intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng truyện kể nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy bài “Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học

Chia sẻ: Thanhbinh225p Thanhbinh225p | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

173
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng truyện kể nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy bài “Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học" - Giáo dục công dân lớp 10 nêu lên cơ sở lý luận của đề tài; thực trạng của đề tài; giải pháp và tổ chức thực hiện (sử dụng truyện kể để giới thiệu bài, sử dụng truyện kể để giảng dạy bài mới, sử dụng truyện kể để củng cố bài học).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng truyện kể nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy bài “Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học

  1. I­ ĐẶT VẤN ĐỀ   1. Lí do chọn đề tài  Giáo dục công dân (GDCD) là một môn khoa học xã hội có vị  trí, vai trò   đặc biệt quan trọng trong trường THPT. Cùng với các môn học khác, nó góp  phần đào tạo người lao động mới vừa có tri thức khoa học, có đạo đức, có   năng lực hoạt động thực tiễn, vừa có phẩm chất chính trị tư tưởng, có ý thức  trách nhiệm cộng đồng, gia đình và bản thân.  Tuy nhiên, hiện nay phần lớn học sinh phổ  thông đều chưa ý thức được   tầm quan trọng của môn học này nên xem nhẹ, thậm chí coi thường môn học,   giờ  học môn GDCD đa phần học sinh ít tập trung, học theo kiểu chống đối   hoặc làm việc riêng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên song một   trong những nguyên nhân đó là do phương pháp dạy của giáo viên chưa tạo  được hứng thú và niềm say mê học tập ở học sinh. Chính vì vậy việc đổi mới   phương pháp dạy học là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết với mỗi  giáo viên nói chung, giáo viên dạy GDCD nói riêng.  Kho tàng truyện kể Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng, những câu  chuyện cũng là những bài học cho tất cả  mọi người về  mọi mặt của đời   sống. Nếu người  giáo viên biết cách chọn lựa, dẫn dắt và kể  những câu   chuyện sao cho phù hợp với bài học và đối tượng học sinh khi dạy môn   GDCD chắc chắn sẽ  giúp học sinh say mê, hứng thú học tập từ  đó đạt kết   quả tốt hơn. Việc khai thác các câu chuyện thông qua các bài giảng GDCD là  một hướng đi mang bản sắc riêng của nền giáo dục nước nhà. Điều này có ý  nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt là trong thời kỳ  hội nhập quốc tế  hiện   nay.   Những câu truyện kể sẽ  tác động trực tiếp đến nhận thức, thái độ, hành   vi của các em học sinh từ đó các em sẽ  nhận thức được vai trò và nghĩa vụ  của mình đối với bản thân, gia đình và xã hội đây chính là nguyên nhân quan   trọng dẫn đến niềm yêu thích môn GDCD của học sinh. Hơn nữa khéo léo sử  dụng truyện kể không chỉ  có tác dụng tích cực đến kết quả  học tập bộ  môn  cho học sinh mà còn có tác dụng trong việc gìn giữ văn hóa dân tộc; giáo dục  truyền thống lịch sử; khơi gợi lòng yêu nước, tự hào dân tộc… Đối với những bài học về  đạo đức, đạo làm người trong chương trình  GDCD thì việc sử dụng những câu chuyện kể về  người thật, việc thật càng  1
  2. trở nên thiết thực và có ý nghĩa hơn.  Xuất phát từ những lí do nêu trên tôi đã  chọn  đề   tài   nghiên   cứu:  Sử   dụng   truyện  kể   nhằm  nâng   cao  hiệu  quả   giảng dạy bài “ Một số  phạm trù cơ  bản của đạo đức học ­   Giáo dục   công dân lớp 10” 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu một số cơ sở lí luận từ đó đề ra giải pháp: Sử dụng truyện kể   nhằm nâng cao hiệu quả  giảng dạy bài: “ Một số  phạm trù cơ  bản của   đạo đức học – Giáo dục công dân lớp 10”. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu    Đề tài sẽ trả lời cho các câu hỏi khoa học: + Truyện kể  có tác dụng gì trong giảng dạy và học tập   trong bộ  môn  GDCD ? + Để  dạy tốt bài “ Một số  phạm trù cơ  bản của đạo đức học ­ GDCD 10   ”cần chuẩn bị như thế nào? + Vận dụng  truyện kể  như  thế  nào để  dạy tốt bài “Một số  phạm trù cơ  bản của đạo đức học”? 4. Phương pháp nghiên cứu Để  nghiên cứu đề  tài này bản thân tôi đã sử  dụng những phương   pháp  sau: + Phân tích, tổng hợp (phân tích từng đối tượng học sinh, tổng hợp các kết  quả đạt được, phân tích tổng hợp tài liệu qua tham khảo sách báo…) + Phương pháp quan sát (trong quá trình giáo dục của giáo viên và học tập  của học sinh …) + Phương pháp điều tra, đánh giá (điều tra mức độ  tiếp thu, hứng thú học  tập và kết quả của học sinh sau bài dạy…..) + Nghiên cứu các loại tài liệu sư phạm, tâm lí , giáo dục học có liên quan   đến đề tài. + Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn (lấy ý kiến học sinh, giáo viên, phụ  huynh…) + Phương pháp thực nghiệm (áp dụng cụ  thể  với tập thể  học sinh, đối  tượng học sinh …) + Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực sáng tạo chủ  động của học   sinh thông qua những câu hỏi nêu vấn đề.      + Phương pháp thực nghiệm.  2
