intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm sử dụng hiệu quả đồ dùng trong giảng dạy trẻ mầm non

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:12

33
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của sáng kiến nhằm tìm tòi các biện pháp khác nhau để phát huy tính hiệu quả của các đồ dùng được cấp phát cũng như tự làm cùng với các phương tiện trong lớp học, giúp tiết kiệm chi phí trong việc làm đồ dùng, đồng thời cũng đạt được những hiệu quả rất tốt trên trẻ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm sử dụng hiệu quả đồ dùng trong giảng dạy trẻ mầm non

  1. SÁNG KIẾN CẢI TIÊN KỸ THUẬT “Sử dụng hiệu quả đồ dùng trong giảng dạy trẻ Mầm non”   1. PHẦN MỞ ĐẦU   1.1. Lí do chọn đề tài:       Tất cả  chúng ta đều biết, vui chơi là hoạt động chủ  đạo của trẻ  ở  lứa tuổi mầm   non. Khác biệt với các lứa tuổi khác, trẻ mầm non “Học bằng chơi, chơi mà học”. Việc   tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ chính là tổ chức hoạt động cuộc sống của trẻ, nhằm  giúp trẻ phát triển một cách toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và tình cảm   xã hội, vui chơi cũng chính là phương tiện để trẻ học làm người. Đặc biệt ở lứa tuổi này tư duy của trẻ là tư duy trực quan hình tượng. Trong bất cứ  hoạt động học tập hay vui chơi nào của trẻ  cũng đòi hỏi cần phải có đồ  chơi, đồ  dùng  trực quan. Chính vì vậy, đồ  dùng đồ  chơi  ở  trường mầm non được coi là bộ  sách giáo  khoa đầu tiên để dẫn dắt trẻ vào đời. Để  giúp trẻ thực hiện tốt hoạt động chủ  đạo của   mình điều tất yếu phải có đủ  đồ  dùng đồ  chơi tương ứng để  tổ  chức tốt các hoạt động  mà trẻ sẽ được trải nghiệm.  Thực tế chung là các đồ dùng, đồ chơi được cấp phát chưa thể đáp ứng được hết   nhu cầu giáo dục mầm non do nguồn kinh phí đầu tư cho giáo dục nói chung và giáo dục  mầm non nói riêng còn rất hạn chế. Do đó, ngoài việc sử dụng một cách hiệu quả những   đồ  dùng đồ  chơi được cấp phát, giáo viên mầm non còn tận dụng môi trường lớp học,   khuôn viên trường và tự tạo những đồ dùng, đồ chơi từ nhiều nguyên vật liệu khác nhau  để đáp ứng nhu cầu của các hoạt động giáo dục trẻ. Đó cũng là chủ trương của ngành đề  ra. Mỗi đồ dùng dạy học được cấp phát hay giáo viên tự làm đều có mục đích sử dụng  riêng, tự nó không thể phục vụ được nhiều hoạt động khác nhau, dẫn đến việc giáo viên   mầm non phải mất rất nhiều thời gian và tiền bạc cho việc làm đồ  dùng dạy học phục  vụ cho “ý đồ” giảng dạy của mình. Các đồ dùng được làm rất kỳ công nhưng công năng   sử dụng lại hạn chế. Sự hạn chế đó đôi khi không phải do bản thân đồ dùng mà do chính   giáo viên chưa biết cách khai thác đồ  dùng mình làm ra cũng như khai thác hiệu quả hơn  các đồ  dùng, đồ  chơi được cấp phát và các phương tiện trong môi trường hoạt động.   Xuất phát từ lý do này, trong hơn 3 năm công tác, tôi đã nghiên cứu, tìm tòi các biện pháp  khác nhau để  phát huy tính hiệu quả  của các đồ  dùng được cấp phát cũng như  tự  làm  cùng với các phương tiện trong lớp học, giúp tiết kiệm chi phí trong việc làm đồ  dùng,   đồng thời cũng đạt được những hiệu quả  rất tốt trên trẻ. Đồng thời, với kết quả  cao  trong các hội thi “giáo viên tự  làm và sử  dụng đồ  dùng dạy” cấp huyện, cấp tỉnh trong    năm qua đã giúp tôi thêm tự tin để viết đề tài “Một số kinh nghiệm sử dụng hiệu quả đồ  dùng trong giảng dạy trẻ mầm non” để chia sẻ cùng đồng nghiệp. 1.2. Điểm mới của đề tài: Qua việc vận dụng đề  tài này vào thực tiễn rất có hiệu quả. Để  đạt được hiệu  quả  cao trong công tác tự  làm đồ  dùng đồ  chơi, sử  dụng có hiệu quả  các đồ  dùng đồ  chơi, bản thân tôi đã tham khảo một số đề tài của một số đồng nghiệp, các giáo viên đã  
  2. làm về sử dụng hiệu quả đồ dùng trong giảng dạy. Riêng bản thân tôi mạnh dạn đưa ra   một số phương pháp sử dụng hiệu quả đồ dùng, đồ chơi trong giảng dạy vào đề tài này. Điểm mới của đề  tài đó là: Cách thức sử dụng và bảo quản đồ  dùng có hiệu quả;   chú trọng thực hiện các kỹ  năng tạo thành đồ  dùng đồ  chơi thẩm mỹ  đảm bảo tính giáo   dục; Quản lý và trao đổi đồ  dùng giữa các lớp; Đề  ra nguyên tắc sử  dụng đồ  dùng cho   bản thân.   1.3.  Pham vi ap dung cua đê tai sang kiên: ̣ ́ ̣ ̉ ̀ ̀ ́ ́ ́ ỹ thuật “Sử dụng hiệu quả đồ dùng trong giảng dạy trẻ Mầm   Đê tai sang kiên k ̀ ̀ ́ non” được thực hiên trong năm hoc 2015­2016. Đê tai này co thê ap dung đôi v ̣ ̣ ̀ ̀ ́ ̉ ́ ̣ ́ ơi t ́ ất cả 3   độ  tuổi của trẻ  mẫu giáo trong nhà trường những năm tiếp theo và có thể  áp dụng rông ̣   ̃ ối với các trương mâm non trên đ rai đ ̀ ̀ ịa bàn huyên L ̣ ệ Thuy. ̉ 2. PHẦN NỘI DUNG.             2.1. Thực trạng của đề tài: Khi thực hiện đề tài này, tôi gặp những thuận lợi, khó khăn sau: a.     Thuận lợi: ­ Trong những năm học gần đây, nhà trường đã được cấp phát khá nhiều đồ  dùng  phục vụ công tác chăm sóc, giáo dục trẻ. ­ Ban Giám hiệu nhà trường luôn quan tâm góp ý, chỉ đạo và tạo điều kiện cho tôi  cũng như  đồng nghiệp sử  dụng đồ  dùng dạy học hiệu quả  qua các đợt thao giảng, dự  giờ. ­ Bản thân tôi đã được tham gia các đợt làm và triển lãm đồ dùng dạy học, học hỏi kinh   nghiệm từ các bạn học ở các trường cũng như các đồng nghiệp đi trước ­ Đặc biệt, trong quá trình công tác, được sự  hỗ  trợ, giúp đỡ, góp ý của Ban Giám   hiệu và đồng nghiệp, tôi đã tham gia  các hội thi đồ dùng dạy học cấp huyện, cấp tỉnh và  đạt được kết quả cao. ­ Trường Mầm non Hoa mai nơi tôi công tác là một trường bán trú, thời gian tiếp   xúc với trẻ nhiều hơn, tổ chức các hoạt động phong phú hơn, do đó tôi dễ vận dụng từng  đồ  dùng, đồ  chơi cũng như  các yếu tố  khác trong môi trường lớp học vào việc tổ  chức   hoạt động cho trẻ. Nhờ vậy, tôi có thể dễ dàng khảo sát được tính hiệu quả của đồ dùng  đó trong từng hoạt động để linh hoạt bổ sung, hoàn chỉnh. b. Khó khăn ­ Nếu thống kê theo danh mục đồ dùng đồ chơi, thiết bị dạy học tối thiểu dùng cho  giáo   dục   mầm   non   (Thông   tư   số   02/2010/TT­BGDĐT02/2010/TT­BGDĐT) chuẩn   đồ  dùng của ngành học Mầm non thì vẫn chưa đủ, đồng bộ, đôi khi thừa loại này nhưng  thiếu loại khác. ­ Thời gian để  làm những bộ  đồ  dùng dạy học có chất lượng cũng chiếm lượng   nhất định, nhưng trong điều kiện lớp bán trú, quy chế nhà trường không có thời gian cho   việc làm đồ  dùng dạy học, và thời gian để đầu tư  soạn giảng, hoàn thành hồ  sơ  sổ  sách   và học tập nâng cao gần như chiếm hết thời gian những ngày nghỉ của tôi cũng như đồng  
  3. nghiệp, chưa tính đến kinh phí làm đồ  dùng, tuy là sử  dụng phế  liệu, phế phẩm, nhưng   vẫn tốn chi phí trong quá trình thao tác làm ra đồ dùng. Do đó, số bộ đồ dùng tự tạo ở mỗi   lớp không nhiều nên thường xuất hiện tâm lý là những bộ  đồ  dùng tạo ra chỉ  để  dự  thi,   triển lãm, “chạy theo thành tích” mà ít cho trẻ được sử dụng. ­ Ở mỗi lớp đều có đồ dùng, đồ chơi khác nhau, nhưng việc mượn – trả gặp nhiều   khó khăn nên tâm lý cho mượn đồ  dùng giữa lớp này với lớp khác vẫn còn có sự  e dè,  không nhiệt tình, và đôi khi là “từ chối khéo”. ­ Mặt khác, tuy đa số giáo viên đều nhận thức được sự  cần thiết của đồ  dùng học   tập trong mọi hoạt động của trẻ, vận dụng đồ dùng đồ chơi đúng nơi, đúng lúc, sáng tạo.   Tuy nhiên, đôi lúc chưa khai thác hết đồ  dùng trong một hoạt động, hoặc phải chuẩn bị  quá nhiều đồ dùng trong khi chỉ cần 1 hay một vài đồ dùng trong những đồ dùng đó là có   thể đáp ứng tốt yêu cầu của các nội dung hoạt động. ­ Các thông tin, tài liệu về việc sử dụng đồ dùng, đồ chơi hiệu quả không nhiều, và   có phần trừu tượng, chung chung, không cụ  thể  nên việc vận dụng thực tế  thường theo   tâm lý chủ quan của mỗi người. Điều này không tiêu cực nhưng lại có nhiều hạn chế. Từ những thuận lợi và khó khăn của thực trạng vấn đề, qua thời gian công tác ứng   dụng đề tài vào việc giảng dạy, tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm nhằm khắc phục  những hạn chế như sau:           2.2. Một số biện pháp thực hiện: 2.2.1. Sử  dụng và phát huy hiệu quả  của đồ  dùng được cấp phát và tận dụng   môi trường lớp học. a. Sử dụng hiệu quả đồ dùng được cấp phát và đồ dùng có trong trường. Sử dụng hiệu quả đồ dùng, trước hết tôi thường chú ý đến việc sử dụng hiệu quả  đồ  dùng được cấp phát. Có rất nhiều hoạt động không nhất thiết giáo viên phải hì hục   thiết kế đồ dùng thật kỳ công, tạo ra nhiều đồ dùng mới lạ mà quên hẳn những đồ dùng   đồ chơi được cấp phát cũng có thể mang lại hiệu quả tương tự, thậm chí là cao hơn, còn   đồ dùng đã làm ra thì lại thấy không cần thiết và hiếm khi dùng đến. Ví dụ: Trong một tiết làm quen văn học, để  phục vụ  cho mục đích dạy trẻ  đọc   thơ  ,một giáo viên đã kỳ  công vẽ tranh để  dạy trẻ mất rất nhiều thời gian, trong khi   đó  trường đã cấp phát cho lớp một bộ tranh rất đẹp có thể sử dụng rất tốt cho hoạt động mà  không mất nhiều thời gian. Hay trong các hoạt động ngoài trời, một số cô kỳ công chuẩn bị rất nhiều đồ dùng,   đồ chơi cho trẻ hoạt động mà lại không cho trẻ được chơi các trò chơi trong sân trường. Bên cạnh đó, tôi cũng thường xuyên sử  dụng đồ  dùng  ở  trong lớp như  gậy, vòng,  cờ, bóng,…; Nhạc cụ, trang phục hóa trang ở  phòng âm nhạc. Tôi sử  dụng vào các hoạt  động tổ chức trò chơi trên lớp, đóng vai nhân vật trong các tình huống tổ chức hoạt động  hoặc sử dụng làm đồ dùng chính trong các hoạt động của trẻ. Ví dụ  như  sử  dụng trang phục trong phòng âm nhạc cho trẻ  làm quen với trang   phục các vùng miền; Làm quen với các loại nhạc cụ; Chơi trò các trò chơi như “kéo co”,   các trò chơi có lồng ghép các vận động như bật liên tục qua các vòng, ném, tung bắt bóng, …
  4. Ngoài việc sử  dụng đúng chức năng, mục đích sử  dụng đồ  dùng, tôi còn chú ý  nhiều đến việc sử dụng đồ dùng đúng lúc, đúng chỗ, đúng cường độ sử dụng đồ dùng. Ví  dụ như trong các tình huống đặt câu đố với trẻ thì trước đó, tôi chú ý không cho đồ  dùng  được đố   ở  nơi mà trẻ  có thể  nhìn thấy được cho đến khi có đáp án. Hay trong việc  chuyển tiếp hoạt động, nếu đồ dùng không còn sử dụng cho hoạt động tiếp theo thì cũng  không đặt trong tầm quan sát của trẻ  để  tránh cho trẻ  bị  phân tâm, mất tập trung trong   hoạt động kế  tiếp. Hoặc trong việc sắp xếp, chọn vị trí đặt đồ  dùng, tôi thường chú ý   đến tính hợp lý của vị trí đồ dùng để  hoạt động bảo đảm tính tự  nhiên, khoa học. Ví dụ  như trong các mô hình, con người, con vật, hoa, cỏ, phương tiện giao thông không đặt cao   hơn cái nhà hay cây xanh; đồi núi, mây, mặt trăng, mặt trời không được thấp hơn các nhà   cửa, cây cối,… Tôi thường chú ý đến việc sử dụng đồ dùng giữa các hoạt động. Tôi thường tránh   việc sử dụng lại đồ  dùng quá 2 lần với cùng một cách thức sử  dụng trong 1 chủ  đề. Ví   dụ  như tuần này sử dụng khung rối để  kể  chuyện thì lần sau hay tuần sau, tôi sẽ  không   sử dụng khung rối đó kể chuyện nếu như chưa thêm thắt chi tiết, trang trí cho khung rối   những chi tiết mới mẻ, phù hợp với nội dung hoạt động. Và cũng không phải với hoạt   động làm quen văn học nào tôi cũng sử dụng các hình thức giống nhau với các đề tài khác  nhau. Ví dụ: Trong chủ đề gia đình Tuần   1:   Kể   chuyện   “chú   vịt   xám”   Kể   lần   1   kết   hợp   tranh,   lần   2   kết   hợp   Powerpoint. Tuần 2: Kể chuyện “Cô bé quàng khăn đỏ”; Kể lần 1 tôi kể kết hợp tranh; Kể lần   2 kết hợp mô hình. Tuần 3: Thơ “Thăm nhà bà”; Đọc thơ lần 1 kết hợp cử chỉ điệu bộ, lần 2 kết hợp   mô hình, sau đó tôi sử dụng mô hình cho trẻ chơi trò chơi “Về đùng nhà”. Mặt khác, tôi còn thêm thắt chi tiết cho đồ dùng cấp phát hoặc phối hợp những đồ  dùng cấp phát để tạo thêm hiệu quả sử  dụng mới cho đồ  dùng. Ví dụ  như  sử dụng