intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ 24-36 tháng

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

43
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm mầm non được hoàn thành với mục tiêu nhằm tìm ra những biện pháp giúp trẻ có được những hiểu biết nhất định, tạo cho trẻ có đầy đủ điều kiện về thể lực và kiến thức. Đồng thời, hình thành và phát triển nhân cách tốt nhất cho trẻ, tạo tiền đề cho trẻ vững vàng, tự tin hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ 24-36 tháng

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc SÁNG KIẾN CẢI TIẾN KỈ THUẬT ĐỀ TÀI:  “MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN NỀ NẾP THÓI QUEN  CHO TRẺ 24­36 THÁNG”                               
  2. Lệ Thuỷ, tháng 9 năm 2018
  3. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc SÁNG KIẾN CẢI TIẾN KỈ THUẬT ĐỀ TÀI:  “MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN NỀ NẾP THÓI QUEN  CHO TRẺ 24­36 THÁNG”  Họ và tên: Nguyễn Thanh Thuỷ                   Chức vụ:  Giáo viên Đơn vị: Trường mầm non Công ty cổ phần Lệ Ninh
  4. I. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài: Để  thực hiện tốt mục tiêu của xã hội và mục đích của Đảng ta là: “Dân  giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ  văn minh” thì trước hết nhiệm vụ  của Giáo dục phải Đào tạo ra được những “con người mới xã hội chủ nghĩa” và   con người đó phải được phát triển toàn diện.  Chính vì lẽ đó mà sự nghiệp giáo dục của những năm gần đây đã được toàn  xã hội quan tâm và chú trọng hơn. Đặc biệt là giáo dục Mầm non, là hệ  thống  đầu tiên của Giáo dục quốc dân. Nó là nền tảng đầu tiên trong suốt quá trình  giáo dục đào tạo “Con người mới xã hội chủ  nghĩa”. Để  thực hiện tốt những   mục tiêu cơ bản của mình thì ngành học Mầm non phải không ngừng đổi mới và  phát triển về mọi mặt cả về số lượng lẫn chất lượng, cơ sở v ật ch ất cũng như  nội dung chăm sóc giáo dục trẻ. Như chúng ta đã biết, giáo dục là một trong những nhiệm vụ quan trọng và   cần thiết. Muốn thực hiện được nhiệm vụ to lớn này thì trước hết phải kể đến  vai trò của gia đình. Vì gia đình là sợi dây của tình yêu thương chăm sóc và kích   thích đầu tiên của trẻ. Cha mẹ  là người “Thầy” đầu tiên và quan trọng nhất.   Mỗi nhà giáo dục, mỗi một cô giáo là người mẹ thứ hai của con trẻ thì phải làm  thế nào để hình thành cho các cháu bước đầu có một đức tính tốt để sau này trẻ  trở thành một Công dân tốt. Là một giáo viên mầm non được phân công phụ trách nhóm trẻ 24­36 tháng,  ở độ tuổi này trẻ còn rất bé nhưng đặc điểm sinh lý của trẻ thì lại phát triển rất   mạnh. Do vậy, trẻ  dễ  bị tổn thương về tâm lý, tôi nhận thấy rằng: “Việc đưa  các cháu vào nề nếp, thói quen” để tham gia mọi hoạt động trong ngày của trẻ là   một nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong suốt quá trình phát triển của các cháu. Vì  trẻ độ  tuổi này chưa tách rời bố mẹ, gia đình, những người thân của bé nên khi   mới đến trường, nhập lớp trẻ thường biểu hiện thái độ sợ hãi, mọi thứ quanh bé  
