intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp giảng dạy văn bản nghị luận trung đại trong chương trình ngữ văn 11

Chia sẻ: Phan Phan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

182
lượt xem
27
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Học văn nghị luận giúp học sinh hình thành những quan điểm đúng đắn về chính trị, xã hội; hình thành năng lực tư duy và thành công trong giao tiếp; hơn nữa, học sinh có năng lực phân tích, tổng hợp khám phá vấn đề có sức thuyết phục trên cơ sở lí lẽ chặt chẽ, căn cứ xác thực. Mời các bạn cùng tham khảo cùng tham khảo "Phương pháp giảng dạy văn bản nghị luận trung đại trong chương trình ngữ văn 11" để tìm hiểu nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp giảng dạy văn bản nghị luận trung đại trong chương trình ngữ văn 11

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI TRƯỜNG THPT NGUYỄN HỮU CẢNH Mã số: ................................      (Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi) SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY  VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TRUNG ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11 Người thực hiện: NGÔ XUÂN SƠN Lĩnh vực nghiên cứu:  ­ Quản lý giáo dục:                                                 ­ Phương pháp dạy học  bộ môn: NGỮ VĂN         ­ Lĩnh vực khác: .................................................   Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong bản in SKKN    Mô hình  Phần mềm  Phim ảnh  Hiện vật  khác Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  1
  2. Năm học: 2011­ 2012 SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  2
  3. I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: NGÔ XUÂN SƠN 2. Ngày tháng năm sinh: 22­ 7 ­1978 3. Giới tính: Nam 4. Địa chỉ: 29/142B, Khu phố 3, Phường Tân Mai, Biên Hòa, Đồng Nai 5. Điện thoại:  0613834289   (CQ)/   0613812913 (NR);   ĐTDĐ: 0909383022 6. E­mail: xuanson@nhc.edu.vn 7. Chức vụ: giáo viên tổ Ngữ văn. 8. Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh. II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO ­ Học vị cao nhất: Cử nhân. ­ Năm nhận bằng: 2000. ­ Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn. III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC ­ Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: giảng dạy môn Ngữ văn. ­ Số năm có kinh nghiệm: 12 năm. ­ Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: CHUYÊN ĐỀ NGOẠI KHÓA VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  3
  4. PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VĂN BẢN  NGHỊ LUẬN TRUNG ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Ngữ  Văn là môn học gắn với cái đẹp. Học Ngữ  Văn (nhất là phân môn   Giảng văn) là học cách khám phá cái đẹp của thế  giới tự nhiên, của cuộc sống  và con người. Cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo khoa, việc đổi mới  phương pháp dạy học Ngữ Văn sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất  lượng bộ môn, cho nên mối quan tâm của giáo viên Ngữ Văn nâng cao hiệu quả  giáo dục thẩm mỹ, khơi gợi niềm say mê hứng thú học tập bộ  môn Ngữ  Văn  cho học sinh.  Trước đây, văn bản nghị  luận ít được đưa vào chương trình phổ  thông do  nhiều người cho rằng đây là thể  loại thường đề  cập đến những tư  tưởng trừu   tượng, diễn đạt khô khan nên không gây được sự hứng thú, hấp dẫn đối với học   sinh. Hiện nay, văn nghị  luận đã được đánh giá đúng với vai trò, ý nghĩa đích   thực của nó. Văn nghị luận không chỉ  có ý nghĩa đối với những vấn đề  lớn lao  của đất nước, thời đại như công cuộc dựng nước, giữ nước, canh tân đất nước,   mà còn rất gần gũi và có ý nghĩa trong đời sống công dân hiện nay.  Xét theo tiêu chí nội dung luận bàn, người ta phân văn nghị luận thành hai  thể: ­ Văn chính luận (luận bàn về các vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức...) như  Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi, Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí Minh, Về luân   lý xã hội  ở  nước ta (trích “Đạo đức và luân lí Đông Tây”) – Phan Châu Trinh,  Tiếng mẹ đẻ, nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức – Nguyễn An Ninh… ­ Văn phê bình văn học (luận bàn các vấn đề  văn học nghệ thuật) như Một   thời đại trong thi ca – Hoài Thanh, Mấy ý nghĩ về thơ – Nguyễn Đình Thi. Xét theo tiêu chí hình thức thể  loại, người ta chia ra: văn nghị  luận thời   trung đại (chiếu, cáo, hịch, bình sử, điều trần, ...) và văn nghị  luận hiện đại   (tuyên ngôn, lời kêu gọi, phê bình, xã luận....) Mặc dù khác nhau về  thời điểm ra đời, về thể loại, về  nội dung luận bàn  nhưng các văn bản nghị luận đều có điểm chung là bộc lộ tính trí tuệ uyên bác,   tình cảm sâu sắc của người viết. Sau đây là bảng hệ  thống các văn bản nghị  luận phần văn học Việt Nam   trong chương trình Ngữ văn (ban cơ bản) ở trường THPT: STT Văn bản Tác giả Thể loại Lớp 01 Đại cáo bình Ngô  Nguyễn Trãi Cáo 10 Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  4