mặt  sau của kệ để tổ chức các trò chơi học tập, làm giá treo sản phẩm tạo hình,…; Trang trí   các chi tiết khác nhau cho khung rối, tạo cho khung rối sự mới mẻ trong nhiều ho ạt động  làm quen văn học hay các hoạt động khác; Sử dụng 2 bảng to kết hợp phông màn của lớp  để làm sân khấu rối;… b. Tận dụng hiệu quả môi trường lớp học. Ngài ra, tôi còn chú ý tận dụng hiệu quả môi trường lớp học cũng như các đồ dùng  khác trong việc tổ chức hoạt động cho trẻ. Theo tôi, việc sử dụng đồ dùng hiệu quả hay   không còn tùy thuộc nhiều vào việc sắp xếp, bố  trí đồ  dùng, đồ  chơi trong môi trường  lớp học và tận dụng các đồ  dùng trong lớp như  đồ  dùng phục vụ  bán trú, hay chính đồ  dùng cá nhân của trẻ. Ví dụ: Trong lớp học, tôi thường tận dụng các khung cửa, cửa sổ, cạnh góc tường   để   tạo các tình huống gợi mở vấn đề  cho trẻ  hoạt động; Sử  dụng thùng chứa nước lọc  để tổ  chức các thí nghiệm về  nước như “Nước chảy đi đâu?”, sự  bốc hơi của nước,…;  Sử dụng khăn cho trẻ  làm búp bê; Ngoài ra, tôi còn sử  dụng giá ca, giá dép vào các hoạt 
  5. động khám phá của trẻ  như  các hoạt động tìm hiểu, phân loại các nhóm thực phẩm, đồ  dùng gia đình, quá trình phát triển của cây,… Khi tổ chức hoạt động, tôi thường tận dụng tối đa không gian lớp để trẻ được hoạt   động thoải mái, với từng nội dung hoạt động, tôi thường định hình trước khoảng không   gian cần cho trẻ hoạt động, bố trí các đồ dùng tạo cho trẻ sự thuận lợi trong hoạt động. Ví dụ như hoạt động góc tôi thường sử dụng góc chơi có tíêng động nhiều hơn như  góc xây dựng, phân vai ở gian trước vì nó gần cứa chính hơn và tiếp xúc với nhiều tiếng ồn   hơn so với gian sau; Gian sau thường sử dụng cho hoạt động  hoạt động thực hành, đọc sách,  thư giãn, góc học tập và nghệ thuật vì nó yên tĩnh hơn. Ví dụ: Trong một tiết làm quen văn học, để phục vụ  cho mục đích kể chuyện với   rối, một giáo viên đã kỳ công làm một khung rối mất rất nhiều thời gian, trong khi khung   rối được cấp phát thì nằm chỏng trơ ở phòng kho. Thay vì với khung rối đó, trang trí thêm   một vài chi tiết đã có thể sử dụng rất tốt cho hoạt động mà không mất nhiều thời gian. Hay trong các hoạt động ngoài trời, một số cô kỳ công chuẩn bị rất nhiều đồ dùng,   đồ chơi cho trẻ hoạt động mà lại không cho trẻ được chơi các trò chơi trong sân trường. Bên cạnh đó, tôi cũng thường xuyên sử  dụng đồ  dùng  ở  trong lớp như  gậy, vòng,  cờ, bóng,… Nhạc cụ, trang phục hóa trang  ở  phòng âm nhạc. Tôi sử  dụng vào các hoạt   động tổ chức trò chơi trên lớp, đóng vai nhân vật trong các tình huống tổ chức hoạt động  hoặc sử dụng làm đồ dùng chính trong các hoạt động của trẻ. 2.2.2 Làm và sử dụng đồ dùng tự tạo hiệu quả. Muốn sử  dụng đồ  dùng tự  tạo hiệu quả  thì phải tính toán ngay từ  khâu chuẩn bị  làm đồ dùng đó để tránh lãng phí thời gian, công sức và tiền bạc. Tôi thường làm những đồ  dùng, đồ  chơi mà thật sự lớp không có hoặc không thay   thế  được. Đồ  chơi được làm cũng tính nhiều đến tính hiệu quả, tần suất sử  dụng đồ  dùng để tránh lãng phí thời gian, công sức và tiền của. Khi bắt tay vào làm đồ  dùng, tôi thường chú ý đến tính sư  phạm, tính mỹ  thuật,  tính  kỹ thuật, tính kinh tế, tính sáng tạo của đồ dùng. Những đồ  dùng tôi đã làm, đang được sử  dụng trong lớp đa số  từ  các nguyên vật   liệu gần gũi nhất, dễ tìm thấy nhất ở bất cứ nơi đâu. Đầu tiên là sử  dụng những nguyên  vật liệu có thể  sử  dụng được ngay mà không cần tái chế  lại hay tái chế  rất ít, tốn thời  gian ít nhất. Ví dụ  như  rơm, vỏ  sò, sỏi, lá cây, chai nước ngọt, hộp sữa, muỗng và hộp   sữa chua, đĩa CD,  ống hút, dây chun, lịch cũ, que kem… Với những nguyên vật liệu đó,  trẻ có thể thao tác, chơi rất nhiều hoạt động khác nhau như xếp hàng rào, xếp sân khấu,   chơi bán hàng,… Đầu tiên tôi chú trọng cho trẻ chơi các trò chơi dân gian, truyền thống từ những đồ  chơi sẵn có trong thiên nhiên hoặc làm các đồ chơi truyền thống như   nhảy lò cò, làm tò  he, làm con trâu bằng lá mít, làm kèn,…. Các hoạt động này không mất của tôi nhiều thời   gian, công sức để chuẩn bị đồ chơi nhưng mang đến hiệu quả giáo dục, phát triển rất tốt   cho trẻ. Sau đó, từ  những nguyên vật liệu nguyên sơ, dễ  tìm đó, tôi tạo ra những đồ  chơi  khác nhau .Trước tiên tôi làm những đồ  chơi đơn giản, trẻ  có thể  thực hiện cùng với cô  trong hoạt động vui chơi, tạo hình ngoài tiết học, đó là những đồ  dùng tôi đã thực hiện  
  6. như: Bình hoa, ngôi nhà, tranh sáng tạo, búp bê, chiếc hộp nhiều ngăn, đồng hồ  số, cây   cảnh, các hình học,… Với những đồ  dùng này tôi chỉ  cần chuẩn bị  các hộp sữa, vòng   bánh sinh nhật, muỗng sữa chua, đĩa CD, lon bia, gáo dừa, quả cau già, nhánh cây khô, vỏ  bút chì sau khi chuốt,… Tôi cắt những phần khó của đồ chơi, sau đó hướng dẫn trẻ sắp  xếp và dán ngay ngắn các phần lại với nhau để tạo thành một đồ chơi. Và với những đồ  chơi này, trẻ  đã chơi được rất lâu, sử  dụng được tất cả  các chủ  đề  trong những hoạt  động làm với, môi trường xung quanh, làm quen với toán,…   2.2.3. Tuyên truyền về hiệu quả đồ dùng đến phụ huynh. Đầu tiên là việc tuyên truyền đến phụ  huynh về  ý nghĩa của các đồ  chơi gắn với  trò chơi dân gian, gần gũi, sử dụng các nguyên vật liệu sẵn có, rẻ tiền. Cuộc  sống bộn bề ngày nay đã làm cho phụ huynh không còn thời gian để nghĩ đến  những việc đó mà thay thế hoàn toàn bằng trò chơi, đồ chơi hiện đại, được sản xuất trên  các dây chuyền công nghiệp hiện đại. Trên thị  trường đồ  chơi ở  Việt Nam, đồ  chơi của  Trung Quốc và nước ngoài chiếm đa số. Có hàng trăm loại đồ chơi với nhiều chủng loại,  giá cả, chất liệu, mẫu mã khác nhau. Bên cạnh một số đồ  chơi mang tính giáo dục, phát  huy trí tuệ, sự  thông minh, khả năng khám phá của trẻ  cũng có những đồ  chơi không an   toàn, kích động tính hiếu chiến, bạo lực như súng, gươm, siêu nhân cầm vũ khí, mặt nạ  dữ  dằn v.v... và nhiều đồ  chơi phản cảm, gây sợ  hãi, không có tính chân ­ thiện ­ mỹ  đã   gây tác hại không nhỏ đến tâm lý trẻ. Đồ chơi, trò chơi truyền thống chính là một phần của văn hoá dân tộc. Từ việc giáo  dục cho trẻ  hiểu biết về  bản sắc văn hoá dân tộc qua đồ  chơi, trò chơi dân gian Việt  Nam, những đồ chơi, trò chơi dân gian được phục hồi sẽ giúp cho trẻ có cơ hội được tiếp   cận với văn hoá cổ truyền và có thêm đồ chơi, trò chơi, thêm niềm vui từ khả năng kinh   tế còn hạn hẹp của cha mẹ. Với các trò chơi như  thả  diều, thổi sáo, ném còn, pháo đất,  chọi gà, chọi chim, đánh quay, chơi ô ăn quan, nhảy dây, đá cầu v.v... không cần những   đồ chơi tốn kém mà chỉ tận dụng những vật liệu sẵn có, và tốn rất ít công sức là có thể  làm được một đồ chơi rất vui cho trẻ, những đồ chơi cho các trò chơi này trẻ cũng có thể  tự chuẩn bị được. Bên cạnh việc tuyên tuyền về đồ chơi, trò chơi truyền thông, đồ chơi tự tạo là loại  đồ chơi làm bằng nguyên vật liệu đơn giản, dư thừa mà ở bất cứ đâu cũng có. Phụ huynh  có thể dễ dàng tự làm cho con và hướng dẫn con cùng chơi. Đây là một quá trình sáng tạo   cần thiết, tập cho trẻ em nhiều kỹ năng, giúp các em tự mình có thể làm và sáng tạo trong  quá trình học mà chơi, chơi mà học. Với việc trò chuyện với trẻ về các nguyên vật liệu làm ra đồ dùng đồ chơi và cách   làm ra đồ dùng đồ chơi đó, trẻ đã trở thành một tuyên truyền viên tích cực cho việc tuyên  truyền đến phụ huynh về các đồ dùng đồ chơi có tính chất giáo dục phù hợp với trẻ. Từ  đó, phụ  huynh tích cực hơn trong việc hỗ  trợ  các nguyên vật liệu phế  thải, và nguồn  nguyên vật liệu này rất phong phú, có nhiều vật liệu là phế  thải từ  đặc thù ngành nghề  của phụ huynh. Mặt khác, phụ huynh cũng tỏ ra rất hứng thú trong việc làm các đồ dùng,   đồ chơi từ các vật liệu phế thải thay cho các đồ chơi mua trôi nổi trên thị trường.
  7. Tôi thường trưng bày đồ  dùng, đồ chơi mình đã làm được ở những nơi phụ huynh   dễ nhìn thấy, tôi giải thích với phụ huynh về cách làm đồ dùng, ý nghĩa của đồ dùng như:   đồ dùng tự tạo sẽ an toàn hơn, vệ sinh hơn các đồ dùng đồ chơi trôi nổi, không rõ nguồn  gốc như hiện nay, mặt khác đồ  dùng đồ  chơi tự  làm có tác dụng giáo dục trẻ  mang tính  tích cực hơn, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường, phát triển tính sáng tạo của trẻ  và  tiết kiệm chi phí mua đồ chơi cho trẻ. Nhiều phụ huynh đã tò mò về các đồ  dùng và bắt  đầu làm cho trẻ những đồ dùng như ở lớp cho trẻ chơi. Từ  những hoạt động phối hợp với phụ huynh, trẻ lớp tôi đã dần dần ít vòi ba mẹ  mua đồ  chơi hơn, còn phụ  huynh thì quan tâm hơn đến việc cho con chơi gì và chơi như  thế nào để không ảnh hưởng tiêu cực đến trẻ, đặc biệt hơn, có phụ huynh còn mang tặng  lớp đồ chơi mà mình đã làm được. 2.2.4.  Quản lý đồ dùng và trao đổi đồ dùng giữa các lớp. Với những đồ dùng được cấp phát cũng như tự tạo tôi làm được cũng như phụ huynh   hỗ trợ, tôi đều cập nhật đầy đủ vào sổ tài sản của lớp, có ghi chú rõ ràng. Với những đồ chơi tự tạo, tôi thường mô tả tóm tắt về đồ dùng, chú thích về cách sử  dụng đồ dùng.  Tôi thường cập nhật tất cả các đồ  dùng tự  tạo trong lớp thành một bảng thống kê  riêng theo của lớp và cùng triển khai các lớp khác trong tổ. Các lớp trong tổ khi cần đồ dùng   nào sẽ mượn đồ dùng đó, có ký mượn, ký trả rõ ràng. Hoạt động này đã giúp các lớp trong tổ  tôi thuận lợi hơn trong việc quản lý và làm đồ dùng. Việc mượn, trả đồ  dùng được thực hiện nghiêm túc, nhiệt tình. Các lớp đảm bảo   mượn và trả  đúng đồ  dùng, đúng thời gian quy định, không làm hỏng hay tổn thất đồ  dùng. Đối với các đồ dùng còn thiếu để  phục vụ cho chủ đề, tôi vận động các giáo viên   trong tổ  sẽ  cùng nhau phối hợp, sưu tầm thêm đồ  dùng phục vụ  cho chủ  đề, đề  tài đó.   Khi chọn tranh ảnh, vật thật, tài liệu phục vụ cho chủ đề, đề tài chú ý đến tính điển hình,  phản ánh trung thực và chính xác, đảm bảo tính khoa học, tính sư phạm và tính mỹ thuật  để không mất thời gian và công sức sưu tầm đồ dùng. 2.2.5. Đề ra nguyên tắc sử dụng đồ dùng cho bản thân. Đối với tôi, để sử dụng đồ dùng hiệu quả cần phải có những nguyên tắc sử dụng  đồ dùng, đồ chơi. Với tôi, những nguyên tắc mà tôi đề ra là: ­ Sử dụng đồ dùng phù hợp đề tài, đúng lúc, đúng chỗ, khai thác hiệu quả đồ dùng. ­  Ưu tiên tận dụng đồ  dùng, đồ  chơi có sẵn trong lớp, trong trường kết hợp tận  dụng môi trường lớp học. ­ Thường xuyên tổ chức làm đồ dùng, đồ chơi mới, mỗi tháng bổ sung ít nhất một  bộ đồ dùng, đồ chơi mới có chất lượng và hiệu quả. ­ Bảo quản tốt đồ  dùng, đồ  chơi đã có, gia cố, sửa chữa hoặc thay thế  ngay đồ  dùng hư hỏng. ­ Thường xuyên bổ sung, thay đổi đồ dùng đồ chơi hoặc thay đổi cách chơi để  để  trẻ bị nhàm chán. ­ Việc mượn, trả đồ dùng cần nghiêm túc, không làm hư hao, tổn thất đồ dùng.
  8. ­ Không sử dụng cùng một đồ dùng với cùng hiện trạng và cùng hình thức sử dụng   tương tự nhau giữa các hoạt động, các chủ đề. ­ Lắng nghe góp ý của đồng  nghiệp, không cố chấp, bảo thủ. 2.3. Kết quả đạt được.  Qua việc  ứng dụng thực tiễn trong công tác, qua các đợt thì đồ  dùng cấp huyện,   cấp tỉnh, tôi có các kết quả sau đây: *Đối với  trẻ: ­ Trẻ hứng thú, tích cực hơn và nhớ lâu hơn. ­ Trẻ dần thích chơi các đồ chơi ở lớp hơn các đồ chơi bên ngoài như súng, gươm,   siêu nhân,… ­ Trẻ  có những sáng tạo rõ nét với các đồ  dùng, đồ  chơi, cách chơi, có thể  tự  tạo  nhiều đồ chơi cho mình từ các nguyên vật liệu và đồ chơi ở lớp. ­ Trẻ thể hiện vai chơi và sử dụng đồ chơi rất sáng tạo. Ví dụ như đối với “tiền” ở  góc phân vai, trẻ phân loại “tiền” từ tờ lịch là “tiền đôla”, tiền từ các thẻ số là “tiền Việt  Nam”, hay việc trả  giá, kỳ  kèo; đóng giả  là người Việt Nam hay người nước ngoài, thể  hiện cử chỉ, điệu bộ rất dễ thương, sáng tạo. ­ Qua các đợt thao giảng, dự giờ có cấp trên dự, trẻ lớp tôi được đánh giá là có kỹ  năng chơi rất tốt. Các hoạt động  Số lượng  Sau khi áp dụng các  Kết quả khi chưa áp  trẻ biện pháp đề ra dụng đổi mới ­ Số trẻ hứng thú, tích cực 29 50% ­ 60% 85% ­ 90% ­ Thể hiện tốt vai chơi. 29 55% ­ 60% 85% ­ 90% ­ Có kỹ năng tốt. 29 60% ­ 65% 80% ­ 90% ­ Có sự sáng tạo, đề xuất ý  kiến trong quá trình hoạt  29 25 ­ 30% 60 ­ 70% động. ­ Khắc sâu biểu tượng về  29 60 ­ 65% 85 ­ 95% đối tượng tìm hiểu.   * Đối với giáo viên:   ­ Có thêm nhiều kinh nghiệm trong việc sưu tầm, lựa chọn  nguyên vật liệu để làm  đồ dùng đồ chơi ­ Tôi được Phòng Giáo dục, Ban Giám hiệu, các đồng nghiệp và phụ  huynh đánh  giá cao trong việc sử dụng đồ dùng giảng dạy một cách khoa học, hiệu quả. ­ Tôi đã đạt giải nhất hội thi giáo viên tự  làm và sử  dụng đồ  dùng dạy học cấp  Huyện năm học 2015 – 2016 và đạt giải nhì hội thi đồ  dùng dạy học cấp Tỉnh năm học   2015 – 2016. ­ Bản thân hoàn thành nhiều đồ dùng đảm bảo các tiêu chí của đồ dùng, đồ chơi, sử  dụng hiệu quả, chất lượng cũng như  trao đổi cùng đồng nghiệp để  rút ra nhiều kinh   nghiệm quý báu.
  9. ­ Việc chuẩn bị đồ dùng cho hoạt động không còn là gánh nặng hay áp lực lớn cho   tôi. * Đối với phụ huynh:  Phụ  huynh rất phấn khởi và quan tâm hơn về  việc tự  nguyện đóng góp nguyên  liệu, phế liệu để cô và cháu cùng làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho các hoạt động.   * Bài học kinh nghiệm: Từ những kết quả đạt được, tôi đã rút ra được những kinh nghiệm sau: ­ Cần nhìn nhận đúng hơn về tiêu chí “đồ dùng dạng mở” trong hoạt động giáo dục   trẻ. “Đồ dùng dạng mở” ở đây không phải là đồ dùng giáo viên tự làm từ nguyên vật liệu  phế thải, mà ở tính mở của đồ dùng, đồ chơi, nghĩa là có thể sử dụng cả đồ dùng đồ chơi  cấp phát, nhưng phải làm sao để  trẻ được thao tác, được hoạt động nhiều trên đồ  dùng,  đồ chơi, nghĩ ra các cách chơi khác nhau với đồ dùng, đồ chơi đó chứ không phải là cầm   lên quan sát rồi đặt vào vị trí. Điều đó vô tình tự mình tạo gánh nặng cho mình trong việc  chuẩn bị  đồ  dùng, đồ  chơi cho mỗi hoạt động, mà trẻ  hoạt động không tích cực, hiệu   quả. ­ Khi chuẩn bị đồ dùng, ngoài yếu tố thẩm mỹ còn cần chú ý nhiều đến công năng  sử  dụng đồ  dùng, hạn chế  làm những đồ  dùng chỉ  có thể  phục vụ  cho một hay hai hoạt  động nhất định rồi không dùng đến nữa. Lúc này cần nghĩ đến đồ dùng thay thế để không   phải mất công làm đồ dùng. ­ Trong hoạt động, không nhất thiết phải tự chuẩn bị quá nhiều đồ dùng mà quên đi  đồ  dùng, đồ  chơi được cấp phát trong lớp học cũng như  trong sân trường. Ví dụ  như  thường gặp ở hoạt động ngoài trời, cô chuẩn bị quá nhiều đồ chơi còn đồ  chơi trong sân  trường thì không cho trẻ chơi; Hay hoạt động vui chơi, cô phải mua trái cây, rau củ  cho  trẻ chỉ  với mục đích cho trẻ  chơi đi chợ, còn đồ  trái cây, rau nhựa của lớp thì cô cất đi.  Điều này rất tốn kém và không cần thiết. ­ Giáo viên cần có tinh thần học hỏi, trau dồi kinh nghiệm về  việc sử  dụng  đồ  dùng giữa các lớp, các trường. ­ Đầu tư nhiều hơn vào hoạt động phối hợp với phụ huynh, dặn dò trẻ cùng chuẩn  bị đồ dùng, đồ chơi cho hoạt động, đề tài hay chủ đề tiếp theo sẽ  giảm tải rất nhiều áp  lực về chuẩn bị tài liệu, đồ dùng cho hoạt động của cô. ­ Bản thân có những nguyên tắc về sử dụng đồ  dùng hay những khía cạnh khác sẽ  giúp mình thuận lợi hơn rất nhiều trong công tác. Tuy nhiên, nguyên tắc đó phải khoa  học, không cứng nhắc, biết tiếp thu góp ý của đồng nghiệp. 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của đề tài: Nói chung, trong quá trình dạy học,  việc sử dụng đồ dùng dạy học có hiệu quả sẽ  giúp cho học sinh tiếp thu kiến thức một cách thuận lợi(dễ hiểu bài, hiểu bài sâu sắc hơn  và nhỡ bài lâu hơn). Có được các đồ dùng đồ chơi thích hợp,sử  dụng có hiệu quả người  giáo viên sẽ  phát huy hết năng lực sáng tạo của mình trong công tác giảng dạy, làm cho   hoạt động nhận thức của trẻ  trở  nên nhẹ  nhàncho trẻ  những tình cảm tốt đẹp với bài  học.
  10. + Sử dụng đồ dùng dạy học có hiệu quả còn giúp trẻ phát triển khả năng quan sát,   tư duy và trí tưởng tượng của trẻ, giúp trẻ phát triển toàn diện hơn về mọi mặt (trí, thể,   mỹ...) 3.2. Kiến nghị, đề xuất:  Để cho hoạt động sử dụng đồ dùng đồ chơi trong giảng dạy trẻ đạt hiệu quả cao   hơn, tôi xin đề xuất một số khuyến nghị sau đây: * Đối với nhà trường: ­ Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, tham mưu với cac c ́ ấp, ban ngành, đoàn thể,  các tổ  chức và cá nhân để  huy động có nguồn kinh phí mua sắm các loại đồ  dùng, đồ  chơi, trang thiết bị phù hợp phục vụ các hoạt động trong nhóm, lớp ­ Ban Giám hiệu cần tạo điều kiện hỗ  trợ  về  cơ  sở  vật chất để  làm đồ  dùng như:  Cưa, kéo to để  cưa, cắt các vật cứng, keo các loại.... Bên cạnh đó tổ  chức các đợt triển  lãm đồ  dùng dạy học mà ở đó có sự  tham gia của phụ huynh, triển lãm và khuyến khích  tinh thần hỗ trợ làm đồ dùng đồ chơi của phụ huynh, trong đó có hoạt động thực tế bằng   việc cho trẻ tham quan, vui chơi với những đồ chơi triển lãm đó. * Đối với Phòng Giáo dục & Đào tạo: ­ Phát động phong trào thi đua làm đồ dùng dạy học thường xuyên. ­ Thường xuyên tổ chức triển lãm về đồ dùng đồ chơi tự làm từ nguyên vật liệu sẳn   có ở địa phương để tạo điều kiện cho giáo viên các trường học hỏi lẫn nhau. * Đối với địa phương: Tạo điều kiện về nguồn kinh phí cho nhà trường tăng trưởng cơ  sở  vât chât, tu s ̣ ́ ửa  ́ ương l nâng câp tr ̀ ơp tao điêu kiên cho tr ́ ̣ ̀ ̣ ẻ hoạt động. Muốn sử dụng đồ dùng đồ chơi hiệu quả thì trước hết cần phải có đồ dùng đồ chơi   phù hợp, đồ dùng có bao gồm cả đồ dùng đồ chơi cấp phát và tự tạo. Nhưng hiện nay đồ  dùng cấp phát vẫn còn thiếu và đồ dùng tự tạo thì dù ít hay nhiều cũng cần kinh phí làm   đồ  dùng,  Do đó, cần có sự  hỗ  trợ  nhiều hơn về  thiết bị  tối thiểu trong lớp và kinh phí  cho việc làm đồ dùng, đồ chơi từ các cấp. Từ thực tế lớp tôi phụ trách, với những khó khăn mà bản thân tôi gặp phải tôi đưa ra  một số  biện pháp, những kiến nghị, đề  xuất để  tháo gỡ  những vướng mắc trong việc   nâng cao chất lượng hiệu quả  tổ  chức các hoạt động vui chơi trong trường mầm non.   Mong rằng những biện pháp này sẽ  được áp dụng một cách có hiệu quả  khi được các  cấp, các đồng nghiệp góp ý, bổ sung thêm và tích cực đổi mới trong công tác vận dụng để  nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, đáp ứng với nhu cầu giáo dục trong giai đoạn  hiện nay. Trên đây là một số  sáng kiến và đề  xuất nhỏ  của tôi, để  bản sáng kiến được hoàn  thiện hơn, có hiệu quả hơn rất mong được sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học và  các đồng nghiệp bổ sung cho sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn thiện và đầy đủ hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!        
  11.                         MỤC LỤC 1. PHẦN MỞ ĐẦU: ..........................................Trang 1 1.1. Lý do chọn đề tài:......................................Trang 1
  12. ̣ ́ ̣ 1.2. Pham vi ap dung c ủa đề tài:........................Trang 2 2. PHẦN NỘI DUNG:.......................................Trang 2 2.1. Thực trạng:...............................................Trang 2     a. Thuận lợi:.....................................................Trang 2 b. Khó khăn:.....................................................Trang 2 2.2. Một số biện pháp thực hiện...........................Trang 3 2.2.1. Sử dụng và phát huy hiệu quả của đồ  dùng được cấp phát và tận dụng môi  trường lớp học..........Trang 3 2.2.2. Làm và sử dụng đồ dùng tự tạo hiệu quả.....................Trang 6 2.2.3. Tuyên truyền về hiệu quả đồ dùng đến phụ huynh........Trang 7 2.2.4.  Quản lý đồ dùng và trao đổi đồ dùng giữa các lớp........Trang 9 2.2.5. Đề ra nguyên tắc sử dụng đồ dùng cho bản thân..........Trang 9 2.3. Kết quả đạt được:.................................................Trang 10 * Đối với  trẻ:............................................................. Trang 10 * Đối với giáo viên:.......................................................Trang 11 * Đối với phụ huynh:.....................................................Trang 11 * Bài học kinh nghiệm: .................................................Trang 11 3. PHẦN KẾT LUẬN: ...................................................Trang 12 3.1. Y nghĩa c ́ ủa đề tài:...... ...........................................Trang 12 3.2. Kiến nghị, đề xuất:.................................................Trang 12    
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1