Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số 5 tuổi lớp Lá 4 trường Mầm non Cư Pang
lượt xem 4
download
Sáng kiến kinh nghiệm nghiên cứu thông qua một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số 5 tuổi lớp lá 4 ta thấy được hiệu quả của phương pháp này qua các hoạt động học và vui chơi của trẻ, cũng như giao tiếp tự tin trong cuộc sống và sau khi học xong chương trình mầm non trẻ sẽ tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp cũng như có một tâm thế tốt để chuẩn bị bước vào lớp một.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số 5 tuổi lớp Lá 4 trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề. Công tác giáo dục là một chủ trương lớn, quan trọng của ngành giáo dục nói chung và bậc học mầm non nói riêng, là một ngành học cần thiết, một tác nhân quan trọng tác động và hình thành nhân cách con người, hình thành ngôn ngữ Tiếng Việt. Người Việt Nam ta rất tự hào vì có vốn Tiếng Việt giàu và đẹp. Tiếng Việt giàu đẹp vì nó là sự kết tinh của lịch sử đã bao đời nay cùa cha ông ta. Đó là lịch sử lao động sản xuất và chiến đấu để tồn tại và phát triển, để bảo vệ và dựng xây đất nước. Tiếng Việt giàu đẹp bởi nó là tiếng nói của dân tộc Việt Nam. Từ xưa cho đến nay Tiếng Việt vẫn rất quan trọng đối với mọi người dân Việt Nam nói chung và trẻ em lứa tuổi mầm non dân tộc thiểu số nói riêng. Trong thực tế, trẻ vùng sâu, vùng xa vùng dân tộc thiểu số đa số trẻ giao tiếp chủ yếu bằng tiếng mẹ đẻ, trẻ đồng bào dân tộc thiểu số biết rất ít hoặc thậm chí không biết Tiếng Việt. Nhiệm vụ giáo dục Mầm non là nền móng đầu tiên của hệ thống giáo dục “ Mẫu giáo tốt mở đầu cho một nền giáo dục tốt”, với trách nhiệm và nhiệm vụ vô cùng quan trong đó mỗi giáo viên phải cố gắng nổ lực hết mình làm sao để các cháu Mầm non sau khi học xong chương trình mầm non trẻ sẽ tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp cũng như có một tâm thế tốt để chuẩn bị bước vào lớp một. Qua thực tiễn lớp lá 4 năm học 2017 2018 trường Mầm non Cư Pang đơn vị mà tôi công tác nằm trong vùng đặc biệt khó khăn, học sinh là người dân tộc thiểu số chiếm hơn 95%. Để trẻ 56 tuổi vùng đồng bào dân tộc thiểu số được thuận lợi trong việc giao tiếp và tham gia vào các hoạt động ở trường lớp nói chung và hoạt động tăng cường Tiếng việt mọi lúc mọi nơi nói riêng, cô giáo cần khắc phục mọi khó khăn giúp trẻ tiếp thu được kiến thức mới, đồng thời tạo hứng thú cho trẻ đến trường mạnh dạn, tự tin và tích cực hoạt động, nâng cao chất lượng giao tiếp với cô và bạn bè . Qua mỗi lần lên lớp tiếp xúc, tôi nhận thấy trẻ tiếp xúc với nhau 1 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang hoàn toàn bằng tiếng mẹ đẻ, nói câu cụt, không có dấu, không có ý nghĩa. Trong quá trình áp những biện pháp tăng cường Tiếng Việt nhằm giúp trẻ phát âm thành thạo, tự tin khi giao tiếp với cô và chuẩn bị môi trường mới là bậc học Tiểu học năm học 2017 – 2018 còn chưa cao. Trẻ còn thiếu tự tin để biểu đạt ý của mình. Việc tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu cấp thiết đặt cho giáo dục nhà trường nhằm đảm bảo nâng cáo chất lượng giáo dục toàn diện. Tôi nhận thấy cần có những biện pháp bổ sung tăng cường Tiếng Việt cho trẻ. Vì vậy năm học 2018 – 2019 tôi tiếp tục thực hiện chọn đề tài: “Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi tại lớp lá 4 trường Mầm non Cư Pang” trẻ 5 tuổi lớp lá 4 với tổng số 20 trẻ đồng bào dân tộc thiểu số . II. Mục đích nghiên cứu: Qua một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số 5 tuổi lớp lá 4 ta thấy được hiệu quả của phương pháp này qua các hoạt động học và vui chơi của trẻ, cũng như giao tiếp tự tin trong cuộc sống và sau khi học xong chương trình mầm non trẻ sẽ tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp cũng như có một tâm thế tốt để chuẩn bị bước vào lớp một. Tạo điều kiện giúp trẻ nghe và hiểu được lời hướng dẫn các hoạt động của giáo viên, thông qua việc tăng cường tiếng Việt dân tộc thiểu số. Phát triển khả năng giao tiếp hàng ngày giữa cô và trẻ, giữa trẻ với trẻ và trẻ với mọi người xung quanh. Giúp cho trẻ hình thành và phát triển nhân cách, đồng thời trẻ mạnh dạn hơn, tự tin hơn, có lối ứng xử văn minh trong cuộc sống hàng ngày. Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận của vấn đề Thực hiện quyết định số 1008/QĐTTG về việc phê duyệt đề án “Tăng cường Tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 2020, định hướng 2025 với mục tiêu: Tập trung tăng cường Tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số, bảo đảm các em có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng Tiếng Việt để hoàn thành chương trình giáo 2 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang dục mầm non và chương trình giáo dục tiểu học; tạo tiền đề để học tập, lĩnh hội tri thức của các cấp học tiếp theo; góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển bền vững các dân tộc thiểu số, đóng góp vào sự tiến bộ, phát triển của đất nước. Thực hiện chương trình hướng dẫn thực hành áp dụng quan điểm lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non xuất bản tháng 3 năm 2017 của Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam: Quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm được thể hiện trong tất cả các yếu tố của quá trình giáo dục. Từ xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục cho đến hoạt động cụ thể của người giáo viên như lập kế hoạch, xây dựng môi trường giáo dục,…mọi hoạt động phải hướng tới từng trẻ cũng như từng nhóm trẻ nhỏ và nhóm trẻ lớn để tạo cơ hội cho trẻ được học tập trong điều kiện cụ thể nhằm