  3. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận của đề tài. 1.1. Cơ sở triết học.     Lênin nói rằng: “ Từ trực quan sinh động đến tư  duy trừu tượng, từ  tư  duy trừu tượng đến thực tiễn là con đường biện chứng của sự  nhận thức   chân lý, của sự  nhận thức thực tiễn khách quan”. Luận điểm triết học này   của Lênin chỉ  ra rằng trực quan sinh động và tư  duy trừu tượng gắn bó mật  thiết với nhau, bổ  sung cho nhau trong quá trình nhận thức thế  giới khách  quan; từ  tư  duy trừu tượng đến thực tiễn mới hoàn thành một chu trình của   quá trình nhận thức. Nhận thức là một quá trình từ cảm tính đến lí tính, đây là   cơ  sở  khoa học quan trọng trong việc sưu tầm  truyện kể để  vận dụng một  cách sáng tạo và linh hoạt vào bài học nhằm đạt hiệu quả  cao nhất. Bởi vì:   Dạy học là một quá trình truyền thụ  tri thức khoa học, kĩ năng và phương  pháp hành động. Đó là sự tác động của người dạy vào các giác quan của học   sinh, cung cấp các kiến thức mang tính chất kích thích tư  duy nhận thức của  người học. Do vậy, GV cần sưu tầm có hệ  thống và có chọn lọc các câu  chuyện phù hợp với nội dung bài học nhằm mang lại kết quả cao nhất.    Việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh là một hoặc nhiều chu   trình của quá trình nhận thức thực tiễn khách quan đó. Quá trình học tập của  học sinh có đạt kết quả nhanh hơn và tốt hơn hay không phụ  thuộc vào việc  giải quyết các bước của quá trình nhận thức như thế nào, người giáo viên có  vai trò không nhỏ trong việc hiện thực hoá những chu trình nhận thức của học   sinh. Cụ thể hơn trước khi để học sinh có những nhận thức về lí tính thì giáo  viên cần giúp học sinh có được thật nhanh, thật nhiều những nhận thức về  cảm tính. Đối với từng tiết học cụ thể  ta thấy những câu chuyện sẽ tác động  rất nhanh đến sự  nhận thức cảm tính đó của học sinh. Sử  dụng chuyện kể  chính là sử  dụng những di sản tinh thần quý báu, là kho tri thức về  tấm  gương sống  và đạo lí làm người mà ông cha ta đã để  lại phù hợp nhất để  giúp học sinh  lĩnh hội kiến thức tốt hơn, từ đó hình thành cho các em những   tư tưởng đạo đức tốt đẹp, các em sẽ yêu thích môn GDCD hơn. 1.2. Cơ sở giáo dục học. 3
  4.    Như chúng ta đã biết ngành giáo dục đã trải qua rất nhiều cuộc cải cách   giáo dục và đã phấn đấu thực hiện mục tiêu đào tạo thế  hệ  trẻ, đáp ứng phù  hợp với yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới .    Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “giúp học sinh phát triển toàn diện về  đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ  bản, phát triển năng lực  cá nhân, tính năng động và sáng tạo hình thành nhân cách con người Việt Nam   XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp   tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc”.     Có thể khẳng định rằng Giáo dục, đào tạo con người phát triển toàn diện   về  Đức­ Trí­ Thể­ Mĩ đã được đặt ra từ  quá khứ, song hiện tại điều đó lại   càng cần thiết hơn bao giờ hết. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X   đã nêu rõ: “ …Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát vọng mãnh   liệt xây dựng đất nước giàu mạnh gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai   của cộng đồng, của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh, phẩm   chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại.”     GDCD nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng là môn học không thể  thiếu trong chương trình của các trường phổ  thông hiện nay. Bởi đây là một  môn học tổng hợp nhiều tri thức khoa học, vừa góp phần nâng cao nhận thức  vừa giúp các em hoàn thiện nhân cách bản thân. Tuy nhiên, ngay khi các em  mới bắt đầu bước vào lớp đầu tiên của khối THPT các em đã tỏ ra coi thường  thậm chí học đối phó vì cho đây là môn phụ… Thật vậy, bản thân là giáo viên  giảng dạy môn GDCD tôi rất băn khoăn, trăn trở nên đã không ngừng tìm tòi,  học hỏi để làm sao tạo sự hứng thú cho các em trong học tập và đạt được kết  quả  cao nhất. Đây chính là cơ  sở  giáo dục học rất quan trọng giúp tôi thực   hiện đề tài này. 1.3. Cơ sở tâm lí học.    Bất kì phương pháp dạy học nào được hình thành cũng dựa trên cơ sở tâm  lí nhất định, nhằm tạo ra sự mới mẻ, kích thích tư duy, hứng thú, thúc đẩy ham  muốn, khám phá tìm hiểu chân lí tri thức của học sinh. Tâm lí học cho rằng:   Trong khi khám phá thế giới, con người không chỉ nhận thức nó mà còn tỏ thái   độ  của mình đối với nó. Những hiện tượng tâm lí biểu thị  thái độ  của con   người đối với những cái mà họ  nhận thức được gọi là đời sống tâm lí con  người. Đời sống tình cảm của con người rất phong phú, đa dạng, thể  hiện  ở  4
  5. nhiều hình thức và mức độ  khác nhau, có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ  quá  trình nhận thức. Thực tiễn dạy học cho thấy, những tri thức nào khơi dậy  được ở học sinh những cảm xúc tích cực, mạnh mẽ được các em lĩnh hội một   cách nhanh chóng và vững chắc hơn những tri thức mà các em dửng dưng,   không có thái độ  đặc biệt với nó. Một trong những đặc điểm của học sinh   THPT là sự  nhạy cảm với những  ấn tượng mới trong cuộc sống.  Ở mức độ  nhận thức của các em đã biết sử  dụng các thao tác của tư  duy để  giải quyết   các vấn đề  đặt ra. Vì vậy khi sưu tầm các câu chuyện giáo viên cần sưu tầm   có chọn lọc để  các em liên tưởng tốt, vận dụng tốt hơn, từ đó khắc sâu kiến   thức.   Nắm   được   đặc   điểm  tâm  lí   của  học  sinh   để  lựa  chọn  hình  thức   và  phương pháp dạy học phù hợp là rất cần thiết nhằm góp phần thực hiện mục   tiêu trong quá trình giảng dạy và giáo dục hiện nay. Đây được xem là cơ sở tâm  lí học rất quan trọng và thiết thực.      Phương pháp vận dụng các câu chuyện trong giảng dạy nhằm giúp cho   học sinh tham gia chủ động trong quá trình học tập. Học sinh tự biết mình phải   noi theo những tấm gương nào, làm điều tốt như  thế  nào,… và có thể  nói  những câu chuyện đã tác động đến tâm lí, hành vi của các em và từ đó hướng  các em đi đúng con đường mà xã hội đang cần và mong muốn. 1.4. Một số vấn đề cần lưu ý khi sử dụng truyện kể trong giảng dạy bài:   “Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học­ Giáo dục công dân lớp 10”     Truyện kể là một kho tàng trí tuệ, là di sản tinh thần quý báu của dân   tộc ta. Do vậy, khai thác các giá trị  đạo đức trong truyện kể, vận dụng để  giảng dạy bài “Một số  phạm trù cơ  bản của đạo đức học” nó sẽ  góp phần  khơi dậy niềm say mê học tập của học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả  giảng dạy môn GDCD.      ­ Mục tiêu của bài “Một số  phạm trù cơ  bản của đạo đức học”   góp  phần giúp học sinh nắm vững được các giá trị  đạo đức cơ  bản của xã hội   như  nghĩa vụ, lương tâm, nhân phẩm và danh dự, hạnh phúc, từ  đó biết tôn  trọng các giá trị  đạo đức, hình thành những hành vi  ứng xử  phù hợp với các   chuẩn mực đạo đức của xã hội. Qua đó giúp học sinh quyết tâm học tập, rèn   luyện để hoàn thiện bản thân.  ­ Giáo dục đạo đức là một bộ phận quan trọng trong quá trình hoàn thiện   nhân cách của con người, góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng ta hiện nay  là đào tạo ra những con người vừa  “ hồng” vừa “ chuyên”. 5
  6.   ­ Các câu chuyện phải phù hợp với nội dung bài học, phù hợp với đặc  điểm tâm sinh lí của học sinh và phải mang tính giáo dục sâu sắc.  ­ Các câu chuyện phải có nguồn trích dẫn rõ ràng.   ­ Các câu chuyện phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ  hiểu, phải mang tính giáo   dục.  ­ Các câu chuyện phải được triển khai theo những hướng khác nhau tùy  thuộc vào nội dung của từng bài học cụ thể.  ­ GV không được quá lạm dụng truyện kể để giảng dạy, bởi vì quá lạm   dụng sẽ  gây nên sự  nhàm chán. Do vậy cần có sự  kết hợp với các phương  pháp giảng dạy khác để nâng cao hiệu quả giảng dạy môn GDCD.  ­  Quy trình sử dụng truyện kể vào giảng dạy: Bước 1: Giáo viên chuẩn bị các câu chuyện phù hợp với nội dung bài học.  Sau đó, giáo viên tóm tắt ý chính, dễ hiểu để đưa vào bài học. Bước 2: Học sinh lắng nghe câu chuyện, giáo viên yêu cầu học sinh phân  tích trả lời. Bước 3: Giáo viên theo dõi, lắng nghe, phân tích tổng hợp ý kiến của học  sinh, nhận xét và bổ sung, rút ra kết luận. 2. Thực trạng của đề tài     Ở bậc học phổ thông, môn GDCD là một trong những môn học cơ  bản   góp phần giáo dục toàn diện nhân cách cho học sinh. Nhiệm vụ giáo dục tư  tưởng, chính trị, đạo đức và pháp luật cho học sinh được thực hiện ở  tất cả  các môn học thông qua các hình thức giáo dục trong nhà trường. Nhưng chỉ  môn GDCD mới có thể trực tiếp giáo dục cho học sinh những tri thức đó theo  một hệ thống xác định và toàn diện. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay cho thấy   có một bộ phận học sinh chưa thật sự chú ý học tập môn GDCD, chưa ý thức  được vai trò và vị trí của môn học, học theo hình thức đối phó, nhận thức sai   dẫn đến hành động sai. Có lẽ  đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn  đến sự  xuống cấp về  đạo đức của một bộ  phận không nhỏ  thanh niên học  sinh hiện nay. Hệ quả đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên  nhân từ phía phụ huynh và học sinh, thậm chí là chính đội ngũ giáo viên và các  cơ quan chức năng chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò và tầm quan trọng của   môn GDCD trong việc hình thành thế  giới quan và nhân sinh quan trong mỗi  học sinh để  góp phần giáo dục nhân cách cho các em. Mặt khác, nội dung  chương trình GDCD ở phổ thông còn thiếu tính thời sự, nặng về tính lý luận,   6
  7. phương pháp dạy học chưa phù hợp, phương tiện dạy học còn nghèo nàn, sơ  sài, không kích thích được hứng thú học tập cho học sinh... mặt khác, cách  thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh hiện nay còn nhiều bất  cập (đánh giá còn mang tính định tính, chưa mang tính định lượng). Do vậy,  để  đạt được hiệu quả  cao trong giảng dạy,  ở  mỗi tiết học giáo viên cần có  cách thiết kế bài giảng sao cho phù hợp với nội dung kiến thức, phương tiện   dạy học và năng lực của học sinh. Người giáo viên cần phải tổ chức, hướng  dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập với các hình thức đa dạng,  phong phú, có sức hấp dẫn phù hợp với đặc trưng bài học. Để  qua mỗi phần   học, tiết học, học sinh nắm được kiến thức, có khả năng vận dụng kiến thức   đã học trên lớp để xử lý các thông tin mà các em tiếp xúc hằng ngày.        Qua các năm giảng dạy, bản thân tôi luôn tìm tòi, suy nghĩ vận dụng   những kinh nghiệm từ  thực tiễn, những phương pháp những cách thức…làm  thế nào để dạy học đạt kết quả cao nhất, gây hứng thú cho HS nhằm giúp các  em khắc sâu kiến thức đã học đồng thời biết vận dụng những kiến thức đã  học vào thực tiễn cuộc sống. Xuất phát từ thực tiễn dạy học và từ chính kinh   nghiệm giảng dạy của bản thân, tôi nhận thấy rằng sẽ rất hiệu quả nếu giáo  viên có thể vận dụng truyện kể trong việc giảng dạy . Vì vậy khai thác giá trị  của nó để vận dụng vào giảng dạy chắc chắn sẽ khơi dậy được niềm say mê  học tập của học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả  dạy học.  Hơn thế  nữa,   giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường là một nhiệm vụ  có ý nghĩa   chiến lược vô cùng quan trọng như Bác Hồ đã khẳng định:                                        “ Hiền dữ phải đâu là tính sẵn                                           Phần nhiều do giáo dục mà nên.”     Đặc biệt, trước xu thế  toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, trước sự  phát   triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và mặt trái của cơ chế thị trường đã   và đang  ảnh hưởng không nhỏ  đến đạo đức của giới trẻ  hiện nay, một bộ  phận thanh thiếu niên đã có những biểu hiện xuống cấp về  đạo đức thì việc  giáo dục đạo đức cho học sinh càng trở nên quan trọng và cần thiết. Giáo viên   cần khai thác những giá trị  của đạo đức truyền thống đã được ông cha ta đúc  kết trong các câu chuyện để giảng dạy cho học sinh qua các giờ học nói chung  và giờ học đạo đức trong môn giáo dục công dân nói riêng. Theo tôi, đó là con   đường ngắn nhất nhằm giáo dục đạo đức một cách có hiệu quả. 3. Giải pháp và tổ chức thực hiện. 7
  8. 3.1.  Sử dụng truyện kể để giới thiệu bài.    Thay thế bằng những cách giới thiệu bài thông thường, giáo viên có thế  sử  dụng truyện kể  để  khơi dậy hứng thú học tập cho học sinh ngay từ  khi   mới bắt đầu bài học.    Chẳng hạn giáo viên có thể bắt đầu bài giảng bằng câu chuyện  Bác Hồ  trong đời thường, qua đó rút ra kết luận về  sự  giản dị, thanh đạm của Bác   Hồ, nêu cao tấm gương đạo đức sáng ngời của Bác cho học sinh noi theo. Câu   chuyện kể về sự dung dị, thanh cao của Bác Hồ: Bao nhiêu năm bôn ba khắp  năm châu bốn biển, không bao giờ  Người quên được những bữa cơm đạm  bạc nơi quê nhà. Dù làm gì, ở đâu Bác cũng chỉ ăn uống thanh đạm, tiết kiệm  và nhường  nhịn. Bác sống rất gần gũi, thân thiện với những  người xung  quanh. Một lần gặp cố vấn Vĩnh Thụy­ cựu hoàng Bảo Đại tới gặp đúng lúc  Bác đang ăn cơm, bữa ăn như  thường lệ. Thấy Bác làm việc nhiều, đôi mắt  trũng sâu, má hóp…ngài cố  vấn Vĩnh Thụy xin phép được mang thức ăn lại   để Bác dùng, nhưng Người trả lời tự nhiên: “ Cảm ơn ngài cố vấn! Tôi cùng   anh em đã quen lệ rồi”. Không chỉ việc ăn uống mà trong tất cả các sinh hoạt  hàng ngày,  ở  Bác luôn toát lên sự  giản dị, thanh tao. Đạo đức của Người là  một tấm gương sáng cho chúng ta noi theo. Như Người đã từng nói: “Có đức  mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức là người vô  dụng”. Như  vậy chúng ta có thể  thấy rằng Bác Hồ  là một tấm gương đạo   đức trong sáng và cao cả. Vậy đạo đức là gì? Nó thể  hiện qua những phạm   trù nào? Chúng ta cùng tìm hiểu bài học hôm nay. Như  vậy bằng những câu truyện kể  ngắn gọn, mang nhiều ý nghĩa giáo   viên không những khéo léo đặt vấn đề, dẫn dắt vào bài học mới mà còn kích   thích học sinh tìm hiểu những kiến thức mới sẽ được học.   3.2.  Sử dụng truyện kể để giảng dạy kiến thức mới. + Trong bài: “Một số  phạm trù cơ  bản của đạo dức học”,  ở  đơn vị  kiến  thức 1. Nghĩa vụ, tôi đã sử  dụng câu chuyện “Lá cờ  thêu sáu chữ  vàng” để  minh họa cho học sinh thấy được sự  dũng cảm hi sinh quên mình vì việc  nghĩa của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Từ đó giúp học sinh ý thức được  nghĩa vụ  của mình trong học tập cũng như  trong cuộc sống. Nội dung câu  chuyện có thể  khái quát: Mới 15 tuổi, Trần Quốc Toản đã có chí lớn, muốn  được tham gia Hội nghị  Bình Than để  bàn việc nước, nhưng không được  chấp nhận. Trong tay cầm quả cam, chàng thiếu niên đã bóp nát lúc nào không   8
  9. biết. Trở  về  lập nên một đội quân lớn, với lá cờ  thêu sáu chữ  vàng: “ Phá  cường địch, báo hoàng ân”. Trong các trận đánh, Trần Quốc Toản luôn  ở  vị  trí tiên phong, xung trận cùng các tướng lĩnh tạo nên những chiến thắng lừng   lẫy. Trận chiến đấu oanh liệt bên dòng sông Như  Nguyệt, Trần Quốc Toản  đã anh dũng hy sinh khi mới vừa tròn 17 tuổi. + Ở đơn vị kiến thức 2. Lương tâm, GV có thể bắt đầu bằng câu chuyện :  Sự  ngỗ  nghịch đáng ân hận suốt đời ( Trích trong Dế  mèn phiêu lưu kí của  nhà văn Tô Hoài), để  giúp học sinh thấy rõ được lương tâm là năng lực tự  đánh giá và điều chỉnh hành vi đạo đức của bản thân trong mối quan hệ  với   người khác và xã hội. Chuyện kể về sự ngông cuồng và dại dột của Dế Mèn   đã dẫn đến cái chết của Dế Choắt. Nhưng sau hành động của mình, Dế Mèn  rất ân hận: “Nào tôi có biết, cơ sự  lại ra nông nỗi này! Tôi ân hận lắm. Tôi   hối hận lắm! Anh mà chết là  chỉ do cái tội ngông cuồng dại dột của tôi. Tôi   biết làm thế  nào bây giờ”. Sau khi Dế  Choắt tắt thở, Dế  Mèn đã tự  kiểm  điểm hành vi sai lầm của mình: Tôi đứng lặng giờ lâu, nghĩ về bài học đường   đời đầu tiên.Còn  về phần Dế Choắt lại rất rộng lượng tha thứ cho Dế Mèn  và cũng không quên khuyên nhủ Dế Mèn: “Thôi tôi ốm yếu quá rồi, chết cũng   được. Nhưng trước khi nhắm mắt tôi khuyên anh:  ở  đời mà có cái thói hung   hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, thì sớm muộn cũng mang vạ vào mình   đấy”.     GV hỏi: Qua câu chuyện trên em có nhận xét gì về  hành động của Dế  Mèn?     HS trả lời:     GV nhận xét: Hành động của Dế  Mèn thể  hiện sự  ngông cuồng và rất  dại dột, hậu quả  của hành vi đó đã dẫn đến cái chết của Dế  Choắt. Từ  cái   chết đó, Dế  Mèn đã vô cùng ân hận về  hành vi của bản thân, lương tâm vô  cùng cắn dứt.  Vậy theo em lương tâm   là gì? Bao gồm những trạng thái nào? Làm thế  nào để trở thành người có lương tâm? HS trả lời: GV kết luận ( theo kiến thức SGK)     + Ở đơn vị kiến thức 3. Nhân phẩm và danh dự, GV có thể sử dụng câu  chuyện  Không nhận lụa  ( Trích trong  Kho tàng giai thoại Việt Nam    tập 1­  Nhà xuất bản Văn học Việt Nam 1994) để minh họa cho học sinh thấy được   đức độ cao thượng liêm khiết của quan Tả Thị lang bộ Hình ­ Vũ Tụ, người  9
  10. được vua Lê Thánh Tông ban cho hai chữ “Liêm khiết” đính vào cổ áo mỗi khi  vào triều. Quan Tả Thị lang, khi có người đến nhà kính cẩn xin ông nhận tấm  lụa quý để  tỏ  lòng biết  ơn khi vừa thắng kiện, mà anh ta nghĩ rằng chắc là   nhờ  quan Vũ Tụ  có phần chiếu cố, Vũ Tụ  trả  lời: Ta không biết anh là ai,   việc xử án là theo luật lệ. Người khách trả  lời: Tập tục bây giờ  đều là thế,  Tấm lụa có đáng là bao, chỉ gọi là một chút lòng thành. Còn đi vào lúc này là  tránh điều dị  nghị. Vũ Tụ  trừng mắt: Ngươi cũng biết nói điều dị  nghị  à?  Tránh dị nghị sao còn lén lút ? Tập tục thì ta mặc, ta há phải theo tập tục để  làm ô danh như bao kẻ khác hay sao? Dứt lời, ông bảo người nhà đuổi khách  ra khỏi cửa.    Sau đó GV yêu cầu học sinh nhận xét về phẩm chất đạo đức của Quan   Tả Thị lang, từ đó GV giúp học sinh hiểu rõ được nhân phẩm và danh dự.      + Ở đơn vị kiến thức 4: Hạnh phúc,  để giảng dạy phần này,GV hỏi học   sinh:  Theo em hạnh phúc là gì? Sau khi HS trả  lời GV kết luận: Hạnh phúc là  cảm xúc vui sướng và hài lòng của con người trong cuộc sống khi được đáp  ứng và thỏa mãn các nhu cầu chân chính và lành mạnh về  vật chất và tinh   thần    Tuy nhiên những nhu cầu về vật chất và tinh thần phải là nhu cầu chân  chính và lành mạnh. Nếu những nhu cầu đó được đáp ứng đầy đủ chính là sự  thỏa mãn. Nhưng con người không thể  thỏa mãn hết nhu cầu được. Tại sao   lại như vây?    Giáo viên có thể kể cho học sinh câu chuyện: “Ông lão đánh cá và con cá   vàng”  để  học sinh thấy được điều này vì con người thỏa mãn hết nhu cầu   này lại nảy sinh nhu cầu khác. Nhu cầu sau cao hơn nhu cầu trước. Nếu cứ  mãi như vậy thì sẽ không bao giờ cảm thấy hạnh phúc. Nội dung câu chuyện   được kể như sau:    Có 2 vợ chồng ông lão đánh cá nghèo khổ sống trong một túp lều bên bờ  biển. Ngày ngày, ông lão ra biển thả  lưới đánh bắt cá. Một hôm, ông lão   quăng nhiều mẻ lưới mà không bắt được gì. Đến mẻ lưới cuối cùng, ông bắt  được một con cá vàng. Cá vàng khẩn thiết cầu xin ông lão đánh cá, nếu ông  thả  nó về  biển thì nó sẽ  đáp  ứng mọi yêu cầu của ông. Ông lão đánh cá vui  vẻ  thả Cá vàng về  biển mà không đòi hỏi gì. Khi ông lão đánh cá trở  về  nhà   10
  11. thì thấy vợ đang giặt quần áo trong chiếc chậu gỗ đã vỡ một miếng. Ông kể  cho bà vợ nghe chuyện đánh được con Cá vàng. Bà vợ nghe xong, nói: ­ Sao ông không đòi nó cho một cái chậu gỗ mới? Ngày hôm sau, ông lão đánh cá đi ra biển gọi Cá vàng, Cá vàng ngoi lên  mặt nước. Ông lão bảo cá: ­ Cá vàng ơi, mụ vợ ta bắt ta phải xin một chiếc chậu gỗ mới. Cá vàng nhận lời, bảo ông lão cứ  yên tâm trở  về. Khi ông lão về  đến nhà  thì thấy nhà đã có một chiếc chậu mới. Bà vợ lại bảo: ­ Ông nên đòi thêm một ngôi nhà thật đẹp nữa. Ngày hôm sau, ông lão đánh cá lại đi ra biển, bảo Cá: ­ Cá vàng ơi, bà vợ ta lại muốn có một ngôi nhà mới. Cá vàng nhận lời. Ông lão đánh cá trở về nhà, bà vợ ông lại đòi hỏi: ­ Ông hãy đi bảo con Cá vàng rằng, tôi muốn được làm nữ hoàng. Ông lão lại đi ra biển một lần nữa, gọi Cá vàng và bảo: ­ Cá vàng  ơi, bà vợ  ta không để  cho ta yên. Bà ta muốn được sống trong   cung điện.  Cá vàng lại một lần nữa đáp ứng đòi hỏi của bà vợ. Khi ông lão về  đến nhà thì bà vợ  đã lên làm nữ  hoàng, nhưng bà ta vẫn  chưa thoả mãn: ­ Ông hãy đi bảo con Cá vàng rằng, tôi muốn làm long vương dưới biển  kia, và hàng ngày Cá vàng sẽ phải nghe tôi sai bảo. Ông lão đánh cá đi ra biển lần thứ 4 để tìm Cá vàng. Cá vàng ngoi lên mặt  nước, nghe lời của ông lão đánh cá, nó không nói gì, quẫy đuôi một cái rồi   biến mất vào đại dương sâu thẳm. Ông lão đánh cá trở  về  nhà, thấy cung điện nguy nga đã biến mất. Trước   căn lều cỏ, bà vợ ông đang giặt quần áo bằng chiếc chậu vỡ ”.(Trích từ SGK  Ngữ Văn 6) Cảm xúc vui sướng hài lòng của con người trong cuộc sống khi được đáp  ứng thỏa mãn các nhu cầu chân chính và lành mạnh chính là hạnh phúc. Mỗi  một nhu cầu chân chính và lành mạnh của con người khi được thỏa mãn được  coi như một nhà ga trên chặng đường vươn tới hạnh phúc. 3.3. Sử dụng truyện kể để củng cố bài học.    Sau khi kết thúc bài học, giáo viên cần kể cho học sinh nghe một chuyện   để củng cố kiến thức. Đây chính là cách để cho học sinh nhớ lại những kiến   11
  12. thức đã học và cũng là cách kết thúc bài giảng một cách nhẹ  nhàng và gây   được sự  hứng thú đối với học sinh. Để  củng cố  bài học này thì giáo viên có   thể kể cho học sinh nghe câu chuyện: “Cuộc sống giản dị của Bác Hồ ở phủ  Chủ Tịch”. Câu chuyện có thể kể như sau:      “Mùa hè nóng lắm, Hà Nội là vào nơi nóng bậc nhất  ở  đồng bằng Bắc   Bộ. Nhưng như đã nói, Bác không cho lắp máy điều hòa không khí. Còn quạt   máy thì cho đến năm 78,79 tuổi, Bác vẫn không chịu dùng quạt trần và quạt  để bàn.    Có một lẽ Bác không nói ra và đây mới là sẽ chính sâu xa ở trong lòng. Số  đông người Việt Nam ta ngày ấy chưa có quạt máy để dùng, cho nên từ trong  lòng, Bác Hồ không muốn dùng quạt máy. Những ngày hè nóng nực nhất, Bác  Hồ chỉ dùng quạt giấy và quạt nan thôi. Còn về mùa đông, Bác Hồ có một cái  áo bông của đồng bào biếu. Bác dùng nhiều năm rồi. Mới đầu bông xốp còn  dày, ấm. Sau dùng mãi nó lép kẹp xuống không ấm nữa. Nhưng chưa ai dám  nghĩ đến việc xin Bác bỏ  cả  mền bông đâu, chỉ  nghĩ đến thay cái vỏ  ngoài.  Lúc đầu cái vỏ bằng vải mới, dần dần nó phai màu, đứt chỉ ở khủyu tay và ở  cổ. Bác bảo mạng lại. Nó rách ở vai thì Bác bảo vá vai. Mùa rét tháng 2­1969,  nó rách một miếng nữa  ở  vai, những đồng chí chuyên săn sóc sức khỏe của  Bác nhân dịp  ấy mới nhắc một đề  nghị  đã nhiều lần: Xin Bác cho thay vỏ  ngoài, nó lại rách một lần thứ hai ở vai rồi. Đây là một người bạn chiến đấu   mấy chục năm nay của Bác, cho nên Bác nói thẳng, thân tình lắm. Bác quay  lại bảo đồng chí ấy thế này: "Này chú ạ, Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước mặc  áo vá vai thế  này là cái phúc cho dân đấy. Đừng bỏ  cái phúc ấy đi". Và nhất  định Bác không cho thay cái vỏ  mới.  Ở  đây cũng rõ một nét trong đời sống  hàng ngày của Bác. Bất kỳ cái gì có tí lãng phí cũng quyết không để lãng phí.  Nhưng đã cần thì dùng cho đủ mức cần. Suốt thơì gian 15 năm từ ngày về Hà   Nội, Bác nhận một ô tô loại trung bình chứ không phải loại sang nhất và Bác   cứ  dùng thế  mãi cho đến khi qua đời”.  (Trích từ  sách: Học tập tấm gương   đạo đức Bác Hồ, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2006, tr. 408­409) Giáo viên hỏi: Qua câu chuyện trên, chúng ta học được gì ở  Bác Hồ? từ đó  em hãy rút ra mối quan hệ giữa nghĩa vụ, lương tâm, nhân phẩm, danh dự và  hạnh phúc từ câu truyện trên? HS suy nghĩ và trả lời. 12
  13.       Giáo viên có thể  gợi ý và kết luận:  Qua câu chuyện trên chúng ta thấy  rằng Bác Hồ là một người sống vô cùng giản dị, luôn thể hiện tinh thần trách   nhiệm cao cả đối với đất nước với dân tộc. Dù là Chủ Tịch nước nhưng cuộc   sống của Bác rất bình dị  chẳng khác nào đời sống của một người dân bình  thường. Trong điều kiện đất nước đang nghèo, còn gặp rất nhiều khó khăn và  trong mọi hoàn cảnh, Bác rất biết tiết kiệm cho đất nước, cho nhân dân. Điều  này thể hiện một phẩm chất cao đẹp của Bác Hồ  mà chúng ta phải noi theo.   Đó chính là nghĩa vụ, lương tâm, nhân phẩm của một vị  lãnh tụ  đối với đất   nước. Thực hiện được những điều như  vậy thì Bác Hồ  của chúng ta cảm   thấy vui và rất hạnh phúc. Đây là một tấm gương sáng ngời để chúng ta phải   noi theo. Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang thực hiện một cách sâu và rộng  cuộc vận động  “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ  Chí Minh”   trong toàn Đảng toàn quân và toàn dân. Chúng ta, thế hệ trẻ­ Chủ nhân tương   lai của đất nước cần phải tích cực hơn nữa để  hưởng  ứng cuộc vận động  này.            Sẽ  không có phương pháp nào là vạn năng, nhưng cùng với   những  phương pháp dạy đang sử dụng, thì thông qua những câu chuyện kể đạo đức  trên sẽ  làm cho những tri thức đạo đức sẽ  trở  nên dễ  hiểu, dễ  khắc sâu hơn   vào tâm trí của người học, góp phần phát huy tính tích cực, chủ  động, sáng  tạo của học sinh trong tiếp thu bài học.   Giáo viên không chỉ  truyền thụ  tri   thức, hình thành thái độ, mà còn rèn luyện hành vi đạo đức của học sinh, biến  những tri thức đạo đức thành sức mạnh nội tâm bên trong và thôi thúc hành   động của họ, tạo ra những con người Việt Nam có đủ cả đức lẫn tài, đem sức  trẻ, nhiệt huyết, tài năng và đức độ  của mình để  xây dựng đất nước ngày  càng phồn vinh, ấm no, hạnh phúc.  4. Kết quả thực nghiệm của đề tài. 4.1. Trước khi áp dụng đề tài.  Với đặc thù của môn GDCD nói chung và bài “Một số phạm trù cơ  bản   của đạo đức học” nói riêng, khi chưa thay đổi phuơng pháp giảng dạy thì một  điều dễ  nhận thấy là các em không có hứng thú học môn GDCD, đặc biệt là  những vấn đề  liên quan đến đạo đức, nó cũng không phải là vấn đề  mới mẻ,   các em đã được tiếp cận từ những lớp ở cấp dưới. Đa số các em chỉ học mang  tính chất đối phó cho qua, học để lấy điểm. Do vậy, học sinh không hiểu được  bản chất của vấn đề  ( Như  trên tôi đã trình bày, đó là xem thường bộ  môn  13
  14. GDCD, là một nguyên nhân dẫn đến sự  xuống cấp trầm trọng của một bộ  phận thanh thiếu niên hiện nay). 4.2. Sau khi áp dụng đề tài. * Kết quả định tính:    Qua tìm hiểu, điều tra, thăm dò từ  học sinh đề  tài đã đạt được những kết   quả định tính sau đây: ­   Giáo viên lên lớp với tâm lí thoải mái, tự tin hơn trong việc giảng dạy,   truyền đạt kiến thức cho học sinh. ­   Học sinh tiếp thu kiến thức tốt hơn, lớp học đã trở nên sôi nổi, học sinh  có cảm xúc yêu thích bài học này. Học sinh lĩnh hội và nắm được kiến thức  bài học một cách nhanh nhất, chắc chắn và nhớ lâu kiến thức đã học. ­   Học sinh hứng thú say mê, tích cực, chủ động suy nghĩ trong việc tìm tòi  kiến thức. Học sinh mạnh dạn, chủ  động tranh luận cởi mở, sôi nổi, tự  tin  đưa ra ý kiến của mình, lắng nghe ý kiến đóng góp, phê bình của các bạn; từ  đó giúp học sinh hoà đồng với cộng đồng, tạo cho học sinh tự tin hơn. ­   Trong quá trình học tập lĩnh hội kiến thức của bài học và từ đó biết vận   dụng kiến thức của bài học vào thực tiễn cuộc sống và giải thích được các  hiện tượng xảy ra ở địa phương mình. ­   Đã chuyển trọng tâm từ hoạt động của thầy sang hoạt động của trò. ­   Đã giúp học sinh từ chỗ học tập thụ động, chuyển sang hoạt động chủ  động, học sinh tích cực chiếm lĩnh kiến thức và kĩ năng thu thập, xử lý trình  bày trao đổi thông tin thông qua các hoạt động học tập do giáo viên tổ  chức  hướng dẫn. * Kết quả  định lượng:   Để  đo mức độ  hứng thú của học sinh khi vận  dụng truyện kể Việt Nam vào dạy học bài “Một số phạm trù cơ bản của đạo   đức học” Giáo dục công dân lớp 10, tôi đã tiến hành  thực nghiệm như sau: +  Qua kết quả điều tra.    Sau khi áp dụng đề tài vào dạy học năm học 2012 ­ 2013 tại trường THPT   Yên Định 2 tôi đã phát phiếu điều tra 235 học sinh khối 10 và đã nhận được   kết quả như sau: Câu 1. Cảm nhận của em về bài giảng theo hướng này như thế nào? a. Dễ hiểu:  220/235 tỉ lệ 93,6%. b. Bình thường:  15/120 tỉ lệ 6.4%. c. Khó hiểu:  0/235 tỉ lệ 0%. 14
  15. Câu 2. Theo em mức độ kích thích tính tư duy của bài giảng ra sao? a. Cao:  200/235 tỉ lệ 85.1%. b. Bình thường:  35/235 tỉ lệ 24.9%. c. Thấp:  0/235 tỉ lệ 0%. Câu 3.  So với phương pháp dạy học truyền thống thì phương pháp dạy học  mới này có tạo được hứng thú học tập tốt hơn không? .a. Có:  235/235 tỉ lệ 100%. b. Không : 0/235 tỉ lệ 0 %. Câu 4.  Em thấy có nên sử  dụng truyện kể  trong dạy học môn GDCD nữa   không? a. Có:  235/235 tỉ lệ 100 %. b. Không:  0/235 tỉ lệ  0%. + Kết quả bài kiểm tra:  Nội dung kiểm tra: Kiểm tra 15 phút về  bài học “Một số  phạm trù cơ  bản   của đạo đức học” . Kết quả kiểm tra được thống kê, so sánh như sau:  Khi chưa sử dụng truyện kể vào giảng dạy: Lớp Sĩ  Giỏi Khá Trung bình Yếu, Kém số SL % SL % SL % SL % 10A6 47 5 10.6 20 42.6 20 42.6 2 4.2 10A7 48 5 10.4 21 43.8 19 39.6 3 6.2 10A8 47 3 6.4 18 38.3 23 48.9 3 6.4 10A8 46 3 6.5 19 41.3 23 50 1 2.2 10A10 47 3 6.4 17 36.2 22 46.8 4 8.6 Khi sử dụng truyện kể vào giảng dạy: Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu, Kém SL % SL % SL % SL % 10A1 47 23 48,9 22 46,8 2 4,25 0 0 10A2 45 23 51.1 21 46.7 1 2,2 0 0 10A3 46 19 41.3 27 58.7 0 0 0 0 10A4 44 18 40.9 26 59.1 0 0 0 0 10A5 45 16 35.6 28 62.2 1 2.2 0 0 15
  16. Kết quả  khảo sát cho thấy, phần lớn học sinh (chiếm 93,6%) đều cho  rằng sử dụng truyện kể vào bài giảng sẽ giúp cho bài giảng dễ hiểu hơn. Có  tới 85,1% số HS được hỏi cho rằng phương pháp này kích thích được tính tư  duy của học sinh. Đặc biệt 100% học sinh đánh giá rằng phương pháp vận  dụng truyện kể tạo được hứng thú tốt hơn cho học sinh so với phương pháp  dạy học truyền thống. 100% các em đều  ủng hộ  việc vận dụng truyện kể  khi dạy học môn Giáo dục công dân, nhất là bài “Một số  phạm trù cơ  bản   của đạo đức học ” môn Giáo dục công dân lớp 10.    Như vậy, kết quả thực nghiệm đã khẳng định tính đúng đắn, chân thực  của việc sử  dụng  truyện kể  trong dạy học bài “  Một số  phạm trù cơ  bản   của đạo đức học” – GDCD lớp 10 nói riêng và môn GDCD nói chung  ở  trường THPT. Điều này minh chứng những giải pháp của đề tài thực sự đem  lại giá trị  trong việc nâng cao chất lượng dạy học môn Giáo dục công dân  hiện nay. III. KẾT LUẬN,KIẾN NGHỊ 1. Kết luận    Đề tài đã thu được những kết quả chính sau đây: + Nêu lên được thực trạng hiện nay của việc dạy và học bộ  môn GDCD nói  chung, dạy học bài “ Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học” nói riêng. + Nêu lên một số  cơ  sở  lí luận của việc vận dụng truyện kể  vào dạy học  môn GDCD. + Đã đưa ra một số  biện pháp cụ  thể  để  vận dụng truyện kể  vào dạy học  môn GDCD, cụ thể dạy học bài “ Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học ­   GDCD 10”. + Đã đưa ra những kết quả thực nghiệm minh chứng cho tính thiết thực của  đề tài khi áp dụng vào thực tiễn dạy học. Như  vậy có thể  khẳng định mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ  nghiên cứu đã  hoàn thành. Việc áp dụng đề tài vào thực tiễn là hoàn toàn khả thi. 2. Kiến nghị. +  Xây dựng hệ thống tài liệu tham khảo.  Môn  GDCD  hiện  nay  đóng  vai trò rất quan  trọng trong việc  đào  tạo con   người. Tuy nhiên hiện nay sách tài liệu tham khảo cho bộ môn này rất ít. Do  vậy tôi có mong muốn các cơ  quan ban ngành cần quan tâm hỗ  trợ  cung cấp   tài liệu tham khảo phục vụ cho môn học.  16
  17. + Trong những giai đoạn tiếp theo, tôi cũng rất mong muốn vị  trí và vai trò  của môn GDCD sẽ  được nâng lên, để  có thể  xóa bỏ  được định kiến của xã  hội xem nó là một môn phụ. Tôi có một mong muốn rằng, các cấp các ngành  cần quan tâm hơn nữa đến bộ  môn GDCD hơn nữa.Tôi xin chân thành cảm  ơn! Xác nhận của thủ  trưởng đơn vị                                              Thanh Hóa, ngày   16/05/2013  ……………………………………          Tôi  xin  cam  đoan  đây là SKKN của  …………………………………….          mình  viết, không  sao  chép nội dung ……………………………………           của người khác. ……………………………………                          Người thực hiện                                                                                                                                            Đoàn Thị Hồng Thắm TÀI LIỆU THAM KHẢO [01] . Sách giáo khoa GDCD lớp 10, NXB Giáo dục (2006).  [02] . Sách giáo viên GDCD lớp 10, NXB Giáo dục(2006). [03] . Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm. [04] . Giáo trình triết học Mác – Lê Nin, NXB Chính trị Quốc gia.  [05] .   Dương Thiệu Tống, Suy nghĩ về  giáo dục truyền thống và hiện đại,  tạp chí Dạy và học ngày nay, số tết. [06] Đinh Văn Đức, Dương Thị  Thúy Nga (2010), Dạy học theo chuẩn kiến   thức, kỹ năng môn GDCD lớp 10, Nxb Đại học Sư phạm. [07] Nguyễn Thị Kim Oanh (2010), Một số  biện pháp phát huy tính tích cực,   sáng tạo  của học sinh THPT trong học tập môn GDCD, Tạp chí Giáo dục, số  236. [08] Nguyễn Sĩ Quyết Tâm (2003),  Dạy và học môn GDCD ở trường THPT ,  Tạp chí Giáo dục, số 62. [09]   Nguyễn Văn Cư  (2008),  Giáo dục đạo đức cách mạng cho HS lớp 10   THPT quaviệc dạy và học môn Giáo dục công dân, Tạp chí Giáo dục, số 186. 17
  18. [10] Kho tàng giai thoại Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học Việt Nam 1994. [11] Nhiều tác giả (2010), Chuyện kể về Bác Hồ, NXB Giáo dục Việt Nam. [12] Lê Bá Hiển (2012), Thời niên thiếu của các danh nhân Việt Nam ­ tập 1,  NXB Trẻ. [13] Lê Bá Hiển (2012), Thời niên thiếu của các danh nhân Việt Nam ­ tập 2,  NXB Trẻ. [14] Lê Bá Hiển (2012), Thời niên thiếu của các danh nhân Việt Nam ­ tập 3,  NXB Trẻ. [15] Hoài Anh (2010), Kể  chuyện lịch sử  nước nhà dành cho học sinh, NXB  Trẻ. [16] Nguyễn Huy Tưởng (2010), Lá cờ thêu sáu chữ vàng, NXB Kim Đồng. [17] 101 truyện ngụ ngôn thế giới, NXB Văn hóa thông tin.                                         MỤC LỤC Trang I. PHẦN MỞ ĐẦU 01 1. Lí do chọn đề tài 01 2. Mục đích nghiên cứu  02 3. Nhiệm vụ nghiên cứu   02 4. Phương pháp nghiên cứu 02 II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  02 1.   Cơ sở lí luận của đề tài 02 1.1. Cơ sở triết học 02 1.2. Cơ sở giáo dục học  03 1.3. Cơ sở tâm lí học 04 1.4. Một số vấn đề  cần lưu ý khi sử dụng truyện kể trong giảng  05 18
  19. dạy bài “Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học­ GDCD 10” 2. Thực trạng của đề tài 05 3. Giải pháp và tổ chức thực hiện 07 3.1. Sử dụng truyện kể để giới thiệu  bài 07 3.2. Sử dụng truyện kể để giảng dạy bài mới 08 3.3. Sử dụng truyện kể để củng cố bài học 10 4. Kết quả thực nghiệm của đề tài 12 III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 15 Tài liệu tham khảo 16     19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2