kiến thức, kĩ năng thực hành cho cha mẹ và những người trực tiếp chăm sóc, giáo dục trẻ tại gia đình. Qua quá trình tổ chức thực nghiệm sư phạm cho thấy: Trong môi trường an toàn cho trẻ từ đótrẻ có một sức khỏe tốt thì sự học của trẻ cũng sôi động và trẻ rất hứng thú, tích cực tư duy tìm tòi, sáng tạo từ đó trẻ lĩnh hội được nhiều kiến thức theo một hệ thống khoa học hiện đại. Trẻ có thể vận dụng những kiến thức ở trường mầm non vào trong thực tiễn đời sống hằng ngày của trẻ, ngoài ra trong việc xây dựng môi trường phòng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ mầm non là rất phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của trẻ và phù hợp với chương trình giáo dục mầm non mới.Từ đó làm cơ sở để hình thành nhân cách, phát triển các quá trình tâm lí: Tư duy, trí nhớ, tưởng tượng, ngôn ngữ... Giúp trẻ phát triển toàn diện. 3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: * Giáo viên tận tâm, tận lực với nghề, tạo môi trường vui chơi và học tập thông thoáng về mùa hè, ấm áp về mùa đông, đảm bảo vệ sinh cho trẻ. * Giáo viên phải tự bồi dưỡng kiến thức về cách phòng tránh các loại dịch theo mùa, nhất là các dịch bệnh thường xảy ra cho trẻ độ tuổi mầm non. * Phải theo dõi sát sao tình hình trẻ đi học hoặc nghỉ ở nhà để đánh giá kịp thời sức khỏe của trẻ nếu phát hiện trẻ ốm. * Phải có sự quan tâm, ủng hộ và chỉ đạo kịp thời của ban giám hiệu, tạo điều kiện về tinh thần và vật chất cho giáo viên thực hiện. * Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường để đi đến sự thống nhất trong việc phòng tránh dịch bệnh cho trẻ. 17/15
  18. Luôn giáo dục lồng ghép các nội dung và dạy trẻ các kiến thức, kỹ năng vệ sinh cho bản thân. Nhằm củng cố kiến thức, kỹ năng, thói quen vệ sinh cá nhân. Nhằm bảo vệ sức khỏe, giúp trẻ có sức khỏe tốt để phát triển toàn diện. 4. KHUYẾN NGHỊ: - Để công tác phòng chống dịch bệnh trong trường mầm non nói chung và ở nhóm lớp nói riêng được tốt, tôi có một số đề xuất và khuyến nghị sau: - Phòng Giáo dục và đào tạo nên tăng cường tổ chức thêm nhiều buổi kiến tập, tập huấn về công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ, về y tế học đường, về cách phòng chống dịch bệnh cho giáo viên chúng tôi học tập. - Nhà trường tăng cường đầu tư cơ sở vật chất về công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ và chăm sóc sức khỏe cho trẻ. Trên đây là một số biện pháp rèn trẻ kỹ năng vệ sinh cho trẻ mầm non phòng chống dịch bệnh của bản thân tôi trong quá trình chăm sóc và nuôi dưỡng giáo dục trẻ, bước đầu đã thu được thành công nhất định. Tuy nhiên, vì kinh nghiệm trong quá trình rèn kỹ năng cho trẻ phòng chống dịch còn chưa nhiều. Do đó, trong quá trình thực hiện, triển khai thực hiện không tránh khỏi có những hạn chế. Rất mong được sự quan tâm giúp đỡ đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học, các bạn đồng nghiệp để bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi đầy đủ hơn, đạt hiệu quả. Góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 29 tháng 05 năm 2020 18/15
  19. MỤC LỤC 19/15
  20. PHỤ LỤC Ảnh minh họa 1: Hình ảnh minh họa nội dung giáo dục kỹ năng sống 20/15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2