hỗ trợ trẻ phát triển tở tất cả các lĩnh vực. Vì vậy tôi xây dựng các giải pháp, biện pháp bám sát vào các chỉ số trong từng tiêu chí để đạt hiệu quả cao. Như tiêu chí 7: Kế hoạch giáo dục tuần/ chủ đề nhánh thể hiện được các mục tiêu phù hợp với sự phát triển của trẻ. Tiêu chí 7: chuẩn bị, tổ chức sử dụng môi trường giáo dục đạt hiệu quả nhất. Tiêu chí 8: Hoạt động hỗ trợ trẻ dân tộc thiểu số. Thực hiện công văn số 56/ KH BGDĐT về việc triển khai chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm” giai đoạn 2016 2020 với mục tiêu: Xây dựng trường mầm non đảm bảo yêu cầu về môi trường giáo dục (GD), công tác quản lí, chỉ đạo, hoạt động chăm sóc, giáo dục (CSGD) theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Mô đum 3 với nội dụng : Đặc điểm phát triển ngôn ngữ, những mục tiêu và kết quả mong đợi ở trẻ mầm non về ngôn ngữ. Module 7: Môi trường giáo dục cho trẻ Mầm non. Đặt ra nhiệm vụ cấp thiết cho bậc học mầm non cho trẻ tắm trong môi trường Tiếng Việt. Về mặt cơ bản đối với trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai. Việc học Tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ thứ nhất và sự giao thoa giữa ngôn ngữ mẹ đẻ với Tiếng Việt. Theo sách “Hướng dẫn tổ chức hoạt động giáo dục chuẩn bị Tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số” trong thực hiện chương trình giáo dục mầm 3 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang non (mẫu giáo 56 tuổi) nhà xuất bản giáo dục Việt Nam. Về mặt cơ bản đối với trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai. Trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số khi học Tiếng Việt có một số đặc điểm sau: Trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số bắt đầu học Tiếng Việt trên cơ sở kinh nghiệm tiếng mẹ đẻ. Môi trường giao tiếp Tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số thu hẹp cả về mặt không gian lẫn thời gian (trong phạm vi trường mầm non). Việc cho tr ẻ m ẫu giáo làm quen Tiếng Việt, phần lớn trẻ chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ mẹ đẻ và sự giao thoa giữa ngôn ngữ mẹ đẻ với Tiếng Việt. Sự khác biệt văn hóa giữa các dân tộc. Sự khác biệt về điều kiện sống của các nhóm dân tộc thiểu số có tác động nhất định với việc làm quen Tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số, làm cho trẻ gặp phải những trở ngại khi tiếp thu ngôn ngữ Tiếng Việt . Do đó xuất phát từ lòng yêu nghề mến trẻ là một giáo viên mầm non từ những hạn chế trên mà tôi gặp phải trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ tôi luôn suy nghĩ xem mình phải làm gì và làm như thế nào để nâng cao chất lượng phát triển Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số ở lớp lá 4 của mình. II. Thực trạng vấn đề: Lớp lá 4 trường Mầm non Cư pang nằm trên địa bàn buôn Hma thuộc xã EaBông, là xã nằm trong khu vực đặc biệt khó khăn, trường còn có các điểm lẻ nằm ở địa bàn buôn Knul, thôn 103. Hơn 95% trẻ là người dân tộc thiểu số, hơn 40% trẻ thuộc hộ nghèo. Riêng lớp lá 4 tôi chủ nhiệm 100% trẻ là người dân tộc thiểu số, đa số trẻ mới ra lớp, chưa học qua chương trình lớp chồi. Một số cháu chưa nói rõ Tiếng Việt, trẻ giao tiếp chủ yếu sử dụng tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ giao tiếp Tiếng Việt còn hạn chế. Phụ huynh chưa thấy được tầm quan trọng của việc trẻ đến trường đúng độ tuổi, chưa có kiến thức và kĩ năng về chăm sóc giáo dục trẻ đặc biệt là về mặt phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở nhà không giao tiếp với trẻ bằng Tiếng Việt mà giao tiếp bằng ngôn ngữ mẹ đẻ. Đời sống kinh tế, điều kiện sống và môi trường sinh hoạt 4 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang của các cháu hết sức khó khăn, bố mẹ thường xuyên đi làm nương rẫy ở xa bỏ mặc con cái ở nhà hoặc dẫn đi theo. Vào cuối năm học 2017 2018, tôi đã kiểm tra, khảo sát, thống kê trẻ ở lớp lá 4 với tổng số là 20 trẻ đồng bào dân tộc thiểu số, kết quả như sau: Số trẻ Trẻ chưa Nội dung Tỉ lệ (%) Tỉ lệ (%) đạt đạt Trẻ sử dụng câu đầy đủ 5/20 25 15/20 75 Trẻ nói câu mất dấu 7/20 35 13/20 65 Trẻ dùng từ không đúng 6/20 30 70 14/20 về ý nghĩa của câu Trẻ nói câu có nghĩa 5/20 25 15/20 75 Thuận lợi : Lớp luôn được sự quan tâm của Nhà trường, hội cha mẹ học sinh về tinh thần cũng như vật chất. Cơ sở vật chất có sân chơi sạch sẽ, an toàn, phòng học rộng rãi, thoáng mát, đồ dùng đồ chơi cho trẻ học tập và vui chơi tương đối đầy đủ, đồ dùng , đồ chơi tự tạo từ những nguyên vật liệu mở: Như lốp xe, vỏ chai, thùng sơn, tre, nứa… sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn trẻ tham gia tích cực các hoạt động trong ngày. Tổ chuyên môn luôn tạo mọi điều kiện cho giáo viên tham dự các buổi chuyên đề do cụm chuyên môn tổ chức, thường xuyên tổ chức các tiết dạy mẫu tại trường để phổ biến những phương pháp hình thức đổi mới trong chương trình mầm non lấy trẻ làm trung tâm. Khó khăn : Đời sống kinh tế của một số phụ huynh còn gặp nhiều khó khăn đa số là làm nông trên 40% là hộ nghèo nên sự quan tâm về chăm sóc giáo dục trẻ chưa cao. Phụ huynh học sinh chưa thực sự hiểu được tầm quan trọng của việc đưa con em mình đến trường đúng độ tuổi. 5 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang Trẻ đồng bào dân tộc thiểu số sống tập trung trong buôn và giao tiếp với nhau bằng tiếng mẹ đẻ, vì vậy trẻ dân tộc thiểu số còn hạn chế về ngôn ngữ Tiếng Việt.Khả năng chuyển thể từ các tiết dạy, lồng ghép Tiếng Việt mọi lúc mọi nơi của cô chưa tạo ra được tính kịch, sự kiện…các câu hỏi, lời thoại còn dài dòng, kém hấp dẫn, trẻ chưa thực sự say mê, hào hứng, sử dụng đồ dùng dạy học chưa khoa học…dẫn đến giờ học trẻ ít tập trung chú ý hiệu quả trên tiết học chưa cao. Để khắc phục những khó khăn trên tôi đã thực hiện những giải pháp tuyên truyền trẻ đi học chuyên cần, vận động cha mẹ trẻ hỗ trợ nguyên liệu để làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo, tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí, ngôn ngữ của trẻ, lập kế hoạch chuẩn bị môi trường cho trẻ hoạt động, tăng cường Tiếng Việt cho trẻ thông qua các hoạt động.Trong tất cả các giờ học tôi đều trò chuyện và đặt câu hỏi tôi luôn khuyến khích trẻ nói và trả lời cô bằng tiếng Việt, cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi. III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: * Giải pháp 1. Tuyên truyền trẻ đi học chuyên cần, vận động cha mẹ trẻ hỗ trợ nguyên liệu để làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo. + Tuyên truyền trẻ đi học chuyên cần: Môi trường tiếp xúc của trẻ mầm non chủ yếu là gia đình và tiếp theo mới đến nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ là một vấn đề quan trọng. Để tuyên truyền với phụ huynh đạt hiệu quả tốt, tôi đã tiến hành các bước như sau: Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm giới thiệu các loại sách phù hợp với trẻ 5 6 tuổi tới phụ huynh để phụ huynh có thể dễ dàng tìm mua. Giờ đón trẻ và trả trẻ trao đổi một số tồn tại của trẻ: cách phát âm, kỹ năng giao tiếp… để phụ huynh nắm được. Từ đó phụ huynh kết hợp với giáo viên để hướng dẫn, giúp đỡ trẻ. Tuyên truyền với phụ huynh khi ở nhà thì thường xuyên trao đổi thông tin và giao tiếp với trẻ bằng Tiếng Việt. Và giải thích cho trẻ từ này tiếng ê đê là nói như thế này nhưng Tiếng Việt là nói một cách khác. Như vậy trẻ sẽ học Tiếng Việt qua từng ngày. Trẻ sẽ tiếp thu nhanh nếu phụ huynh có thể phiên âm những từ mà trẻ hỏi ra Tiếng Việt cho trẻ đọc. 6 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang Tôi thường xuyên, trao đổi với phụ huynh về kết quả học tập và tình hình học tập, các hoạt động của trẻ trên lớp để về nhà phụ huynh cho trẻ ôn luyện thêm bằng cách hỏi trẻ như: Hôm nay trên lớp cô cho con học từ gì? Con đọc như thế nào? Chơi trò chơi gì?.. và cho con em mình kể lại những hoạt động trẻ làm trên lớp, và ôn luyện lại bài cũ. Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen với từ mới “ Góc địa phương” ở lớp, thì tôi trao đổi với phụ huynh là hôm nay trên lớp bé được học các từ chỉ đồ dùng ở góc địa phương như cồng chiêng, cái rổ, cái đó.... và gợi ý cho phụ huynh cho trẻ về nhà đọc lại cho cả nhà nghe. Trên lớp có một bảng tuyên truyền treo ở nơi dễ thấy nhất thường thường là cửa ra vào lớp. Bảng tuyên truyền ghi đầy đủ nội dung học trong tuần, theo dõi sức khỏe từng giai đoạn. Ở góc tuyên truyền phụ huynh theo dõi các hoạt động trên lớp để có thể ôn luyện thêm cho trẻ ở nhà . Mời phụ huynh tham dự một số tiết dạy mẫu, chuyên đề và có sự giúp đỡ hỗ trợ phụ huynh. Tổ chức các hội thi có sự tham dự của các bậc phụ huynh như: Bé yêu thơ, Đô rê mi....do lớp tổ chức. Từ đó phụ huynh sẽ có những hiểu biết, khái niệm sơ đẳng về hoạt động mà con em mình được học tập trên lớp. Và họ cũng thấy vui vẻ và phấn khỏi khi con em mình được tham gia các hoạt động thú vị trên lớp. Sự quan tâm của cô giáo đối với học trò và kết hợp chặt chẽ nhà trường, giáo viên với phụ huynh từ đó họ nhận thấy tầm quan trọng của Tiếng Việt. Đó cũng là đóng góp một phần không nhỏ từ phía gia đình đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. + Vận động cha mẹ trẻ hỗ trợ nguyên liệu để làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo. Phụ huynh đã có cái nhìn mới hơn về việc cho trẻ đến trường đúng độ tuổi. Phụ huynh đã tin tưởng gửi gắm con em mình đến trường và đồng cảm, chia sẻ những khó khăn cùng, cô giáo hay gần gũi giao tiếp với phụ huynh để hiểu được các hoạt động của chương trình, vận động họ sẵn sàng cung cấp nguyên vật liệu 7 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang có sẵn ở nhà để cô và trẻ làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ phục vụ cho các hoạt động, phụ huynh cũng đã ủng hộ ngày công dọn vệ sinh và tham gia các hoạt động khác do trường tổ chức. Qua việc áp dụng một số biện pháp trên tôi thấy phụ huynh đã cố gắng đưa con em tới lớp chuyên cần hơn, quan tâm đến con em mình hơn, đưa đón đúng giờ và đồng cảm với giáo viên hơn. Và qua việc cho trẻ sử dụng các đồ dùng, đồ chơi tự tạo một cách trực tiếp trong hoạt động và nhất là với những đồ dùng, đồ chơi cô và trò tự tay làm ra tôi nhận thấy trẻ tập trung chú ý hứng thú hơn, trẻ hoạt động với đồ dùng tích cực hơn, giúp quá trình tăng cường Tiếng Việt của trẻ tốt hơn và đạt hiệu quả cao hơn. * Giải pháp 2: Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí, ngôn ngữ của trẻ. Lập kế hoạch chuẩn bị môi trường cho trẻ hoạt động. + Nghiên cứu các tài liệu và quan sát về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 56 tuổi: Để giáo dục trẻ được tốt thì bản thân giáo viên phải hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để biết được khả năng của trẻ, trẻ cần gì và muốn gì. Vì vậy trong quá trình đi phổ cập, được trực tiếp trao đổi phụ huynh, là cơ hội để giáo viên tìm hiểu về môi trường sống, tính cách của trẻ. Trẻ nhút nhát, rụt rè, phát âm sai, phát âm hay bị mất dấu, nói câu không có nghĩa, ngại giao tiếp với cô giáo khi cô giáo hỏi chỉ cười, không hiểu Tiếng Việt, vốn từ còn hạn chế. Áp dụng tiêu chí 10: Giáo viên có kĩ năng phối hợp với gia đình và cộng đồng trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ dân tộc thiểu số và trẻ có hoàn cảnh khó khăn. Chỉ số 21: Phối hợp với gia đình trẻ dân tộc thiểu số. Tôi tiến hành tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình nơi trẻ đang sống những thuận lợi khó khăn của từng trẻ để tìm ra biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ một cách tốt nhất. Ngay từ đầu năm học được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp mầm 3, học sinh đa số con em đân tộc thiểu số nằm trong buôn đặc biệt khó khăn trình độ nhận thức về việc cho con đi học còn hạn chế. Nên tôi dành thời gian ngoài giờ lên lớp đến nhà từng trẻ để nắm được cuộc sống của trẻ ở gia đình như thế nào? Trao đổi, nói chuyện với phụ huynh về tình hình học tập trên lớp và hỏi phụ huynh về những sở thích, tính cách 8 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang của trẻ để có biện pháp phù hợp trong thời gian tới. Quan sát về hoàn cảnh gia đình trẻ, môi trường xung quanh trẻ để có kế hoạch, biệp pháp chăm sóc, giáo dục trẻ. Ví dụ: Tiếp xúc với trẻ, khi trẻ thiếu tự tin khi giáo tiếp với cô, nhút nhát không chơi cùng các bạn.Tôi đến gần trẻ tìm hiểu trẻ xem nguyên nhân vì sao? trẻ có đau ốm hay gia đình trẻ có chuyện gì buồn, thông qua hoạt động trò chuyện cùng trẻ tìm hiểu tâm lý trẻ, hay trao đổi cùng phụ huynh khi trả trẻ xem tình hình trẻ ngày hôm đó như thế nào, và thông qua giao tiếp bạn bè trẻ xem trẻ nguyên nhân gì trẻ có biểu hiện như vậy. + Quan sát đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ. Qua quá trình quan sát trẻ học tập và vui chơi ở trên lớp tôi nhận thấy đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ: nhút nhát, rụt rè, nói thiếu chủ ngữ vị ngữ, nói đớt, thiếu dấu câu....Thấy rõ được những hạn chế của trẻ với trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của bản thân tôi tiến hành khảo sát kĩ năng giao tiếp Tiếng Việt của trẻ. Đầu năm học, tôi tiến làm một bài tập khảo sát kỹ năng nghe, nói của trẻ ở mức độ đạt, chưa đạt, phân loại trẻ để có kế hoạch bổ sung, rèn luyện cho trẻ thường xuyên trong ngày, trong các hoạt động. Ở những trẻ ở mức độ chưa đạt thì tôi sẽ đưa ra những câu nói ngắn, câu ít và cho trẻ tập luyện nhiều hơn. Với những trẻ ở mức độ đạt tốt, khá tôi đưa ra những giao tiếp, bài học phức tạp hơn tùy vào năng lực của từng trẻ. Mỗi ngày tôi sẽ đánh giá theo mức độ đạt, chưa đạt ghi vào nhật kí giáo viên và tổng hợp cuối chủ đề. + Lập kế hoạch chuẩn bị môi trường cho trẻ hoạt động: Sau khi nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ tôi đầu năm học tôi khảo sát trẻ để năm bắt sự phát triển của từng trẻ, sau đó dựa vào các tiêu chí thực hành áp dụng quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm tôi lên kế hoạch cụ thể cho chủ đề, chủ đề nhánh. Trong kế hoạch giáo dục năm học tôi bám vào các tiêu chí lấy trẻ làm trung tâm gồm 13 tiêu chi và 34 chỉ số. Tôi sử dụng tiêu chí 2 với chỉ số 3, 4 về thực hiện các nội dung giáo dục theo chương trình Giáo dục mầm non và thực hiện 9 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang các nội dung giáo dục gần gũi, phù hợp với trẻ, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Căn cứ vào Chỉ số 3: Thực hiện các nội dung giáo dục theo Chương trình giáo dục mầm non, tôi chủ động xây dựng kế hoạch tuần và đưa ra đề tài phù hợp và đúng với chương trình giáo dục mầm non, dựa vào hướng xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm, cô giáo là người gợi mở sao cho phù hợp hiệu quả, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ. Và đánh giá trẻ hằng ngày và cuối chủ đề. Ví dụ : Áp dụng tiêu chí 2 với chỉ số 3. Tôi lập mạng chủ đề cả năm gồm 9 chủ đề, ở mỗi chủ đề phân ra các chủ đề nhánh. Thường một chủ đề có 2 đến 3 chủ đề nhánh, đối với chủ đề ghép tôi thực hiện 5 chủ đề nhánh như chủ đề “Thế giới thực vật tết và mùa xuân”. Chủ đề “Trường mầm non” với 3 chủ đề nhánh “Trường mầm non của bé” “Lớp bé yêu thương” “Những hoạt động thú vị”. Tuần đầu của chủ đề tôi chọn những từ tăng cường Tiếng Việt vào thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm những từ : Lớp lá 4, chào cô con vào lớp, xích đu... và tăng cường mọi lúc mọi nơi. Vì mới bước vào năm học nên tôi chọn những từ Tiếng Việt ngắn gọn, dễ hiểu. Thứ sáu cho trẻ ôn các từ trong học tuần dưới hình thức trò chơi.Cứ như vậy dựa vào các tiêu chí lấy trẻ làm trung tâm đến tuần hai, tuần ba rồi tới chủ đề Bản thân và đến hết năm tôi và xây dựng môi trường Tiếng Việt cho trẻ . Để xây dựng kế hoạch tôi tiến hành cùng trẻ xây dựng môi trường Tiếng Việt trong và ngoài lớp học theo hướng xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm căn cứ vào tiêu chí xây dựng môi trường tăng cường Tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số để xây dựng môi trường trong lớp và ngoài lớp học: Môi trường trong lớp học: Các góc, khu vực hoạt động, thiết bị, đồ dùng đồ chơi được dán nhãn bằng Tiếng Việt(theo mẫu chữ in thường).Tôi chú trọng trang trí theo hình thức động nhiều hơn tĩnh trẻ tự thao tác ngay trên các góc và tự trang trí những sản phẩm mà cô và trẻ thực hiện trên lớp. Tranh ở các góc này trẻ đều có từ Tiếng Việt gắn dưới tranh hoặc trong bức tranh cho trẻ phát âm. 10 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang Ví dụ: Góc chủ đề Những người thân trong gia đình. Cô trang trí tranh người thân của bé như bố, mẹ, ông, bà, bé...trong hình ảnh bố có từ ô, mẹ có từ m... cô cho trẻ trò truyện và phát âm. Ở góc vườn cổ tích tôi thay đổi câu chuyện phù hợp với từng chủ đề bằng các hình ảnh tái hiện lại nội dung câu chuyện, và cho trẻ kể lại câu chuyện hoặc cho trẻ trao đổi với nhau ở mọi lúc, mọi nơi. Để phục vụ cho công tác chăm sóc và giáo dục trẻ tôi và giáo viên cùng lớp còn tận dụng các vật liệu sẵn có, dễ tìm mang tính tái tạo cao đảm bảo tính an toàn và tính thẫm mĩ để làm đồ dùng đồ chơi tự tạo cho trẻ sử dụng trong các hoạt động học và vui chơi của trẻ. Môi trường ngoài lớp học: Ngoài đồ dùng đồ chơi sẵn như cầu trượt, xích đu, bập bênh...tập thể giáo viên chúng tôi phối hợp còn tập trung làm một số đồ dùng tự tạo từ những vật liệu sẵn có của địa phương như: lốp xe làm cổng chui, chai nhựa để trồng cây, tre nứa để làm gian hành trưng bày của bé...