intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Tăng cường liên hệ với thực tiễn trong quá trình dạy học một số chủ đề giải tích ở trường trung học phổ thông

Chia sẻ: Hồ Dũng | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:134

116
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm đề tài Tăng cường liên hệ với thực tiễn trong quá trình dạy học một số chủ đề giải tích ở trường trung học phổ thông được nghiên cứu với mục đích: Tìm hiểu mối liên hệ của một số kiến thức Giải tích trong chương trình Toán phổ thông với thực tiễn và vận dụng vào đổi mới Phương pháp dạy học, nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục Toán học cho học sinh Trung học phổ thông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Tăng cường liên hệ với thực tiễn trong quá trình dạy học một số chủ đề giải tích ở trường trung học phổ thông

  1. 1 MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Đào tạo những người lao động phát triển toàn diện, có tư duy sáng  tạo, có năng lực thực hành giỏi, có khả năng đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao   trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá gắn với phát triển   nền kinh tế  trí thức và xu hướng toàn cầu hoá là nhiệm vụ  cấp bách đối  với ngành giáo dục nước ta hiện nay. Để  thực hiện được nhiệm vụ  đó sự  nghiệp giáo dục cần được đổi mới. Cùng với những thay đổi về nội dung,  cần có những đổi mới căn bản về  tư  duy giáo dục và ph ương pháp dạy  học, trong đó phương pháp dạy học môn Toán là một yếu tố  quan trọng.  Một trong những nhiệm vụ và giải pháp lớn về giáo dục được đề  ra trong  Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng là: "Nâng cao chất lượng  giáo dục toàn diện. Đổi mới cơ  cấu, tổ chức, nội dung, ph ương pháp dạy  và học theo hướng ‘‘chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Phát huy trí sáng   tạo, khả năng vận dụng, thực hành của người học. Đề cao trách nhiệm của  gia đình, nhà trường và xã hội" [43, tr. 58]. 1.2. ''Lí luận liên hệ  với thực tiễn'' là một yêu cầu có tính nguyên tắc  trong dạy học môn Toán được rút ra từ  luận điểm triết học: ''Thực tiễn là  nguồn gốc của nhận thức, là tiêu chuẩn của chân lí''. Chủ tịch Hồ Chí Minh  đã viết: "Thống nhất giữa lí luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của   chủ nghĩa Mác ­ Lênin. Thực tiễn không có lí luận hướng dẫn thì thành thực   tiễn mù quáng. Lí luận mà không liên hệ với thực tiễn là lí luận suông" [52,  tr. 66]. Trong lĩnh vực Giáo dục và Đào tạo, Bác là người có quan điểm và   hành động chiến lược vượt tầm thời đại. Về  mục đích việc học Bác xác  định rõ: học để làm việc. Còn về phương pháp học tập Người xác định: Học  phải gắn liền với hành; học tập suốt đời; học  ở  mọi nơi, mọi lúc, mọi   người.  Quan điểm này được Người nhấn mạnh: "Học để  hành: Học với 
  2. 2 hành phải đi đôi. Học mà không hành thì vô ích. Hành mà không học thì   không trôi chảy". Vấn đề  này đã được cụ  thể  hoá và quy định trong Luật  giáo dục nước ta (năm 2005). Tại chương 1, điều 3, khoản 2: '' Hoạt động  giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi  đôi với   hành, giáo  dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục   nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội''. Chương 2,  mục 2, điều 27 và 28 xác định rằng: "Giáo dục trung học phổ  thông nhằm  giúp học sinh ..., có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng   phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào   cuộc sống lao động''. "Phương pháp giáo dục phổ  thông phải phát huy tính  tích cực, tự  giác, chủ  động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm  của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự  học, khả  năng làm  việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác   động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh".  1.3. Toán học có nguồn gốc thực tiễn và là "chìa khoá" trong hầu hết các  hoạt động của con người. Nó có mặt ở khắp nơi. Toán học là kết quả của sự  trừu tượng hoá các sự  vật hiện tượng trong thực tiễn trên những bình diện   khác nhau và có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung  của giáo dục phổ  thông. Mặc dù là ngành khoa học có tính trừu tượng cao   nhưng Toán học có mối liên hệ  chặt chẽ  với thực tiễn và có thể  ứng dụng   rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau: là công cụ để học tập các môn học   trong nhà trường, nghiên cứu nhiều ngành khoa học và là công cụ  để  hoạt   động trong sản xuất và đời sống thực tế. Trong thư gửi các bạn trẻ yêu toán,   thủ  tướng Phạm Văn Đồng đã nhấn mạnh: "Dù các bạn phục vụ  ở  nghành  nào, trong công tác nào, thì các kiến thức và phương pháp toán cũng cần cho  các bạn" [7, tr. 14]. ''Toán học có vai trò quan trọng trong khoa học công nghệ  cũng như trong đời sống'' [19, tr. 50]. 
