intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một vài kinh nghiệm rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp Một dân tộc thiếu số ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

Chia sẻ: Hòa Phát | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:30

36
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thực hiện đề tài này với mục đích nâng cao khả năng đọc đúng và tìm ra biện pháp hữu hiệu khắc phục, giải quyết triệt để lỗi phát âm sai tiếng Việt của học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số. Từ đó góp phần nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân, nâng cao chất lượng đọc của học sinh nhất là đọc hiểu tiếng Việt, dần dần nâng cao chất lượng môn học tiếng Việt của học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số, góp phần đưa chất lượng giáo dục ngày một tốt hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một vài kinh nghiệm rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp Một dân tộc thiếu số ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

  1. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu I. PHẦN MỞ ĐÀU 1.  Lý do chọn đề tài  Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Non sông Việt Nam có trở  nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để  sánh  vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở  công học tập của các em”. Thực hiện lời dạy đó của Người, thế  hệ  trẻ  đã và   đang ra sức học tập, phấn đấu để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và   từng bước sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế  giới. Quá trình học  tập, phấn đấu của thế hệ trẻ là một quá trình phát triển lâu dài. Để  sau này trở  thành những chủ nhân góp phần dựng xây đất nước thì mỗi cá nhân phải có sự  rèn luyện và nỗ lực ngay từ đầu. Sự phát triển của mỗi cá nhân có sự  đóng góp   quan trọng của người thầy, người cô, đặc biệt là lúc bắt đầu bước vào tuổi đi  học. Trong xu thế  phát triển của đất nước hiện nay, từ  những thay đổi quan  trọng về kinh tế, xã hội, đòi hỏi giáo dục phải nâng cao chất lượng giảng dạy.   Để nâng cao chất lượng giảng dạy, mỗi giáo viên phải không ngừng học tập và   trao dồi kiến thức nhằm tìm ra phương pháp giảng dạy phù hợp để  truyền thụ  cho học sinh. Ở trường tiểu học môn Tiếng Việt  có nhiệm vụ vô vùng quan trọng đó là   hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói ­ đọc – viết cho học sinh. Kỹ năng đọc là một  trong số công cụ sử dụng trong học tập và trong giao tiếp. Kỹ năng đọc có nhiều  mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu   được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm.   Có đọc đúng thì mới viết đúng, mới hiểu được nội dung mình vừa đọc. Chính vì  thế   kỹ năng đọc có một vị trí quan trọng không thiếu được trong chương trình  môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học.       Cùng với kỹ năng viết, kỹ năng đọc có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các em  cái chìa khóa để vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết các em  có điều kiện nghe lời thầy giảng trên lớp, sử  dụng sách giáo khoa, sách tham  khảo,...,từ đó có điều kiện học tốt các môn học học khác có trong chương trình.  Đặc biệt đối với học sinh lớp 1 ­ lớp đầu cấp ­ các em  bắt đầu làm quen  với: Nghe, nói, đọc, viết. Và kỹ năng đọc rất quan trọng, nếu kỹ năng đọc được  rèn luyện tốt, hình thành tốt  ở  các em nó sẽ  giúp các em đọc tốt suốt cả  cuộc   đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học,   hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài văn mình vừa đọc, hiểu được   các lệnh các yêu cầu trong các môn học khác. Mặt khác ở lớp Một các em được  tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em  nắm  GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 1
  2. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu bắt được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt, sẽ  học vững vàng, học  tốt hơn. Và các em sẽ ham học, tích cực trong học tập hơn.  Việc dạy đọc ở lớp  1 cũng quan trọng bởi từ chỗ các em còn phải đọc đánh vần từng tiếng đến việc   đọc thông thạo được một văn bản là việc tương đối khó với các em mà mục tiêu  của giờ dạy Tiếng Việt là phải hướng đến giáo dục học sinh yêu tiếng Việt từ  đó cảm nhận sự  giàu đẹp của âm thanh, sự  phong phú của ngữ  điệu trong môn  học. Thế nhưng hiện nay,  ở trường tiểu học, mặt âm thanh của ngôn ngữ, đặc   biệt ngữ điệu chưa được chú ý đúng mức. Đó là một trong những lý do mà học   sinh của chúng ta đọc và nói còn sai dấu thanh, sai ngữ nghĩa.  Chính vì những lý  do trên mà tôi chọn đề tài  “ Một vài kinh nghiệm rèn kỹ năng đọc đúng cho  học sinh lớp Một dân tộc thiếu số ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu” . 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Mục tiêu: Thực hiện đề tài này với mục đích nâng cao khả năng đọc đúng   và tìm ra biện pháp hữu hiệu khắc phục, giải quyết triệt để lỗi phát âm sai tiếng  Việt của học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số. Từ đó góp phần nâng cao chuyên môn  nghiệp vụ cho bản thân, nâng cao chất lượng đọc của học sinh nhất là đọc hiểu  tiếng Việt, dần dần nâng cao chất lượng môn học tiếng Việt của học sinh lớp 1   dân tộc thiểu số, góp phần đưa chất lượng giáo dục ngày một tốt hơn.  Nhiệm vụ của đề tài: Tìm ra được biện pháp giúp học sinh đọc đúng, biết  sửa sai trong quá trình phát âm tiếng Việt để  học tốt môn Tiếng Việt. Khắc  phục được những lỗi mà học sinh thường mắc phải để mỗi giáo viên có hướng  rèn luyện, bồi dưỡng hiệu quả  việc phát âm tiếng Việt của học sinh dân tộc   thiểu số khi bắt đầu bước vào lớp đầu cấp. 3. Đối tượng nghiên cứu Một vài kinh nghiệm rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp Một dân tộc   thiếu số ở trường tiểu học Võ Thị Sáu. 4. Giới hạn của đề tài Học sinh lớp 1A, Trường Tiểu học Võ Thị Sáu, xã Ea Bông, huyện Krông  Ana, tỉnh Đắk Lắk năm học 2016 – 2017 ( từ tháng 9/2016 đến tháng 3/2017).   5. Phương pháp nghiên cứu ­ Phương pháp nghiên cứu tài liệu ­ Phương pháp trải nghiệm thực tế ­ Phương pháp quan sát ­ Phương pháp thống kê, tổng hợp GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 2
  3. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu II. PHẦN NỘI DUNG  1. Cơ sở lý luận  Như chúng ta đã biết “Ngôn ngữ  là phương tiện quan trọng nhất của loài  người ” (Lê Nin) .“Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng ”(Mác). Ngôn ngữ là phương tiện biểu hiện tâm trạng, tình cảm. Chức năng quan   trọng của ngôn ngữ  đã quy định sự  cần thiết nghiên cứu sâu sắc kỹ  năng đọc  trong phân môn Tiếng Việt và trong hệ thống giáo dục nhà trường. Có đọc thông   thì mới viết thạo, mới hiểu được nội dung mình vừa đọc. Học sinh lớp một chỉ  hoàn thành chương trình khi các em biết đọc chữ .       Chúng ta đều nhận thức sâu sắc rằng, môn Tiếng Việt  ở  tiểu học rèn   luyện cho học sinh cả bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết song mục tiêu của việc  dạy và học Tiếng Việt ở lớp một là đem lại cho các em kỹ năng đọc đúng, viết  đúng. Ngoài ra còn làm giàu vốn từ, biết nói đúng các mẫu câu ngắn và tạo cho  các em sự  ham thích thơ  văn. Đây là điều kiện chuẩn bị để  các em học tốt hơn   môn Tiếng Việt  ở các lớp trên . Khả năng nhận thức, tư duy, tưởng tượng, tình  cảm, trí nhớ và nhân cách học sinh đang được hình thành. Học sinh lớp Một hồn   nhiên, ngây thơ, trong sáng, hiếu động, tò mò, thích hoạt động, thích khám phá,  hay bắt chước. Vì vậy  sự phát triển nhân cách của học sinh Tiểu học phụ thuộc   phần lớn vào quá trình dạy học và giáo dục của thầy, cô giáo trong nhà trường.   Nghe, nói, đọc, viết là bốn kĩ năng cơ  bản của môn Tiếng Việt, để  đạt các yêu   cầu so với chuẩn kiến thức kĩ năng theo quyết định số 16/2006/ QĐ­ BGD& ĐT   ban hành ngày 15 tháng 5 năm 2006. Rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh lớp Một   góp phần giúp các em  hiểu, cảm thụ văn học, rèn luyện tình cảm đạo đức, ý chí,   ý thức, hành động đúng cho trẻ, phát triển khả năng học tập các môn học khác là  điều kiện phát triển toàn diện cho học sinh Tiểu học trong giai đoạn hiện nay.   Nhân cách học sinh Tiểu học phát triển đúng đắn hay lệch lạc phụ  thuộc vào   quá trình giáo dục của người thầy mà trong đó phương tiện chủ yếu là nghe, nói,  đọc, viết có được trong quá trình học tập. Dạy đọc đặc biệt là chú trọng việc  rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số, đòi hỏi người thầy  phải phát âm chuẩn và có phương pháp dạy học phù hợp với đặc điểm tâm sinh   lí của học sinh Tiểu học. Ngày nay với sự  phát triển tiến bộ  của khoa học, xã  hội, giáo dục cần đáp ứng nhu cầu ham hiểu biết của học sinh Tiểu học và tăng  cường giáo dục đạo đức, nhân cách, rèn kỹ năng sống cho trẻ.  Trường tiểu học Võ Thị Sáu có 97,5% học sinh dân tộc thiểu số. Các em  gặp không ít khó khăn trong cuộc sống, sinh hoạt, học tập đó là: thiếu điều kiện   học tập, quá trình học không liên tục, kiến thức nắm không vững chắc, thiếu   động cơ  học tập. Biết đọc, biết viết là mục tiêu số  một  ở  học sinh Tiểu học.   Vốn tiếng Việt là rất cần thiết trước khi học chữ. Không biết hoặc biết ít tiếng   GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 3
  4. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu Việt là trở ngại lớn nhất cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số. Tập nói tiếng Việt  là nhiệm vụ đầu tiên với các em. Học sinh dân tộc cần có vốn tiếng Việt trước   để  học chữ. Bộ  giáo dục  đã có  nhiều văn bản chỉ  đạo như  công văn 9832/   BGD&ĐT ­ GDTH ngày 1 tháng 9 năm 2006, công văn 9890/ BGD&ĐT – GDTH  ngày 17 tháng 9 năm 2007 về  việc hướng dẫn nội dung, phương pháp giáo dục  cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Ngày 9 tháng 8 năm 2008, Bộ Giáo dục và   Đào tạo đã tổ  chức hội nghị  "Triển khai các phương án tăng cường tiếng Việt  (lớp 1) cho học sinh dân tộc thiểu số  ". Tại hội nghị, xuất phát từ  những quan   điểm, lý luận giáo dục và cách tiếp cận gắn với đặc điểm học sinh dân tộc các   vùng miền, năm phương án về chủ đề này đã được trình bày, và trao đổi ý kiến   rộng rãi. Đó là:   Chuẩn bị  tiếng Việt cho trẻ  mẫu giáo trước tuổi đến trường   (Vụ  GD Mầm non). Dạy tiếng Việt trên cơ  sở  tiếng mẹ đẻ  trong chương trình  song ngữ Ê­ đê ­ Việt (Vụ GD Dân tộc).  Nghiên cứu thử nghiệm giáo dục song   ngữ  dựa trên tiếng mẹ  đẻ  (Trung tâm Nghiên cứu GD dân tộc). Dạy học tăng   cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số  ở lớp 1(Nhóm tăng cường năng  lực dạy và học­ Dự  án PEDC).  Dạy học lớp 1 cho học sinh dân tộc chưa biết   nói tiếng Việt (Trung tâm Công nghệ GD). Công văn số 8114/ BGD&ĐT­ GDTH  V/v nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh dân tộc thiểu số ban hành ngày 15   tháng 9 năm 2009.  2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu a. Thuận lơi, khó khăn * Thuận lợi Về giáo viên Được sự  quan tâm, chỉ  đạo sát sao của Lãnh đạo các cấp về  chuyên môn  đã tổ  chức các buổi sinh hoạt chuyên môn bồi dưỡng cho giáo viên, cung cấp   đầy đủ tài liệu, phương tiện giảng dạy.  Được sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu trường: tổ  chức thao giảng, dự giờ  hàng tháng, tổ chức những buổi họp chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút   ra những ý kiến hay, những đề  xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng   dạy. Một số giáo viên trong trường có tay nghề vững, lâu năm trong công tác, có  nhiều kinh nghiệm, có  tinh thần trách nhiệm cao và sẵn sàng giúp  đỡ  đồng  nghiệp về  chuyên  môn cũng  như  cách  tháo  gỡ   những khó   khăn khi  gặp các  trường hợp học sinh khó khăn về học tập cũng như phẩm chất. GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 4
  5. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu Bản thân có kinh nghiệm dạy lớp 1. Về học sinh Ở độ 6 ­ 7 tuổi, đa số các em còn rất ngoan, dễ vâng lời, nghe lời cô giáo,  thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động viên khen thưởng vv…. Một số cha mẹ học sinh có ý thức trách nhiệm đến việc học tập rèn luyện  của con em,  không khoán trắng cho nhà trường cho giáo viên và phối hợp với   giáo viên trong việc giúp con em mình học tập như: Chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ  dùng học tập, thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em đến lớp   cũng như học tập ở nhà. Đa số  các em học sinh được làm quen tiếng Việt ngay sau khi tuyển sinh   vào lớp Một. 100% học sinh được học 8 buổi / tuần.  * Khó khăn  Về nhà trường: Cơ sở vật chất chưa đáp ứng với nhu cầu giảng dạy. Về  giáo viên: Năng lực không đồng đều, số  giáo viên là người dân tộc   thiểu số trong khối chiếm 75% . Tranh  ảnh minh họa có sẵn cho môn Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo viên  còn mất thời gian đầu tư vào làm đồ dùng dạy học. Về học sinh Năm học 2016 – 2017, học sinh dân tộc thiểu số không được cấp phát đầy   đủ sách vở nên một số em đi học còn thiếu sách vở, đồ dùng học tập. Trong lớp   có  85% học sinh là người đồng bào dân tộc thiểu số, tỉ lệ học sinh con hộ nghèo  45%.       Trình độ  học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát   triển,  học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em khó khăn về thể chất, bé nhỏ hơn so  với các bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về  trí nhớ, học trước quên   sau, chậm tiến. Một số em chưa biết cách cầm bút, chưa nhớ các chữ cái, không  có khả năng ghi nhớ. Một số em  chưa có ý thức trong học tập và không muốn đi  học.       Do đặc trưng người dân tộc Ê­ đê các em chủ  yếu   phát âm sai  ở  dấu  thanh, một số phụ âm đầu như p / ph ;  r/d  và vần như êch/ êt; eo/oe,… GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 5
  6. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu  Đa số  các em con nhà nông nên chưa được cha mẹ  quan tâm đúng mức  đến việc học tập, chưa tạo điều kiện tốt để  kèm cặp con em mình học bài, đọc   bài ở nhà. Trong quá trình truyền thụ  kiến thức một số  học sinh hay nghỉ học, tiếp   thu  bài chậm cộng với số học sinh lưu ban của năm học trước, số học sinh ham   chơi không học bài làm cho giáo viên lớp một vốn đã khó khăn nay lại càng khó   khăn hơn. b. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Trong những năm gần đây nhờ  sự  quan tâm chỉ  đạo sát sao của Phòng  GD&ĐT, sự  quan tâm phối hợp của địa phương, sự  chỉ  đạo linh hoạt của Ban   lãnh đạo nhà trường, sự  nỗ  lực của các anh chị  em giáo viên và sự  hợp tác của   cha mẹ học sinh đã tạo nên nguồn động lực lớn thúc đẩy việc dạy và học ngày  càng đi vào khuôn khổ, nề nếp đối với thầy và trò.  Bên cạnh đó việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ   ở  một số  giáo viên  còn hạn chế, bởi: Một vài đồng chí giáo viên tuổi cao, một số  giáo viên là người dân tộc  thiểu số khả năng ứng dụng công nghệ thông tin hạn chế. Một vài giáo viên chưa biết vận dụng các nguyên tắc dạy học môn Tiếng  Việt trong thực hành giảng dạy.  Việc   chuẩn   bị     bài   và   lập   kế   hoạch   bài   dạy   chưa   cụ   thể,   vận   dụng  phương pháp dạy học chưa linh hoạt, chưa đảm bảo quy trình và đặc trưng bộ  môn. Việc hướng dẫn học sinh sửa sai chưa kịp thời, chưa tỉ m ỉ, ch ưa quan tâm  đến việc học tập và sử dụng tiếng phổ thông cho các em ở tại gia đình và trong   cộng đồng. Việc sử dụng đồ dùng, thiết bị  trong quá trình dạy của thầy và học   của trò chưa hiệu quả. Một số giáo viên chưa đầu tư về chuyên môn. Một số  giáo viên chưa coi trọng việc đọc mẫu nên phát âm (đọc mẫu)   chưa đúng với chuẩn. Một số  giáo viên còn phát âm theo ngôn ngữ  địa phương  các vùng miền của mình nên rất khó khăn khi rèn đọc tiếng Việt cho học sinh. GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 6
  7. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu     Một số  giáo viên chưa chú ý đến việc đổi mới phương pháp, hình thức tổ  chức dạy học làm thế  nào để  các đối tượng học sinh nắm được kiến thức  biết đọc , biết viết.             Nguyên nhân là do giáo viên phải dạy nhiều môn, một số giáo viên tuổi  cao nên chưa theo kịp sự đổi mới, chưa chịu khó tìm tòi những phương pháp  dạy học hữu hiệu trong giảng dạy. Vì thế chưa tạo hứng thú lôi cuốn được  sự  tập trung chú ý nghe giảng của học sinh. Bên cạnh đó tiếng Việt lại là  ngôn ngữ thứ hai của các em học sinh dân tộc thiểu số, đây là kiến thức mới   mẻ đối với các em. c. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra   GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 7
  8. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu Năm học 2016 – 2017, tôi được phân công dạy lớp 1A và trực tiếp giảng dạy   môn Tiếng Việt. Khả  năng học tập của các em chưa đồng đều, có em đọc  viết rất tốt nhưng vẫn có em chỉ  biết đánh vần, có em chưa biết đọc. Tuy   nhiên với các em học sinh lớp Một dân tộc thiểu số thì tiếng Việt là môn học   mà các em gặp rất nhiều khó khăn. Cho nên, khi dạy môn Tiếng Việt  nhất là   trong thời gian đầu năm, các em rất lúng túng khi sử  dụng đồ  dùng học tập   và tham gia đọc, viết bài. Thực tế  cho ta thấy việc giúp học sinh lớp 1 dân   tộc thiểu số học tốt tiếng Việt là việc làm cần thiết. Rèn phát âm tiếng Việt   là nhiệm vụ  rất quan trọng đối với giáo viên Tiểu học. Do đó, vấn đề  dạy   rèn phát âm tiếng Việt hiện nay đang được quan tâm, chú trọng. Có nhiều  chuyên đề, phương pháp đặt ra nhằm nâng cao chất lượng phát âm tiếng   Việt, chất lượng đọc cho sinh lớp 1. Đối với học sinh dân tộc thiểu số, tiếng   Việt không phải là ngôn ngữ duy nhất để các em tiếp thu kiến thức và nhận  biết thế  giới xung quanh, các em đến trường với một ngôn ngữ  hoàn toàn   khác ngôn ngữ  thường sử  dụng tiếng mẹ   đẻ, bởi vậy tiếng mẹ   đẻ   ảnh  hưởng nhiều đến quá trình học tiếng Việt của trẻ. Một số  giáo viên chưa   chú ý đến việc rèn phát âm cho học sinh, chưa thấy được tầm quan trọng của   việc đọc đúng, đọc tốt có tác dụng cao trong quá trình dạy học và chưa hiểu  hết tầm quan trọng của môn học Tiếng Việt trong hệ thống giáo dục quốc   dân. Một số  giáo viên thì đã thực hiện tuy nhiên việc thực hiện chưa đúng  cách, chưa phù hợp với thực tế dẫn đến hiệu quả đạt được chưa cao. Đa số  học sinh mặc dù đã được học qua trường mầm non nhưng chưa nắm được   29 chữ  cái. Một số  em gia đình khó khăn cha mẹ  đi làm xa không quan tâm  nhắc nhở các em học tập. Một số em gia đình không hòa thuận, bố mẹ không  chung sống với nhau nữa phải  ở với ông bà nên thiếu sự  giúp đỡ, an ủi khi   học tập. Một số em hay nghỉ học theo cha mẹ đi làm nên tiếp thu kiến thức   không liền mạnh dẫn đến không đọc, viết được. Một số em do tuổi lớn, khó  khăn về  học khả  năng tiếp thu bài hạn chế. Nhận thức được sự  cần thiết  của việc nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt đối với các em học sinh lớp 1 dân   tộc thiểu số, tôi đã tìm tòi đổi mới hình thức tổ chức, đổi mới phương pháp  dạy học với mục đích nâng cao kĩ năng đọc đúng nhằm nâng cao hiệu quả  học môn tiếng Việt đối với học sinh dân tộc thiểu số. Việc học tiếng Việt với học sinh dân tộc thiểu số đặc biệt là học sinh lớp   1 chủ  yếu học qua các hoạt động  ở  trường.  Ở  nhà, các em ít được giao tiếp   bằng tiếng Việt bởi lẽ vốn tiếng Việt của bố mẹ, anh, chị và những người sống   xung quanh các em còn hạn chế. Chính vì vậy các em không được tiếp cận vốn  tiếng Việt do người thân mang lại cho nên việc dạy học tiếng Việt đối với học  sinh lớp 1 càng khó khăn đối với các thầy, cô giáo, những người tâm huyết với  nghề dạy trẻ nhất là những người đang trực tiếp tham gia giảng dạy trong vùng   GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 8
  9. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó một số gia đình còn cho con em nghỉ học đi nương  đi rẫy trong dịp mùa màng. Một số em ít được cha mẹ quan tâm nhắc nhở các em  đi học, còn đổ lỗi và đẩy trách nhiệm cho giáo viên. Việc đi học không đều cũng  ảnh hưởng đến việc học tập của các em. Lớp học có nhiều đối tượng khác   nhau, việc phân chia kiến thức trong một tiết học còn nhiều khó khăn và hạn  chế. Đặc biệt ở lớp tôi dạy với 85% là học sinh dân tộc thiểu số, hoàn cảnh gia  đình nhiều em gặp không ít khó khăn do đó các em đi học còn thiếu thốn nhiều   thứ cụ thể có em chưa có sách vở, có em chưa có bộ quần áo đồng phục, có em   đến lớp quên bút, quên chì, quên bảng con. Thậm chí có em còn không có cặp   đựng sách mà chỉ đựng sách vở bằng chiếc túi ni lông nên việc mất đồ dùng học  tập xảy ra thường xuyên,… Do ảnh hưởng của tiếng mẹ nên đa số  các em tiếp   thu bài chưa tốt, khả năng ghi nhớ chậm. Do đó việc dạy học tiếng Việt cho các  em lại càng khó hơn.       3. Nội dung và hình thức của giải pháp  a. Mục tiêu của giải pháp Việc rèn kĩ năng đọc đúng tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số là việc   làm cấp bách nhằm giúp các em học tốt môn Tiếng Việt. Thông qua đó phát   triển các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho các em. Giúp học sinh hiểu nội dung   kiến thức được học, mở rộng vốn từ, khắc sâu kiến thức, nắm chắc âm vần vừa  học, biết vận dụng vào từng trường hợp cụ thể. Từ đó nâng cao chất lượng dạy   học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số, biết sử dụng tiếng phổ  thông vào trong cuộc sống hằng ngày, giúp các em hòa nhập với cộng đồng. Đó   cũng là giúp các em có kĩ năng giao tiếp, kĩ năng sống tốt trong cuộc sống hằng  ngày. b. Nôi dung và cách thức thực hiện giải pháp Để giúp học sinh rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc đúng tôi đã áp dụng   những biện pháp sau: Giải pháp thứ nhất. Nắm bắt thực trạng của lớp Mặc dù đã được nhận bàn giao học sinh mẫu giáo 5 tuổi ở cuối năm học  trước, xong khi được phân công chủ nhiệm lớp, tôi tiến hành tìm hiểu để biết rõ   số  học sinh trong lớp đi học Mẫu Giáo chuyên cần và số  học sinh đi học chưa   chuyên cần. Tìm hiểu nguyên nhân, lý do vì sao học sinh đó đi học không chuyên  cần và kiểm tra sự nắm bắt, nhận diện chữ cái các em đã học ở Mẫu Giáo bởi vì  GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 9
  10. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu đối với học sinh dân tộc thiểu số  qua thời gian nghỉ  hè các em lại quên hết   những gì đã được học trong năm học trước, kết quả điều tra như sau: Tổng số học sinh lớp 1A                    : 30 học sinh       Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái Học sinh không biết chữ cái nào       :    7 em Biết  2 – 5 chữ cái                             :     3 em Biết  6 – 10 chữ cái                           :     9 em Nhận biết hết bảng chữ cái                :    8 em Nhận biết âm hai chữ cái                   :    3 em    Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng chữ  cái còn thấp dẫn đến kết quả học tập còn gặp nhiều khó khăn.      Một trong những lý do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa có ý thức tự  giác trong học tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm của từng  đối tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho  học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, vui tươi và  các em sẽ thích học.  Giải pháp thứ hai.  Nắm bắt đặc điểm cá nhân và lập kế hoạch giúp  đỡ            Sự tiếp thu của các em khác nhau tuỳ thuộc vào thể trạng và khả năng tiếp  thu của từng em vì vậy chúng ta cần phải nắm rõ đặc điểm tâm lí,…của các em  để  có những phương pháp hình thức dạy học phù hợp. Ví dụ  em Nguyễn Đình  Hoàng tiếp thu bài thì chậm mà bắt chước thì nhanh thích gì thì em thường hay  bắt chước và thường làm đi làm lại hành động đó nhiều lần. Còn em Y En Kơ  Bkrông thì tính tình rất thất thường có lúc vui thì tham gia học, có khi cả buổi chỉ  ngồi trong lớp mà không tham gia hoạt động học cùng các bạn. Còn Y Li Kô  Bkrông có tiếp thu được bài nhưng lại mau quên. Việc tìm hiểu đặc điểm tâm  sinh lý qua thực tế  giao tiếp với các em, tôi luôn nắm bắt đặc điểm tâm lý của  từng em để  xây dựng kế  hoạch cá nhân, phát triển các mặt tích cực, tạo nhiều  tình huống giúp các em tự bộc lộ  khả năng nhận thức của mình một cách thích   thú khi vào các tiết học .           Ở lớp có 30 học sinh nhưng trình độ tiếp thu của các em rất khác nhau.            Ví dụ : Y Câu Êban, Nguyễn Đình Hoàng thích thì học không thích thì thôi,  nhận thức rất chậm suốt buổi em chỉ  loay hoay với quyển sách và hộp chữ  nhưng lại không nhận biết được mặt chữ cái và chỉ biết lặp lại theo lời của cô.   Vì vậy cần có kế hoạch dạy cho em vừa thao tác trên đồ dùng bộ đồ dùng tiếng   GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 10
  11. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu Việt, vừa nhận biết được chữ  cái ( âm), biết phát âm theo yêu cầu chuẩn kiến  thức kĩ năng. Tôi luôn phải chú ý trong quá trình dạy em, theo dõi mức độ  hợp  tác của em xem em gặp khó khăn trong vấn đề  nào hay về  tâm lý thất thường   của em, ghi chép mức độ tiến bộ của em.           Và những học sinh khác trong lớp, tôi cũng có những kế hoạch giáo dục cá   nhân cụ thể cho từng em và được theo dõi liên tục từng tháng để  nắm được sự  phát triển của từng em qua sổ  theo dõi cá nhân, … Khi đó, tôi sẽ  có những  phương pháp, biện pháp phù hợp hơn.  Giải pháp thứ ba.  Biện pháp tác động giáo dục Từ  thực trạng trên tôi đã tiến hành họp cha mẹ  học sinh đầu năm học,   thông qua buổi họp tôi đề nghị và yêu cầu các bậc cha mẹ học sinh trang bị đầy   đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học và thường xuyên nhắc nhở  việc học bài đọc bài ở nhà của con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ  bản về cách đọc, cách  phát âm chữ cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng …để  phụ huynh nắm rõ cách dạy học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà. Tham mưu với nhà trường mua sắm đầy đủ  tài liệu tham khảo, đồ  dùng   dạy học, tự làm thêm tranh  ảnh mô hình, sưu tầm thêm những mô hình vật thật   để tiết dạy vui, sinh động. Mượn đồ  dùng học tập, sách giáo khoa cho học sinh  có hoàn cảnh khó khăn. Đồng thời tăng cường vận dụng  ứng dụng công nghệ  thông tin trong dạy học, qua những hình  ảnh động cũng góp phần gây hứng thú  giúp các em hưng phấn trong luyện đọc . Xây dựng đôi bạn cùng tiến, em có năng khiếu giúp em còn khó khăn trong   học tập. Phát động các phong trào thi đua có tổng kết khen thưởng bằng những vật   thật.  Sắp xếp chỗ  ngồi đảm bảo thuận tiện cho việc học tập của các em như  em có năng khiếu ngồi bên em còn khó khăn trong học tập để  bạn có năng khiếu  sẽ giúp bạn còn khó khăn trong học tập khi chỉ chữ đọc bài, giúp bạn đánh vần,  đọc tiếng và giúp bạn trong thao tác cài chữ để ghép vần, ghép tiếng. Giải pháp thứ tư.  Giúp học sinh nắm vững các âm, vần Ngay từ đầu năm, sau khi phân loại học sinh, tiến hành bồi dưỡng, luyện  tập cho học sinh theo các mức năng khiếu, khó khăn. Đối với các học sinh còn  khó khăn trong học tập, các em chưa nhận diện được mặt chữ  cái hoặc chưa  GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 11
  12. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu nhớ  đủ  29 chữ  cái đơn giản, tôi dành nhiều thời gian để  bồi dưỡng cho đối  tượng này, ôn và dạy lại 29 chữ  cái cơ  bản cho các em bắt đầu học lại những  nét cơ bản.           * Đối với phần học các nét chữ cơ bản            Ngay sau những buổi học đầu tiên ổn định tổ chức nề nếp cho học sinh,   tôi cho các em làm quen với các nét chữ  cơ  bản. Tôi dạy thật kỹ, thật tỉ mỉ tên  gọi và cách viết các nét chữ đó. Để giúp các em dễ hiểu và dễ nhớ những nét cơ  bản đó tôi đã chia các nét chữ cơ bản đó theo tên gọi và cấu tạo gần giống nhau   của các nét chữ  đó thành từng nhóm để  học sinh dễ  nhận biết và so sánh. Dựa   vào các nét chữ cơ bản đã học mà các em phân biệt được các chữ cái, kể cả các  chữ cái có hình dạng, cấu tạo giống nhau hoặc gần giống nhau.            ­ Các nét chữ cơ bản quen thuộc            Dạy về các nét cơ bản, tôi đã sắp xếp, phân chia các nét cơ bản thành các  nhóm để khi đọc học sinh ít nhầm lẫn và dễ dàng nhận biết.              + Nhóm nét thẳng:   nét thẳng đứng                                                      nét thẳng ngang                  + Nhóm nét xiên:     nét xiên trái                                                   nét xiên phải                     + Nhóm nét cong:      nét cong kín  nét cong trên                                                 nét cong dưới              + Nhóm nét móc:      nét móc xuôi phải                                                nét móc xuôi trái                                                nét móc ngược phải                                                nét móc ngược trái                                                nét móc hai đầu                                                nét móc hai đầu có thắt ở giữa              + Nhóm nét khuyết:  nét khuyết trên                                                nét khuyết dưới              + Nhóm nét thắt:       nét thắt                                                nét móc hai đầu có thắt ở giữa GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 12
  13. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu             Khi các em đã học thuộc tên các nét cơ bản, tôi cùng các em phân chia các   chữ cái theo nhóm các chữ cái đồng dạng để dễ dàng luyện đọc. ­ Các chữ viết thường   + Nhóm 1: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét cong: c, o, ô, ơ, e, ê, x.   gồm 7 chữ cái)              + Nhóm 2: Những chữ cái có nét cơ bản là nét cong phối hợp với nét móc   (hoặc nét thẳng): a, â, ă, d, đ, q. (gồm 6 chữ cái)    + Nhóm 3: Nhóm các chữ cái có nét cơ  bản là nét móc: i, t, u, u, p, n, m   (gồm 7 chữ cái)   + Nhóm 4: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét khuyết (hoặc nét cong)  phối hợp với nét móc: l, h, k, b, y, g (gồm 6 chữ cái)    + Nhóm 5: Nhóm các chữ  cái có nét móc phối hợp với nét cong: r, v, s  (gồm 3 chữ cái). ­ Các chữ viết hoa   + Nhóm 1: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc: A , Â , A , M, N ,   U, O , I, K , L   (gồm 10 chữ cái)   + Nhóm 2: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong: O, Â, O , Q, C, E, Ê,   P, R (gồm 8 chữ cái)   + Nhóm 3: Nhóm các chữ  cái có nét cơ  bản là nét móc phối hợp với nét  cong: B, P, R (gồm 3 chữ cái)   + Nhóm 4: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét lượn dọc (lượn ngang)   phối hợp với nét cong: D, D , L, S  (gồm 4 chữ cái)   + Nhóm 5: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét khuyết: H, G, Y  (gồm 3  chữ cái). * Phần học âm Âm đơn           Sau khi học sinh học thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ  cơ  bản thì tôi   giảng dạy tiếp phần học âm (chữ  cái). Giai đoạn học chữ  cái là giai đoạn vô  cùng quan trọng. Các em có nắm vững chắc các chữ cái thì mới ghép được thành   vần, rồi thành tiếng và cuối cùng là thành một câu, một đoạn văn hoàn chỉnh.           Giai đoạn này tôi hướng dẫn các em phân tích từng nét chữ cơ bản trong   từng chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng một tên gọi song có nhiều chữ viết khác  nhau  như chữ a, chữ g thì tiến hành phân tích cho học sinh hiểu và hướng dẫn  học sinh cách nhận dạng để các em không bị lúng túng khi gặp các chữ này.  GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 13
  14. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu  Ví dụ:                          Âm:   a – a     ;      g – g                                           + Âm a (âm a in thường) gồm hai nét: nét cong kín và nét sổ thẳng;           + Âm a (âm a viết thường) cũng gồm hai nét đó là nét cong kín và nét móc  dưới.           + Âm g (âm g in thường) gồm: nét cong kín và nét móc dưới;            + Âm g (âm g viết thường) cũng gồm nét cong kín và nét khuyết dưới.            Vì vậy, khi các em đã nắm các nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ sẽ giúp các  em phân tích được cấu tạo của các âm, từ đó các em dễ phân biệt được sự  khác  nhau về cấu tạo lẫn tên gọi của bốn âm quen thuộc sau: d; b; p; q. Ví dụ: + Âm d gồm hai nét: nét cong kín (nằm bên trái) và nét sổ thẳng (nằm bên   phải). Đọc là: “dờ”. + Âm b gồm hai nét: nét sổ thẳng (nằm bên trái) và nét cong kín (nằm bên   phải). Đọc là: “bờ”. + Âm p gồm hai nét: nét sổ thẳng (nằm bên trái) và nét cong kín (nằm bên   phải). Đọc là: “pờ”. + Âm q gồm hai nét: nét cong kín (nằm bên trái) và nét sổ thẳng (nằm bên   phải). Đọc là: “quy”.  Âm ghép              Sang phần âm ghép (nghĩa là ghép hai hoặc ba âm đơn lại với nhau thành   một âm ghép). Tôi cho học sinh sắp xếp các âm ghép có âm h đứng sau thành  một nhóm và cho các em nói lên điểm giống nhau và khác nhau giữa các âm đó.   Ví dụ:              + Các âm ghép                                         ch   –   c                                          nh   –   n                                              th    –   t                                          kh   –   k                                gh   –   g                                          ph   –   p                                         ngh  –  ng  GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 14
  15. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu             + Còn lại các âm: gi, tr, qu, ng, tôi cho học sinh nhận biết thật kỹ cấu tạo   và cách ghép các chữ thành âm ghép.             + Bên cạnh đó, tôi cho học sinh nhận biết từng cặp những âm có tên gọi  giống nhau hoặc gần giống nhau:                     Ví dụ:           ch   –   tr                                           ng   –   ngh                                           c     –   k                                           g     –   gh   *  Phần học vần   Sang giai đoạn học vần, học sinh đã nắm vững các âm, các em còn được  làm quen với các kiểu chữ hoa: chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho học sinh   nhận biết các kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng.  Để  giúp trẻ  học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen nhận diện,  phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần.             Ví dụ : Bài 72: et – êt.               Việc đầu tiên tôi yêu cầu học sinh tìm trong bộ  đồ  dùng tiếng Việt rồi   ghép vần et. Sau đó cho học sinh nhận diện về cấu tạo vần et: vần et gồm 2 âm,   âm e đứng trước và âm t đứng sau. Nếu em nào ghép chưa đúng thì ghép lại và  nêu vị trí âm trong vần: âm e đứng trước, âm t đứng sau.             Việc thứ hai là đánh vần vần et, tôi gọi 1 em đánh vần rồi nêu cách đánh   vần âm e đứng trước ta đọc e trước, âm t đứng sau ta đọc t sau : e – t – et .   Việc thứ ba là đọc trơn vần et   Với cách dạy trên tôi đã tạo cho các em kỹ năng phân tích, nhận diện và  ghép vần từ  đó các em có kĩ năng đánh vần, đọc trơn vần một cách dễ  dàng và   thành thạo. Khi đã nắm được cấu tạo của vần thì các em sẽ  vận dụng để  đọc  các từ  ngữ  và câu  ứng dụng. Lúc này tôi tiến hành đưa ra câu hỏi gợi mở  giúp  các em nhận biết và đọc tiếng mới cụ thể như muốn có tiếng tét, ta thêm âm và  dấu thanh gì? ( ta thêm âm t và dấu thanh sắc). Dựa vào đó học sinh ghép tiếng   tét rồi phân tích cấu tạo và đọc đúng hơn.           Để khắc sâu kiến thức giúp các em nắm một cách chắc chắn các vần thì ta  phải cho các em so sánh vần vừa học và vần đã học. Cụ thể tôi yêu cầu các em   so sánh vần et với vần  ơt. Qua việc so sánh học sinh nhận ra âm giống nhau là   âm t ở cuối, khác nhau là âm e và âm o đứng ở đầu. Rồi so sánh cả hai vần trong   bài đang học et – êt. Nhận biết được sự  giống và khác nhau các em sẽ  phát âm  GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 15
  16. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu đúng hơn và có kĩ năng so sánh đối chiếu, khắc sâu các vần trong phân môn Học   vần. VD: dạy vần uôt, ươt trong bài 74 trang 150, sách giáo khoa tiếng Việt 1,  tập 1 có từ chuột nhắt. Sau khi học sinh nắm vững vần uôt, nhìn và đọc được vần uôt một cách  chắc chắn. Tôi giới thiệu tranh chú chuột nhắt và giúp học sinh nhận biết: Âm gì   đứng trước vần uôt (âm ch)  thanh gì ở dưới vần uôt(thanh nặng), vậy ta có thể  ghép và đánh vần : chờ  ­ uôt ­ chuốt ­ nặng ­ chuột, đọc trơn : chuột, ghép từ  chuột nhắt. Trong trường hợp này các em hay nhầm lẫn về cách đọc giữa tiếng  chuột với tiếng chuốt( tiếng có dấu thanh nặng với dấu thanh sắc). Lúc này, tôi  hướng dẫn cụ thể và kĩ càng hơn về cách phát âm giữa môi và lưỡi (tiếng chuột   có dấu thanh nặng nên khi phát âm luồng hơi đi ra thường nhẹ  hơn với tiếng  chuốt).    Để phần học vần có kết quả thì giáo viên cần sử dụng nhịp nhàng giữa   lời giảng với tranh minh họa được nhìn vào tranh  ảnh sinh động hoặc mẫu vật  thật sẽ tạo sự hứng thú, gợi trí tò mò, ham học hỏi cho học sinh giúp các em chủ  động trong giờ học. * Phần tập đọc  Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh   còn khó khăn trong học tập. Học sinh năng khiếu đã vững phần chữ  cái, nắm  vững phần vần chỉ nhìn vào bài  là các em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá   nhanh vì khả  năng nhận biết tốt. Đối với học sinh còn khó khăn trong học tập  khả  năng nhận biết còn chậm, chưa xác định vần chính xác nên ghép tiếng rất   chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ  chậm và đọc câu rất khó khăn. Vì thế  đối với các em này, giáo viên cần hết sức kiên nhẫn, giành nhiều cơ hội cho các   em tập đọc  giúp các em đọc bài từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. Không nên nóng  vội đọc trước cho các em đọc lại dẫn đến tình trạng đọc vẹt và tính  ỷ  lại thụ  động của học sinh. Giáo viên nên cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng   trong câu, đánh vần xong đọc trơn lại tiếng đó nhiều lần để  nhớ  sau đó nhẩm  đánh vần tiếng kế tiếp lại đọc trơn tiếng vừa đánh vần rồi đọc lại từng cụm từ. Ví dụ: Dạy bài tập đọc Trường em (sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập 2 ) Đây là bài tập đọc đầu tiên trong phần tập đọc. Sau khi đọc mẫu xong, tôi  gạch chân dưới những tiếng khó đọc rồi hướng dẫn cách đọc từ  khó. Thường   thường tiếng có dấu thanh các em đọc không có dấu thanh, tiếng không có dấu   thanh thì lại đọc có dấu thanh. Cụ thể từ trường em đọc là trương em. Làm thế  nào để giúp các em đọc đúng dấu thanh, tôi tiến hành cho các em đánh vần tiếng   trường bằng cách phân tích như sau: GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 16
  17. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu Tiếng trường gồm có âm gì và ghép với vần gì? Có dấu thanh gì? (Tiếng   trường gồm có âm tr ghép với vần ương và dấu thanh huyền) Vậy tiếng trường  đánh vần thế  nào? (trờ  ­  ương – trương – huyền –  trường). Như  vậy khi đánh vần tiếng trường ta đọc phụ  âm đầu rồi đến vần,  đến dấu thanh, cuối cùng là tiếng hoàn chỉnh. Đọc trơn tiếng này thế nào? (trường) Rồi cho học sinh đọc nối tiếp:     trường em. Đối với các em còn khó khăn trong học tập chưa đọc được tiếng trường,   tôi cho học sinh ôn lại cấu tạo vần ương trong tiếng trường. Vần ương gồm có mấy âm?  (Vần ương gồm có 2 âm. Âm đôi ươ và âm   ng) Nêu vị trí các âm trong vần ? (Âm đôi ươ đứng trước, âm ng đứng sau) Đánh vần và đọc trơn vần ương. (ươ ­ ngờ ­ ương/ ương) Thêm âm tr vào trước vần  ương và dấu thanh huyền trên vần  ương. Ta   đánh vần, đọc trơn tiếng thế  nào? (Trờ  ­  ương ­ trương ­   huyền ­ trường /  trường) Sau mỗi lần đánh vần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đánh vần nhiều   lần để khắc sâu vào trí nhớ của các em. Giải pháp thứ năm. Dạy cách phát âm đúng      Phát âm trong dạy Tiếng Việt cho học sinh rất quan trọng, học sinh phát   âm đúng thì sẽ  nhận diện chữ  (đọc) đúng và viết đúng. Ngược lại, nếu không   được GV quan tâm kĩ phần này, không được sửa chữa kịp thời các em sẽ  dễ  bị  đọc sai do thói quen của tiếng mẹ  đẻ  và dẫn đến viết sai, hiểu sai ý nghĩa do   đọc sai. Đối với học sinh dân tộc thiểu số, số học sinh phát âm sai rất nhiều do  ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ dẫn đến viết sai; viết sai thì tất yếu hiểu sai thông   tin được ghi nhận. Khi đọc mẫu giáo viên nên phát âm chuẩn xác để  học sinh   bắt chước và vững vàng trong cách đọc tránh đọc sai để   ảnh hưởng đến học  sinh. Như vậy ta cần rèn cho các em phát âm đúng âm đầu, đúng vần, đúng phụ  âm cuối, đúng dấu thanh. Chẳng hạn: Dạy bài 54: ung, ưng sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập 1 trang   110. Khi đọc vần ung,  ưng, các em thường đọc un,  ưn. Như  vậy các em đọc  chưa đúng ở  phụ âm cuối. Để  giúp các em đọc đúng, tôi hướng dẫn các em tìm  ghép vần ung, phân tích cấu tạo vần gồm âm u đứng trước, âm ng đứng sau rồi   nêu cách đánh vần và đánh vần. Yêu cầu các em so sánh vần ung với vần un và   GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 17
  18. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu hướng dẫn cách phát âm cho đúng. Tôi tiếp tục nêu câu hỏi Muốn có tiếng súng   ta thêm âm và dấu thanh gì? Thêm âm “s” , dấu thanh sắc. Dựa vào câu hỏi gợi  mở, các em ghép tiếng súng, phân tích cấu tạo rồi đánh vần. Khi thấy các em  phát âm chưa đúng, tôi yêu cầu em đó phát âm lại âm “s” hoặc nhắc lại cách mở  môi, uốn lưỡi phát âm cho đúng. Sau đó đọc lại tiếng “súng”.         Để  dạy cho các em phát âm đúng quả  là rất khó, không phải chỉ một vài  hôm là xong. Như  chúng ta đã biết việc phát âm liên quan tới các cơ  quan phát   âm. Nếu chúng ta giúp học sinh vừa được nghe, vừa được quan sát sự  phối hợp  các cơ  quan phát âm như  hình dạng của môi, vị  trí của răng, lưỡi thì các em sẽ  dễ dàng phát âm đúng những âm cần học hơn là chỉ được nghe. Vì vậy, khi dạy  học sinh phát âm, chúng ta cần kết hợp sử  dụng nhiều phương pháp, vừa nhìn  (quan sát) kết hợp với nghe rồi làm theo mẫu và luyện tập thực hành ngay trên  lớp. Trong quá trình dạy học cần sử dụng đồ dùng trực quan để  hướng dẫn các  em quan sát, so sánh,…Đồ  dùng không phải lúc nào cũng đòi hỏi những thiết bị  hiện đại mà có khi đơn thuần chỉ là môi, miệng, lưỡi, răng của giáo viên khi dạy  các em phát âm.  * Ví dụ: Khi dạy các em phát âm vần oa, tôi cho các em quan sát tranh vẽ  hoặc vật thật “cái loa” để  nhận diện vần oa, so sánh với cách đọc âm a trong   tiếng “la” (la hét). Từ quan sát tranh, HS nghe tôi phát âm kết hợp với nhìn động   tác từ miệng của tôi để  nhận ra cách đọc và làm theo mẫu. Nhất là khi phát âm   những âm có liên quan nhiều tới môi, đầu lưỡi, răng. Chẳng hạn như  các âm b,   đ, g, l,  m, n, p, r, s, t, v, x, tr, ch, kh,…Đây chính là các phụ âm.     Đối với những âm khó nhớ, qua việc phát âm mẫu, tôi chú trọng tới việc   so sánh các âm đó với âm khác về cách đọc giống nhau.          *Ví dụ:  s – x ; tr – ch ; p – ph; l ­ n       Ngoài ra, với những âm không thể dùng phương pháp khẩu hình – so sánh,  tôi mô tả  bằng hình vẽ  hoặc bằng động tác cho dễ  phân biệt. Chẳng hạn như  khi dạy đọc âm “sờ”, tôi làm động tác lấy tay sờ vào một đồ vật nào đó để giúp  các em nhận diện đúng, phát âm đúng và phân biệt với “x” khi ghép tiếng.  Đa số  các em đọc còn nhầm lẫn các dấu thanh, tiếng có thanh thì đọc   không thanh, tiếng không có dấu thanh thì đọc có dấu thanh. Ví dụ: chậm/ châm;   chồi non / chôi non, chuột/ chuốt, dẫn/ dấn,…Thì tôi cho các em nắm vững cấu   tạo, cách phát âm từng dấu thanh, dùng thẻ  tạo từ, nắm nghĩa của từ  qua đồ  dùng trực quan hoặc bằng hành động trực tiếp để từ  đó phát âm đúng và tự  sửa   sai các dấu thanh.  Trong khi học sinh đọc, nói (phát âm) tiếng Việt tôi theo dõi quan sát từng  em, phát hiện chỗ các em đọc sai để kịp thời sửa ngay và hướng dẫn các em đọc  GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 18
  19. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu theo tốc độ quy định, không quá chậm hoặc quá nhanh, đọc, nói đủ to cho tất cả  các bạn trong lớp nghe được, rèn tư thế đứng tự tin, thỏa mái khi đọc, nói tiếng   Việt. Đối với những em đọc sai chính âm tiếng Việt, tôi đã rèn luyện để các em  đọc đúng, đọc đủ, không đọc thừa, đọc sót âm, tiếng, từ,…Đọc với tốc độ  vừa  phải, giọng đọc phải phù hợp với yêu cầu và nội dung từng bài.   Bên cạnh đó vẫn có những em phát âm bị  khuyết âm trong tiếng tiếng   Việt, còn lẫn lộn giữa vần iêng/ iên, inh/ in, ăng/ăn,.... Ví dụ khi dạy đọc từ ngữ  ứng dụng bài 53: ăng, âng  có em đọc "phẳng lặng" thành "phẳn lặn".  Nguyên  nhân chính là các em chưa biết vị trí các cơ quan phát âm và phối hợp giữa các cơ  quan đó. Vì thế  tôi yêu cầu các em quan sát kĩ tôi phát âm mẫu rồi gọi các em   phát âm lại. Nếu phát âm đúng "phẳng lặng" hơi sẽ bị chặn lại ở một vị trí trong   khoang miệng. Khi các em đọc sai hay chưa đọc được, tôi không phê bình, mà   động viên chỉ  bảo cho các em. Nhất là với các em khó khăn về  đọc và viết, tôi  đọc lại cho các em nghe rồi gợi ý để các em phân tích nhớ lại cấu tạo của tiếng   cho đúng. Hướng dẫn chi tiết cho các em tư  thế  ngồi học đúng, cách cầm sách  khi đọc, cách học tập ở lớp, ở nhà. Tất cả cần làm mẫu và yêu cầu học sinh làm   theo. Dần dần các em có thói quen, có kĩ năng kĩ xảo trong việc học tập. Từ đó  tạo ra không khí thoải mái, tự  tin, mạnh dạn hơn khi tham gia hoạt động học.   Qua  đó, tôi nắm   được một  phần nào những sở  thích, những niềm vui hoặc   những khó khăn của các em trong học tập hay trong sinh hoạt hàng ngày. Việc hướng dẫn HS phát âm được tiến hành ở trong giờ dạy âm, vần cũng  như khi dạy đọc, ta cần biết lựa chọn và sử dụng các phương pháp, hình thức tổ  chức dạy học một cách hợp lí bởi mỗi phương pháp mang lại một hiệu quả,   không có phương pháp nào là vạn năng. Nhất thiết các em phải được nhìn, nghe,   làm theo mẫu; luyện tập nhiều lần qua các hình thức: cá nhân, nhóm, lớp và tích   hợp trong các môn học khác mới hình thành kĩ năng để vận dụng trong giao tiếp   được. Song song với việc giúp học sinh phát âm đúng để  viết đúng thì chúng ta  cần phải giúp cho các em hiểu nghĩa của từ. Để tăng cường Tiếng Việt cho học  sinh đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị và sử  dụng linh hoạt và phù hợp các  phương tiện hỗ trợ tiết dạy học như khai thác triệt để tranh ảnh trong sách giáo  khoa, tận dụng những vật thật, tranh  ảnh có sẵn trong thực tế  để  các em quan   sát tìm hiểu. Sưu tầm thêm một số tranh ảnh, mẫu vật có liên quan đến bài dạy.  Sử  dụng thường xuyên bộ  tranh Tiếng Việt, bộ  đồ  dùng học Tiếng Việt của   học sinh và giáo viên nhằm giúp học sinh tích cực và ham học.        Ví dụ: Dạy bài 40: iu, êu     Tôi đã cho học sinh quan sát lưỡi rìu và cái phễu thật và tranh trong sách  giáo khoa, sử dụng bộ đồ dùng học Tiếng Việt, …. GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 19
  20. Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu Giải pháp thứ sáu. Tổ chức trò chơi có hiệu quả trong các tiết học Như  chúng ta đã biết học sinh lớp Một rất hiếu động hay bắt chước và   học theo.  Trò chơi học tập là  một loại hoạt động không thể  thiếu được trong  mọi lứa tuổi. Trò chơi giúp các em phát triển cả  về năng khiếu lẫn tư  duy.  Trò  chơi học tập là hình thức học tập thông qua trò chơi. ''Học mà chơi, chơi mà học   '' tạo ra sự hứng thú và niềm tin trong học tập,  duy trì được khả năng chú ý của  các em trong tiết học. Trò chơi học tập không chỉ  nhằm giải trí,  củng cố, hệ  thống hoá kiến thức được học, mở  rộng vốn từ, khắc sâu kiến thức, nắm chắc  âm vần vừa học, biết vận dụng vào từng trường hợp cụ thể.  Tạo môi trường để  rèn luyện sự linh hoạt, nhạy bén, có thói quen phản ứng nhanh cho học sinh; giúp  các em có tính mạnh dạn  tính thi đua, tính kỉ  luật  khi thể  hiện mình trước tập  thể. Thông qua trò chơi tạo không khí thi đua sôi nổi trong mỗi tiết học, làm cho  tiết học của HS trở nên nhẹ  nhàng hơn, sinh động và hiệu quả  hơn.  Vì vậy tôi  xác định rõ mục đích của mỗi trò chơi, tuân thủ  các nguyên tắc và thay đổi các  hình thức tổ chức cho HS chơi. Tôi đã tổ  chức trò chơi, khi thì vào bài, có khi để  dẫn dắt các em chiếm   lĩnh kiến thức mới cần đạt, có lúc để củng cố, hệ thống hoá kiến thức trong một  bài hay trong một chương. Khi tổ  chức trò chơi, tôi phổ  biến tên trò chơi, nội  dung chơi, vật dụng phục vụ  cho trò chơi, luật chơi và trước khi tổ  chức chơi   cho các em chơi thử để các em tự tin hơn.  Với mục tiêu giúp học sinh nắm chắc âm vần cần học, biết vận dụng vào  từng trường hợp cụ thể, rèn cho các em ý thức tự tìm kiếm khám phá chiếm lĩnh   kiến thức  ở tiết 1 trong phần Học vần, tôi sử  dụng trò chơi “Thi ghép đúng –  Ghép nhanh” Ví dụ: Dạy bài 22: p –ph, nh sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập 1 trang 46.          Tôi yêu cầu mỗi em chuẩn bị một bộ chữ thực hành Tiếng Việt.          Trong quá trình dạy âm p­ ph, tôi chia lớp thành 4 tổ, yêu cầu các em tự tìm  và phát âm âm p sau đó tìm ghép thành âm ph, tiếng phố  rồi đọc. Hết thời gian  quy định, các em đưa bảng lên cho lớp kiểm tra. Tổ nào có ít bạn ghép sai tổ đó   chiến thắng.  Khi dạy tiết 2 trong giờ  Học vần, tôi lại tổ  chức Trò chơi  “Đọc nhanh,  nối giỏi”.  Trò chơi này  giúp học sinh nhận diện nhanh âm vần vừa học, biết   ghép các tiếng riêng lẻ vào thành cụm từ có nghĩa mới.          *Ví dụ: Bài 64: im­um         Tôi đưa ra  các từ sau: chim, cá, tôm, hùm, bồ câu, kìm GV:  Trần Thị Minh   Năm học 2016 ­ 2017 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2