Ở mỗi đồ dùng đều có chữ viết, ký hiệu : có hệ thống chữ viết, ký hiệu phù hợp ở mọi nơi(tường bao, vườn tường, các góc chơi ngoài trời, nhà vệ sinh...). Và ở các mảng tường ngoài lớp học thì vẽ các nhân vật tái hiện lại các câu chuyện như: Nàng bạch tuyết và bảy chú lùn, Sự tích quả dưa hấu, tấm cám...Những câu chuyện không những tạo ra mĩ quan đẹp mắt mà ở đó trẻ sẽ cùng phát âm những từ Tiếng Việt phong phú hơn. * Giải pháp 3: Tăng cường Tiếng Việt cho trẻ thông qua các hoạt động. Trong tất cả các giờ học tôi đều trò chuyện và đặt câu hỏi tôi luôn khuyến khích trẻ nói và trả lời cô bằng tiếng Việt. + Cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động khám phá khoa học: Môn Khám phá khoa học là một trong những môn học giúp trẻ phát triển nhận thức và ngôn ngữ tích cực nhất, vì vậy cần phát huy hết tác dụng của môn học này để dạy trẻ, thông qua đó giáo viên có thể kết hợp lồng ghép tác phẩm văn học để 11 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang hỗ trợ có hiệu quả cho hoạt động chủ đích. Tôi sẽ lồng ghép Tiếng Việt trong lúc giờ lên lớp thông qua những chủ đề mà mình đã lên kế hoạch. Ví dụ: Chủ đề Gia đình của bé. Đề tài: Những người thân trong gia đình bé. Khi cho trẻ quan sát tranh gia đình cô sẽ đặt câu hỏi : “ Con gọi bố mẹ như thế nào” Thì trẻ trả lời “ma, mí” (Tiếng Việt có nghĩa là bố mẹ) .Trước tình huống đó tôi nói với các cháu: “Cô và các con cùng thi xem ai nói giỏi nhé cô sẽ nói tiếng của các con và các con nói tiếng của cô các con có đồng ý không?” và tiết học của chúng tôi đã trở thành một “Cuộc thi tài” trẻ nào cũng muốn mình là người chiến thắng, và tình huống trên đã được thay đổi các cháu đã cố gắng nói bằng Tiếng Việt mỗi khi cô đưa tranh ra. Một hạn chế mà trẻ người đồng bào thường mắc phải, đó là nói thiếu dấu. Với hình thức “Thi tài” hay “Đố vui có thưởng”… giữa cô và trẻ thì trẻ đã có thể nghe và hiểu được câu hỏi của cô. Ví dụ : Chương trình “Đố vui có thưởng” cô bốc thăm và đọc câu hỏi: Người sinh ra mẹ các con gọi là gì? Trẻ nào biết thì lắc xắc xô và được quyền trả lời: Thưa cô là bà ngoại.... + Cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động làm quen với toán . Như ta đã biết, môn làm quen với toán là môn học cần suy tư lôgic cao. Để lồng ghép Tiếng Việt cho bộ môn này, tôi luôn chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học phù hợp với chủ đề với đề tài. Điều này theo tôi nghĩ là rất cần thiết vì nó tạo cho trẻ sự hứng thú hơn khi được nhìn ngắm những đồ dùng đẹp, mới lạ đối với các cháu. Cô chuẩn bị nhiều đồ dùng, trước kia còn tổ chức trong lớp học và sử dụng đồ dùng có sẵn như lô tô ....nhưng hiện nay tôi tổ chứctrước khi vào hoạt động trẻ xem trong rổ có gì, cho trẻ gọi tên đồ dùng trẻ có, khuyến khích trẻ gọi đúng, đếm và nhận biết, cho trẻ phát âm lại nhiều lần. Ví dụ: Chủ đề Hiện tượng tự nhiên. Đề tài: Chủ đề Thế giới động vật, đề tài: Chia nhóm có 8 đối tượng thành 2 phần. Với đề tài này tôi chuẩn bị rất nhiều đồ dùng như hình ảnh, thẻ gắn các hiện tượng mưa, mặt trời, mây, tia sét....và số lượng tương ứng , tôi cho các cháu tách nhóm gọi tên và gắn số lượng tương ứng. Mặc dù bên cạnh đó vẫn còn 12 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang một số cháu dùng tiếng mẹ đẻ để đếm đồ dùng đó và với tình huống đó tôi đã khuyến khích các cháu bằng cách: Ai gọi đúng tên hiện tượng và số lượng thì được tham gia trò chơi cùng với cô và trẻ nào cũng muốn mình được tham gia cuộc chơi, trẻ đã cố gắng gọi tên hiện tượng và đếm bằng Tiếng Việt, và khi các cháu phát âm được các cháu rất vui. + Cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động làm quen văn học: Trước khi vào dạy học thơ hay kể một câu chuyện nào đó, điều đầu tiên tôi chú ý là lựa chọn bài thơ, câu chuyện không quá dài, có nội dung hấp dẫn trẻ để cung cấp, vì trẻ dân tộc thiểu số rất hiếu động thời gian tập trung chú ý nghe cô giảng rất ngắn, nắm được điểm yếu này của lớp tôi luôn tạo ra tình huống vui nhộn để lôi cuốn trẻ vào giờ học bằng một giọng nói lúc trầm lúc bổng để gây sự chú ý, khơi gợi tính tò mò của trẻ, đã tạo được tâm thế cho trẻ trước khi vào học tôi tiến hành đi vào giờ học chính bằng ngôn ngữ giới thiệu hấp dẫn từ ngữ thật gần, thật dễ hiểu đối với trẻ, tôi đọc thơ hay kể chuyện với giọng thật truyền cảm, phối hợp các động tác minh học phù hợp, để lôi cuốn trẻ chăm chú lắng nghe, để lĩnh hội từng câu, từng lời của cô, tiếp đến tôi giảng nội dung câu chuyện, bài thơ một cách ngắn gọn để giúp trẻ dễ hiểu, tôi tiến hành cho trẻ đọc thơ theo tôi từng câu, tôi luôn đổi cách cho trẻ đọc thơ theo tổ, nhóm, lớp , cá nhân, hay bạn nam và bạn nữ thi đua nhằm tạo khí thế cho trẻ trong học thơ, còn đối với chuyện thì tôi kể nhiều lần và đàm thoại theo trình tự nội dung câu chuyện, và thể hiện giọng điệu, tính cách của từng nhân vật trong chuyện một cách phù hợp nhằm giúp trẻ khắc sâu hơn nội dung cũng như tính cách của các nhân vật trong chuyện, sau đó tôi tiến hành mời cháu khá lên kể lại chuyện cho cả lớp nghe, tôi không quên khuyến khích trẻ bằng một món quà hay thưởng bằng một phiếu bé ngoan, còn trẻ nào chưa trả lời được tôi cho trẻ nhắc lại nhiều lần. Chính nhờ như vậy lớp tôi ngày càng ham thích học thơ, kể chuyện, nhiều cháu thuộc thơ, kể lại câu chuyện một cách hoàn chỉnh, như vậy việc cung cấp vốn Tiếng Việt cho tr ẻ dân tộc thiểu 13 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang số của tôi gặt hái được nhiều thành công hơn so với trước, tôi vô cùng phấn khởi và tiếp tục áp dụng một số biện pháp khác để ngày nâng cao hiệu quả hơn. Ví dụ : Làm quen văn học. Đề tài : Thơ : Ảnh Bác. Trong quá trình trẻ tham gia hoạt động làm quen tác phẩm văn học cô chú ý đến khả năng phát âm của trẻ để có sự điều chỉnh và sữa sai kịp thời, tích cực phát huy tính sáng tạo của trẻ trong khi dạy trẻ đọc thơ, kể truyện. Cô nêu câu hỏi đơn giản, ngắn gọn theo nội dung bài thơ giúp trẻ dễ trả lời như : Bài thơ có tựa đề là gì ? . Bài thơ do ai sáng tác?. Bác Hồ với các cháu như thế nào?.... Theo đó cho trẻ trả lời, khuyến khích trẻ và cho các trẻ khác nhắc lại nhằm tăng cường Tiếng Việt. + Cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động âm nhạc: Các cháu dân tộc thiểu số rất thích hát, múa, tận dụng được ưu điểm đó mà trong giờ hoạt động âm nhạc tôi đã đưa môn tiếng việt vào cung cấp cho các cháu một cách triệt để, các cháu tham gia một cách rất say mê, tôi dạy cho các cháu hát những bài hát theo chủ điểm cũng như những bài hát trong chương trình mầm non …Tổ chức cho các cháu cuộc thi “ Đồ Rê Mí”, tập cho các cháu đóng vai làm ca sĩ lên giới thiệu tên mình và biểu diễn cho các bạn xem cứ lần lượt như vậy và tất cả các cháu đều được lên hát, bước đầu các cháu chỉ thuộc lời của bài hát và càng sôi động hơn khi được nghe nhạc không lời và các cháu là những ca sĩ thể hiện bài hát, thông qua đó các cháu còn được tăng cường Tiếng Việt qua cách giới thiệu về mình, cũng qua đó cho tôi thấy các cháu có khả năng nghe và hiểu Tiếng Việt và tôi đã khuyến khích đồng thời tích hợp môn âm nhạc vào mọi hoạt động nhằm giúp các cháu phát triển vốn Tiếng Việt tốt hơn nữa. + Cung cấp vốn tiếng Việt qua hoạt động làm quen chữ cái: Nội dung của hoạt động làm quen chữ cái là giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái, bên cạnh đó còn giúp trẻ đọc đúng các từ, hiểu được nội dung các từ, từ đó giúp trẻ sử dụng từ đã biết để diễn đạt ý mình muốn nói… 14 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang Để việc rèn kỹ năng phát âm cho trẻ dân tộc thiểu số đạt hiệu quả, trước hết giáo viên phải chuẩn về phát âm tiếng Việt, nếu giáo viên phát âm không chuẩn thì sẽ làm các em phát âm sai. Trong lớp tôi cũng có một số cháu nói được tiếng phổ thông nhưng không nhớ mặt chữ cái hay từ ngữ của tiếng Việt, các cháu thể hiện theo bản năng bắt chước…chính vì vậy mà việc dạy trẻ làm quen với chữ cái sẽ giúp trẻ nhận biết được chính xác cấu tạo của các chữ cái cũng như cách phát âm, để từ đó trẻ có thể nghe, cảm nhận, phát âm và tìm được chữ cái tương ứng trong từ… Ví dụ: Chủ đề Gia đình của bé. Đề tài:Làm quen chữ cái u, ư. Trong giờ làm quen chữ cái U, Ư. Tôi tổ chức dạy theo giáo án điện tử và đồ dùng bắt mắt nhằm thu hút trẻ. Để chuẩn bị cho tiết dạy tôi chuẩn bị tranh người thân trong gia đình, dưới tranh có từ “ Gia đình yêu thương”, cho trẻ lên bấm chọn chưc xái đã học và còn chữ u, ư cô sẽ giới thiệu cho các bạn hôm nay, cho trẻ nhắc lại chữ u, ư theo hình thức lớp, tổ, nhóm, cá nhân…khi luyện tập cá nhân và cả lớp tôi dùng đồ chơi tự tạo thông qua trò chơi “ Vòng quay kì diệu” và “ Xúc sắc”, hình thức chơi trẻ sẽ quay vòng quay trúng chữ cái nào trẻ phải đọc to và cả lớp sẽ tìm chữ trẻ đã quay, tương tự với trò chơi Xúc sắc cũng vậy. Tôi còn cho trẻ nhận biết và phát âm chữ cái qua nhiều trò chơi khác như " Nối chữ cái với từ có chứa chữ cái đó". " Đưa chữ cái theo yêu cầu của cô" gắn trên đồ dùng, đồ chơi, " Xếp chữ cái bằng hột hạt". " Xếp các nét cơ bản tạo thành chữ cái"... + Cung cấp vốn tiếng việt qua giờ hoạt động góc. Sau giờ hoạt động chung trẻ được tham gia hoạt động góc. Tất cả các góc chơi trong lớp tôi đều cho những ký hiệu riêng, khi trẻ chơi trẻ nhận biết đó là góc gì… Giờ hoạt động góc tôi chuẩn bị sẵn các thẻ đeo cho trẻ (Vd: Trẻ chơi ở góc xây dựng thì đeo thẻ có hình chiếc bay của thợ xây, góc nghệ thuật thì thẻ có hình 15 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang chiếc đàn…) nhằm lôi cuốn trẻ vào hoạt động hứng thú hơn, trẻ tham gia chơi một cách tự nhiên và sáng tạo, các cháu chơi với nhau, trò chuyện với nhau bằng tiếng mẹ đẻ, những lúc đó tôi đến bên các cháu trò chuyện trao đổi, nhập vai và đặt câu hỏi để các cháu trả lời. Ví dụ: Chủ đề Ngành nghề. Góc phân vai:Góc chợ quê bé. Trẻ sẽ được làm hướng dân viên du lịch để dân các du khách lớp lá 4 tham gia chợ quê. Trẻ sẽ được tham quan góc chợ quê bán những cồng chiêng, rổ rá…trên tất cả các mặt hàng sẽ được gắn chữ, hướng dẫn viên sẽ giới thiệu mặt hàng và các bạn đọc lại dưới sự hướng dẫn của cô, ví dụ như : Đây là cồng chiêng của người Êdê , các bạn đọc : Cồng chiêng. Trẻ phát âm và cô khuyến khích, sửa sai trẻ còn phát âm chưa đúng. Điều đó đã làm cho các cháu thực sự rất thích thú. Tôi nhận thấy qua giờ hoạt động góc trẻ rất hiếu động, mạnh dạn, tự tin và đăc biệt các cháu rất thích được trò chuyện với cô. Từ đó tôi luôn khuyến khích cũng như tạo cho trẻ những cuộc trò chuyện, đối thọai với nhau bằng Tiếng Việt giữa cô với trẻ và giữa trẻ với trẻ để giúp các cháu phát triển ngôn ngữ đồng thời có thêm nhiều vốn từ Tiếng Việt hơn nữa. và để hoạt động góc luôn hấp dẫn trẻ tôi đã sưu tầm và chuẩn bị nhiều đồ chơi, nguyên vật liệu mới lạ …để lôi cuốn trẻ vào hoạt động, và trẻ hứng thú hơn khi chơi, cô bao quát trẻ trong lúc trẻ chơi, để ý và động viên hướng dẫn kịp thời những trẻ nhút nhát, chưa tự tin trong hoạt động, hoặc chưa thành thạo trong giao tiếp bằng Tiếng Việt từ đó giúp trẻ tăng vốn từ Tiếng Việt hơn Qua trò chuyện với trẻ tôi nắm được khả năng nhận thức và phát âm của mỗi trẻ, trẻ nào còn sử dụng câu cụt, trẻ nào còn nhút nhát để từ đó tôi có những biện pháp phù hợp cũng như dành nhiều thời gian cho những trẻ đó hơn. * Giải pháp 4: Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi. 16 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang Trong Chương trình Giáo dục mầm non, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số hoạt động tăng cường Tiếng Việt được thực hiện mọi lúc mọi nơi dưới nhiều hình thức phát triển ngôn ngữ qua trò chuyện, đàm thoại, kể chuyện, đọc cho trẻ nghe, cho trẻ làm quen với chữ cái và thông qua các môn học khác, hoặc ở mọi lúc mọi nơi có ưu thế nhiều hơn trong việc giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Như chúng ta đã biết trẻ dân tộc thiểu số vốn từ tiếng Việt rất hạn chế. Khả năng nhận thức và tiếp thu chậm, vì vậy trong quá trình cho trẻ làm quen với Tiếng Việt ta cần phải có sự kiên nhẫn, nhẹ nhàng, tạo cho trẻ tâm thế thoải mái trong mọi hoạt động. Vậy nên tôi áp dụng trong giờ đón trẻ. Ví dụ : Giờ đón trẻ cô luôn vui vẻ, tạo sự gần gũi, yêu thương trẻ, một cô đón trẻ còn một cô sẽ cho trẻ về các góc chơi có gắn từ Tiếng Việt như góc phân vai có chữ G gắn ở cái ghế, hình bác sỹ có chữ Y. Cô đón trẻ sẽ hỏi trẻ những câu ngắn gọn, gần gũi : Con chào cô vào lớp nào. Con chào mẹ chưa…. + Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động đầu giờ: Trong giờ hoạt động ngoài trời tôi thường tổ chức cho các cháu đi dạo trong sân trường, khi thì tôi cho trẻ tưởng tưởng mình đang được đi du lịch, hay như đang được đi tham quan … trẻ rất vui và rất thích. Mỗi ngày khi đi dạo trong sân trường tôi thường đặt câu hỏi theo chủ đề đang thực hiện để trẻ trả lời. Ví dụ : Chủ đề Trường mầm non. Tôi tổ chức cho trẻ tham quan “Khu vui chơi của bé”, tôi sử dụng những câu hỏi như : Hôm nay các con thấy thời tiết thế nào? Đây là những đồ dùng gì? Các con cảm nhận như thế nào khi đên trên cát, đá, cỏ..?.Khi trời nắng các con phải làm gì?. Đa số trẻ đều dùng tiếng mẹ đẻ trả lời, trước tình huống đó tôi cho cháu phát âm lại bằng Tiếng Việt đồng thời khuyến khích các cháu gọi tên đồ vật nói bằng Tiếng Việt nhiều hơn. 17 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang Những lúc quan sát và chơi cùng các cháu tôi thường đặt những câu hỏi để các cháu trả lời: Con đang chơi gì đấy? Con thích chơi trò chơi nào nhất? Con thích đi học để chơi đồ chơi đẹp không?.. qua những lúc trò chuyện với các cháu như vậy đã giúp tôi biết được cháu nào còn rụt rè nhút nhát, cháu nào còn sử dụng câu cụt hay cháu nào chưa phát âm rõ… từ đó tôi dành nhiều thời gian gần gũi trò chuyện và tập cho cháu phát âm nhiều hơn, đồng thời giúp các cháu mạnh dạn hơn. Có thể nói thời gian của trẻ ở trường với cô giáo không nhiều, nhưng nếu chúng ta biết lên kế hoạch và thực hiện tăng cường Tiếng Việt các cháu trong lúc cháu ăn trưa, ngủ, nghỉ thì tôi nghĩ chắc chắn sẽ đạt kết quả tốt hơn. Ví dụ: Trong giờ ăn, tôi nói về tên món ăn, dinh dưỡng trong món ăn, cho trẻ đọc tên các món ăn. Trước khi cho trẻ ăn tôi sẽ đọc câu đố về rau củ quả đố trẻ như “ Củ gì nho nhỏ. Con thỏ thích ăn?” Cho trẻ trả lời và nói về tác dụng khi ăn củ cà rốt. Giờ ngủ, trước khi trẻ ngủ tôi có thể kể chuyện cho trẻ nghe hoặc hát những bài hát ru mang âm hưởng nhẹ nhàng đưa trẻ vào giấc ngủ.Cháu nghe và hiểu được tiếng Việt thì khi vào lớp một cháu sẽ tiếp thu bài một cách tốt hơn mà tiếp thu bài tốt thì cháu sẽ học giỏi hơn. Ở lớp lá 4 tôi tăng cường tiếng Việt cho trẻ vào buổi chiều với hình thức học bằng chơi chơi mà học qua các trò chơi như: Ô cửa bí mật, chiếc túi kỳ lại, chiếc nón kỳ diệu... Giờ hoạt động chiều tôi chuẩn bị sẵn các đồ dùng đồ chơi tự tạo, Các trò chơi hấp dẫn cho trẻ, nhằm lôi cuốn trẻ vào hoạt động “Tăng cường Tiếng Việt” hứng thú hơn, trẻ tham gia chơi một cách tự nhiên và sáng tạo, các cháu chơi với nhau để phát âm chuẩn Tiếng Việt. Giờ trả trẻ cũng như giờ chơi tự do tôi tạo mọi tình huống cho trẻ tiếp xúc với Tiếng Việt. Mọi hoạt động trong ngày của trẻ đều được lồng ghép tăng cường Tiếng Việt mọi lúc mọi nơi, trẻ dân tộc thiểu số đều được thể hiện bằng ngôn ngữ 18 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang Tiếng Việt sẽ giúp vốn từ trẻ càng được mở rộng và phong phú hơn, trẻ dần hòa nhập mình vào ngôn ngữ Tiếng Việt. Qua việc áp dụng một số biện pháp trên tôi thấy chất lượng Tiếng Việt của trẻ trong lớp tăng lên khá rõ, các cháu rất thích đến trường, cháu đã mạnh dạn hơn khi giao tiếp, thích trò chuyện cùng người lớn và đặc biệt rất thích tham gia vào hoạt động nói chung và hoạt động tăng cường Tiếng Việt nói riêng. Sự quan tâm của cô giáo đối với học trò và kết hợp chặt chẽ nhà trường, giáo viên với phụ huynh từ đó họ nhận thấy tầm quan trọng của tiếng Việt. Đó cũng là đóng góp một phần không nhỏ từ phía gia đình đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ Qua việc áp dụng một số biện pháp trên tôi thấy chất lượng môn làm quen Văn học của trẻ trong lớp tăng lên khá rõ, các cháu rất thích học bộ môn này, cháu đã mạnh dạn hơn khi giao tiếp, thích trò chuyện cùng người lớn và đặc biệt rất thích tham gia vào hoạt động nói chung và hoạt động làm quen văn học nói riêng. IV. Tính mới của giải pháp Đây là sáng kiến kinh nghiệm được thực hiện và áp dụng tại lớp lá 4, đã có kết quả cùng với sự đúc kết kinh nghiệm, giúp đỡ của các đồng nghiệp, sự kết hợp với phụ huynh và ban giám hiệu nhà trường đã xây dựng thêm những cách mới trong các giải pháp nhằm đạt kết quả cao như sau: Giải pháp 1: Tuyên truyền trẻ đi học chuyên cần vận động cha mẹ trẻ hỗ trợ nguyên liệu để làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo: Một số trẻ không đến lớp tôi tìm đến nhà và tận nương rẫy, các cuộc họp của thôn buôn tôi đều tham gia và đóng góp ý kiến về tầm quan trọng của việc đưa trẻ đến lớp đúng độ tuổi. Ở giải pháp 2 : Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí, ngôn ngữ của trẻ, lập kế hoạch chuẩn bị môi trường cho trẻ hoạt động: Khi tìm hiểu trẻ vì sao nhút nhát, ngại giao tiếp tôi đã rủ các giáo viên đồng nghiệp cùng đến thăm nhà để tâm sự cùng bố mẹ trẻ tìm hiểu nguyên nhân để ghi vào nhật kí giáo viên nhằm phát huy thế mạnh và khắc phục tồn tại của trẻ. Dựa vào tình hình thực tế của trẻ trên lớp tôi lập kế hoạch chuẩn bị xây dựng môi trường Tiến Việt cho trẻ hoạt động 19 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
- Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang không những ở trong lớp mà còn cho trẻ hoạt động ngoài sân trường nhằm nâng caotinhs tích cực cho trẻ. Giải pháp 3 : Tăng cường Tiếng Việt cho trẻ thông qua các hoạt động.Trong tất cả các giờ học tôi đều trò chuyện và đặt câu hỏi tôi luôn khuyến khích trẻ nói và trả lời cô bằng tiếng Việt: Thông qua giờ khám phá khoa học ngoài môi trường trong lớp thì tận dụng môi trường sẵn có bên ngoài như cây đu đủ có gắn thêm chữ Tiếng Việt cho trẻ phát âm. Giờ làm quen với toán sử dụng sản phẩm trẻ làm ra trong các giờ hoạt động khác. Giờ làm quen văn học không những sử dụng môi trường trong lớp tôi còn tận dụng ngoài sân trường những vật có sẵn để lên tiết học. Để học tốt môn hoạt động âm nhạc trên tiêu chí “ Học bằng chơi, chơi mà học” thông qua các hội thi như Chúng tôi là chiến sĩ..Giờ tạo hình cho trẻ tạo con vật, cây cối, ngôi nhà.. bằng nguyên vật liệu sẵn có. Làm quen chữ cái xây dựng môi trường ngoài lớp học đồ dùng phong phú và tự tạo giúp trẻ hứng thú hơn. Hoạt động góc tôi khuyến khích trẻ những cuộc trò chuyện bằng Tiếng Việt giúp trẻ tăng cường vốn Tiếng Việt và cũng sưu tầm nhiều đồ dùng đồ chơi tự tạo của trẻ nhằm lôi cuốn trẻ. Giải pháp 4 : Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi: Tận dụng môi trường nguyên vật liệu sẵn có ngoài sân trường, trẻ được " tắm" trong môi trường Tiếng Việt, phối hợp động viên phụ huynh tham gia hội thi xây dựng môi trường Tiếng Việt cung cấp các vật thải từ nguyên vật liệu có sẵn, lồng ghép Tiếng Việt cho trẻ trải nghiệm qua các trò chơi tạo điều kiện giúp trẻ nghe và hiểu được lời hướng dẫn các hoạt động của giáo viên cũng như trong đời sống hằng ngày của trẻ. V. Hiệu quả SKKN: Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự hợp tác, giúp đỡ của tập thể giáo viên, sự ủng hộ tích cực của các bậc phụ huynh đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ đồng bào dân 20 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Sưu tầm và thiết kế một số trò chơi giúp trẻ 5 tuổi Làm quen chữ cái trong trường mầm non
22 p | 192 | 42
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non
12 p | 107 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Các bước xây dựng giáo án điện tử dạy trẻ lứa tuổi mầm non
20 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thông qua công tác chỉ đạo tăng cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho trẻ tại trường mầm non Sơn Ca, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng năm học 2020-2021
14 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp hình thành biểu tượng toán về số lượng cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi C ở trường Mầm non 2/9
20 p | 162 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp quản lý, chỉ đạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường mầm non
24 p | 39 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Kinh nghiệm chỉ đạo Giáo viên thực hiện Chương trình Giáo dục Mầm non
21 p | 122 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc tổ chức chuyên đề trong trường mầm non
20 p | 63 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên mầm non nâng cao nghiệp vụ sư phạm giáo dục mầm non
13 p | 59 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Xây dựng đội ngũ đoàn kết nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc giáo dục trẻ trong trường Mầm non
16 p | 84 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở trường mầm non Yên Mỹ
6 p | 150 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ bảo vệ môi trường trong trường mầm non
23 p | 104 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Làm thế nào đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở trường mầm non
13 p | 114 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp xây dựng và chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục mầm non chất lượng cao
36 p | 100 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm xây dựng trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia mức độ II
24 p | 93 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non tại Trường MN Tân Mai
13 p | 132 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp thực hiện công tác phổ cập giáo dục mầm non trẻ năm tuổi ở trường mầm non
19 p | 102 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non
33 p | 66 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn