Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi tại trường Mầm non Thạch Đà A
lượt xem 1
download
Mục đích tôi nghiên cứu “ Một số giải pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 4- 5 tuổi tại trường mầm non Thạch Đà A” nhằm phát huy nâng cao tính tích cực, năng động, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin trong mọi hoạt động và mọi hoàn cảnh của trẻ nhằm củng cố, rèn luyện cho trẻ những kỹ năng sống cơ bản thông qua các hoạt động học, chơi, hoạt động ăn , ngủ của trẻ nhằm thúc đẩy, nâng cao hiệu quả giáo dục trong nhà trường nói riêng và nâng cao chất lượng đổi mới giáo dục nói chung.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi tại trường Mầm non Thạch Đà A
- 1 PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài. Trong những năm gần đây, giáo dục luôn không ngừng đổi mới về hình thức, nội dung và phương pháp giáo dục. Dạy học hướng vào học sinh, lấy học sinh làm trung tâm, học sinh chủ động tham gia và lĩnh hội kiến thức thông giao tiếp, trao đổi, phối hợp nhóm để lĩnh hội kiến thức. Thông qua giáo dục chúng ta thấy, ngày nay trẻ là trung tâm giáo viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn. Như vậy để đáp ứng kịp thời phương pháp học hiện nay thì học sinh phải có các kỹ năng sống cần thiết không những để phát huy việc học mà còn phải ứng phó các tình huống mà con người gặp phải trong cuộc sống như: Kỹ năng ứng xử, giao tiếp, kỹ năng tự lập, tự phục vụ… Có câu nói: “Gieo hành vi, gặt thói quen” Với tôi, câu nói này rất đúng với trẻ em vì trẻ em có khả năng học hỏi, ghi nhớ tốt, đồng thời dễ uốn nắn nên giai đoạn mầm non cần dạy cho trẻ những nguyên tắc và những kỹ năng cơ bản, những kinh nghiệm phục vụ cho bản thân và biết điều gì nên làm và điều gì không nên làm. Kỹ năng sống cho trẻ mầm non rất cần thiết vì nhân cách của trẻ xây lên từ những viên gạch nhỏ thành một “Thành trì” vững chắc, bền vững theo thời gian chứ không phải là thói quen tạm thời. Xu hướng giáo dục thế giới đang quan tâm đến vấn đề giáo dục là trang bị cho thế hệ trẻ các kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, ứng xử để giải quyết các vấn đề về các mối quan hệ xã hội. Để tự bảo vệ mình, đồng thời hướng đến môi trường giáo dục sự hòa hợp, hợp tác, thân thiện cho trẻ em trong cuộc sống. Tình trạng trẻ em thụ động không biết ứng phó trong những hoàn cảnh nguy cấp, không biết cách tự bảo vệ bản thân trước những nguy hiểm, tìm kiếm sự giúp đỡ...có nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trong đó việc thiếu kỹ năng sống là nguyên nhân sâu xa nhất. Do đó việc dạy kỹ năng sống cho trẻ là rất cần thiết bởi vì kỹ năng sống thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội. Lứa tuổi mần mon là giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị cuộc sống để phát triển nhân cách trẻ về các mặt thể chất, tình cảm- xã hội, giao tiếp, ngôn ngữ, nhận thức, thẩm mĩ do đó cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để trẻ có được nhận thức đúng và có hành vi ứng xử phù hợp ngay từ độ tuổi mầm non. Để thực hiện có hiệu quả công tác “Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi” có hiệu quả thì trước hết cô giáo phải là người có kỹ năng sống bền vững, thân thiện, khách quan trong công việc, có lương tâm và đạo đức của một nhà giáo, phát huy hết khả năng trong công tác, tận tụy với nghề, yêu thương cháu…. Không những thế mà giáo viên còn phải luôn sáng tạo, áp dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy theo chương trình giáo dục mầm non và linh hoạt, sáng tạo trong các biện pháp “Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở lớp” để đạt hiệu quả cao. Nhận thức
- 2 được điều đó tôi đã thực hiện đề tài nghiên cứu “Một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi tại trường Mầm non Thạch Đà A.” II. Mục đích nghiên cứu: Mục đích tôi nghiên cứu “ Một số giải pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 4- 5 tuổi tại trường mầm non Thạch Đà A” nhằm phát huy nâng cao tính tích cực, năng động, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin trong mọi hoạt động và mọi hoàn cảnh của trẻ” nhằm củng cố, rèn luyện cho trẻ những kỹ năng sống cơ bản thông qua các hoạt động học, chơi, hoạt động ăn , ngủ của trẻ nhằm thúc đẩy, nâng cao hiệu quả giáo dục trong nhà trường nói riêng và nâng cao chất lượng đổi mới giáo dục nói chung. Khảo sát thực trạng kỹ năng sống của trẻ 4 -5 tuổi ở trường mầm non. Xây dựng một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 - 5 tuổi thông qua các hoạt động. Đề xuất một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 - 5 tuổi trong trường mầm non nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở trường mầm non trong hiện tại và những năm tiếp theo. Dạy trẻ kỹ năng sống nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm từ đó giúp cho trẻ có được một số kỹ năng sống cơ bản, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng cho trẻ trong trường mầm non, giúp trẻ phát triển toàn diện về các mặt như đức, trí, thể, mỹ. Công tác này được triển khai đến các bậc phụ huynh, qua đó họ đã tự nguyện phối hợp cùng nhà trường trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. III. Đối tượng nghiên cứu. Một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi. IV. Đối tượng khảo sát thực nghiệm. Trẻ mầm non 4 - 5 tuổi học tại trường Mầm Non Thạch Đà A ( Năm học 2023 – 2024). V. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu lí luận: đọc nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có liên quan đến đề tài, quan sát, thực nghiệm, đàm thoại, thu thập thông tin thực tế liên quan đến đề tài nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Phương pháp quan sát sư phạm. Phương pháp dùng lời. Phương pháp dùng trò chơi. Phương pháp thực hành. Phương pháp thống kê toán học. VI. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu. Đề tài được tôi nghiên cứu tại lớp 4 - 5 tuổi nơi tôi công tác. Thời gian:Từ ngày 9/2023 đến ngày 4/2024.
- 3 PHẦN II - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I. Cơ sở lý luận. Trong thời đại hiện nay, sự phát triển của kinh tế - xã hội đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với hệ thống giáo dục, đòi hỏi phải đào tạo ra những con người “phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Trong đó giáo dục kỹ năng sống là bộ phận hữu cơ của quá trình giáo dục, có tính cốt lõi, nền tảng của công tác giáo dục trẻ. Kỹ năng sống chính là phương tiện không thể thiếu để giúp trẻ tăng năng lực hội nhập, tích cực, chủ động, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin vững vàng trước mọi khó khăn thử thách và chính là chiếc chiều khóa vàng cho sự sống còn, sự phát triển và sự thành công của mỗi con người. Ở lứa tuổi mẫu giáo, kỹ năng sống chiếm một vị trí hết sức quan trọng nó góp phần giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách con người, giúp trẻ học tập, lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội để trẻ vận dụng trong cuộc sống sau này. Trong xã hội hiện nay, kiến thức của con người ngày càng phát triển và mở rộng, từng cá nhân, nếu không được bồi dưỡng, cập nhật thông tin thường xuyên sẽ trở thành lạc hậu. Bên cạnh đó, yêu cầu về chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ngày càng cao. Để hình thành và có được các kỹ năng cho trẻ trong cuộc sống hàng ngày trước tiên giáo viên phải có kiến thức, kỹ năng về chăm sóc giáo dục trẻ. Giáo viên phải có kiến thức để tổ chức các hoạt động cho trẻ được trải nghiệm, để trẻ được cuốn hút vào các hoạt động đa dạng khác nhau cùng với các bạn trong nhóm lớp. Tạo ra nhiều cơ hội để trẻ tương tác, giao tiếp với nhau trong lớp như: Thảo luận, trao đổi ý kiến, giải quyết xung đột, chia sẻ kinh nghiệm, trải nghiệm những vai trò khác nhau... Từ những cơ sở lý luận trên tôi thấy giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là công việc hết sức quan trọng trong quá trình giáo dục trẻ để trở thành những con người phát triển toàn diện, hài hòa nhân cách. Hiểu rõ được tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. II. Thực trạng. Năm học 2023 -2024 được sự phân công của ban giám hiệu nhà trường tôi được chủ nhiệm lớp mẫu giáo 4 tuổi B4, lớp tôi được xây dựng ở giữa địa bàn trong thôn, trường lớp sạch sẽ, tổng số trẻ là 36 trẻ. 1. Thuận lợi. Ban giám hiệu luôn quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất và chuyên môn, bồi dưỡng phương pháp, đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, tạo mọi điều kiện giúp tôi thực hiện tốt chương trình giáo dục mầm non mới. Giáo viên trong lớp đoàn kết biết cùng nhau đưa ra các biện pháp giáo dục kỹ năng sống sao cho phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ.
- 4 Một số phụ huynh nhiệt tình chia sẻ với giáo viên ở lớp về tình hình của trẻ ở nhà và luôn quan tâm đến trẻ thường xuyên dành thời gian trao đổi với cô giáo để cùng chăm sóc và giáo dục trẻ. Là một giáo viên tâm huyết với nghề, có lòng yêu thương trẻ, tận tình với công việc. Luôn luôn có ý thức phấn đấu vươn lên, thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu tài liệu như tạp chí, thông tin trên mạng có liên quan đến việc chăm sóc và giáo dục trẻ để áp dụng vào việc chăm sóc giáo dục trẻ hằng ngày nhất là việc giáo dục kỹ năng tự sống cho trẻ. 2. Khó khăn. Trình độ nhận thức của trẻ không đều. Một số trẻ nhút nhát nên không tự tin khi tham gia vào các hoạt động, một số trẻ lại quá hiếu động nên khi hoạt động chưa chú ý vào sự hướng dẫn của cô, kỹ năng sống của trẻ còn nhiều hạn chế. Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là không đồng đều. Một số phụ huynh đi làm ăn xa để các cháu ở nhà với các anh chị hoặc ông bà đã già, thời gian phụ huynh quan tâm đến trẻ còn ít, không dành thời gian trò chuyện để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của trẻ để giáo dục trẻ mà chỉ biết chiều theo mọi đòi hỏi của trẻ, trẻ được đáp ứng quá đầy đủ về nhu cầu trẻ cần. Trẻ bị ảnh hưởng bởi cuộc sống hiện đại như: Internet, tivi, các trò chơi điện tử... Trẻ được sống trong môi trường quá bao bọc khiến trẻ quen dựa dẫm, không có tính tự lập, ích kỷ, lãnh cảm với môi trường xung quanh. Mặc dù nhà trường đã hỗ trợ và đầu tư, tuy nhiên kinh phí trong việc tổ chức một số các hoạt động ngoại khoá vào các ngày lễ, ngày tết nhằm dạy kỹ năng sống cho trẻ còn hạn chế và chưa thường xuyên. 3. Thực trạng kỹ năng sống của trẻ. Trước khi thực hiện tôi tiến hành khảo sát trẻ đầu năm về kỹ năng sống của trẻ 4 - 5 tuổi lớp 4 tuổi B4. Số trẻ được điều tra là 36 trẻ. Bảng kết quả khảo sát đầu năm về kỹ năng sống như sau :(Phụ lục). Đánh giá thực trạng việc trẻ có kỹ năng sống ở trường tôi thấy kết quả đạt được trên trẻ chưa cao, chưa có kỹ năng tốt, của chương trình đề ra. Các kỹ năng trẻ làm được còn thấp, chủ yếu là cô làm cho, trẻ vẫn còn nhút nhát chưa được tự tin, chưa biết cách hợp tác làm theo nhóm, giao tiếp với người ngoài còn e ngại, kể cả việc nhỏ nhất như là tự đi vệ sinh, lấy ghế…vẫn chưa làm được. Là giáo viên chủ nhiệm lớp 4 – 5 tuổi tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài để tìm ra một số phương pháp, biện pháp tốt nhất phù hợp tâm sinh lý của lứa tuổi mầm non và đạt được kết quả mong đợi ở lứa tuổi trẻ. Giúp trẻ có kỹ năng sống, tự tin làm việc, giao tiếp với mọi người xung quanh không sợ hãi nhút nhát, tự mình làm không cần cô làm cho, cùng làm việc cô giao… đạt hiệu quả cao góp phần vào mục
- 5 tiêu giáo dục và đáp ứng với yêu cầu giáo dục đổi mới của chương trình chăm sóc giáo dục trong giai đoạn hiện nay. III. Các giải pháp thực hiện. 1. Giải pháp 1: Nghiên cứu, tìm tòi, bồi dưỡng bản thân, chia sẻ với đồng nghiệp. Để có thể thực hiện tốt “ Một số giải pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi tại trường Mầm Non Thạch Đà A” trước hết giáo viên mầm non không chỉ nghiên cứu nắm vững mục đích yêu cầu của hoạt động mà giáo viên cần phải nắm chắc được các phương pháp và biện pháp thực hiện giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, không bị gò bó, áp đặt, giúp trẻ hiểu sâu và vận dụng những điều đã học vào thực tế hàng ngày của trẻ. Vì vậy, để giúp trẻ 4-5 tuổi lớp tôi có được những kỹ năng sống cơ bản đó thì sự nhiệt tình, sáng tạo và yêu nghề đòi hỏi tôi phải không ngừng đọc và nghiên cứu kỹ chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non. Tham gia các đợt kiến tập và các chương trình chuyên đề do phòng tổ chức, tham khảo biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ trên sách báo, tạp chí mầm non. Sách hướng dẫn các hoạt động phát triển ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ mầm non. Sách giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non (Nhà xuất bản đại học quốc gia). Sách bé thực hành các tình huống giáo dục kỹ năng sống dành cho trẻ mầm non. Sách các hoạt động phát triển kĩ năng xã hội cho trẻ mầm non. Trên thực tế hiện nay ở trường mầm non Thạch Đà A chúng tôi, đội ngũ giáo viên khá đồng đều. Giáo viên đã nắm vững các phương pháp và tích cực ứng dụng các phương pháp trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Qua kiểm tra, đánh giá đầu năm có rất nhiều trẻ còn chưa biết chào cô, chào khách, chưa có kỹ năng giao tiếp, chưa có kỹ năng tự phục vụ…. Hoạt động dạy kỹ năng sống cho trẻ ở trường tôi nói chung và ở lớp tôi nói riêng chưa thực hiện tốt, chưa lồng ghép tích hợp vào các hoạt động, giáo viên hầu như không mấy để ý và đi sâu vào hoạt động này. Tôi nhận thấy đây là một vấn đề quan trọng vì nó quyết định đến nhân cách của trẻ sau này. Chính vì vậy qua việc tự bồi dưỡng bản thân, học hỏi qua truyền thông, báo đài, tài liệu cũng như xem các phương tiện thông tin hiện đại, tôi đã nắm vững được các phương pháp để dạy trẻ một số kỹ năng cơ bản nhất. Nhận thấy đây là việc quan trọng và cần thiết đối với trẻ nên trong các buổi họp sinh hoạt chuyên môn của khối tôi chia sẻ với đồng nghiệp về các biện pháp “ Dạy kỹ năng sống cho trẻ”. Để dạy trẻ được những kỹ năng sống thì việc đầu tiên cô giáo phải là tấm gương để trẻ soi vào. Chính vì vậy, không phương pháp nào hiệu quả bằng phương pháp “Dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”. Những người dạy nội dung giá trị và kỹ năng sống càng cần phải là tấm gương mẫu mực về hành vi, lời ăn, tiếng nói, cách ứng sử, cách giải quyết vấn đề… Đây là những yêu cầu rất cao và đòi hỏi các cô giáo cũng luôn phải tự rèn luyện mình để công tác giáo dục trẻ hiệu quả hơn. Và
- 6 tôi đưa ra những điều mà giáo viên nên và không nên trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đó là: Không nói dài và nói nhiều. Không luôn đưa ra lời đáp có sẵn mà để trẻ tự tìm tòi Không vội vàng phê phán đúng, sai như một quan tòa nhưng kiên trì giúp trẻ tranh luận và kết luận. Không mớm ý cho trẻ phát biểu ý kiến mà người lớn trông đợi. Không nên bắt trẻ hoạt động liên tục mà phải để dành thời gian và khoảng chống cho trẻ suy nghĩ. Thỉnh thoảng cô giáo có thể tổng kết, kết luận nhưng với thái độ thư giãn, thoải mái, gợi mở, điều này sẽ giúp cho trẻ tự tin hơn, dám tự tìm tòi và suy nghĩ, giám đưa ra ý kiến của mình. Quả thật việc thay đổi nếp cũ là rất khó, nhưng trong những buổi sinh hoạt tôi thường đưa những giá trị của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ như: + Tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ, biết tạo bầu không khí trò chuyện sôi nổi. + Ý thức về bản thân và sẵn sàng học những kỹ năng mới, biết sắp xếp phòng, nhóm lớp tạo bầu không khí hấp dẫn. + Có kinh nghiệm sống và biết soi xét, tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình lên trẻ, kiên nhẫn và có kỹ năng lắng nghe tốt. + Thực hành tư duy sáng tạo và khai phá, biết sắp xếp phòng, nhóm lớp tạo bầu không khí hấp dẫn + Biết chủ động phương pháp giáo dục. Tác động kịp thời khi nhóm bế tắc. Ví dụ: Các con ơi cô con mình vừa hoạt động ngoài trời về, bây giờ sẽ đến hoạt động gì các con? Nào chúng ta cùng chuẩn bị bắt đầu. Biết nắm phản hồi của nhóm khi hoạt động kết thúc… 2. Giải pháp 2: Biện pháp phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ. Cách giao tiếp không chỉ quan trọng trong những năm trẻ đi học mà còn rất quan trọng đối với cuộc sống sau này. Vì thế cần quan tâm và giúp trẻ một cách tự nhiên từng bước một trong suốt chiều dài phát triển nhân cách của trẻ. * Kỹ năng trẻ giao tiếp với bạn bè. Lớp học chính là một thế giới thu nhỏ của xã hội chúng ta ngày nay, là nơi đa văn hóa, đa tính cách và cũng đa sở thích. Mô hình này tạo cơ hội cho giáo viên có thể dạy cho trẻ học cách chấp nhận và có cơ hội để khám phá những sở thích, những mối quan tâm chung của nhau. Để giúp trẻ phát triển kỹ năng chơi với các trẻ khác tôi tạo môi trường cho trẻ giao tiếp với nhau và tạo tình huống cho trẻ tự giải quyết. Và tôi đưa ra “tiêu chí” không tranh giành đồ chơi với bạn. Trong tiêu chí này tôi lên kế hoạch rèn cả
- 7 lớp nói chung, cứ vào các buổi chiều bình bầu và nhận xét buổi chơi, tôi cho cả lớp nhận xét xem trong giờ chơi bạn nào còn tranh giành đồ chơi thì bạn đó sẽ không được cắm cờ, cuối tuần bạn nào có nhiều cờ sẽ được bé ngoan, ngoài ra trong các giờ chơi, giờ đón trả trẻ, trẻ nào có biểu hiện hành vi sai trái là tôi giải thích và sửa ngay cho trẻ, việc làm đó rất tốt đối với trẻ vì trẻ biết được điều gì nên làm và điều gì không nên làm và nhân cách sống của trẻ sẽ được phát triển toàn diện hơn. Ngoài ra tôi còn sưu tầm một số câu chuyện, bài thơ mang tính giáo dục. Giúp trẻ thấy các nhân vật trong câu truyện , bài thơ khi giao tiếp với nhau như thế nào? Tính cách mỗi trẻ mỗi khác, có những trẻ hoạt bát, hiếu động nhưng cũng có những trẻ chậm chạp, thụ động hay quá nóng nảy… Vì thế giáo viên cần phải biết rõ tính cách của từng trẻ để có thể cho các trẻ chơi với những người bạn thích hợp với cá tính nhằm tránh sảy ra những va chạm về tính cách. Ngoài ra tôi còn dạy trẻ “Giao tiếp” bằng mắt và nở một nụ cười thân thiện, tự nhiên. Dạy trẻ phải luôn luôn giữ lời hứa khiến cho buổi nói chuyện trở nên thật thoải mái thật chân thành khi tham gia những hoạt động vui chơi ở lớp. * Kỹ năng trẻ chào hỏi khi giao tiếp với người lớn tuổi. Như ở phần đặt vấn đề tôi đã nêu các cháu hầu hết chưa có các kỹ năng, giao tiếp, kỹ năng chào hỏi… lí do phụ huynh đều là thuần nông và điều quan trọng họ chưa có khái niệm dạy kỹ năng cho trẻ, mà chủ yếu là nuông chiều với suy nghĩ đơn giản là trẻ nhỏ chưa biết gì, chiều nó chút cũng không sao. Nhưng điều đó sẽ tạo nên những hành vi và nhận thức sai lệch của trẻ mà dần dần sẽ biến thành thói quen khó thay đổi. Vì vậy đối với trẻ người lớn cần tập cho trẻ những lời nói lễ phép và tự nhiên, không quá màu mè và hình thức, cũng không được phép cộc lốc và xuồng xã. Điều này trẻ sẽ học được một cách hiệu quả thông qua cách giao tiếp và ứng sử của bố, mẹ, người thân trong gia đình, cô giáo và người khác. Chúng ta sẽ không thể kiểm soát được khi người lớn trong gia đình nói năng thô lỗ và không có hành vi lịch sự tối thiểu. Trong xã hội hiện nay với công nghệ tiên tiến, phát triển không ngừng về mọi mặt, thì những kỹ năng giao tiếp, chào hỏi tối thiểu lại mất dần đi. Và tôi quyết định đưa kỹ năng chào hỏi và kỹ năng giao tiếp vào những giờ đón, trả trẻ: Ví dụ: Thời gian đầu nhiều trẻ chưa có kỹ năng chào hỏi và giao tiếp với cô cùng bạn bè, tôi chủ động chào trẻ trước “cô chào bạn Đăng Khoa” .Thì lúc đó trẻ sẽ biết đáp lại câu “Con chào cô ạ” và tôi nhắc trẻ con chào bố, mẹ đi để vào lớp với cô nào. Hoặc khi trẻ đang chơi mà có khách đến lớp tôi nhắc trẻ “các con chào bác, bà… đi nào” cứ như vậy dần dần trẻ có thói quen chào cô, chào bố mẹ và chào khách, khi đến lớp, khi ra về. Còn với trẻ chưa có kỹ năng giao tiếp nhiều với cô,
- 8 với bạn tôi thường xuyên gần gũi trẻ hơn, trò chuyện với trẻ nhiều hơn về những người thân của trẻ, về thế giới xung quanh từ đó trẻ sẽ mạnh dạn hơn khi tiếp xúc và giao tiếp với cô, với bạn bè và người khác. Ngoài ra tôi còn sưu tầm những bài thơ , câu truyện, bài hát có nội dung giáo dục về lễ giáo với nội dung cụ thể như: Bài thơ: Che mưa cho bạn, Phải là hai tay, Cảm ơn xin lỗi, và phô tô gửi cho phụ huynh để phụ huynh nắm được và giúp trẻ học thuộc các bài thơ đó. Qua đó giúp trẻ có những hành vi và kỹ năng tốt qua các bài thơ, câu truyện “ Bà ốm, yêu bà, bó hoa tặng cô, bé mai đến trường… Ngoài ra tôi còn cho trẻ tham gia trò chơi đóng vai để trải nghiệm những kỹ năng chào hỏi và giao tiếp,và tạo tình huống cụ thể để giúp trẻ giải quyết và chọn cách giao tiếp với người lớn cho phù hợp. 3. Giải pháp 3: Tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động hàng ngày. * Giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động học. Thông qua hoạt động làm quen văn học: Tôi kể cho trẻ nghe, đặt câu hỏi đàm thoại để trẻ trả lời, cho trẻ nhập vào vai các nhân vật trong câu truyện. Giáo dục trẻ biết yêu thương giúp đỡ mọi người, tôn trọng hợp tác với bạn bè, với những người xung quanh. Thông qua hoạt động nghệ thuật: Như nhảy múa, ca hát, vẽ tranh…Tôi sẽ kích thích trẻ bộc lộ những suy nghĩ, bộc lộ tình cảm, khả năng sáng tạo của mình. Từ những lời động viên khích lệ đó trẻ sẽ có hứng thú và tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong hoạt động để từ đó trẻ sẽ mạnh dạn, chủ động, tự tin trong những giờ hoạt động khác… Thông qua hoạt động khám phá xã hội: Qua bài tìm hiểu động vật sống trong rừng “ Hổ, báo, cừu, khỉ, voi…” Trẻ biết đặc điểm riêng của từng con vật từ những câu hỏi cô đưa ra như: Các con có biết con voi có mấy chân và con voi sống ở đâu? Con voi thích ăn gì các con nhỉ?... Trẻ trả lời “Thưa cô con voi thích ăn cỏ ạ” cứ như vậy trong một tiết học với hàng loạt câu hỏi cô đưa ra thì trẻ nào cũng được tham gia, với trẻ ít nói cô gọi nhiều và thường xuyên hơn. Thông qua hoạt động thể dục: Tôi cùng các giáo viên khác tổ chức cho trẻ các vận động như: đi trong đường ngoằn nghoèo, đi trong đường hẹp, tung bóng, ném bóng …qua đó rèn cho trẻ các kỹ năng nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin, khéo léo khi tham gia vận động, biết bảo vệ sức khỏe. * Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động vui chơi. Như chúng ta đã biết ở trẻ mẫu giáo hoạt động vui chơi giữ vai trò chủ đạo, thông qua hoạt động này bộc lộ rõ nét những hành vi tốt và không tốt. Vì vậy tôi
- 9 luôn uốn nắn và sử sai ngay cho trẻ trong khi chơi đặc biệt qua các trò chơi ở góc phân vai. Ví dụ: Qua khu vực chơi “bán hàng” thông qua trò chơi này ngoài việc trẻ hiểu được công việc của người bán hàng và mua hàng trẻ còn phải biết thưa gửi lễ phép. Giai đoạn đầu trẻ còn chưa mạnh dạn trong khi chơi, tôi nhập vai làm người bán hàng khi cháu mua hàng tôi chủ động hỏi trẻ “Bác ơi bác mua thứ gì nào? Trẻ nói mua rau – trả tiền này. Tôi phải sửa ngay cho trẻ. Khi mua hàng con phải hỏi bác ơi bao nhiêu tiền một mớ rau, bán cho tôi một mớ ạ, nếu trẻ đã biết thưa gửi lễ phép tôi sẽ gắn cho trẻ một bông hoa vào áo và cuối ngày nhận xét trước lớp. Với hình thức này các cháu rất thích. Hay thông qua khu vực chơi “trọng tâm" là tạo hình: Tôi thường xuyên sưu tầm những đồ dùng, những phế liệu, những lá cây khô, dây trang kim, nhũ màu, màu nước… Để trẻ tự tạo nên những bức tranh, những con vật. Từ đó trẻ có những kỹ năng cầm kéo và cắt khóe léo, kỹ năng tô màu, kỹ năng vẽ, kỹ năng phân công công việc cho bạn trong nhóm mình. Ví dụ: Bạn tô màu này, tôi cắt hoặc xé cái kia… Thông qua hoạt động vui chơi: Tôi đưa kỹ năng sống hợp tác cho trẻ: Ở độ tuổi này trẻ bắt đầu quan tâm đến bạn trong nhóm. Tình bạn ổn định bắt đầu nảy sinh. Chúng sẵn sàng chia sẻ với bạn và tình bạn trở nên quan trọng với trẻ. Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn. Ở kỹ năng này tôi sử dụng trò chơi để dạy trẻ: Ví dụ: Trong khu vực chơi học tập. Mỗi trẻ sẽ được phân công theo nhóm để nhận nhiệm vụ: bạn nào đồ chơi bằng hột hạt, bạn nào học vẽ….Từ đó trẻ sẽ học và làm việc cùng nhau theo nhóm và biết tuân thủ theo mệnh lệnh của nhóm trưởng * Giáo dục kỹ năng sống qua góc thực hành kỹ năng sống cho trẻ. Ngoài ra tôi còn xây dựng góc thực hành kỹ năng sống cho trẻ chơi thường xuyên như: Cách đóng mở cửa, lấy và uống nước, cách gắp bằng các loại kẹp, quét rác trên sàn, cách rót nước bằng bình lọ miệng tròn to, cách sâu dây qua các đối tượng có khuyết nhỏ, cách tự tết tóc cho mình, cho bạn. Đây là cơ hội tốt nhất để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Vì vậy tôi đã thường xuyên tổ chức cho trẻ các trò chơi mang tính lành mạnh để trẻ được tham gia học tập và vui chơi.
- 10 4. Giải pháp 4: Giáo dục trẻ kỹ năng sống thông qua một số hoạt động khác trong ngày. Ngoài hoạt động chung, hoạt động vui chơi ra tôi còn hướng dẫn dạy trẻ kỹ năng sống thông qua các hoạt động khác như: Trong giờ đón trả trẻ: Tôi cùng các giáo viên khác trò chuyện với trẻ, giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự cất giầy dép, ba lô đúng nơi quy định ngoài ra tôi còn dạy trẻ biết chào hỏi, biết nói lời xin lỗi, biết nói cảm ơi, không nói leo khi người khác nói, không tự tiện lấy đồ và sử dụng đồ của người khác… Trong giờ thể dục sáng: Dưới sân trường tôi kết hợp kỹ năng đi lên, xuống cầu thang cho trẻ đi đúng theo bước chân, chân nào trước, chân nào sau, đi theo hàng lối, không chen lấn xô đẩy. Trong giờ vệ sinh: Tôi dạy trẻ các kỹ năng tự phục vụ như: Rửa mặt, rửa tay bằng xà phòng, cách trải tóc, cách gấp quần áo và đi vệ sinh đúng nơi quy định. Trong giờ ăn: Tôi cùng các giáo viên khác dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ những kỹ năng tự lao động phục vụ, rèn tính tự lập như biết tự đi lấy bát thìa theo số lượng của tổ mình và biết được lần lượt ngày trực nhật của mình theo tổ, khi ăn, biết ăn uống lịch sự, không nói chuyện trong khi ăn, và chỉ ăn uống tại bàn ăn của mình, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, không làm rơi vãi khi ăn, khi ăn nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, biết mời trước khi ăn, biết tự dọn, cất bát thìa đúng nơi quy định, biết giúp người lớn dọn dẹp, …. Ngoài ra trước những giờ ăn tôi thường lồng ghép các bài hát, bài thơ, lồng ghép kỹ năng vệ sinh vào giờ ăn cho trẻ. Trong giờ hoạt động ngoài trời: Tôi đưa kỹ năng sống tự tin: Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi. Ví dụ: Cô tổ chức cho 2 đội chơi trò chơi “Tung bóng” ở trò chơi này cháu thực hiện đúng luật chơi. Mỗi đội luôn tự tin mình sẽ chiến thắng và tìm mọi cách động viên khích lệ trong nhóm cố gắng có ý chí vươn lên. 5. Giải pháp 5: Xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đưa vào các chủ đề. Để dạy kỹ năng sống cho trẻ đạt hiệu quả ngay từ đầu năm tôi đã phối hợp với giáo viên trên nhóm lớp xây dựng kế hoạch và thống nhất đưa vào các chủ đề, các hoạt động ở lớp, tùy thuộc vào từng chủ đề, từng thời điểm để lựa chọn nội dung tích hợp giáo dục kỹ năng sống để dạy trẻ cho phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao.
- 11 Ví dụ: Ở chủ đề “Trường mầm non”: Tôi đã lựa chọn kỹ năng giao tiếp như: Chào hỏi, tạm biệt, cảm ơn, xin lỗi, lễ phép với người lớn, tôn trọng bạn bè, vui vẻ thân thiện, lắng nghe ý kiến, chia sẻ thông tin, hòa thuận với các bạn, giúp đỡ bạn khi cần thiết, cùng bạn hoàn thành công việc… Chủ đề “Gia đình của bé”: Tôi dạy trẻ những kỹ năng ứng sử phù hợp với những người gần gũi xung quanh: Lễ phép với người lớn, quan tâm nhường nhịn em nhỏ, giúp đỡ bố mẹ những việc vừa sức, biết trò chuyện lễ phép, thân mật, chơi vui vẻ với bạn, không quậy phá làm ồn, nhận biết và thể hiện cảm xúc, chia sẻ đồng cảm… Ngoài ra ở nhánh bản thân tôi lựa chọn kỹ năng tự phục vụ như: Tự mặc, cởi quần áo, cách sử dụng nhà vệ sinh đúng cách, vệ sinh cá nhân, cách ăn uống, mặc quần áo phù hợp với thời tiết, sống gọn gàng ngăn nắp, không chơi những nơi mất vệ sinh, không nhận quà người lạ khi chưa được người thân cho phép, biết kêu cứu khi gặp nguy hiểm, biết một số thông tin về bản thân như, tên, tuổi, sở thích và sử dụng lời nói rõ ràng, mạch lạc để bày tỏ cảm xúc, nhu cầu của bản thân Chủ đề: “Giao thông” Dạy trẻ kỹ năng tuân thủ một số quy định giao thông khi đi trên đường, những hành vi văn hóa nơi công cộng như: Đi nhẹ, nói khẽ, không chen lấn xô đẩy nhau… Chủ đề: “Thực vật – Tết mùa xuân” Dạy trẻ kỹ năng giao tiếp , lịch sự, lễ phép, yêu thiên nhiên, trồng và chăm sóc cây xanh, bảo vệ môi trường. Chủ đề: “Quê hương, đất nước, Bác Hồ” Dạy trẻ kính yêu Bác Hồ, quan tâm đến những di tích lịch sử, địa danh, cảnh đẹp, lễ hội của quê hương, đất nước, giữ gìn bảo vệ môi trường. 6. Giải pháp 6: Tuyên truyền, phối kết hợp với các bậc cha mẹ cùng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Hiểu rõ được vai trò của các bậc cha mẹ cũng góp phần không nhỏ trong việc giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ. Vì vậy ngay từ đầu năm khi tổ chức họp cha mẹ học sinh tôi đã đưa sáng kiến và ý tưởng về ý nghĩa giáo dục kỹ năng sống của mình áp dụng vào trẻ. Và thống nhất với các bậc cha mẹ về những biện pháp giáo dục ở nhà và khi họp các bậc cha mẹ giữa năm tôi đã nêu tiêu chí nào trẻ đã thực hiện được và làm được hay chưa làm được, còn những tiêu chí nào chưa làm được tôi nêu ra cuộc họp để cùng bàn luận và cùng uốn nắn trẻ ngay và kịp thời. Đặc biệt những cha mẹ còn ít quan tâm đến con cái, tôi tìm cách để gặp và trao đổi về thành tích học tập của cháu ở lớp và đồng thời hỏi thăm về nề nếp sinh hoạt, sở thích…của cháu ở nhà. Với việc làm kiên trì đó tôi đã tác động việc học của cháu ở lớp cũng như việc rèn nề nếp ở nhà, vì tôi thấy rằng một số trẻ có khó khăn trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn trong nhóm lớp lại có thể hình thành mối liên kết thân thiết mới trong môi trường gia đình của trẻ.
- 12 Ví dụ: Một số kỹ năng phối hợp cùng cô giáo dạy trẻ kỹ năng cất dép, kỹ năng cất quần áo. Vậy muốn trẻ làm tốt được những kỹ năng này tôi phối hợp với phụ huynh hướng dẫn và quan sát trẻ khi con ở nhà. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên và năng khiếu bẩm sinh của trẻ bên cạnh đó cha mẹ cần dạy trẻ từ từ để trẻ hiểu và cha mẹ chính là tấm gương sáng để trẻ noi theo Vì vậy việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đạt kết quả tốt thì phải biết kết hợp hài hòa các biện pháp trên và không thể thiếu một trong những biện pháp đó. Bên cạnh đó là ý thức trách nhiệm và tình yêu thương của cô giáo đối với trẻ. 7. Giải pháp 7: Cô giáo là tấm gương sáng Ở trường cô giáo là người mẹ thứ hai đối với trẻ.Trẻ rất thích được cô yêu thương, gần gũi. Mọi hành động cử chỉ của cô trẻ rất lưu tâm và bắt chước theo. Vì vậy cô phải luôn luôn chuẩn mực trong mọi lĩnh vực: như cách giao tiếp với phụ huynh, với trẻ hay tác phong của cô, hành động cử chỉ của cô … Cô là tấm gương cho trẻ thực hiện và noi theo. Khi thấy trên sân trường có lá cây, cô giáo đi qua và bảo trẻ: Con hãy nhặt bỏ vào thùng rác đi. Khi ấy trẻ sẽ nhặt vì bị sai khiến.Cũng tình huống trên: Cô nhặt lá cây bỏ vào thùng rác và hỏi trẻ: Con biết tại sao cô bỏ lá cây vào thùng rác không? Giải thích cho trẻ hiểu: việc làm này nhằm giữ sân trường sạch đẹp cho các con học và chơi. Lần sau thấy rác trẻ sẽ tự động nhặt rác vì trẻ hiểu rằng: nhặt rác làm sạch sân trường. Thực hiện biện pháp trên hiệu quả đạt rất tốt: Khi cô giáo là mẹ hiền thì các cháu sẽ là con ngoan. IV. Kết quả. Sau khi triển khai áp dụng các kinh nghiệm, biện pháp trên cùng với sự cố gắng nỗ lực của bản thân, sự đồng thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy trẻ lớp mình các kỹ năng sống cơ bản đã được nâng lên. Kết quả sau khi thực hiện đề tài: số lượng (36 trẻ) Tỷ lệ (%).( Phụ Lục). Như vậy nhìn vào bảng so sánh chúng ta thấy có sự khác biệt rất rõ và đạt kết quả đáng mừng. Kết quả này đã chứng minh ưu điểm của việc thực hiện có hiệu quả các biện pháp trên. Trẻ lớp tôi đã có được những kỹ năng sống cơ bản, cần thiết của lứa tuổi này, mạnh dạn tự tin trong giao tiếp, biết ứng xử phù hợp với tình huống, biết hợp tác với các bạn để hoàn thành nhiệm vụ được giao đến cùng, biết lao động tự phục vụ và có được thói quen vệ sinh hàng ngày. Về phía phụ huynh, sự chuyển biến tích cực từ phía trẻ đã làm cho phụ huynh cảm thấy vui mừng, phấn khởi, tin tưởng vào kết quả giáo dục của nhà trường. Các bậc phụ huynh đã có thói quen phối hợp, hưởng ứng, thường xuyên trao đổi và
- 13 cùng phối kết hợp với giáo viên, tích cực tham ra các hoạt động giáo dục trẻ ở nhà trường, để cùng rèn kỹ năng sống cho trẻ và rất tin tưởng cô giáo bởi họ tự nhận thấy sự tiến bộ rõ rệt của con mình. Đối với bản thân qua việc tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi cũng có điều kiện để rèn luyện các kỹ năng sống của mình, có một số kinh nghiệm và tự tin hơn khi tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ trong đó có hoạt động giáo dục kỹ năng sống. Sau khi tiến hành những biện pháp trên tôi thấy trẻ đã có kỹ năng sống cần thiết phù hợp với độ tuổi. Trẻ tham gia vào các hoạt động một cách tự tin mạnh dạn giúp cho việc tổ chức các hoạt động giáo dục của cô giáo đạt kết quả tốt. Giáo viên yên tâm, phấn khởi hơn khi tổ chức các hoạt động trong ngày. Với những kết quả khả quan như vậy tôi thấy mình cần phải phát huy hơn nữa, nghiên cứu tài liệu và tích cực hơn nữa trong việc tiếp tục giáo dục và rèn kỹ năng sống cho trẻ để làm tốt nhiệm vụ trồng người của mình. V. Bài học kinh nghiệm. Thông qua việc nghiên cứu đề tài cho thấy để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ phải xác định được mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của việc hình thành các kỹ năng sống cho trẻ trong mọi hoạt động. Giáo viên cần phải là người có kỹ năng sống tốt và luôn là tấm gương sáng cho trẻ, phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Từ đó đề ra mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Giáo viên cần tích cực trau dồi, học hỏi, tự bồi dưỡng kiến thức qua sách báo, phương tiện thông tin đại chúng, internet, qua bạn bè để nâng cao trình độ chuyên môn. Tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ phải lấy trẻ làm trung tâm. Phải dạy kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi, lồng luồn vào các hoạt động hàng ngày phù hợp và đánh giá thường xuyên các hoạt động đó. Luôn kết hợp giữa gia đình và nhà trường để giúp trẻ tiếp cận và lĩnh hội các kỹ năng cơ bản một cách tốt nhất, đồng bộ và hiệu quả nhất.
- 14 PHẦN III - KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ. 1. Kết luận Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ phát triển nhân cách, thể chất, tình cảm, giao tiếp, ngôn ngữ, tư duy một cách toàn diện, là nền tảng để trẻ tự tin trong cuộc sống. Cụ thể như sau : – Về thể chất: Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ tăng cường thể chất, sự kiên trì, bền bỉ, tháo vát… thông qua các bài học và các hoạt động vận động trong quá trình dạy kỹ năng sống. Trẻ sẽ được rèn luyện sự dẻo dai, khéo léo, kiên trì, giúp cho trẻ nhanh thích ứng với các điều kiện sống thay đổi. – Về tình cảm: Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ biết lắng nghe, chia sẻ, sống có trách nhiệm, biết yêu thương, biết ơn công lao của cha mẹ. – Về giao tiếp - ngôn ngữ: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ giúp trẻ tự tin, giao tiếp hiệu quả, đặc biệt rèn luyện cho trẻ biết lắng nghe, nói chuyện lễ phép, hòa nhã. – Về nhận thức: Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ có một nền tảng kiến thức, ham mê hiểu biết, khám phá, xây dựng cho trẻ niềm ham mêm học tập suốt đời. 2. Ý kiến kiến nghị: Để thực hiện tốt hoạt động kỹ năng sống cho trẻ mầm non trong giai đoạn hiện nay thông qua việc thực hiện các biện pháp trên đã phần nào đạt được một số kết quả như đã nêu trên và bản thân tôi xin có một số đề xuất sau : * Đối với trường: Hằng năm tổ chức cho giáo viên đi giao lưu học tập chuyên môn tại các trường mầm non đạt chất lượng cao trong huyện. Tích cực bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho giáo viên, mở lớp chuyên đề về kỹ năng sống để giáo viên cùng trao đổi kinh nghiệm. Xây dựng môi trường xanh sạch đẹp – thân thiện gần gũi để trẻ có được điều kiện tham gia trải nghiệm và thực hành các kỹ năng sống. * Đối với Phòng Giáo dục: Đầu tư về cơ sở vật chất trang thiết bị cho nhà trường để có môi trường thân thiện cho trẻ chơi và học Tổ chức các cuộc thi có sự tham gia của giáo viên, phụ huynh về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, tăng cường giao lưu chuyên môn giữa các trường học trong huyện để tạo điều kiện cho giáo viên học hỏi lẫn nhau và có cơ hội trao đổi kinh nghiệm chăm sóc giáo dục trẻ đạt hiệu quả.
- 15 * Lời kết: Qua gần một năm học thực hiện đề tài: “Một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi tại Trường Mầm non Thạch Đà A” tôi nhận thấy ở trẻ trưởng thành vượt bậc. Trẻ trở lên linh hoạt, nhanh nhẹn, tự tin hơn, có kỹ năng sống phù hợp, biết chia sẻ yêu thương. Chính điều đó càng khuyến khích tôi cố gắng học hỏi, tìm tòi, sáng tạo để tìm ra nhiều phương thức giảng dạy hay hơn nữa. Mong rằng mỗi phương pháp mới sẽ giúp các em ngày càng phát triển toàn diện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Thạch Đà, ngày 10 tháng 4 năm 2024 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG NGƯỜI VIẾT ĐƠN VỊ. ( Ký và ghi rõ họ tên) Đỗ Thị Ngọc Nguyễn Thị Luyến
- 16 PHỤ LỤC Bảng kết quả khảo sát trẻ đầu năm. Số trẻ được khảo sát là 36 trẻ. Tổng Đạt Chưa đạt STT Nội dung khảo sát số Tỉ lệ Tỉ lệ Số trẻ Số trẻ trẻ % % 1 Kỹ năng giao tiếp, chào hỏi 36 12 33,3% 24 66,7% 2 Kỹ năng tự lập, tự phục vụ 36 9 25% 27 75% Kỹ năng hợp tác, hoạt động cùng 3 36 11 30% 25 70% nhóm 4 Trẻ mạnh dạn tự tin 36 10 28% 26 72% 5 Kỹ năng nhận thức 36 9 25% 27 75% 6 Kỹ năng vận động 36 12 33,3% 24 66,7% 7 Kỹ năng thích nghi 36 11 30% 25 70% 8 Kỹ năng vệ sinh 36 10 28% 26 72% Bảng so sánh đối chứng – cuối năm. Đầu năm Cuối năm STT Nội dung khảo sát Chưa Chưa Đạt Đạt đạt đạt Kỹ năng giao tiếp, chào hỏi SL 12 24 35 1 1 TL 33,3% 66,7% 97% 3% Kỹ năng tự lập, tự phục vụ SL 9 27 36 0 2 TL 25% 75% 100% 0% Kỹ năng hợp tác, hoạt động SL 11 25 34 2 3 cùng nhóm TL 30% 70% 94,4% 5,6% Trẻ mạnh dạn tự tin SL 10 26 35 1 4 TL 28% 72% 97,2% 2,8% Kỹ năng nhận thức SL 9 27 36 0 5 TL 25% 75% 100% 0 Kỹ năng vận động SL 12 24 34 2 6 TL 33,3% 66,7% 94,4% 5,6% Kỹ năng thích nghi SL 11 25 33 3 7 TL 30% 70% 91,6% 8,4%
- 17 SL 10 26 36 0 8 Kỹ năng vệ sinh TL 28% 72% 100% 0 PHỤ LỤC Hình ảnh 1: Buổi sinh hoạt tổ 4 tuổi chia sẻ những biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ.
- 18 Hình ảnh 2: Trẻ đã có thói quen chào hỏi khi đến lớp. Hình ảnh 3: Các bé lớp tôi giao tiếp với nhau trong khi chơi.
- 19 Hình ảnh 4: Các bé lớp tôi trong giờ học thể dục. Hình ảnh 5: Trẻ lau mặt.
- 20 Hình ảnh 6: Trẻ rửa tay. Hình ảnh 7: Các con chơi ở khu vực tạo hình.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm sử dụng đồ dùng, đồ chơi hấp dẫn cho trẻ 5-6 tuổi làm quen với toán
17 p | 1800 | 338
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp quản lý hồ sơ công tác chăm sóc bán trú trong trường mầm non Tuổi Hoa
16 p | 25 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ mầm non
11 p | 27 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ trong trường mầm non
19 p | 49 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi trong trường mầm non Tuổi Hoa - Long Biên - Hà Nội
10 p | 33 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Ứng dụng hướng tiếp cận Reggio Emilia trong trang trí môi trường lớp học tại trường mầm non
15 p | 57 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục luật lệ an toàn giao thông đường bộ cho trẻ Mẫu giáo 4 - 5 tuổi tại trường mầm non Tuổi Hoa
11 p | 37 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp dạy trẻ 5-6 tuổi làm một số đồ dùng đồ chơi sáng tạo từ nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương
19 p | 22 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giúp giáo viên tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non
16 p | 15 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Ứng dụng hướng tiếp cận Reggio Emilia trong trang trí môi trường lớp học tại trường mầm non
15 p | 28 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3-4 tuổi
12 p | 32 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi trong trường mầm non
18 p | 18 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phòng, tránh ngộ độc thực phẩm trong trường mầm non
12 p | 29 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 3-4 tuổi hoạt động làm quen với toán ở trường mầm non
12 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3 - 4 tuổi trong trường mầm non Tuổi Hoa
20 p | 23 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ 3-4 tuổi cách phòng tránh tai nạn thương tích trong trường Mầm non Tuổi Hoa
14 p | 32 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi ở trường mầm non
16 p | 10 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp tạo cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn trong trường mầm non
16 p | 21 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn