Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Bồi dưỡng năng lực đọc - hiểu cho học sinh qua dạy, học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9
lượt xem 1
download
Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy thơ trữ tình Việt Nam sau cách mạng tháng Tám năm 1945 ở lớp 9, đồng thời bồi dưỡng cho các em học sinh có thêm những năng lực cần thiết để đọc - hiểu phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 có kết quả tốt hơn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Bồi dưỡng năng lực đọc - hiểu cho học sinh qua dạy, học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9
- UBND HUYỆN BA VÌ TRƯỜNG THCS MINH CHÂU - - - - - - - - - - SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC ĐỌC – HIỂU CHO HỌC SINH QUA DẠY, HỌC PHẦN THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM LỚP 9 Môn: Ngữ Văn Cấp học: Trung học cơ sở Tác giả: Hoàng Thị Hiền Đơn vị công tác: Trường THCS Minh Châu Chức vụ: Giáo viên NĂM HỌC: 2022-2023 UBND HUYỆN BA VÌ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
- TRƯỜNG THCS MINH CHÂU Độc lập - Tự do - Hạnh phúc PHIẾU NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ - Họ tên tác giả: Hoàng Thị Hiền - Tên đề tài: Một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm - Lĩnh vực: Văn học STT Tiêu chuẩn Điểm tối đa 1 Sáng kiến có tính mới 1.1 Hoàn toàn mới, được áp dụng đầu tiên 30 1.2 Có cải tiến so với giải pháp trước đây với mức độ khá 20 1.3 Có cải tiến so với giải pháp trước đây với mức độ trung bình 10 1.4 Không có tính mới hoặc sao chép từ các giải pháp đã có trước đây 0 Nhận xét: ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………. ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… 2 Sáng kiến có tính áp dụng 2.1 Có khả năng áp dụng trong phạm vi toàn ngành hoặc rộng hơn 30 2.2 Có khả năng áp dụng trong đơn vị và có thể nhân ra một số đơn vị có 20 cùng điều kiện 2.3 Có khả năng áp dụng trong đơn vị 10 2.4 Không có khả năng áp dụng trong đơn vị 0 Nhận xét ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………. ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… 3 Sáng kiến có tính hiệu quả 3.1 Có hiệu quả, đem lại lợi ích kinh tế - xã hội, có tính lan tỏa 30 3.2 Có hiệu quả, đem lại lợi ích kinh tế - xã hội 20 3.3 Có hiệu quả, lợi ích phù hợp với mức độ phù hợp tại đơn vị 10
- 3.4 Không có hiệu quả cụ thể 0 Nhận xét: ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………. ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… 4 Điểm trình bày 4.1 Trình bày khoa học, hợp lý 10 4.2 Trình bày chưa khoa học, chưa hợp lý 5 Nhận xét: ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………. ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… Tổng cộng: Đánh giá: □Đạt (>70 điểm) □Không đạt CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CƠ SỞ
- 1 A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lí do chọn đề tài Mỗi tác phẩm thơ trữ tình đều rất đa dạng, phong phú, phức tạp và sâu sắc: ngôn ngữ hàm súc, nói ít gợi nhiều, ý tại ngôn ngoại. Hiểu được các bài thơ một cách thấu đáo và giảng dạy như thế nào để học sinh cảm thụ được cái hay cái đẹp của văn chương, tạo được sự rung cảm, bồi đắp được tâm hồn, trí tuệ cho học sinh là vấn đề quan trọng được nhiều người quan tâm và là vấn đề mà rất nhiều giáo viên đứng lớp rất trăn trở. Đặc biệt phần thơ hiện đại Việt Nam ở lớp 9 chiếm số lượng lớn các văn bản, bao gồm 11 văn bản (đã giảm tải 2 văn bản), thuộc nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Nội dung các văn bản khá phong phú và đa dạng: Tái hiện cuộc sống đất nước và hình ảnh con người Việt Nam trong suốt thời kì lịch sử từ sau cách mạng tháng Tám 1945 qua nhiều giai đoạn khác nhau. Chính vì lẽ đó mà việc giảng dạy thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn THCS nói chung và dạy phần thơ trữ tình hiện đại Việt Nam ở lớp 9 nói riêng là một vấn đề khó đối với giáo viên Ngữ văn hiện nay. Bởi lẽ, năng lực phân tích thơ tuỳ thuộc rất lớn vào trình độ hiểu biết văn chương, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ diễn đạt các thao tác, phương pháp phân tích của người giáo viên cũng như nhiều năng lực khác nhau trong việc cảm thụ thơ trữ tình của học sinh. Vậy làm thế nào để nâng cao hiệu quả giảng dạy thơ trữ tình nói chung và dạy thơ trữ tình hiện đại nói riêng, đặc biệt là dạy phần thơ trữ tình hiện đại Việt Nam ở lớp 9 trong nhà trường THCS. Xuất phát từ mong muốn giảng dạy thơ trữ tình nói chung và dạy thơ trữ tình Việt Nam sau cách mạng tháng Tám năm 1945 ở lớp 9 đạt hiệu quả tốt hơn, các em học sinh có thêm những năng lực đọc - hiểu phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9, tôi đã mạnh dạn đưa ra đề tài: “Bồi dưỡng năng lực đọc - hiểu cho học sinh qua dạy, học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 ”. Hy vọng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. II. Thời gian, đối tượng và phạm vi thực hiện. Biện pháp giới hạn trong phạm vi phần dạy thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 trong chương trình Ngữ Văn THCS năm học 2022– 2023 tại trường THCS Minh Châu. Các tác phẩm thơ trữ tình hiện đại Việt Nam sau cách mạng tháng 8 - 1945 được dạy ở lớp 9 bậc THCS . III. Mục đích của biện pháp Nâng cao hiệu quả của việc dạy thơ trữ tình Việt Nam sau cách mạng tháng Tám năm 1945 ở lớp 9, đồng thời bồi dưỡng cho các em học sinh có thêm
- 2 những năng lực cần thiết để đọc - hiểu phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 có kết quả tốt hơn. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở thực tế. Chương trình Ngữ văn THCS nói chung và chương trình Ngữ văn lớp 9 nói riêng có rất nhiều tác phẩm thơ trữ tình hiện đại Việt Nam hay, nội dung chủ đề của các văn bản thơ trữ tình hiện đại Việt Nam ở lớp 9 cũng rất đa dạng. Phản ánh đất nước và con người Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ với nhiều gian khổ hi sinh nhưng anh hùng; phản ánh tâm hồn, tình cảm của con người: Tình yêu quê hương, đất nước; tình đồng chí, sự gắn bó với cách mạng, lòng kính yêu Bác Hồ; tình cảm gia đình (tình bà cháu, tình cha con, tình mẹ con…) thống nhất trong tình cảm chung rộng lớn hay đơn giản chỉ là những suy ngẫm của người lính sau chiến tranh…Vậy để học sinh có thể hiểu và cảm thụ hết được cái hay, cái đẹp của các tác phẩm thơ hiện đại hiện đại Việt Nam thì ngoài những yêu cầu riêng đối với giáo viên trong việc truyền đạt kiến thức thì giáo viên cần chú ý rất nhiều đến việc phát triển các năng lực của học sinh có nghĩa là làm cho học sinh khi tiếp nhận tác phẩm có sự tham gia của toàn bộ nhân cách con người: tri giác, cảm giác, tưởng tượng, liên tưởng, suy luận, trực giác, đòi hỏi sự bộc lộ cá tính, thị hiếu và lập trường xã hội, sự tán thành hay phản đối, đưa hình tượng từ tác phẩm vào thực tế đời sống để kiểm nghiệm đồng cảm. Xuất phát từ những yêu cầu thực tế trên, với mong muốn dạy thơ trữ tình hiện đại Việt Nam ở trường THCS nói chung và lớp 9 nói riêng đạt hiệu quả tốt hơn, tôi xin đưa ra các biện pháp để phát triển một số năng lực cơ bản cho học sinh trong việc đọc - hiểu thơ trữ tình hiện đại Việt Nam lớp 9, cụ thể đó là: - Biện pháp bồi dưỡng năng lực đọc cho học sinh. - Biện pháp bồi dưỡng năng lực tìm tòi, phát hiện của học sinh - Biện pháp bồi dưỡng năng lực liên tưởng, tưởng tượng - Biện pháp bồi dưỡng năng lực phân tích, nhận xét, khái quát của học sinh. II. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN. 1. Thực trạng của vấn đề Vấn đề dạy học môn văn trong trường phổ thông đang là vấn đề thời sự nóng hổi, luôn thu hút sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều giới trong xã hội... Theo khảo sát của các nhà giáo dục Việt Nam trong những năm gần đây, chất lượng học văn của học sinh THCS ở nước ta ngày càng giảm sút. Môn Văn đang
- 3 mất dần vị thế vốn có của nó. Tình trạng học sinh không còn hứng thú với việc học văn đã trở thành hiện tượng phổ biến trong nhà trường phổ thông hiện nay. Thông qua thực tế giảng dạy lớp 9 nhiều năm và qua quá trình giảng dạy cũng như qua các bài kiểm tra của học sinh về thơ hiện đại Việt Nam tôi nhận thấy một thực trạng như sau: - Kỹ năng đọc của học sinh còn yếu và hạn chế khả năng liên tưởng, tưởng tượng khi phân tích tác phẩm. - Khả năng tìm tòi, phát hiện những từ ngữ quan trọng thể hiện nội dung hoặc những tín hiệu nghệ thuật của học sinh còn chậm (đặc biệt là những học sinh yếu). - Khi phân tích học sinh khó khái quát vấn đề. - Lúng túng trong đánh giá, nhận định nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. - Khả năng nhận thức ứng dụng của học sinh sau khi tìm hiểu tác phẩm còn hạn chế. - Việc vận dụng ngôn ngữ trong các tác phẩm văn chương vào phát triển ngôn ngữ tiếng Việt và nâng cao khả năng nói, viết yếu. 2. Nguyên nhân 2.1. Nguyên nhân khách quan: - Các tác phẩm trữ tình được sáng tác trong những hoàn cảnh lịch sử khác xa cuộc sống hiện tại do đó học sinh khó cảm nhận được thực tế cuộc sống mà tác phẩm phản ánh. - Vốn sống của học sinh hạn chế do đó các em khó hình dung ra những cảnh tác giả đề cập đến không gần với cuộc sống của các em. - Thời lượng của một số bài ít so với nội dung cần khái thác của tác phẩm nên không có thời gian để giáo viên rèn kỹ năng cho học sinh. 2.2. Nguyên nhân chủ quan: +) Về phía học sinh: - Học sinh chưa thực sự nhận thức được vai trò của môn học Ngữ văn là thông qua các tác phẩm văn học góp phần bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thị hiếu thẩm mĩ, tình cảm thẩm mĩ cho học sinh. Học sinh có được những tình cảm, cảm xúc đối với những người thân yêu của mình, với gia đình mình, với đất nước mình, biết đồng cảm với những nỗi đau của những người bất hạnh, biết chia vui với những người thành đạt… Từ đó, nhiều em có tư tưởng ngại học. Nhiều học sinh chưa thực sự hứng thú, yêu thích môn học, thậm chí có tâm lý “ngại”, “sợ” học văn. Các em cảm thấy ngại viết văn, thậm chí coi việc làm văn là một công việc khó khăn, nặng nề. Vì vậy nhiều học sinh chưa có phương pháp học tập