  5. 02 Tựa   “Trích   diễm   thi   Hoàng Đức Lương Tựa 10 tậ p ” 03 Hiền   tài   là   nguyên   khí  Thân Nhân Trung Bia 10 của   quốc   gia   (trích  “Bài kí đề  danh tiến sĩ   khoa   Nhâm   Tuất,   niên   hiệu Đại Bảo thứ ba”) 04 Hưng Đạo Đại Vương  Ngô Sĩ Liên Sử   kí   trung  10 Trần Quốc Tuấn (trích  đại “Đại   Việt   sử   kí   toàn   thư”) 05 Thái   sư   Trần   Thủ   Độ  Ngô Sĩ liên Sử   kí   trung  10 (trích  “Đại   Việt   sử   kí   đại toàn thư”) 06 Chiếu cầu hiền  Ngô Thì Nhậm Chiếu 11 07 Xin lập khoa luật (trích  Nguyễn Trường Tộ Điều trần 11 “Tế cấp bát điều”) 08 Về   luân   lý   xã   hội   ở  Phan Châu Trinh Văn   nghị  11 nước   ta   (trích  “Đạo   luận   hiện  đức   và   luân   lí   Đông   đại Tây”) 09 Tiếng   mẹ   đẻ,   nguồn  Nguyễn An Ninh Văn   nghị  11 giải phóng các dân tộc  luận   hiện  bị áp bức  đại 10 Một   thời   đại   trong   thi  Hoài Thanh Văn   nghị  11 ca (trích) luận   hiện  đại 11 Tuyên ngôn Độc lập Hồ Chí Minh Tuyên ngôn 12 12 Nguyễn   Đình   Chiểu,  Phạm Văn Đồng Văn   nghị  12 ngôi sao sáng trong văn  luận   hiện  nghệ của dân tộc đại 13 Mấy   ý   nghĩ   về   thơ  Nguyễn Đình Thi Văn   nghị  12 (trích) luận   hiện  đại 14 Nhìn   về   vốn   văn   hóa  Trần Đình Hượu Văn   nghị  12 dân   tộc   (trích  “Đến   luận   hiện  hiện   đại   từ   truyền   đại thống”) Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  5
  6. Các văn bản nghị  luận thường khô khan, đặc biệt các tác phẩm nghị  luận  trung đại ra đời trong bối cảnh văn hoá, xã hội phong kiến nên chịu sự chi phối   của hệ tư tưởng chính thống, quan niệm văn chương của thời đại nên học sinh  tiếp nhận tác phẩm rất khó khăn. Khi giảng dạy, giáo viên cần kết hợp nhiều  phương pháp dạy học tích cực để  học sinh trở  thành chủ  thể  tiếp nhận trong   việc tìm hiểu cái hay, cái đẹp của tác phẩm về nội dung, quan điểm tư tưởng và  hình thức nghệ thuật.  Trong phạm vi của đề tài, tôi xin trao đổi về  “Phương pháp giảng dạy văn   bản nghị luận trung đại trong chương trình Ngữ Văn 11”. II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận: Theo lý luận dạy học cộng tác của G.S Nguyễn Ngọc Quang, quá trình dạy  học là một hệ toàn vẹn gồm: khái niệm khoa học, học và dạy.“Học là quá trình   tự điều khiển việc chiếm lĩnh khái niệm khoa học dưới sự điều khiển sư phạm   của giáo viên”. Còn “dạy là sự  điều khiển tối  ưu hóa quá trình người học   chiếm lĩnh nội dung học (...) làm sao cho người học đi tới đích là chiếm lĩnh   khái niệm khoa học một cách tự giác, tích cực, tự lực”  (Bản chất quá trình dạy   học ­ sách GD học đại học Hà Nội, năm 2000). Mỗi giáo viên khi giảng dạy các tiết đọc văn đều vận dụng sáng tạo, linh  hoạt, kết hợp nhiều phương pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ  động, sáng  tạo của học sinh.  Mỗi tác phẩm văn chương có một số  yếu tố  nghệ  thuật  đặc biệt quan  trọng theo đặc trưng thể loại vì đó là một chỉnh thể nghệ thuật, nghĩa là một thế  giới hình tượng bao gồm nhiều yếu tố quan hệ với nhau, quy định lẫn nhau, tạo  cho tác phẩm tính chỉnh thể  sống động và thống nhất. Do hình tượng văn học   mang tính cảm tính, cụ thể, khái quát nên tư duy người cảm thụ là tư duy tổng  hợp. Khi giảng dạy, giáo viên cần định hướng cho học sinh   cảm nhận, khám  phá, chiếm lĩnh được hình tượng nghệ  thuật và giá trị  nội dung, tư  tưởng, cái  đẹp của hình thức nghệ thuật văn bản. Còn nghị  luận là một thể  loại văn học đặc biệt, dùng lí lẽ, phán đoán,   chứng cứ  để  bàn luận về  một vấn đề  nào đó (chính trị, xã hội, văn học nghệ  thuật…). Là sản phẩm của tư  duy lô gíc, văn nghị  luận“viết về  những vấn đề   nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau: chính trị, kinh tế, triết học,   văn hóa…  Mục đích của văn nghị  luận là bàn bạc, thảo luận, phê phán hay   truyền bá tức thời một tư tưởng, một quan điểm nào đó nhằm phục vụ trực tiếp   cho lợi ích của một tầng lớp, một giai cấp nhất định… Đặc trưng cơ  bản của   văn nghị   luận là   tính  chất  luận  thuyết  –  khác  với  văn học  nghệ  thuật,  văn   chương nghị  luận trình bày tư  tưởng và thuyết phục người đọc chủ  yếu bằng   lập luận, lý lẽ…” (Từ  điển thuật ngữ  Văn học  ­ Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,  Nguyễn Khắc Phi (chủ  biên) ­ NXB Đại học Quốc gia, 1999).   Khi giảng dạy  Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  6
  7. các văn bản  nghị  luận, giáo viên không chỉ  giúp học sinh khám phá bằng lí tr í  những tư  tưởng, đạo lí … được thể  hiện mà quan trọng hơn là phải giúp học  sinh cảm nhận được vẻ đẹp ấy bằng cả tâm hồn.  2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài: Vẻ  đẹp của văn nghị  luận được bộc lộ   ở  sự  sâu sắc của tư  tưởng, sự  mạch lạc trong lập luận, sự chặt chẽ trong lí lẽ, sự xác thực trong chứng cứ, sự  chính xác, hàm súc trong ngôn từ, giọng điệu thuyết phục. Dạy văn nghị  luận   giáo viên cần nắm vững đặc trưng của từng thể loại,  khai thác những thông tin  ngoài văn bản, liên văn bản như tiểu sử tác giả, ngữ cảnh sản sinh văn bản, so   sánh các văn bản cùng thể loại, cùng đề tài để soi chiếu vào nội dung tác phẩm,   góp phần giải mã các lớp ý nghĩa tiềm ẩn trong văn bản. Sau đó phân tích văn bản dựa trên yêu cầu chung của văn nghị  luận (thao  tác quan trọng nhất): Về  nội dung: phải nêu rõ vấn đề  đang được bàn tới; phân tích mặt đúng,  mặt sai, mặt lợi, mặt hại; chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến nhận định  của người viết và quan điểm, thái độ tư tưởng, tình cảm của tác giả.  Về  hình thức: hệ thống luận điểm rõ ràng, luận cứ  xác thực, lập luận sắc   bén, lời văn sinh động, thuyết phục  Cuối cùng đánh giá được những đóng góp cơ  bản của tác phẩm về  nội  dung tư tưởng cũng như nghệ thuật biểu hiện. 2.1. Tìm hiểu những điều ngoài văn bản có liên quan đến tác phẩm:      Nếu người tiếp nhận không hiểu ngữ  cảnh sẽ  không cắt nghĩa được   mạch ngầm văn bản, đặc biệt là các văn bản trung đại thường có tính chất giáo   huấn, ngôn chí sâu sắc (vì có sự  gián cách về  thời gian và môi trường văn hóa  tiếp nhận). Soi chiếu vấn đề  từ  ngoài văn bản kết hợp với góc nhìn bên trong  văn bản sẽ  mang lại một hiệu  ứng tổng hợp, toàn diện đối với thông điệp tác  giả muốn hướng tới người tiếp nhận. 2.1.1.Văn bản “Chiếu cầu hiền” – Ngô Thì Nhậm. Với văn bản nghị luận khá đặc biệt như  “Chiếu cầu hiền” cần lưu ý: nội  dung tư tưởng, chủ trương cầu hiền tài (tập hợp trí thức) để xây dựng đất nước   là của vua Quang Trung, một nhân vật kiệt xuất trong lịch sử  nước ta nhưng   người soạn thảo văn bản này là Ngô Thì Nhậm nên trước khi học văn bản, GV   yêu cầu học sinh thảo luận nhóm ngoài giờ  học (4 nhóm) với đề  tài  “Vai trò  của vua Quang Trung trong cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và triều đại Tây Sơn”,  thời  gian chuẩn bị cho đề tài là 7 ngày. Đến tiết học văn bản “Chiếu cầu hiền”, 2 nhóm sẽ cử đại diện lên thuyết  trình ngắn gọn về đề tài, các nhóm còn lại sẽ nhận xét, bổ sung. Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  7
  8. Mục đích của việc thuyết trình là giúp học sinh hiểu được tư  tưởng, tài  năng và tấm lòng của một vị vua sáng. Trong quá trình tìm tư liệu thì học sinh sẽ  nắm được hoàn cảnh ra đời của  “Chiếu cầu hiền”  để  hiểu được vì sao vua  Quang Trung lại quan tâm tới vấn đề  cầu hiền, tầm quan trọng và ý nghĩa của   việc cầu hiền tại thời điểm bàn luận. Sau đó giáo viên chốt lại vấn đề  thuyết   trình thật ngắn gọn. ­ Ba anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ lãnh đạo cuộc khởi   nghĩa Tây Sơn lật đổ  chế  độ  phong kiến nhà Nguyễn  ở  Đàng trong, đánh tan  quân xâm lược Xiêm và thế lực của Nguyễn Ánh (1784 – 1785), lãnh đạo nghĩa  quân lật đổ  chế  độ  phong kiến họ  Trịnh  ở Đàng ngoài, xóa bỏ  triều đại phong  kiến nhà Lê mục nát (1786). Trước sự  xâm lược của phong kiến Mãn Thanh,  ngày 22­12­1788 (25­11 Mậu Thân), tại kinh đô Phú Xuân (Huế), Nguyễn Huệ  lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, thống lĩnh quân đội mở  cuộc  hành quân thần tốc ra Thăng Long. Đến đầu xuân Kỷ Dậu (1789), quân đội của  Hoàng đế Quang Trung đã quét sạch 20 vạn quân xâm lược Mãn Thanh ra khỏi   bờ  cõi, khôi phục nền độc lập, thống nhất của nước ta làm nên chiến thắng   Đống Đa lịch sử. Chiến thắng Đống Đa và những chiến công hiển hách khác  luôn gắn liền với tên tuối của người anh hùng dân tộc, nhà quân sự  thiên tài  Quang Trung ­ Nguyễn Huệ. Từ  1788­1792, vua Quang Trung đã ban 4 chiếu  quan trọng: “Chiếu cầu hiền, Chiếu dụ các quan văn võ triều Lê, Chiếu lập học   và Chiếu mở  khoa thi”.  Cả  4 chiếu này đều hướng đến lựa chọn, bồi dưỡng   người tài làm nền tảng của triều đại. ­  Không  phải  ngẫu  nhiên  mà  Quang  Trung  có   thể   tập  hợp  quanh  mình  những trí thức tài năng, thành tâm theo đuổi sự  nghiệp “giúp dân dựng nước”.  Chính sách cầu hiền của Quang Trung tranh thủ được sự đóng góp của nhiều sĩ  phu yêu nước có tư  tưởng tích cực, tiến bộ  trong xã hội đương thời. Thái độ  cầu hiền chân thành, mềm mỏng của Quang Trung thể hiện rõ nhất là đối với  La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp ­ thiếu một tấm lòng chân thành, thiếu một suy  nghĩ sâu xa, có lẽ Quang Trung đã không thể đưa Nguyễn Thiếp trở lại với đời   và đem hết tài năng ra phục vụ  đất nước.  Quang Trung ra lệnh sử  dụng chữ  Nôm làm văn tự  chính thức trong các chiếu chỉ  và giao cho Viện trưởng Sùng  chính viện – Nguyễn Thiếp – tổ  chức dịch các sách vở  kinh điển từ  Hán sang   Nôm. Ông còn ghi nhận công lao, trọng dụng nhiều hiền tài khác như  Ngô Thì   Nhậm, Phan Huy Ích, ..… Với chính sách cầu hiền, Quang Trung đã tập hợp sức  mạnh toàn dân tộc làm nên những trang sử hào hùng của thế kỉ XVIII.  Mặt khác, người viết  “Chiếu cầu hiền”  là Ngô Thì Nhậm nên giáo viên  cần nhấn mạnh để học sinh hiểu rằng Ngô Thì Nhậm làm quan dưới triều Lê ­  Trịnh. Khi Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai, xuống lệnh "cầu hiền" tìm kiếm quan  lại của triều cũ. Thời điểm này cả vua Lê, chúa Trịnh đều đã sụp đổ thì Ngô Thì  Nhậm cùng vài trí thức có tư tưởng tiến bộ ra làm quan cho triều Tây Sơn. Ông  có nhiều đóng góp cho triều Tây Sơn, đặc biệt soạn thảo nhiều văn bản giấy tờ  quan trọng. Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  8
  9. Tiếp đó, học sinh trình bày hoàn cảnh ra đời của “Chiếu cầu hiền”:  Sau  khi Lê Chiêu Thống và tàn quân chạy theo Tôn Sĩ Nghị, triều Lê sụp đổ. Trước  sự  kiện trên, một số  bề  tôi của nhà Lê hoặc mang nặng tư  tưởng trung quân,   hoặc sợ  hãi nên nhiều người trốn tránh, hoặc đi  ở   ẩn…  Khát vọng xây dựng  một Nhà nước hùng mạnh về  mọi mặt đã thôi thúc Quang Trung chú ý đến vai  trò quan trọng của giới nho sĩ, trí thức. Quang Trung giao cho Ngô thì Nhậm thay  mình viết  “Chiếu cầu hiền”  nhằm mục đích thuyết phục các danh sĩ Bắc Hà  hiểu được nhiệm vụ  xây dựng đất nước mà triều Tây Sơn đang dự  kiến thực   hiện để mời họ ra cộng tác với nhà Tây Sơn. 2.1.2. Văn bản “Xin lập khoa luật” (trích “Tế cấp bát điều”) – Nguyễn   Trường Tộ: Giáo viên giao các nhóm thảo luận ngoài giờ học (4 nhóm) với đề  tài “Tư  tưởng canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ”, thời gian chuẩn bị cho đề tài  là 5 ngày. Đến tiết học văn bản “Xin lập khoa luật”, 2 nhóm cử  đại diện lên thuyết  trình ngắn gọn về đề tài, các nhóm còn lại sẽ nhận xét, bổ sung. Mục đích của việc thuyết trình là giúp học sinh hiểu được tư  tưởng, tấm  lòng yêu nước của Nguyễn Trường Tộ. Giáo viên chốt lại vấn đề  thuyết trình  thật ngắn gọn. ­  Tầm   nhìn xa  trông  rộng và  tư  tưởng  canh  tân  đất  nước   của Nguyễn  Trường Tộ  rất đáng trân trọng, bộc lộ  lòng yêu nước của một trí thức có tư  tưởng tiến bộ  muốn đem tất cả  sức lực, trí tuệ  của mình cống hiến cho đất   nước. Gần 60 bản di thảo của ông bộc lộ  sự  am hiểu sâu sắc trên nhiều lĩnh  vực: khoa học tự  nhiên, khoa học xã hội, quốc phòng, ngoại giao. Ông đề  nghị  trong hoạt động giáo dục phải có các môn học thiết thực như khoa nông nghiệp,  khoa địa lý, khoa thiên văn … Ví dụ ngành nông chính, sau khi đã xác định tầm   quan trọng của nông nghiệp, ông kiến nghị  xuất bản bộ sách “Nông chính toàn  thư” ghi chép tất cả những kinh nghiệm hay trong dân gian cũng như ở các nước   về  trồng cấy, chăn nuôi, chế  tạo công cụ. Đề  nghị  lập Bộ  canh nông chăm lo  phát triển nông nghiệp, cử quan chuyên trách về nông nghiệp khảo cứu đất đai,  đặc biệt phải dạy cho dân biết trồng cấy, chăn nuôi. Ông đề nghị phải lo trồng   rừng để phòng chống lũ lụt, giao đất cho dân trồng cấy, chăm sóc. Đặc biệt, Nguyễn Trường Tộ đề xướng việc dùng Quốc âm trong học tập   và giảng dạy. Ông khẳng định “Nước nào cũng có chữ của nước ấy, khi nói ra,   viết ra ai cũng hiểu, thế  tại sao nước ta lại trọng dụng ngôn ngữ  của nước   ngoài?”. Về  thuật cai trị, ông chủ  trương phải dùng luật pháp. Tuy nhiên, ông cũng   không hoàn toàn thiên về luật để trị  nước nhưng cũng không dựa hẳn vào “đức   trị” mà dung hoà mềm dẻo hơn: “Phàm dùng lý chỉ dùng trong việc xử đoán hình   phạt mà khi nào không dùng tình được mới dùng đến lý. Lý là mệnh lệnh gắt   Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  9
  10. gao. Tình là cái đôn hậu hoà dịu…Người trị nước quý hồ chỗ thấu suốt tình dân,   có tình mới có dân”. Tiếp theo, giáo viên cần giới thiệu hoàn cảnh ra đời “Tế cấp bát điều”, thể  loại điều trần và nội dung ngắn gọn của văn bản. ­  “Xin lập khoa luật”  trích từ  bản điều trần số  27 “Tế  cấp bát điều”  (8  việc cần làm gấp) được viết vào năm Tự Đức thứ hai mươi – 1867.  ­ Điều trần: văn nghị  luận chính trị  ­ xã hội trình bày vấn đề  theo từng   điều, từng mục nhằm thuyết phục người đọc, người nghe làm theo đề nghị của  người viết. Tám điều ấy là: + Xin gấp rút sửa đổi việc võ bị. + Xin hợp tỉnh, huyện để giảm bớt số quan lại và khóa sinh. + Xin gây tài chính bằng cách đánh thuế  xa xỉ  (thuế  cờ  bạc, thuế  rượu,   thuốc lá, trà, tơ lụa, thuế người giàu). + Xin sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng ( Học những gì chưa biết để   biết mà đem ra thực hành). Nay xin lập các khoa sau: khoa nông chính, khoa  thiên văn và khoa địa lý, khoa kĩ nghệ, khoa luật học và đề  nghị  dùng quốc âm   trong học tập và giảng dạy. + Xin điều chỉnh thuế ruộng đất. + Xin sửa sang lại biên giới. + Xin nắm rõ dân số. + Xin lập viện Dục anh và trại Tế bần. Giáo viên có thể nêu câu hỏi gợi mở: Vì sao Nguyễn Trường Tộ lại đề xuất xin lập những khoa nông chính, thiên   văn và địa lý ?  Vì nền kinh tế  nước ta thời phong kiến chủ  yếu là nền nông nghiệp lạc   hậu, nhân dân lao động thủ  công và bằng kinh nghiệm là chính, chưa có sự  hỗ  trợ  của các yếu tố  khoa học kĩ thuật nên sản lượng thấp. Các ngành khoa học  Nguyễn Trường Tộ đề xuất với triều đình xin mở đều mang tính thiết thực. Có thể nêu tình huống có vấn đề giả định:  Giả  sử  vua Tự  Đức phê chuẩn “Tế  cấp bát điều” thì xã hội sẽ  thay đổi   như thế nào ?  Học sinh có thể  nêu ý kiến riêng của bản thân, từ  đó nhận thấy rằng tám  việc cần làm nêu trên là vô cùng cấp thiết, thể  hiện trình độ  trí tuệ  uyên bác,   tầm   nhìn đúng đắn của Nguyễn Trường Tộ. Những  điều này hiện nay nhà  nước ta đã và đang triển khai, điều chỉnh, để  ngày một hoàn thiện hơn cho phù  hợp với tình hình phát triển của xã hội trong thời đại giao lưu hợp tác quốc tế  sâu rộng. Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  10
  11. 2.2. Phân tích văn bản dựa trên yêu cầu chung của văn nghị luận: Sức hấp dẫn của văn bản nghị  luận nằm  ở sự độc đáo trong cách chọn và   triển khai luận điểm, cách lập luận, giọng điệu, … Do vậy giáo viên cần triển  khai phân tích trên bình diện kết cấu, giọng điệu, ngôn từ  để  thấy giá trị  nội   dung và sự hấp dẫn của tác phẩm. Luận điểm là tư  tưởng, quan điểm của người viết đối với vấn đề  nghị  luận. Luận điểm phải đúng đắn, sáng rõ, đáp ứng đòi hỏi của thực tế thì mới có  sức thuyết phục. Thông thường trong văn bản nghị  luận bao giờ  cũng có một   luận điểm trung tâm đồng thời có một hệ  thống các luận điểm bộ  phận triển   khai theo những cách lập luận cụ thể làm cho bài văn có sức thuyết phục.  Cần phân tích được vẻ đẹp của ngôn từ, cái hay, cái đẹp trong nghệ thuật   lập luận. Các thao tác lập luận trong văn nghị luận rất phong phú, linh hoạt: quy  nạp, diễn dịch, chứng minh, giải thích…hoặc tác giả có thể kết hợp nhiều thao  tác lập luận trong cùng một tác phẩm. Văn nghị  luận cũng sử  dụng nhiều thủ  pháp nghệ  thuật để  thể  hiện cảm hứng của chủ  thể  sáng tạo và tạo nên tính   hình tượng (chỉ thể hiện  ở cấp độ  chi tiết, ngôn từ, cách diễn đạt tu từ, ở cách  vận dụng thành ngữ, điển cố) cùng sắc thái trữ tình của tác phẩm.  Giáo viên cần giúp học sinh phát hiện và phân tích được sự mạch lạc, đanh   thép, hùng hồn của lời văn trong việc làm sáng tỏ luận điểm vừa thể hiện được  tư tưởng, cảm xúc của nguời viết và đem lại tính truyền cảm cho tác phẩm.  2.2.1. Văn bản “Chiếu cầu hiền”: Luận điểm trong “Chiếu cầu hiền” được thể hiện dưới hình thức tiêu đề.  Chiếu thuộc loại văn nghị  luận chính trị  ­ xã hội do nhà vua lệnh cho bề  tôi,   thần dân thực hiện, nhưng  ở  đây, đối tượng của “Chiếu cầu hiền” là các bậc  hiền tài đã từng phụng sự nhà Lê, nên khi triều Lê – Trịnh sụp đổ, triều Tây Sơn  lên thay, vốn mang nặng tư  tưởng Nho giáo và nhân cách nhà nho “trung thần   bất sự nhị quân” nên vua Quang Trung dùng “cầu” chứ không ra lệnh. Trong đoạn mở  đầu, Ngô Thì Nhậm đã xây dựng một tiền đề  vững chắc,  thuyết phục bằng thao tác so sánh với hai lập luận: ­ Lập luận 1: người hiền “như  ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng  ắt   chầu về  ngôi Bắc Thần”, suy ra “người hiền  ắt làm sứ  giả  cho thiên tử”. Để  tạo tiền đề  vững chắc cho lập luận, tác giả  lại mượn ý của Khổng Tử  trong  sách “Luận ngữ” để tạo sự thuyết phục: lấy đức mà cai trị đất nước, giống như  sao Bắc Đẩu giữ  đúng vị  trí của mình, các ngôi sao khác sẽ  chầu về. Như  vậy   tác giả vừa tôn vinh những bậc nho sĩ (như sao sáng) vừa khẳng định rằng triều  đại mới là một triều đại dùng đức để cai trị đất nước. ­ Lập luận 2: Sao che mất ánh sáng thì sẽ  mất đi vẻ  đẹp, người hiền mà  không cống hiến tài năng đó cho nước, cho đời là trái mệnh trời. Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  11
  12. Hai lập luận đều hướng đến khẳng định một điều: người hiền  muốn được  công nhận phải cống hiến tài năng cho đời. Ngô Thì Nhậm muốn nhắn gửi đến  hiền tài sứ mệnh của chính họ. Từ hai lập luận này, có thể xuất hiện tình huống  có vấn đề giả định: Giả sử Ngô Thì Nhậm chưa từng làm quan triều Lê – Trịnh thì sức thuyết   phục của lập luận này sẽ như thế nào ? Với tình huống này, học sinh dựa vào tư liệu đã thu thập được về Ngô Thì  Nhậm để lí giải: nếu Ngô Thì Nhậm chưa từng phụng sự cho triều Lê – Trịnh   thì giới nho sĩ Bắc Hà sẽ cho rằng ông không hiểu được nghĩa tình mà triều cũ   đối đãi với họ nên sẽ  không thuyết phục được giới nho sĩ Bắc Hà. Sự  thực thì   Ngô Thì Nhậm đã từng làm quan triều cũ, được triều cũ rất trọng dụng. Nay ông   nhận thấy triều đại mới đáng để phụng sự nên bỏ qua tư tưởng ‘trung thần bất   sự nhị quân”.   Hoặc giáo viên có thể nêu tình huống có vấn đề không phù hợp:  Ngô Thì Nhậm lập luận “người hiền” có sứ mệnh phục vụ đất nước. Vậy   trong xã hội hiện nay, sứ mệnh đó thuộc về ai? Hiện  nay không chỉ  người học rộng tài cao mới có sứ  mệnh  của “người  hiền” mà tất cả mọi người có năng lực đều cần phải biết rõ mình nên làm gì.  Từ  việc giải quyết tình huống trên học sinh nhận ra rằng m ột cá nhân rụt  rè, nhút nhát hoặc ích kỉ, tự phụ …thì khó mà khẳng định được vị thế  của mình  trong xã hội để  từ  đó học sinh rút ra bài học về  cách sống  ở  đời: sống tự  tin,  bản lĩnh và cống hiến hết mọi khả năng của mình. Đó mới là ý nghĩa của cuộc  sống mỗi người. Trong phần 2 (đoạn 2,3,4) Ngô Thì Nhậm nêu lên lòng khát khao người   hiền của Vua Quang Trung.  Đoạn 2 như  một điểm tựa bắt nguồn từ  những sự  việc của quá khứ  gần  “Trước đây thời thế suy vi”, giáo viên có thể tạo ra tình huống có vấn đề không  phù hợp: Ngô Thì Nhậm mở  đầu bằng “Trước đây thời thế  suy vi” tức đưa người   đọc ngược dòng lịch sử, trở về với mạt thời Lê Trịnh. Vì sao tác giả lại gọi đó   là thời suy vi trong khi bản thân đã từng phục vụ triều cũ?  Ngô Thì Nhậm vừa thuyết phục trí thức Bắc Hà (theo ý định của Quang  Trung) vừa nêu nhận xét của bản thân. Thời Lê – Trịnh, hiền t ài  không được  trọng dụng. Vì thế  cách hành xử  tích cực nhất của họ  là giữ  gìn khí tiết trong  sạch bằng cách trốn tránh, ẩn dật hoặc là dè dặt, giữ mình ở chốn quan trường.  Thời thế  không cho phép họ  tự  thể  hiện mình. Từ đó học sinh thấy rằng trong  cuộc sống, phải thể hiện năng lực của bản thân trong mọi hoàn cảnh. Hay giáo viên có thể nêu tình huống có vấn đề xung đột, tương phản: Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  12
  13. Tại sao trong đoạn 1 tác giả khẳng định sứ mệnh của người hiền tài còn  ở  đoạn 2, tác giả  lại có vẻ   ủng hộ  cách  ứng xử  của họ  trong mạt  thời Lê Trịnh   như vậy? Bài học em rút ra từ cách nhìn nhận của Ngô Thì Nhậm đối với hiền   tài? Ngô Thì Nhậm đã nhìn họ  trong mối quan hệ  với hoàn cảnh sống (hoàn  cảnh rộng  ­ lịch sử  xã hội). Chỉ  những  nhân tài kiệt xuất như  Quang Trung  Nguyễn Huệ… mới có khả năng tạo ra thời thế, còn phần lớn con người đều ít  nhiều bị chi phối bởi hoàn cảnh xã hội. Cách ứng xử của các bậc hiền tài trước  đây có nghĩa là họ  đã làm chủ  được  hoàn cảnh hẹp (hoàn cảnh trực tiếp) của  bản thân mình.  Bài học được rút ra là  cách đánh giá con người, phải nhìn nhận họ  trong  mối quan hệ qua lại với hoàn cảnh sống để có thái độ đánh giá đúng mực. hoặc có thể nêu câu hỏi gợi mở: Tác giả  dùng nhiều hình  ảnh gợi cảm để  chỉ  tình trạng thất thế  loạn lạc   của kẻ sĩ (ở ẩn trong ngòi khe, kiêng dè không dám lên tiếng, gõ mõ canh cửa, ra   biển vào sông, chết đuối trên cạn,…) trong thời thế suy vi nhằm mục đích gì? Mục đích của Ngô Thì Nhậm muốn nhấn mạnh lối sống uổng phí tài năng  của hiền tài (biện pháp kích tướng). Ở  đoạn 3, tác giả  thay lời vua để  thổ  lộ  những tâm tư  sâu kín, đó là nỗi   niềm canh cánh chờ  mong sự xuất hiện của hiền tài “nay trẫm đang ghé chiếu   lắng nghe, ngày đêm mong mỏi”, hàng loạt câu hỏi “Hay trẫm ít đức không đáng   để  phò tá chăng ? Hay đang thời đổ  nát chưa thể  ra phụng sự  vương hầu   chăng?”. Giọng văn bình dị như một lời tâm tình làm gần hơn khoảng cách giữa  vua với các hiền tài. Trong đoạn 4, Tác giả không hô hào, kêu gọi mà đặt ra một câu hỏi day dứt  “Huống nay trên dải đất văn hiến rộng lớn này, há trong đó không có lấy một   người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay   sao?” vì trọng trách quốc gia không chỉ một mình vua gánh vác được. Như vậy,  tác giả đề cao vai trò của hiền tài trong việc trị nước; mặt khác lại đánh v ào tâm  lý, khơi gợi lòng tự  trọng của họ. Lời văn nhẹ  nhàng mà lí lẽ, lập luận thì sắc  sảo, có sức thuyết phục cao vừa lay động chí, vừa chuyển tâm ý của người hiền  tài. Hòa quyện trong mỗi lời văn là tình và lí: một bên là sự cần thiết của nước  nhà, một bên là tấm lòng ưu ái của nhà vua dành cho các bậc hiền tài. Đoạn 3,4 có chung một cấu trúc: kể, liệt kê thực trạng để  tìm cách khơi  gợi, kích động những người hiền tài. Từ  đó kết đoạn là những câu hỏi tu từ  xoáy sâu,   nhấn  mạnh, khích  lệ  họ   hãy nhanh  chóng  ra  giúp dân  giúp nước.  Giọng điệu linh hoạt, khi mạnh mẽ  (gợi cái tầm thường trong cuộc sống  ẩn   dật), khi thì lắng lại, khiêm nhường, thành tâm; khi thì khích lệ, cổ  vũ người  hiền ra giúp chính quyền buổi đầu… Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  13
  14. Phần 3 (đoạn 5, 6) nêu lên chính sách cầu hiền cụ thể, công bằng, mở rộng  cửa cho người hiền giúp vua, giúp nước. Đối với người có tài năng học thuật, mưu hay hơn đời, lời nói nào dùng  được thì cất nhắc, không kể thứ bậc, không dùng thì gác lại không bắt tội. Đối  với người có nghề  hay nghiệp giỏi, cho phép quan văn, quan võ tiến cử, tuỳ tài   sử dụng. Đối với những người tài năng còn bị che kín thì dâng sớ tự tiến cử… Quan điểm về hiền tài của vua Quang Trung thật tiến bộ, hợp lòng dân, tạo  con đường rộng mở cho người tài ra phò vua trị nước. Lời kêu gọi ở đoạn 6 của tác giả sôi nổi, nhiệt thành nhấn mạnh lại cơ hội  lập danh, lập thân của người hiền thực sự đã đến làm nức lòng hiền tài bốn bể.  Như  vậy, trong văn  nghị  luận,  lí  lẽ,  hình  ảnh, cảm  xúc và  giọng  điệu  thường hòa quyện chặt chẽ đem lại sự thuyết phục cả về lý trí và tình cảm đối  với người đọc, người nghe. "Chiếu cầu hiền" đã kích thích niềm tự tôn, tự hào  của các nhân tài, động viên họ  đem đức tài ra giúp dân, giúp nước. Có thể  nói   vua Quang Trung đã không nhầm khi đánh giá cao năng lực và giao cho Ngô Thì  Nhậm trọng trách chấp bút thay mình để cầu hiền trong thiên hạ. Giáo viên có thể đặt câu hỏi thảo luận nhóm: Bài học mà chúng ta rút ra được từ  nghệ  thuật  ứng xử  của vua Quang   Trung và Ngô Thì Nhậm? Bài học về  cách  ứng xử   ở  đời: lấy chí để  thuyết phục chí, lấy tâm để  thuyết phục tâm, lấy sự  công bằng, dân chủ  để  thuyết phục nhân, đây cũng là  nghệ thuật ứng xử của con người trong mọi thời đại. Hoặc có thể tạo ra tình huống có vấn đề cần so sánh, đối chiếu: Sau khi học “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” – Thân Nhân Trung (lớp   10) và “Chiếu cầu hiền” của Ngô Thì Nhậm, em nhận xét về  điểm giống và   khác giữa hai văn bản ? Để giải quyết tình huống này, học sinh nêu những nhận xét, đánh giá riêng.   Từ  đó học sinh nhận thức rằng dù  ở  bất cứ  thời đại nào, nhân tố  con người   phải luôn được coi trọng, những nhân tài cần được tạo mọi cơ  hội để  có thể  đem hết sức mình cống hiến cho đất nước. 2.2.2. Văn bản “Xin lập khoa luật”: Giáo viên cần phân tích hệ thống luận điểm và cách lập luận của bài điều  trần học sinh hiểu được tầm quan trọng của luật đối với sự nghiệp canh tân đất   nước và thấy được lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Trường Tộ. Giáo viên có thể nêu câu hỏi gợi dẫn để xác định luận điểm:  Tại sao Nguyễn Trường Tộ lại đề xuất “Xin lập khoa luật” ? Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  14
  15.   Luận   điểm   1  "Bất   luận   quan   hay   dân,   mọi   người   đều   phải   học   luật   nước…Ai giỏi luật sẽ được làm quan" để nói về tầm quan trọng của “luật”. Luận điểm 2 "Quan dùng luật để trị, dân theo luật mà giữ gìn. Bất cứ một   hình phạt nào trong nước đều không vượt ra ngoài luật"   chỉ  ra tác dụng của  luật. Việc Nguyễn Trường Tộ đề xuất với triều đình "lập khoa luật" đã nói lên  sự  quan tâm của ông đến  "kỉ  cương, uy quyền, chính lệnh của quốc gia"  để  khẳng định khả  năng bao quát của luật đối với xã hội, khẳng định vai trò của  luật đối với việc trị dân của vua có nghĩa là luật bao trùm cả vấn đề đạo đức và   trách nhiệm. Tác giả cũng đề cập đến vấn đề dân chủ trong việc thi hành luật pháp, chỉ  có nhà nước pháp quyền mới đảm bảo nền dân chủ  công bằng xã hội. Muốn  làm tốt điều này thì  "phàm những ai đã nhập ngạch Bộ  Hình xử  đoán các vụ   kiện tụng thì chỉ  có thăng trật chứ  không bao giờ  bị  biếm truất. Dù vua, triều   đình cũng không giáng chức họ  được một bậc. Như  vậy là để  giúp cho các vị   này được thong dong trong việc chấp hành luật pháp không bị một bó buộc nào   cả". Đây chính là thể hiện rõ quan điểm tam quyền phân lập. Giữa cơ quan lập   pháp, hành pháp và tư  pháp phải đảm bảo tính độc lập khách quan  “thế  là để   cho dân chúng thấy rõ đạo công bằng". Và giáo viên có thể nêu tình huống có vấn đề so sánh, đối chiếu: Theo em, quan điểm này của Nguyễn Trường Tộ có gì khác so với tư tưởng   pháp  trị  phong  kiến  lúc  bấy  giờ?  Trong  xã   hội  ngày  nay,  nhà  nước  ta  chủ   trương thực hiện đường lối chính sách pháp luật như thế nào?  Với tình huống này, học sinh dựa vào những hiểu biết về vấn đề hành pháp  ở  thời phong kiến để  rút ra nhận xét. Sau đó liên hệ  xã hội hiện tại để  nhận   thấy tư tưởng tiến bộ vượt thời đại của Nguyễn Trường Tộ. Nguyễn Trường Tộ nhấn mạnh sự bình đẳng của luật pháp. Quan và dân,  quân và thần đều bình đẳng trước pháp luật, đây là điểm tiến bộ rõ rệt so với tư  tưởng pháp trị phong kiến vì ông chú ý đến quyền lợi của nhân dân trước pháp  luật. Từ  đó học sinh nhận thấy hiện nay nhà nước ta luôn nêu cao khẩu hiệu   "sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật". Nhà nước và nhân dân ta đang  ngày càng nêu cao vai trò trách nhiệm của ngành tư  pháp là phải xử  đúng luật,   đúng người, đúng tội, tránh xử oan sai.  Phần 2 (đoạn 2, 3) tác giả khẳng định vai trò của luật. Giáo viên có thể nêu   câu hỏi gợi mở thảo luận nhóm: Nguyễn Trường Tộ dùng đạo nghĩa của Nho gia “trung hiếu”, “lễ nghĩa”   để làm điểm tựa cho lập luận nhưng ông phê phán các sách Nho chỉ  nói suông   trên giấy”, rồi lại kết bằng lời của Khổng Tử “Ta ch ưa h ề th ấy ai nh ận được   lỗi của mình mà biết tự  trách phạt” và “Chép những lời nói suông chẳng bằng   thân hành ra làm việc”. Phương pháp lập luận của ông nhằm mục đích gì? Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  15
  16. Nho gia giáo dục con người bằng chuẩn mực đạo đức, bằng những tấm   gương đạo đức của quá khứ  nên nặng tính lí thuyết suông, không có đủ  khả  năng làm cho mọi người tự giác sửa mình. Đưa ra những nhược điểm của việc   trị  dân bằng lí thuyết nhà nho, tác giả  không nhằm hướng đến mục đích phê   phán sách Nho mà để khẳng định luật cần thiết đối với sự ổn định của xã hội.  Cuối mỗi điều phê phán, Nguyễn Trường Tộ  kết lại bằng lời của Khổng   Tử  khiến cho lí lẽ  của ông càng thuyết phục người nghe, nhất là các nhà nho  vốn rất bảo thủ. Đó là phương pháp “gậy ông đập lưng ông”. Cách lập luận của   tác giả  vừa sắc sảo vừa chặt chẽ, vừa ngắn gọn, vừa mang tính chiến đấu  mạnh mẽ. “Nguyễn Trường Tộ  (…) đem hình thức đối thoại vào bài văn, luôn   luôn đặt giả thuyết, đặt câu hỏi để lật lại vấn đề, và tự mình phản bác cặn kẽ   những câu hỏi mình nêu ra, làm cho vấn đề càng thêm sáng tỏ. Nhưng điều quan   trọng hơn là ông đã nghị  luận bằng tất cả  nhiệt huyết và lòng tin vào chân lí   (…) Chính phong cách chính luận – trữ  tình này đã tạo nên một giọng điệu   riêng, một khả  năng cuốn hút đặc biệt đối với đối tượng mà ông cần thuyết   phục” (Từ điển văn học, Nguyễn Huệ Chi). Hoặc giáo viên có thể tạo ra tình huống có vấn đề dung hòa:  Theo em, làm thế nào để vừa có thể vừa bảo vệ đạo làm người vừa dùng   luật? Cần xây dựng nhà nước pháp quyền, đề cao tư tưởng pháp trị, Trong xã hội  vấn đề  khen thưởng, xử  phạt phải kịp thời, đúng mức thì mới có ý nghĩa thúc  đẩy sự phát triển của xã hội, sự tiến bộ của mọi người.  Liên hệ với hiện tại, học sinh sẽ nhận thấy nhà nước ta đang thực hiện tất   cả  vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” ,  các cơ  quan lập pháp đang soạn thảo thêm các điều luật và chỉnh sửa luật cho  phù hợp với hoàn cảnh đất nước trong thời đại mới.  Phần 3 (đoạn 4), Nguyễn Trường Tộ  đã lí giải thấu đáo vai trò của luật,   đồng thời giải quyết triệt để  những nghi ngờ  về  khả  năng của luật. Ông dùng   lập luận để  bác bỏ  quan điểm “luật chỉ  tốt cho việc cai trị  chứ  không có đạo   đức tinh vi”. Ông khẳng định “trái luật là tội, giữ đúng luật là đức”, nhấn mạnh  mối quan hệ  biện chứng giữa pháp trị  và đức trị  "Nếu tận dụng cái lẽ  công   bằng  ở  trong luật mà xử  sự  thì mọi quyền, pháp đều là đạo đức”.   Để  khẳng  định, tác giả đã dùng các câu nghi vấn tu từ “có đức nào lớn hơn chí công vô tư   không ?”. Nguyễn Trường Tộ đề  cao việc con người sống đúng luật pháp, làm   theo luật pháp là đức trời. Ông viết “Chí công vô tư là đức trời. Trong luật cái   gì cũng công bằng hợp với đức trời, như vậy mà không đáng gọi là đạo đức tinh   vi sao?”. Đoạn trích  “Xin lập khoa luật”  là một văn bản nghị  luận chặt chẽ, thấu   tình đạt lí. “Văn chương của Nguyễn Trường Tộ là lối văn chính luận, vừa phải   bảo đảm sự  chặt chẽ, sắc bén, khúc chiết trong phân tích, trong dẫn chứng   Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  16
  17. nhưng cũng vừa thấm đậm cảm hứng trữ  tình của tác giả, nên có sức thuyết   phục rất mạnh. Những lá thư  điều trần của ông rất dài, bàn về  rất nhiều vấn   đề cùng một lúc, nhưng văn phong mạch lạc, đâu ra đấy, từng vấn đề được bàn   hết lẽ và dứt điểm, lại đều có chứng minh thực tiễn” (Từ điển văn học, Nguyễn  Huệ Chi).  Để kết thúc bài học, giáo viên có thể nêu câu hỏi gợi mở để học sinh thảo  luận nhóm: “Văn bản “Xin lập khoa luật” có giá trị  như  thế nào trong xã hội ta ngày   nay?”. Đến nay bản điều trần vẫn còn nguyên giá trị, đó là những sách lược trị  nước đúng đắn để cho các cấp chính quyền nghiên cứu vận dụng, để  cho nhân  dân điều chỉnh hành vi bản thân, sống theo hiến pháp và pháp luật. Được như  vậy thì trật tự xã hội sẽ đi vào kỉ cương, chính lệnh của quốc gia sẽ được thực  hiện nghiêm minh và đất nước sẽ  phát triển, cuộc sống của nhân dân sẽ  yên  bình hạnh phúc. III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI   ­ Học sinh hứng thú tiếp nhận văn bản, có ý thức tự giác sưu tầm tài liệu,  đọc sách và chủ động đưa ý kiến của mình ra đối thoại trước lớp. Tính thời sự  của vấn đề được học sinh tự đánh thức, tránh được lối dạy áp đặt một chiều từ  phía giáo viên. ­ Học sinh được tìm hiểu, củng cố  thêm về  kiến thức lịch sử, có  kĩ năng  đọc ­ hiểu các văn bản nghị luận theo thể loại đồng thời rèn luyện thêm về  kĩ   năng tạo lập văn bản nghị luận. ­ Học văn nghị  luận giúp học sinh hình thành những quan điểm đúng đắn  về  chính trị, xã hội; hình thành năng lực tư  duy và thành công trong giao tiếp.   Hơn nữa, học sinh có năng lực phân tích, tổng hợp khám phá vấn đề  có sức   thuyết phục trên cơ sở lí lẽ chặt chẽ, căn cứ xác thực.  IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG * Đối với giáo viên: ­ Vai trò người giáo viên cực kì quan trọng trong việc lựa chọn phương   pháp thích hợp để giảng dạy. Tùy vào nội dung luận bàn và hình thức thể hiện   của văn bản, đặc điểm tiếp nhận của học sinh, thời gian tiếp nhận mà giáo viên  vận dụng cách phân tích văn bản kết hợp với phương pháp dạy học nêu vấn đề,   thảo luận nhóm. ­ Đối với những tình huống có vấn đề, học sinh dựa trên kiến thức bài học  và kiến thức của bản thân để  tìm những giải pháp.  Giáo viên không nên có kết  luận cứng nhắc với tình huống. Kết luận nên  ở  dạng là một gợi ý có thể  bao  quát được những hướng giải quyết mà học sinh đưa ra. Từ  đó, học sinh có thể  Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  17
  18. tranh   luận   với   nhau   về   những   khả   năng   cũng   như   tính   khả   thi   của   những   phương án có thể lựa chọn.  ­ Giáo viên cần gợi ý cho học sinh về những tư liệu cần hoặc những địa chỉ  website để các em có nguồn tư liệu chuẩn xác. ­ Giáo viên tích lũy vốn tri thức về  tác phẩm, về  lịch sử, các vấn đề  thời   sự, xã hội có liên quan để  giúp các em nhận diện được vấn đề  nghị  luận cũng  như hệ thống lập luận của văn bản.  * Đối với học sinh: ­  Có nhu cầu bộc lộ  suy nghĩ cá nhân trước tập thể. Nên chủ  động tham   gia thảo luận nhóm ngoài giờ  học để  có những hiểu biết về  tác giả, bối cảnh  văn học, hoàn cảnh lịch sử ­ thời đại ra đời tác phẩm. ­ Cần đọc – hiểu văn bản trước khi tiến hành tìm hiểu  ở  lớp nhằm khám   phá văn bản bằng cả lí trí, tâm hồn.  V. KẾT LUẬN Sự hấp dẫn của một tác phẩm nghị  luận là do nhiều yếu tố  tạo nên trong   đó luận điểm và cách lập luận là yếu tố quan trọng. Dạy văn nghị luận giáo viên  cần bám sát văn bản, nắm vững đặc trưng cơ bản của từng thể loại. Trong thực  tế, việc giảng dạy cần có sự  kết hợp nhiều phương pháp, phụ  thuộc vào từng   tình huống giảng dạy cụ thể nhằm giúp học sinh nắm vững bài học, phát triển   tư  duy; đồng thời vừa bồi dưỡng những tư  tưởng, tình cảm cao quý cho học  sinh. Nếu có sự đầu tư đúng mực, bài giảng sẽ đạt được hiệu quả. Trong phạm vi hạn hẹp của đề tài, người viết chỉ nêu một vài kinh nghiệm mà  bản thân tích lũy trong quá trình giảng dạy. Rất mong nhận được sự góp ý chân thành  của quý Thầy, Cô.   Chân thành cảm ơn!                                                                                         NGƯỜI  THỰC HIỆN                                                                                                                                                                                             Ngô Xuân Sơn Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  18
  19. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa Ngữ  văn 11(tập 1) ­ Nhiều tác giả  ­ NXB Giáo dục,   2009. 2. Sách giáo viên Ngữ  văn 11 (tập 1) ­ Nhiều tác giả  ­ NXB Giáo dục,   2009. 3. Kĩ năng đọc – hiểu văn bản Ngữ  Văn 11 – Nguyễn Kim Phong (Chủ  biên), NXB 2007. 4. Từ điển thuật ngữ Văn học ­ Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc   Phi (chủ biên) – NXB Đại học Quốc gia, 1999.  5. Vẻ đẹp của văn nghị luận ­ Đỗ Ngọc Thống ­ Văn học và Tuổi trẻ số  4, 2005. 6. Những lưu ý khi đọc văn nghị luận – Phan Thị Thanh Vân. 7.  Phương pháp dạy tích hợp chùm văn bản nghị  luận thời trung đại  ở  chương trình Ngữ văn lớp 11 – Phan Quốc Thanh. 8. Một vài suy nghĩ về việc dạy văn nghị luận – Bùi Thị Vui. 9. Các nguồn tư  liệu về  Nguyễn Huệ, Nguyễn Trường Tộ trên các báo  điện tử. Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  19
  20. SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI CỘNG HOÀ XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Đơn vị: THPT Nguyễn  Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc HữuCảnh   Biên Hòa, ngày  30 tháng 10 năm 2011 PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học: 2011­ 2012 ––––––––––––––––– PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TRUNG ĐẠI  TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11 Họ và tên: NGÔ XUÂN SƠN Chức vụ: giáo viên. Đơn vị: THPT Nguyễn Hữu Cảnh. Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác) ­ Quản lý giáo dục  ­ Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ Văn    ­ Phương pháp giáo dục  ­ Lĩnh vực khác:   Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị     Trong Ngành  1. Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 2 ô dưới đây) ­ Có giải pháp hoàn toàn mới   ­ Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có   2. Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 4 ô dưới đây) ­ Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao  ­ Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng   trong toàn ngành có hiệu quả cao  ­ Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao  ­ Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng   tại đơn vị có hiệu quả  3. Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô mỗi dòng dưới đây) Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
15=>0