  3. 3 1.4. Mặc dù vậy, do nhiều lí do khác nhau mà SGK Toán phổ thông nói  chung, sách Đại số  và Giải tích 11; Giải tích 12 (chỉnh lí hợp nhất năm  2000) nói riêng, chưa thực sự  quan tâm đúng mức, thường xuyên tới việc   làm rõ mối liên hệ với thực tiễn ngoài Toán học, nhằm bồi dưỡng cho học   sinh ý thức và năng lực vận dụng những hiểu biết Toán học vào việc học  tập các môn học khác, giải quyết nhiều tình huống đặt ra trong cuộc sống   lao động sản xuất.            Bên cạnh đó, thực trạng dạy học Toán  ở  trường phổ  thông cho thấy   rằng, đa số giáo viên chỉ quan tâm tới việc truyền thụ lí thuyết, thiếu thực   hành và liên hệ  kiến thức với thực tiễn. Học sinh ''đang học Toán chỉ giới  hạn trong phạm vi bốn bức tường của lớp học, thành thử không để  ý đến  những tương quan Toán học quen thuộc trong thế  giới những sự  vật hiện   tượng xung quanh, không biết ứng dụng những kiến thức Toán học đã thu  nhận được vào thực tiễn'' [33, tr. 5]. Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn thì coi đây  là kiểu ''Dạy và học toán tách rời cuộc sống đời thường''.   1.5.  Định hướng đổi mới phương pháp dạy học và nội dung sách giáo  khoa của Bộ giáo dục và Đào tạo đã xác định rõ: Cần dạy học theo cách sao   cho học sinh có thể nắm vững tri thức, kỉ năng và sẵn sàng vận dụng vào thực  tiễn. Tạo cơ sở để  học sinh học tiếp hoặc đi vào cuộc sống lao động. Sách  giáo khoa cần chú ý nêu rõ ý nghĩa và ứng dụng của các kiến thức, chú ý mối  quan hệ liên môn. Gần đây đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này,  trong đó phải kể đến:  ­  Nguyễn Ngọc Anh (2000),  Ứng dụng phép tính vi phân (Phần đạo   hàm) để  giải các bài tập cực trị  có nội dung liên môn và thực tế  trong dạy   học toán 12 trung học phổ thông, Luận án Tiến sỹ Giáo dục học, Viện khoa học  giáo dục, Hà Nội.
  4. 4 ­ Nguyễn Văn Bảo (2005), Góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực   vận dụng kiến thức Toán học để  giải quyết một số  bài toán có nội dung   thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học, trường Đại học Vinh. ­ Bùi Huy Ngọc (2003),  Tăng cường khai thác nội dung thực tế trong   dạy học Số  học và Đại số  nhằm nâng cao năng lực vận dụng Toán học   vào thực tiễn cho học sinh Trung học c ơ  s ở, Luận án Tiến sỹ  Giáo dục  học, Trường Đại học Vinh, Vinh. Luận văn này trên cơ sở kế thừa, phát triển và cụ thể hoá những kết quả  nghiên cứu của các tác giả đi trước, nhằm tìm hiểu để làm sáng tỏ thêm việc  tăng cường liên hệ các kiến thức Giải tích ở trường Trung học phổ thông với  thực tiễn. Vì những lí do trên đây, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu của Luận văn   là:  "TĂNG CƯỜNG LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC  MỘT SỐ CHỦ ĐỀ GIẢI TÍCH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG". II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Mục đích của Luận văn là tìm hiểu mối liên hệ của một số kiến thức   Giải tích trong chương trình Toán phổ thông với thực tiễn và vận dụng vào  đổi mới Phương pháp dạy học, nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo  dục Toán học cho học sinh Trung học phổ thông.  III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 3.1.  Tổng hợp các quan điểm của các nhà khoa học liên quan đến  vấn đề tăng cường liên hệ với thực tiễn trong dạy Toán nói chung và dạy   học Giải tích nói riêng.
  5. 5 3.2. Nghiên cứu kĩ nội dung các SGK Đại số và Giải tích 11; Giải tích   12 hiện hành và các tài liệu tham khảo có liên quan để  làm rõ những nội   dung có mối liên hệ chặt chẽ với thực tiễn.                     3.3.  Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân của việc dạy và học môn  Giải tích ở trường Trung học phổ thông theo hướng nghiên cứu của đề tài.  3.4. Xây dựng một số biện pháp tăng cường liên hệ với thực tiễn trong   quá trình dạy học Giải tích lớp 11 và 12 nhằm góp phần nâng cao hiệu quả  dạy học. 3.5. Tiến hành tổ chức thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính khả thi  của một số phương án dạy học môn Giải tích nhằm điều chỉnh và rút ra kết   luận. IV. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC             Giả thuyết khoa học của đề tài là: trên cơ sở tôn trọng sách giáo khoa   hiện hành, nếu giáo viên chú ý đến việc tăng cường liên hệ  với thực tiễn  trong quá trình dạy học thì sẽ  góp phần nâng cao chất lượng học tập môn  Giải tích  ở  nhà trường phổ  thông và góp phần đào tạo những người lao  động đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn hội nhập hiện nay. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5.1.  Nghiên cứu lí luận: Tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu toán học;  phương pháp dạy học môn Toán và các tài liệu khác liên quan đến đề tài. 5.2. Quan sát: Quan sát thực trạng dạy và học môn Toán nói chung và  phân môn Giải tích nói riêng ở trường phổ thông ở một số địa phương. 5.3. Thực nghiệm sư phạm: Tổ chức thực nghiệm sư phạm để xem  xét tính khả thi và hiệu quả của việc tăng cường liên hệ với thực tiễn trong  dạy học Giải tích ở trường phổ thông. VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
  6. 6 6.1. Góp phần làm rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện cho học sinh  ý thức tăng cường liên hệ với thực tiễn trong quá trình dạy học. 6.2.  Làm rõ sự  phản ánh thực tiễn, nguồn gốc thực tiễn và các  ứng   dụng trong thực tiễn của một số vấn đề Giải tích. 6.3. Đề xuất một số quan điểm cơ bản nhằm làm cơ sở đưa ra một số  biện pháp tăng cường liên hệ  với thực tiễn trong quá trình dạy học Giải  tích. 6.4. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên ngành  Sư phạm Toán và giáo viên Toán ở trường Trung học phổ thông. VII. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Mở đầu I. Lí do chọn đề tài II. Mục đích nghiên cứu III. Nhiệm vụ nghiên cứu IV. Giả thuyết khoa học             V. Phương pháp nghiên cứu VI. Đóng góp của Luận văn Chương 1: Một số vấn đề cơ sở lí luận và thực tiễn 1.1. Về phạm trù thực tiễn 1.2.  Nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn trong dạy học  Toán 1.3.  Mục đích của việc tăng cường liên hệ  với thực tiễn trong quá  trình dạy học Toán ở trường Trung học phổ thông 1.4. Cơ sở thực tiễn 1.5. Kết luận chương 1
  7. 7 Chương   2:   Dạy   học   môn   Giải   tích   ở   trường   phổ   thông   theo  hướng tăng cường liên hệ với thực tiễn  2.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của một số vấn đề Giải  tích 2.2. Tiềm năng của một số chủ đề  Giải tích trong việc rèn luyện cho   học sinh năng lực liên hệ với thực tiễn 2.3.  Một số  biện pháp sư  phạm nhằm tăng cường liên hệ  với thực  tiễn trong quá trình dạy học Giải tích 2.4. Kết luận chương 2 Chương 3: Thực nghiệm sư phạm 3.1. Mục đích thực nghiệm 3.2. Tổ chức thực nghiệm 3.3. Nội dung thực nghiệm 3.4. Phân tích kết quả thực nghiệm 3.5. Kết luận chung về thực nghiệm Kết luận Tài liệu tham khảo
  8. 8 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Trong chương này chúng tôi sẽ  trình bày ngắn gọn một số  lí luận và  hoạt động thực tiễn liên quan đến vấn đề  "Tăng cường liên hệ  với thực  tiễn trong dạy học Toán" nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu chương 2. Cụ  thể sẽ làm rõ:  Triết học quan niệm về thực tiễn như thế nào?   Nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn và việc vận dụng  vào quá trình dạy học Toán.  Tại sao phải tăng cường liên hệ với thực tiễn trong dạy học Toán?  Làm rõ thực trạng dạy học và nội dung các SGK theo hướng nghiên   cứu của đề tài. 1.1. Về phạm trù thực tiễn 1.1.1. Thuật ngữ thực tiễn trong một số tài liệu ngôn ngữ khoa học Theo Từ  điển Tiếng Việt: 'Thực tiễn'' là ''những hoạt động của con  người, trước hết là lao động sản xuất, nhằm tạo ra những điều kiện cần   thiết cho sự tồn tại của xã hội (nói tổng quát)'' [56, tr. 974]. Còn Từ  điển học sinh thì định nghĩa: "Thực tiễn" là "toàn bộ  những   hoạt động của con người để tạo ra những điều kiện cần thiết cho đời sống   xã hội bao gồm các hoạt động sản xuất, đấu tranh giai cấp và thực nghiệm  khoa học: không có thực tiễn thì không có lí luận khoa học" [31, tr. 575].  1.1.2. Phạm trù thực tiễn trong Triết học Phạm trù thực tiễn đã được Lútvích Phoiơbắc ­ nhà duy vật lớn nhất   trước Mác đề  cập đến. Song ông không nhận thức được ''hoạt động cảm  