  5. đều lạ lẫm, tránh né bạn, không chấp nhận sự giúp đỡ của cô giáo, thậm chí còn  la khóc, không ăn, không ngủ  hoặc không tham gia vào mọi hoạt động trong   nhóm, có thể trẻ dường như không hoà nhập vào tập thể. Vậy! Làm thế nào để  nhanh chóng đưa trẻ  vào nề  nếp, thói quen ngay từ  những ngày đầu? Những  ngày mà trẻ không muốn rời xa vòng tay yêu thương của bố mẹ đến với cô giáo  và các bạn. Theo tôi nghĩ, đây không phải là vấn đề  trăn trở  của riêng tôi mà là  của tất cả các đồng nghiệp nói chung.  Từ các cơ  sở nêu trên, tôi đã mạnh dạn chọn đề  tài “Một số biện pháp rèn   luyện nề  nếp, thói quen cho trẻ  24­36 tháng”  làm sáng kiến cải tiến kỹ  thuật  năm học 2018­2019. Điểm mới của đề tài sáng kiến cải tiến kỉ thuật:  Có thể thấy đây là đề tài được nhiều người quan tâm nên đã có nhiều đồng  nghiệp nghiên cứu về lĩnh vực này, song mỗi đề tài đề cập đến những khía cạnh  khác nhau của việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ nhà trẻ để phù hợp với tình hình  thực tế ở đơn vị. Đối với sáng kiến cải tiến kỉ thuật của tôi,  bản thân tôi đã suy  nghĩ tìm hiểu về thực trạng của từng trẻ. Từ đó nghiên cứu nhằm tìm ra những  biện pháp  giúp trẻ  có được những hiểu biết nhất định, tạo cho trẻ  có đầy đủ  điều kiện về thể lực và kiến thức. Đồng thời, hình thành và phát triển nhân cách  tốt nhất cho trẻ, tạo tiền đề cho trẻ vững vàng, tự tin hơn.  Muốn thực hiện những mục tiêu trên thì vấn đề rèn luyện nề nếp, thói quen   cho trẻ  nhà trẻ  phải được chú trọng thường xuyên, liên tục và không ngừng  được đổi mới. Trước hết phân nhóm đặc điểm tâm sinh lý của trẻ  để  có biện   pháp thích hợp. Tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và khả năng  nắm bắt về  việc rèn luyện nề  nếp, thói quen cho trẻ. Động viên khuyến khích  trẻ và nêu gương tốt thông qua các hoạt động trong ngày. Rèn luyện nề nếp thói  quen thường xuyên trong mọi hoạt động, mọi lúc mọi nơi. Rèn luyện bằng tình  cảm giữa cô và trẻ. Tăng cường làm thêm nhiều đồ  dùng đồ  chơi đẹp, tạo môi 
  6. trường học tập cho trẻ. Tăng cường làm tốt công tác tuyên truyền vận động,  phối kết hợp với gia đình. Vì vậy, cô giáo phải thường xuyên bồi dưỡng, thường xuyên được tiếp thu  đầy đủ các chuyên đề, tiếp cận với cái mới một cách kịp thời để thực hiện việc   chăm sóc­ giáo dục trẻ 1.2. Phạm vi áp dụng sáng kiến cải tiến kỉ thuật:  Đề tài có thể áp dụng rộng rải cho đội ngũ giáo viên trong ngành giáo dục   mầm non.            Nội dung đề tài viết trên tinh thần tập hợp những kinh nghiệm đúc kết  được của bản thân, chủ  yếu là những biện pháp trong công tác quản lý nhóm,  lớp, quá trình giảng dạy trên lớp, để  nâng cao chất lượng trong các hoạt động  chăm sóc ­ giáo dục trẻ tại trường mầm non nơi tôi đang công tác.             Đối tượng chủ yếu là các cháu độ tuổi từ 24­36 tháng  tại các nhóm/lớp  của đơn vị.  II. PHẦN NỘI DUNG: 2.1. Thực trạng của đề tài cần nghiên cứu: * Đặc điểm tình hình:  Năm học 2018­2019, tôi được nhà trường phân công giảng dạy nhóm trẻ 24­ 36 tháng, với số lượng trẻ: 12 cháu trong đó có 8 cháu nữ, 4 cháu nam Để  biết được nề  nếp, thói quen ban đầu của trẻ, vào đầu năm học tôi đã   tiến hành khảo sát kết quả cụ thể như sau Bảng khảo sát kết quả đầu năm về nề nếp, thói quen ban đầu cho trẻ  Thói Thói Thói Thói Thói  Thói Tổn Thói quen nề  quen nề  quen nề  quen cất  quen nề  quen nề  g số  quen nề  nếp ­  nếp đi  nếp  đồ dùng  nếp ­  nếp học trẻ nếp ­  giờ vui  học đều chào hỏi đồ chơi giờ ngủ tậ p giờ ăn chơi 12 6/12 4/12 5/12 5/12 4/12 5/12 5/12
  7. Với kết quả như trên tôi đã mạnh dạn đi sâu vào tìm hiểu và thực hiện một   số  biện pháp rèn luyện nề  nếp thói quen cho trẻ  24­36 tháng. Trong quá trình  thực hiện tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn như sau: 1. Thuận lợi:  Bản thân luôn nhận được sự  quan tâm của cán bộ Chuyên môn Phòng giáo   dục và Ban giám hiệu nhà trường cùng với sự  lãnh đạo của địa phương và bạn   bè đồng nghiệp.  Bản thân tham gia tập huấn đầy đủ  các chuyên đề, cập nhật thông tin kịp  thời về đổi mới của cấp học mầm non, trong đó có chuyên đề lễ giáo, chuyên đề  xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ  làm trung tâm, chuyên đề  phát triển vận  động cho trẻ và các chuyên đề khác… 2. Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi tôi đã nêu  ở  trên, trong quá trình thực hiện, bản  thân tôi gặp không ít những khó khăn nhất định như sau: Với đặc điểm sinh lý của lứa tuổi này lời nói đang phát triển, vì vậy khả  năng giao tiếp về ngôn ngữ của trẻ gặp rất nhiều khó khăn. Trẻ sống trong môi  trường gia đình được nuông chiều, muốn gì được nấy, tất cả các cháu đều mới  nhập học. Do đó, khi đến trường tất cả  đều hoàn toàn mới, xa lạ  với trẻ, trẻ  chưa quen với nề nếp thói quen của lớp, tính rụt rè, nhút nhát, cá tính...còn nhiều  ở trẻ. Lớp học chỉ  một mình tôi đảm nhiệm với số  lượng 12 cháu nên khi thực   hiện tổ chức hoạt động còn gặp khó khăn trong bao quát trẻ. Một số phụ huynh nhận thức chưa đồng đều, cho rằng lứa tuổi này việc rèn  luyện nề nếp, thói quen chưa quan trọng đối với trẻ. 2.2. Một số biện pháp rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ 24­36 tháng 2.2.1. Biện pháp thứ nhất: Phân nhóm đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để  có biện pháp thích hợp.
  8. Bên cạnh việc thực hiện chương trình chăm sóc ­ giáo dục trẻ  là vấn đề  trọng tâm thì cô giáo cần tiến hành tổ  chức để  đưa các cháu đi vào nề  nếp thói   quen ở mọi lúc, mọi nơi. Vì thế, mọi hoạt động trong ngày của trẻ tôi đều phải   nghiên cứu, lập ra chương trình kế  hoạch bồi dưỡng đối tượng theo sự  phân  nhóm và sắp xếp chỗ ngồi cho từng cháu một cách hợp lý:  ­ Trẻ hiếu động cá biệt ngồi cạnh cô giáo để dễ quan sát. ­ Trẻ nhút nhát, chậm chạp ngồi cạnh trẻ mạnh dạn và nhanh nhẹn. ­ Trẻ khá ngồi cạnh trẻ trung bình.  ­ Trẻ hay nói chuyện ngồi cạnh trẻ ngoan. Cô động viên khích lệ kịp thời sự tiến bộ đối với những trẻ  hiếu động, cá   biệt khi thấy trẻ ngoan hơn. 2.2.2.  Biện   pháp  thứ  hai:   Tự   học,  tự  bồi  dưỡng  nâng  cao   trình  độ  chuyên môn và khả năng nắm bắt về việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho   trẻ   Luôn học tập và nghiên cứu các văn bản, Chỉ thị, Nghị quyết và “Quy chế  nuôi dạy trẻ” của cấp trên đề ra để có kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ được tốt  hơn. Tham gia các buổi tập huấn chuyên môn do Phòng, Cụm liên trường và nhà   trường tổ chức. Thường xuyên tìm tòi sách báo, nghiên cứu và tìm hiểu thêm về  tầm quan  trọng của việc đưa trẻ vào nề nếp, thói quen trong học tập, trong sinh hoạt hàng  ngày của trẻ. Tham gia tốt các đợt thao giảng, dự giờ bạn đồng nghiệp để  học hỏi thêm   kinh nghiệm về việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho bản thân. Thường xuyên rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ phù hợp, đúng quy trình   của độ tuổi.
  9. 2.2.3. Biện pháp thứ ba: Động viên khuyến khích trẻ và nêu gương tốt  thông qua các hoạt động trong ngày. Động viên, khuyến khích giúp cho trẻ thêm tự tin, hy vọng và có lòng tin để  nhìn thẳng vào hoàn cảnh. Động viên cũng là một cách giúp đỡ rất hiệu quả làm   cho trẻ  tăng thêm niềm tin, tính kiên trì và chủ  động. Khi động viên trẻ, tôi chú  trọng đến các phương pháp như  biểu dương, tán thưởng những thành tích trẻ đã  đạt được và khuyên bảo tôi dùng lời lẽ khéo léo và thái độ  tình cảm để  thương   lượng thuyết phục trẻ.  Ví dụ: Tôi nói: “Con chịu khó nhé! Khi nào quen rồi thì con sẽ cảm thấy rất  dễ dàng”. Tỏ rỏ lòng tin: Tôi tin là trẻ làm được công việc gì thì tôi kiên quyết hướng   dẫn trẻ làm và tỏ ra cho trẻ thấy được là cô tin tưởng ở trẻ.    Ví dụ: Tôi nói: “Con làm được đấy! Cô biết mà!” Thiết tha yêu cầu: Khi tôi muốn trẻ  làm một công việc nào đó trong hoạt  động hàng ngày của trẻ  tại lớp học thì tôi yêu cầu trẻ  một cách dịu dàng và có   tính mời mọc.  Ví dụ như nói: “Các con ơi, giúp cô với nào!” Trẻ ở  giai đoạn này hay tò mò, thích bắt chước do đó mà tôi thường xuyên  nêu gương tốt thông qua các hoạt động của trẻ diễn ra trong ngày. Tôi luôn tôn  trọng trẻ và hết sức công bằng khi khen trẻ. Khen và chờ cô tác dụng mạnh đến   hành vi vâng lời của trẻ, do vậy tôi thường khen những gương tốt để  trẻ  bắt  chước. Ví dụ: Cô khen những trẻ  đi học ngoan, đúng giờ, mặc áo quần sạch   đẹp, đầu tóc gọn gàng. Biết chào cô khi đến lớp, không khóc nhè. Nếu có trẻ đi   học còn khóc nhè...thì cô có thể  nói: “Lần sau con đi học ngoan, không uốn mẹ  nữa để  được cô khen giống bạn... nhé! Khi con ngoan không khóc cô thấy con   xinh hơn đấy! Các bạn có thấy bạn... ngoan không nào!”
  10. Cô không nên chê trẻ trước tập thể lớp mà nên gần gũi để góp ý nhỏ với trẻ  về  một số  nề  nếp chưa tốt hay trong lớp còn một vài cháu hay nhõng nhẽo,  không nghe lời cô giáo do sự nuông chiều của ông bà, bố  mẹ  ... tôi dựa vào lúc  có điều kiện để giúp trẻ có thể  học tập, bắt chước gương tốt. Tôi đã tranh thủ  cơ hội đó để thay đổi trẻ bằng mọi hình thức. Từ sự giúp đỡ của cô giáo mà tính  nhõng nhẽo của trẻ  mất dần. Được cô tạo điều kiện giúp đỡ, được rèn luyện  mà trẻ  đã thực sự  hoà nhập vào nề  nếp, khuôn khổ  của tập thể  lớp một cách  thoải mái, dễ dàng và tự tin. 2.2.4.  Biện pháp thứ  tư:  Rèn luyện nề  nếp thói quen thường xuyên  trong mọi hoạt động, mọi lúc mọi nơi. Hàng ngày, các cháu đến lớp với các nội dung hoạt động: Giờ  ăn, giờ  ngủ,  vệ  sinh, học tập vui chơi, giờ  đón ­ trả  trẻ...mọi sinh hoạt đều là những hình  thức để  trẻ  được rèn luyện. Đối với độ  tuổi này, để  đưa các cháu vào nề  nếp  thói quen đâu phải là chuyện dễ và đơn giản, không chỉ là ngày một ngày hai mà   cả một thời gian dài và liên tục. Thực tế các cháu còn rất bé chưa có ý thức được  như  các anh chị  lớn tuổi, điều này cũng là thử  thách cho cô giáo. Muốn tạo cho   trẻ có được thói quen thường xuyên, cô giáo phải thực sự là người mẹ hiền thứ  hai của con trẻ, phải luôn nhẹ  nhàng, gần gũi, yêu thương trẻ, coi trẻ  như  con   của   mình   để   uốn   nắn   trẻ.   Ngoài   ra,   thông   qua   các   bài   hát,   bài   thơ,   câu   chuyện...trò chơi có nội dung nói về nề nếp thói quen, tôi cũng có thể lồng ghép  đưa vào mọi lúc, mọi nơi phần nào giúp trẻ  liên hệ tới bản thân mà ngoan hơn,  biết vâng lời cô giáo hơn, từ đó có thói quen nề nếp tốt hơn..  Ví dụ:  ­ Rèn cho trẻ  thói quen biết chào hỏi thông qua các bài hát như: Bé ngoan,  Lời chào buổi sáng, Mẹ  yêu không nào, Nu na nu nống; Thông qua bài thơ:   Miệng xinh, Chào; Hoặc thông qua câu chuyện: Cháu chào ông ạ!
  11. ­ Thông qua bài thơ, bài hát giúp trẻ hình thành thói quen thu dọn đồ chơi sau   khi chơi xong như: “ Bạn ơi hết giờ rồi.                                    Nhanh tay cất đồ chơi.                                    Nhẹ tay thôi bạn nhé!                                    Cất đồ chơi đi nào!”                      Hoặc: “ Giờ chơi hết rồi.                                   Nào các bạn ơi!                                   Ta cùng cất dọn                                   Đồ dùng đồ chơi                                  Vào nơi quy định.” ­ Qua bài thơ, bài hát, câu chuyện rèn cho trẻ thói quen khi ăn, khi ngủ như:  Bài hát: Giờ đi ngủ. Bài thơ: Giờ ăn. Bài thơ: Giờ ngủ ­ Rèn thói quen vệ sinh cho trẻ qua bài thơ: “Rửa tay sạch” 2.2.5. Biện pháp thứ năm: Rèn luyện bằng tình cảm giữa cô và trẻ. Trẻ  24­36 tháng tuổi là giai đoạn khởi điểm của việc hình thành và phát  triển nhân cách của con người, các mặt phát triển hoà quyện vào nhau,  ảnh   hưởng lẫn nhau, không tách bạch rỏ nét. Giai đoạn này cơ thể trẻ hoàn toàn còn   non nớt, rất nhạy cảm với tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc trẻ  phát  triển rất nhanh về  mọi mặt, trẻ rất dễ tổn thương về mặt tâm lý, nhu cầu về  cảm giác an toàn rất lớn. Do đó, muốn rèn luyện nề  nếp thói quen cho trẻ  thì  ngay từ những ngày đầu trẻ mới vào lớp, cô giáo phải làm sao để trẻ cảm nhận   được nguồn hạnh phúc, thấy mình được chấp nhận, được yêu mến, cảm giác  được an toàn và là thành viên trong cộng đồng mà trẻ  đang hoà nhập. Bên cạnh  đó, quan hệ  của cô giáo đối với trẻ  phải giàu cảm xúc thân thiết, yêu thương   như  quan hệ  mẹ  ­ con, là người thay mẹ  dạy trẻ. Vậy hoạt động lao động sư  phạm của cô giáo mầm non đòi hỏi phải rất linh hoạt có sự sáng tạo, nhạy bén,  kịp thời để  phát hiện và đáp  ứng những nhu cầu phát triển của trẻ. Hoạt động  
  12. sư phạm của cô giáo phải luôn luôn thay đổi, phù hợp với nhu cầu phát triển của  trẻ có cảm tình, có hứng thú. Vì thế, nghệ thuật của cô thể hiện ở chỗ biết hoà  nhập vào thế giới trẻ, biết quên mình là người lớn để trở  thành người bạn thực  sự  của trẻ. Biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ, tạo nên không khí cởi mở, lôi  cuốn, thu hút trẻ như thế trẻ dễ nghe theo sự hướng dẫn của cô, biết vâng lời cô  giáo một cách tự nguyện, thoải mái và vui vẻ.  Đa số trẻ ở độ tuổi này chưa rời khỏi bàn tay ấp ủ, yêu thương của bố mẹ,  gia đình và những người thân yêu quanh bé nên khi mới nhập lớp các cháu còn  mang một tâm trạng lưu luyến nhớ  bố  mẹ  và những người thân. Khi đến lớp  quanh bé đều lạ lẫm, lúc này bé rất cần tình cảm sự âu yếm, nhẹ nhàng.  Ví dụ: Những ngày đầu trẻ mới đến lớp còn bỡ ngỡ có khi trẻ còn khóc, tôi  bế trẻ âu yếm vỗ về trò chuyện, hát đọc thơ cho trẻ nghe và cho trẻ xem tranh,  kể chuyện qua tranh cho trẻ nghe. Thông qua nội dung các bức tranh với lời kể  nhẹ nhàng đầy tình cảm cuốn hút trẻ vào câu chuyện để trẻ quên đi nỗi nhớ nhà,  gây cho trẻ lòng ham muốn đến lớp được múa hát, vui chơi và được nghe cô kể  chuyện  Hay những buổi đầu trẻ  ăn cơm tại trường, ngủ  tại trường trẻ còn bướng  bĩnh, uốn vặn. Tôi phải ân cần, dỗ dành bón từng thìa cơm, thìa cháo, ẵm và ru   trẻ  vào giấc ngủ. Ngày qua ngày, trẻ  đã quen với giờ  ăn thì tôi hướng dẫn,   khuyến khích trẻ ngồi vào bàn tự  cầm thìa xúc cơm ăn và giờ  ngủ  thì nằm vào  đúng gối của mình để ngủ, khi ngủ dậy biết tự mình xếp gối vào tủ gọn gàng. 2.2.6. Biện pháp thứ sáu: Tăng cường làm thêm nhiều đồ dùng đồ chơi  đẹp, tạo môi trường học tập cho trẻ. Trẻ mầm non nói chung và trẻ 24 ­36 tháng tuổi nói riêng đến lớp trẻ được   hoạt động dưới nhiều hình thức: “Học mà chơi, chơi mà học”, học  ở  mọi lúc  mọi nơi. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng của việc rèn luyện nề  nếp, thói   quen cho trẻ thì bản thân tôi không ngừng sưu tầm những nguyên vật liệu sẵn có 
  13. để  làm Đồ  dùng, Đồ  chơi đảm bảo tính thẩm mĩ, sáng tạo hấp dẫn, đảm bảo  tính an toàn cho trẻ sử dụng hợp lý, phù hợp với nội dung, với độ tuổi. Đồ dùng,  đồ  chơi sắp xếp gọn gàng, vừa tầm với trẻ  dễ  thu hút trẻ  vào hoạt động một  cách thoải mái và vui vẽ. Ví   dụ:   Cháu   mới   nhập   lớp   đang   còn   khóc   vì   nhớ   Bố,   Mẹ,   nhớ   người   thân...tôi có thể bế cháu đến các góc chơi cho trẻ xem tranh vẽ cảnh: Cô và các   bạn đang xếp nhà cho Búp Bê. Để  trẻ  tập trung vào xem tranh mà quên đi nỗi   nhớ  nhà thì tôi có thể đàm thoại với trẻ, chỉ vào hình ảnh và hỏi trẻ: “Tranh vẽ  về ai đây? Còn đây là ai? Cô giáo và các bạn đang làm gì?  Con thấy các bạn chơi  có vui không? Bây giờ, cô và con cùng chơi xếp nhà cho em Búp bê nhé!” Hoặc tôi có thể bế cháu đến đưa cho cháu chơi đồ chơi do chính tay cô làm   ra như  cái quạt điện làm từ  hộp bạc hà, xê sũi, phim Xquang...rất gần gũi với  trẻ, tôi hướng dẫn cháu chơi và trò chuyện với trẻ: “Cô bật quạt quay cho mát   nhé! Cô đố con cái gì đây? Ở nhà con có quạt không? Quạt để làm gì ? Bây giờ,  cô cháu mình cùng bật quạt ru em búp bê ngủ nhé!...” Từ  việc chú trọng đến đồ  dùng, đồ  chơi trang bị  cho trẻ  hoạt động trong  ngày giúp trẻ hứng thú hơn tăng phần tích cực, tạo cho trẻ có giờ hoạt động sinh  động hơn và hứng thú hơn. Đây cũng là yếu tố góp phần quyết định chất lượng   và khả năng tham gia hoạt động của trẻ đạt kết quả cao hơn. 2.2.7.  Biện pháp thứ  bảy;  Tăng cường làm tốt công tác tuyên truyền  vận động, phối kết hợp với gia đình. Thông qua các buổi Hội nghị  cha mẹ  học sinh đầu năm và hàng quý hoặc  vào giờ  đón ­ trả  trẻ  hàng ngày, cập nhật các thông tin trên bảng “Những điều   cha   mẹ   cần   biết”;   Phụ   huynh   cùng   sưu   tầm   tranh   ảnh,   những   bài   thơ,   câu  chuyện có nội dung giáo dục phù hợp; Đóng góp nguyên vật liệu cùng làm đồ  chơi phục vụ cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ đạt kết quả tốt. Thường xuyên  chú trọng tuyên truyền rộng rãi với các bậc phụ huynh về sự cần thiết của việc  
  14. rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ ở độ  tuổi này. Từ  đó, phụ  huynh cùng phối  hợp với giáo viên để  trao đổi nắm bắt đặc điểm tình hình của trẻ, tìm nguyên   nhân từ đó thống nhất biện pháp thích hợp, kịp thời uốn nắn, rèn luyện trẻ lúc ở  nhà cũng như  ở trường. Giúp việc rèn luyện nề nếp thói quen theo khoa học và  đi đến thống nhất trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.  2.3. Kết quả đạt được: 1. Những kết quả bước đầu: Qua quá trình cố gắng và đưa hết khả năng của mình vào thực hiện các biện  pháp rèn luyện nề  nếp, thói quen cho trẻ 24­36 tháng tuổi, cộng với sự  ủng hộ  của các giáo viên trong trường, cùng với sự  chỉ  đạo sát sao của Ban giám hiệu   nhà trường, sự  phối hợp của các bậc phụ  huynh, gia đình cũng như  các Ban ­   Ngành. Tôi  đã sử dụng các biện pháp nói trên một cách hợp lý nên đến nay trẻ  đã thực sự thích được đến lớp, có nề nếp tham gia vào các hoạt động, mạnh dạn  và tự  tin, biết làm một số  việc đơn giản phục vụ  bản thân, có thói quen chào   hỏi, vâng lời bố mẹ và cô giáo...cụ thể: TT Nội dung Số lượng Tỷ lệ 1 Trẻ có thói quen nề nếp đi học chuyên cần  12/12 100 2 Trẻ có thói quen chào hỏi, lễ phép và vâng lời  12/12 100 3 Trẻ có thói quen nề nếp vệ sinh sạch sẽ, đúng nơi  12/12 100 quy định   4 Trẻ  có thói quen nề  nếp biết ăn uống, sạch sẽ, tự  11/12 91,7 phục vụ bản thân 5 Trẻ có thói quen nề nếp giờ ngủ nằm im lặng, biết  12/12 100 lấy và cất gối đúng nơi quy định  6 Trẻ  có thói quen nề  nếp thu dọn đồ  chơi sau khi  12/12 90 chơi xong  7 Trẻ  có nề  nếp giờ  học không nói chuyện, tích cực  11/12 91,7 tham gia vào hoạt động   8 Trẻ có thói quen nề nếp giờ chơi không tranh giành  11/12 91,7 đồ  chơi, không đánh bạn, đoàn kết với các bạn khi 
  15. chơi    Những kết quả  đạt được  ở  trên không phải làm tôi mãn nguyện mà tôi sẽ  lấy đó làm động lực thôi thúc mình cố gắng hơn nữa để  rèn luyện nề nếp, thói   quen cho con trẻ trong những năm học tiếp theo. * Bài học kinh nghiệm: Từ việc thực hiện áp dụng các biện pháp rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ  ở  nhóm 24­36 tháng, tôi đã thu được nhiều kết quả  đáng phấn khởi. Qua đây,  bản thân tôi cũng đã rút ra một số kinh nghiệm giúp rèn luyện nề nếp, thói quen  ban đầu cho trẻ đạt kết quả tốt như sau:  1. Phân nhóm đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện pháp thích hợp. Đặc   biệt quan tâm đến trẻ cá biệt không kỳ thị giữa trẻ này với trẻ khác.  2. Muốn rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ được tốt thì trước hết cô giáo  phải không ngừng tự  học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ  chuyên môn nghiệp   vụ. Thường xuyên tham gia các lớp tập huấn, thao giảng, dự giờ để đúc rút kinh   nghiệm cho bản thân. Tìm tòi sách báo nghiên cứu và tìm hiểu thêm về tầm quan  trọng của việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ nhà trẻ.  3. Động viên khuyến khích trẻ  và nêu gương tốt thông qua các hoạt động  trong ngày. Bản thân giáo viên luôn là tấm gương tốt, lời ăn tiếng nói phải mẫu   mực, hành vi văn hoá. Khen chê đúng mực và biết tôn trọng trẻ. 4. Rèn luyện nề nếp thói quen thường xuyên trong mọi hoạt động, mọi lúc   mọi nơi. Cô tạo mọi cơ  hội cho trẻ được tự  làm một số  việc phù hợp với khả  năng của trẻ. 5. Rèn luyện bằng tình cảm giữa cô và trẻ. Cô giáo là người bạn của trẻ khi   vui chơi, là tình mẹ ­ con khi ăn, khi ngủ. 6. Tăng cường làm và sưu tầm nhiều đồ  chơi đẹp có tính sáng tạo, gần gũi  với trẻ và phù hợp với độ tuổi của trẻ. Thực sự yêu nghề mến trẻ, tận tâm, hăng  say với nghề.
  16. 7. Tăng cường làm tốt công tác tuyên truyền vận động, phối kết hợp với gia   đình để tìm ra nguyên nhân và thống nhất cách dạy trẻ tốt nhất. III. PHẦN KẾT LUẬN: 3.1. Ý nghĩa của đề tài: ́ ục hiện nay là một trong những vấn đề  đang được Đảng và Nhà  Giao d nước ta chú trọng và quan tâm hàng đầu. Bởi vì đây là nguồn nhân lực phục vụ  cho sự  phát triển kinh tế  ­ xă hội của đất nước. Nghị  quyết đại hội Đảng lần   thứ  VIII đă nêu rỏ  “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực phát   triển kinh tế  ­ xă hội. Đầu tư  cho giáo dục là đầu tư  cho sự  phát triển. Ngành   học mầm non là một bộ  phận trong hệ  thống giáo dục quốc dân, giúp trẻ  hình   thành và phát triển nhân cách toàn diện. Chúng ta là cô giáo mầm non được Đảng và nhà nước giao trọng trách cho  việc ươm những mầm non cho đất nước, chúng ta phải làm gì để sau này những  chồi non có ích cho xã hội, cho gia đình. Chăm sóc và giáo dục các cháu thành  người công dân tý hon trong tương lai. Chính vì vậy giáo viên là những người  làm công tác giáo dục, thấy được những trọng trách cao cả  của mình, là những   lớp người đi trước, là ngọn đuốc thắp sáng dẫn đường cho thế hệ tương lai mai  sau. Do đó cần phải tự vươn mình lên để xứng đáng và tự hào với nghề nghiệp   của mình. Được Đảng và nhà nước hết sức quan tâm, mỗi người giáo viên cần   phải phát huy phấn đấu hơn nữa về  các mặt trình độ, nghiệp vụ  và phẩm chất   đạo đức cao đẹp của người giáo viên nhân dân. 3.2. Kiến nghị, đề xuất: * Đối với nhà trường ­ Tham mưu với lãnh đạo các cấp có sự  hỗ  trợ  kinh phí mua sắm trang   thiết bị, đồ dùng dạy học, đồ chơi cho các cháu.
  17. ­ Tổ chức một số chuyên đề trọng tâm về bồi dưỡng đội ngũ, đổi mới  phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện           *Đối với giáo viên: ­ Xây dựng kế  hoạch học tập nghiên cứu tài liệu để  bồi dưỡng nâng cao  trình độ cho bản thân. ­ Luôn rèn luyện trau dồi đạo đức tác phong nhà giáo, tâm huyết trách   nhiệm cao với nghề. ­ Có ý thức học tập vươn lên, đổi mới hình thức học để  đưa lại hiệu quả  trong quá trình đào tạo bồi dưỡng. ­ Tranh thủ mọi thời gian để  tham khảo nghiên cứu tài liệu vận dụng vào   thực tiễn trong công tác.           Trên đây là một số  biện pháp của bản thân tôi trong quá trình thực hiện   công tác giáo dục rèn luyện nề  nếp thói quen cho trẻ  nhà trẻ  tại trường mầm   non. Từ kết quả của việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ nhà trẻ  trong năm  học 2018­2019 bước đầu có những hiệu quả tích cực đối với giáo viên. Bản thân  thấy vẫn còn nhiều vấn đề  cần tiếp tục học hỏi, t ìm kiếm biện pháp, đúc rút  kinh nghiệm  ở  các bạn đồng nghiệp, để  tổ  chức giảng dạy cho trẻ có kết quả  tốt hơn, rất mong sự  giúp đỡ  của đồng nghiệp, hội đồng khoa học các cấp bổ  sung  để  bản sáng kiến hoàn thiện hơn nhằm thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ  của mình.  Xin chân thành cảm ơn!
  18. XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG MẦM NON CÔNG TY CỔ PHẦN LỆ NINH                                                                 HIỆU TRƯỞNG Nguyễn Thị Thu Nga  
  19. XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT LỆ THỦY
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2