  9. 9 giác của con người là thực tiễn'' nên còn quá coi trọng hoạt động lí luận và  chưa thấy hết được vai trò, ý nghĩa của thực tiễn  đối với nhận thức của  con người. Các nhà duy tâm cũng chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần chứ  không hiểu nó như là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm tính của   con người. Ngay cả Hêghen ­ nhà triết học duy tâm lớn nhất trước Mác, mặc   dù đã có những tư  tưởng hợp lí sâu sắc (bằng thực tiễn, chủ  thể tự  ''nhân   đôi'' mình, đối tượng hoá bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài   [52, tr. 53] )  nhưng cũng chỉ  giới hạn thực tiễn  ở  ý niệm, ông cho rằng  thực tiễn là một ''suy lí lôgíc''. Kế  thừa những yếu tố  hợp lí, chỉ  rõ và khắc phục những thiết sót  trong quan điểm của các nhà triết học đi trước. Mác và Ăngghen đã đem lại  một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn:  ''Thực tiễn là những hoạt  động vật chất ''cảm tính'', có mục đích, có tính lịch sử  xã hội của con  người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội'' [52, tr. 54]. Như  vậy, thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ  hoạt động của con   người mà chỉ là những hoạt động vật chất ­ hoạt động đặc trưng, có mục   đích, có ý thức, năng động, sáng tạo. Hoạt động này có sự thay đổi qua các   giai đoạn lịch sử  khác nhau và được tiến hành bởi đông đảo quần chúng  nhân dân trong xã hội. Con người sử  dụng các phương tiện, công cụ  vật   chất, sức mạnh vật chất của mình tác động vào tự  nhiên, xã hội để  làm  biến đổi chúng trong hiện thực cho phù hợp với nhu cầu của mình và làm  cơ  sở  để  biến đổi hình  ảnh sự  vật trong nhận thức. '' Thực tiễn trở  thành  mắt khâu trung gian nối liền ý thức con người với thế giới bên ngoài'' [52,   tr. 55]. Con người và xã hội loài người  sẽ  không thể  tồn tại và phát triển  được nếu không có hoạt động  thực tiễn  (mà  dạng cơ  bản đầu tiên và 
  10. 10 nguyên thuỷ  nhất là hoạt động sản xuất vật chất). '' Thực tiễn  là phương  thức tồn tại cơ  bản của con người và xã hội, là phương  thức đầu tiên và  chủ yếu của mối quan hệ giữa con người với thế giới'' [52, tr. 55]. 1.2. Nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn trong dạy học   Toán 1.2.1. Nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn  Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ  biện chứng với nhau, tác  động qua lại lẫn nhau. Việc quán triệt mối quan hệ  này có ý nghĩa quan   trọng trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn cách mạng. Con  người quan hệ với thế giới bắt đầu từ  thực tiễn. Lý luận là hệ  thống sản  phẩm tri thức được khái quát từ  thực tiễn nhờ sự phát triển cao của nhận  thức.  Thực tiễn là cơ  sở, mục đích và động lực chủ  yếu của nhận thức, lý  luận. Thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, không có thực tiễn thì  không có nhận thức. Mọi tri thức khoa học dù trực tiếp hay gián tiếp thì xét   đến cùng đều bắt nguồn từ  thực tiễn. Nhận thức, lý luận sau khi ra đời  phải quay về  phục vụ  thực tiễn, hướng dẫn và chỉ  đạo thực tiễn. Ngược  lại, thực tiễn là công cụ  xác nhận, kiểm nghiệm tri trức thu được là đúng  hay sai, chân lý hay sai lầm và nghiêm khắc chứng minh chân lý, bác bỏ sai  lầm ­ "Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý". Cần coi trọng thực tiễn. Việc   nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát  thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ  với thực tiễn, "học đi đôi với   hành". Tuy nhiên không có nghĩa là coi nhẹ, xa rời lý luận. Chủ tịch Hồ Chí  Minh đã viết: "Thống nhất giữa lí luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn  bản của chủ nghĩa Mác ­ Lênin. Thực tiễn không có lí luận hướng dẫn thì  
  11. 11 thành thực tiễn mù quáng. Lí luận mà không liên hệ với thực tiễn là lí luận  suông" [52, tr. 66].  1.2.2. Một số quan điểm về vấn đề liên hệ với thực tiễn trong dạy   học Trong lĩnh vực Giáo dục và Đào tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có   quan điểm và hành động chiến lược vượt tầm thời đại. Về  mục đích việc   học Bác xác định rõ: Học để  giúp dân cứu nước; học để làm việc. Còn về  phương pháp học tập (là một nội dung của mục đích học) Người xác định:  Học phải gắn liền với hành; học tập suốt đời; học ở mọi nơi, mọi lúc, mọi   người.  Quan điểm này được Người nhấn mạnh: "Học để  hành: Học với   hành phải đi đôi. Học mà không hành thì vô ích. Hành mà không học thì   không trôi chảy"  [37, tr. 2­3­5]. Đồng chí Trường Chinh cũng đã nêu: "Dạy  tốt... là khi giảng bài phải liên hệ với thực tiễn, làm cho học sinh dễ hiểu,  dễ nhớ và có thể áp dụng điều mình đã học vào công tác thực tiễn được".  Còn theo Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn, trong dạy học không nên đi theo  con đường sao chép lí luận  ở  đâu đó rồi nhồi cho người học, vì học như  vậy là kiểu học sách vở. Nên theo con đường có một lí luận hướng dẫn ban  đầu rồi  bắt tay hoạt động thực tiễn, dùng thực tiễn này mà củng cố  lí  luận, kế  thừa có phê phán lí luận của người khác, rồi lại hoạt động thực  tiễn, cứ thế theo mối quan hệ qua lại giữa lí luận và thực tiễn mà đi lên. 1.2.3.  Nguyên lý giáo dục và định hướng tăng cường liên hệ  với   thực tiễn trong dạy học môn Toán 1.2.2.1. Nguyên lý giáo dục Luật Giáo dục nước ta (năm 2005) xác định: ''Hoạt động giáo dục phải  được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với  
  12. 12 lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết  hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội''.  1.2.2.2. Định hướng tăng cường liên hệ với thực tiễn trong dạy học môn   Toán Toán học là môn học có tính trừu tượng cao. Tuy nhiên, Toán học có  nguồn gốc thực tiễn nên tính trừu tượng chỉ che lấp chứ không hề làm mất   đi tính thực tiễn của nó. Với vai trò là môn học công cụ nên các tri thức, kĩ   năng và phương pháp làm việc của môn Toán được sử  dụng cho việc học   tập các môn học khác trong nhà trường, trong nhiều ngành khoa học khác  nhau và trong đời sống thực tế. Chẳng hạn, trong Vật lí chúng ta gặp mối  liên hệ  giữa quảng đường đi được s và thời gian t trong một chuyển động  đều biểu thị  bởi: s = vt, mối liên hệ  giữa hiệu điện thế  U và cường độ  dòng điện I khi điện trở R không đổi biểu thị bởi: U = I.R; trong Hình học  chúng ta gặp mối liên hệ giữa chu vi C và bán kính R của đường tròn biểu   thị bởi: C = 2 π R; trong Hóa học chúng ta gặp mối liên hệ giữa phân tử gam  M của một chất khí với tỉ khối d của chất khí đó đối với không khí biểu thị  bởi: M = 29d; mối quan hệ giữa giá tiền p với chiều dài n của tấm vải biểu  thị bởi: p = a.n;… Bằng cách trừu tượng hóa, gạt ra một bên các đại lượng  cụ thể và chỉ chú ý tới quan hệ của các đại lượng đó, chúng ta có hàm số y  = a.x. Do vậy, có thể  nói rằng, môn Toán có nhiều tiềm năng liên hệ  với   thực tiễn trong dạy học. Theo [19, tr. 71] thì liên hệ với thực tiễn trong quá  trình dạy học Toán là một trong ba phương hướng thực hiện Nguyên lí giáo   dục nói trên. Cụ thể là cần liên hệ với thực tiễn qua các mặt sau: 1) Nguồn gốc thực tiễn của Toán học : số tự nhiên ra đời do nhu cầu   đếm, hình học xuất hiện do nhu cầu đo đạc lại ruộng đất sau những trận   lụt bên bờ sông Nil (Ai cập), …
  13. 13 2)  Sự  phản ánh thực tiễn của Toán học: khái niệm véctơ  phản ánh  những đại lượng đặc trưng không phải chỉ  bởi số  đo mà còn bởi hướng,   chẳng hạn vận tốc, lực,…  khái niệm đồng dạng phản ánh những hình  đồng dạng nhưng khác nhau về  độ  lớn…  trong Toán học có chứng minh  thuận, chứng minh đảo thì trong cuộc sống ta thường khuyên nhau: "nghĩ đi  rồi phải nghĩ lại", "có qua có lại", "sống phải có trước có sau", … 3) Các ứng dụng thực tiễn của Toán học: Ứng dụng lượng giác để đo  khoảng cách không tới được, đạo hàm được ứng dụng để tính vận tốc tức  thời, tích phân được ứng dụng để tính diện tích, thể tích… Muốn vậy, cần   quan tâm tăng cường cho học sinh tiếp cận với những bài toán có nội dung   thực tiễn trong khi học lí thuyết cũng như làm bài tập. ­ Trong nội bộ môn Toán, cần cho học sinh làm toán có nội dung thực   tiễn như  giải bài toán bằng cách lập phương  trình, bài toán cực  trị,  đo   khoảng cách không tới được… ­ Cần cho học sinh vận dụng những tri thức và phương pháp Toán học  vào những môn học trong nhà trường, chẳng hạn vận dụng véctơ  để  biểu  thị lực, vận tốc, gia tốc, vận dụng đạo hàm để  tính vận tốc tức thời trong   Vật lí, vận dụng tổ  hợp xác suất khi nghiên cứu di truyền, vận dụng tri   thức về hình học không gian trong vẽ kĩ thuật… ­ Tổ  chức những hoạt động thực hành toán học trong và ngoài nhà  trường kể cả những hoạt động có tính chất tập dượt nghiên cứu bao gồm   khâu đặt bài toán, xây dựng mô hình, thu thập dữ liệu, xử lí mô hình để tìm  lời giải, đối chiếu lời giải với thực tế  để  kiểm tra và điều chỉnh [16, tr.   53]. Tất cả  những hoạt động trên cần dẫn tới hình thành phẩm chất luôn   luôn  muốn  ứng dụng tri thức và phương pháp Toán để  giải thích, phê 
  14. 14 phán và giải quyết những sự  việc xảy ra trong đời sống. Chẳng hạn, khi  nhìn thấy một số  ghi  ở  một cột bên lề  đường, có thể  học sinh chưa biết   được số  đó chỉ  cái gì. Chính ý thức và phong cách vận dụng Toán học sẽ  thôi thúc họ xem xét sự biến thiên của các số trên các cột để giải đáp điều  đó.  Tác giả  Trần Kiều cho rằng: "Học Toán trong nhà trường phổ  thông  không phải chỉ  tiếp nhận hàng loạt các công thức, định lý, phương pháp  thuần túy mang tính lí thuyết..., cái đầu tiên và cái cuối cùng của quá trình  học Toán phải đạt tới là hiểu được nguồn gốc thực tiễn của Toán học và   nâng cao khả năng ứng dụng, hình thành thói quen vận dụng Toán học vào  cuộc sống" [21, tr. 3 ­ 4]. "Loại trừ những  ứng dụng khỏi Toán học chẳng  khác gì đi tìm một thực thể sống chỉ từ một hài cốt, không bắp thịt, không  thần kinh, không mạch máu" [6, tr. 31]. Tuy nhiên, trước hết học sinh cần  được trang bị cho một hệ thống vững chắc những tri thức, kĩ năng, phương  pháp Toán học phổ thông một cách có hệ thống, cơ bản, hiện đại, sát thực   tiễn Việt Nam theo tinh thần giáo dục kĩ thuật tổng hợp. 1.3. Mục đích của việc tăng cường liên hệ với thực tiễn trong quá  trình dạy học Toán ở trường Trung học phổ thông 1.3.1. Tăng cường liên hệ  với thực tiễn góp phần hoàn thành mục   tiêu, nhiệm vụ dạy học bộ môn Toán ở trường phổ thông trong giai đoạn   hiện nay Trước hết ta đề cập đến mục tiêu chung của của giáo dục nước ta đã   được quy định trong Luật Giáo dục (năm 2005): "Mục tiêu của giáo dục  phổ  thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về  đạo đức, trí tuệ, thể  chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng  động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ  nghĩa, xây dựng tư  cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị  cho học sinh 
  15. 15 tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo  vệ  Tổ  quốc" (Điều 27). Nói một cách tổng quát, mục tiêu của nhà trường  phổ thông nước ta là hình thành những cơ sở ban đầu và trọng yếu của con  người mới phát triển toàn diện phù hợp với yêu cầu và điều kiện, hoàn  cảnh của đất nước Việt Nam. Hiện nay, thế giới đã bước vào kỉ nguyên kinh tế tri thức và toàn cầu   hóa cùng với sự  phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đặc biệt là  lĩnh vực công nghệ  kỉ thuật cao. Còn nước ta, vào tháng 4 năm 2006, diễn  ra Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ  10; ngày 07 tháng 11 năm 2006 Việt  Nam trở  thành thành viên chính thức của Tổ  chức Thương mại Thế  giới   (WTO) và ngày 17 tháng 11 năm 2006 khai mạc Diễn đàn Hợp tác Kinh tế  Châu Á ­ Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 14 tại Hà Nội. Việt Nam đang  tự tin bước vào một kỉ nguyên mới ­ kỉ nguyên hội nhập quốc tế và hợp tác  cạnh tranh toàn cầu. Để theo kịp với những chuyển biến to lớn trên về tình hình kinh tế và  chính trị  xã hội của nước ta cũng như  trên thế  giới trong giai đoạn này ­   một giai đoạn mà cạnh tranh quốc tế là cạnh tranh về con người. Nền giáo  dục phải có sứ mệnh làm sao đào tạo ra những thế hệ con người Việt Nam   có đủ  sức mạnh trí tuệ  và nhân cách để  đưa nước ta hội nhập thành công   và cạnh tranh thắng lợi trong môi trường toàn cầu. Giáo sư Hoàng Tụy đã  từng có ý kiến cho rằng: "Xã hội công nghệ ngày nay đòi hỏi một lực lượng   lao động có trình độ  suy luận, biết so sánh phân tích,  ước lượng tính toán,  hiểu và vận dụng được những mối quan hệ  định lượng hoặc lôgic, xây   dựng và kiểm nghiệm các giả  thuyết và mô hình để  rút ra những kết luận   có tính lôgic" [53, tr. 5 ­ 6]. Muốn vậy, nền giáo dục cũng phải có những  thay đổi về  mục tiêu, nhiệm vụ  và phương pháp dạy học.  Trong Đại hội 
  16. 16 đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, một trong những nhiệm vụ và giải  pháp lớn về  giáo dục được đề  ra là: "Nâng cao chất lượng giáo dục toàn  diện. Đổi mới cơ  cấu, tổ  chức, nội dung, phương pháp dạy và học theo  hướng "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Phát huy trí sáng tạo, khả  năng vận dụng, thực hành của người học. Đề cao trách nhiệm của gia đình,  nhà trường và xã hội" [43, tr. 58]. Trong trường phổ thông môn Toán có vai trò, vị trí và ý nghĩa hết sức  quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của giáo dục phổ  thông.  Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay nó càng có vai trò và ý nghĩa quan trọng  hơn, là một thành phần không thể thiếu của trình độ văn hóa phổ thông của con  người mới. 1.3.1.1. Tăng cường liên hệ với thực tiễn góp phần hoàn thiện một số   tri thức và kĩ năng toán học cần thiết cho học sinh Trong quá trình liên hệ  với thực tiễn, thông qua một yếu tố  lịch sử,   một  ứng dụng Toán học nào đó hoặc một mệnh đề  đánh giá (chẳng hạn,   "Toán học là "chìa khóa" của hầu hết các hoạt động của con người".) thì  hai dạng tri thức là  tri thức sự  vật  và  tri thức giá trị  được hình thành và  hoàn thiện. Còn thông qua các  ứng dụng Toán học, học sinh sẽ  được rèn luyện  những kĩ năng trên các bình diện khác nhau sau: ­ Kĩ năng vận dụng tri thức trong nội bộ môn Toán.  ­ Kĩ năng vận dụng tri thức Toán học vào các môn học khác nhau. ­ Kĩ năng vận dụng Toán học vào đời sống.  Qua việc rèn luyện các kĩ năng trên bình diện thứ  nhất và thứ  hai sẽ  nâng cao mức độ thông hiểu tri thức Toán học cho học sinh. Vì rằng muốn  vận dụng được tri thức để làm toán thì cần phải thông hiểu nó. Đồng thời,  thể  hiện vai trò công cụ  của Toán học đối với những khoa học khác; thể 
  17. 17 hiện mối quan hệ  liên môn giữa các môn học trong nhà trường. Do vậy  người giáo viên dạy Toán cần có quan điểm tích hợp  trong dạy học bộ  môn. Còn trên bình diện thứ  ba, đây là một mục tiêu quan trọng của môn  Toán. Cho học sinh thấy rõ mối liên hệ  giữa Toán học và đời sống. Qua  đây, giúp học sinh hình thành và phát triển kĩ năng "toán học hóa tình huống   thực tế".  Dựa vào sự  phân tích các mục tiêu dạy học của Benjamin Bloom và  các cộng sự (Dẫn theo [19, tr. 51 ­ 52]), quá trình liên hệ với thực tiễn trong   dạy học Toán còn giúp học sinh phối hợp giữa chiếm lĩnh tri thức và rèn  luyện kĩ năng thể  hiện  ở  6 chức năng trí tuệ  từ  thấp lên cao thể  hiện qua  sơ đồ sau: Biết Thông  Vận  Phân  Tổng  Đánh  hiểu dụng tích hợp giá Như vậy, việc tăng cường liên hệ với thực tiễn trong dạy học Toán đã  giúp học sinh hoàn thiện các tri thức như tri thức phương pháp, tri thức giá  trị và rèn luyện nhằm hoàn thiện một số kĩ năng như kĩ năng ứng dụng (cả  trong và ngoài môn Toán), kĩ năng phân tích, tổng hợp, đánh giá…  1.3.1.2. Tăng cường liên hệ với thực tiễn giúp hình thành và phát triển   thế giới quan duy vật biện chứng cho học sinh Dạy học Toán theo hướng tăng cường  X© y dùng nªn liên hệ  với thực tiễn sẽ  góp phần làm rõ  mối quan hệ biện chứng giữa Toán học và  Thùc tiÔn C¸ c lÝ thuyÕt To¸ n häc thực   tiễn:  Toán   học   bắt   nguồn   từ   thực   Phôc vô tiễn và trở về phục vụ thực tiễn. 
  18. 18 Lịch sử đã cho thấy rằng, Toán học có nguồn gốc thực tiễn, chính sự  phát triển của thực tiễn đã có tác dụng lớn đối với toán học. Thực tiễn là  cơ sở để nảy sinh, phát triển và hoàn thiện các lí thuyết Toán học.  Ví dụ: Số  tự  nhiên ra đời do nhu cầu đếm các đồ  vật. Tập hợp số  nguyên được xây dựng để  cho phép trừ  luôn thực hiện được, hoặc các   phương trình dạng a + x = b luôn có nghiệm. Trong quá trình đo đạc nhiều  khi gặp phải những đại lượng không chứa đựng một số  tự  nhiên hoặc do   nhu cầu chia những vật ra nhiều phần bằng nhau mà số biểu diễn bởi phân   số  được phát sinh. Hệ  thống số  hữu tỉ  được hình thành do nhu cầu đo  những đại lượng có thể  xét theo hai chiều ngược nhau. Hệ thống số thực   được xây dựng do nhu cầu đo những đoạn thẳng, sao cho mỗi đoạn thẳng,  kể cả những đoạn thẳng không đo được bằng số hữu tỉ, đều có một số đo.  Trong lịch sử  Toán học, để  giải phương trình bậc 3 người ta đã phải giải  phương trình bậc 2 như một bước trung gian. Khi xét phương trình: x3 ­ x =  0 rõ ràng là có 3 nghiệm 0, 1, ­1 nhưng ta nhận thấy rằng phương trình bậc   2 trung gian lại có biệt số  âm. Việc "Không có căn bậc 2 của số   âm",  "Phương trình bậc 2 vô nghiệm khi biệt số   âm" đã làm xuất hiện mâu  thuẫn.  Nhưng nếu thử  chấp nhận những số  mà bình phương bằng ­1 (một  cách hình thức) để biểu thị nghiệm của phương trình bậc hai trung gian thì cuối  cùng cũng đi đến ba nghiệm của phương trình bậc 3 nói trên. Thực tế này gợi  ra việc cần phải mở rộng tập số thực, đưa thêm vào cả những số mà bình  phương bằng số âm, đi đến tập hợp số phức. Như  vậy, học sinh sẽ  hình thành được quan điểm duy vật về  nguồn   gốc Toán học, thấy rõ Toán học không phải là một sản phẩm thuần tuý của  trí tuệ mà được phát sinh và phát triển do như cầu thực tế cuộc sống. Đồng  
  19. 19 thời cũng giúp học sinh nghiệm ra rằng mâu thuẫn biện chứng là động lực của   sự phát triển. Ngược lại, toán học lại xâm nhập vào thực tiễn thúc đẩy thực tiễn   phát triển. Với vai trò là công cụ, Toán học sẽ giúp giải quyết các bài toán   do thực tiễn đặt ra. Mối quan hệ biện chứng giữa lí luận và thực tiễn cũng  thể  hiện qua công thức nhận thức thiên tài của V. I. Lênin: "Từ  trực quan   sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó   là con đường nhận thức chân lí, con đường nhận thức hiện thực khách   quan". Trong dạy học, theo Giáo sư  Nguyễn Cảnh Toàn là không nên đi theo  con đường sao chép lí luận  ở  đâu đó rồi nhồi cho người học, vì học như  vậy là kiểu học sách vở. Nên theo con đường có một lí luận hướng dẫn ban  đầu rồi bắt tay hoạt động thực tiễn, dùng thực tiễn này mà củng có lí luận,  kế thừa có phê phán lí luận của người khác, rồi lại hoạt động thực tiễn, cứ  thế theo mối quan hệ qua lại giữa lí luận và thực tiễn mà đi lên. Ví dụ [5, tr. 40]:  Khi dạy về  "Số  thực dương, số  thực âm"  để  cho học sinh dễ  dàng  tiếp thu ta có thể  đề  cập sự  liên hệ: "Một người A nào đó suy cho cùng,   hoặc là không có tiền (A không có đồng tiền nào cả) hoặc có tiền (A có   một số tiền nào đó) hoặc đang nợ  tiền. Và như  vậy ta có thể  gán số  0 với  trường hợp A không có tiền, số dương với trường hợp A có tiền và số  âm  với trường hợp A đang nợ tiền. Lúc này thì  học sinh sẽ dễ dàng tiếp nhận  tính chất "Nếu a > 0, b > 0 thì a + b > 0", "Phủ định của mệnh đề "a > 0" là   mệnh đề "a   0"". a> b Với tính chất " � a > c " ta có thể liên hệ như sau:  b>c
  20. 20 "Bạn A có số tiền lớn hơn bạn B và bạn B lại có số tiền lớn hơn bạn   C" thì bằng thực tế, học sinh dễ  dàng nói được một cách chắc chắn rằng  bạn A có số tiền lớn hơn bạn C. Một tính chất khá quan trọng và có nhi d ều ứng dụng đó là: ac bc nÕuc 0 "a b " ac bc nÕuc 0 Có thể minh họa để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ như sau: Gọi a, b lần lượt là số người của 2 nhóm A và B. a > b: số người nhóm A lớn hơn số người nhóm B. Như vậy: Nếu nhân số người mỗi nhóm với một số tiền nào đó thì số tiền nhóm  A thu được lớn hơn số tiền nhóm B. Nếu nhân số  người mỗi nhóm với một số  tiền nợ  nào đó thì số  tiền  nhóm A nợ sẽ nhiều hơn số tiền nhóm B nợ. Sau khi có sự liên hệ trên, ta cho học sinh Quy tắc: Nếu nhân hai vế  của một bất đẳng thức với cùng một số  dương, ta  được một bất đẳng thức cùng chiều và tương đương. Nếu nhân hai vế của một bất đẳng thức với cùng một số âm, ta được  một bất đẳng thức trái chiều và tương đương. Rõ ràng sự liên hệ trên sẽ giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ và tránh được   cách d ạ y h ọ c "sao chép lí lu ậ n  ở  đâu đó r ồ i nhồ i cho ng ườ i h ọ c" nh ư  GS. Nguyễn Cảnh Toàn đã đề  cập. Đặc biệt rèn luyện cho học sinh thói  quen liên tưởng, kiểm nghiệm tính đúng đắn của các kiến thức mỗi khi sử  dụng. Nhờ  vậy, những phẩm chất, tính cách của người lao động mới như  tính cẩn thận, chính xác cũng được hình thành và hoàn thiện. 1.3.1.3. Tăng cường liên hệ với thực tiễn góp phần rèn luyện và phát   triển các năng lực trí tuệ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0