- 4 đúng đắn. Đôi khi học tập còn mang tính đối phó, thụ động, lệ thuộc nhiều vào sách hướng dẫn, sách để học tốt Ngữ văn… - Nhiều em chỉ coi trọng những môn tự nhiên, không thích các môn học xã hội. Nhiều em khả năng cảm thụ văn còn yếu, năng lực diễn đạt còn hạn chế. Đặc biệt là các em còn lười trong khâu chuẩn bị bài, soạn bài. Vì vậy, khi các em chưa hiểu, chưa nắm được văn bản thì việc cảm thụ cái hay, cái đẹp của văn bản là hết sức khó khăn. +) Về phía giáo viên: - Vẫn còn một số giáo viên khi dạy thơ trữ tình chưa thể hiện những đặc trưng cơ bản của thơ trữ tình và đặc điểm của thơ trữ tình Việt Nam sau cách mạng tháng Tám- 1945. Một số giáo viên đã dạy thơ trữ tình giống như đọc truyện, chú ý đến cấu trúc phản ánh đến hơn là cấu trúc biểu hiện của thơ. - Một số giáo viên khi dạy phần thơ trữ tình hiện đại còn sử dụng nhiều phương pháp cổ truyền, việc đổi mới phương pháp còn chậm. Khi hướng dẫn học sinh học tập phần thơ nói chung và phần thơ hiện đại Việt Nam nói riêng vẫn còn có giáo viên thụ động trong truyền đạt dẫn đến phương pháp dạy học chưa hợp lí: Sử dụng phương pháp thuyết trình nhiều hơn cả, cách đặt câu hỏi vụn vặt, không trọng tâm…cho nên học sinh thụ động tiếp nhận kiến thức. - Về phương pháp sư phạm, nhược điểm cần nói đến trước tiên là tỉ lệ không cân xứng giữa các loại câu hỏi. Câu hỏi phát hiện thường đưa ra gấp nhiều lần câu hỏi cảm thụ. Câu hỏi tạo tình huống, câu hỏi có vấn đề khá hiếm hoi. Câu hỏi ấy dẫn đến hậu quả là học sinh chỉ còn tập trung vào hoạt động đọc thơ phát hiện hình ảnh, các chi tiết nghệ thuật để sau đó chuẩn bị lắng nghe nên cảm thụ của chính thầy. Có giờ dạy, giáo viên đặt câu hỏi cảm thụ song không quan tâm đến câu trả lời của học sinh. Cách hỏi như thế là hỏi cho phải phép. Nhưng cũng có giờ dạy nhìn bề ngoài có vẻ khá sinh động, học sinh phát biểu sôi nổi, song nếu chú ý sẽ thấy cấc câu hỏi khá vụn vặt, không có giá trị suy nghĩ cảm thụ ... III. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Biện pháp 1: Bồi dưỡng năng lực đọc cho học sinh: 1.1. Hình thành thói quen đọc trực tiếp văn bản GS Trần Đình Sử trong bài Con đường đổi mới căn bản phương pháp dạy-học văn khẳng định: “Khởi điểm của môn Ngữ Văn là dạy học sinh đọc hiểu trực tiếp văn bản văn học của nhà văn… Nếu học sinh không trực tiếp đọc các văn bản ấy, không hiểu được văn bản, thì coi như mọi yêu cầu, mục tiêu cao đẹp của môn văn đều chỉ là nói suông, khó với tới, đừng nói gì tới tình yêu văn học”. Đáng tiếc là nhiều năm nay, trong nhà trường THCS đã diễn ra tình trạng,
- 5 học sinh không cần đọc trực tiếp văn bản nhưng vẫn soạn được bài, thậm chí khi thầy cô giáo yêu cầu “hoạt động nhóm” và cử đại diện trình bày…, các em vẫn tỏ ra làm việc tích cực và phát biểu một cách gọn gàng. Giáo viên, dù biết rõ học sinh đang trong vai diễn, nhưng vẫn cứ khen trò của mình trả lời rất tốt, rất giỏi! Việc học sinh xem nhẹ đọc tác phẩm đã làm hạn chế khả năng cảm thụ và sáng tạo của chính mình, từ đó khiến cho học sinh chỉ biết tiếp thu một cách thụ động, mất dần kĩ năng đọc hiểu văn bản, thiếu năng lực đọc một cách sáng tạo. Như vậy, mấu chốt của vấn đề nâng cao hiệu quả cảm thụ văn học chính là ở việc đọc trực tiếp văn bản văn học- Đây là bước đầu tiên để học sinh tiếp cận với tác phẩm. Học sinh thường ngại đọc tác phẩm khi soạn bài, lý do chưa hẳn là vì tác phẩm không hay hoặc học sinh không thích văn học. Đơn giản vì các em phải học quá nhiều môn học. Ngoài ra, lối sống thực dụng trong xã hội hiện nay cũng có một tác động không nhỏ đến điều này. Kết quả khảo sát những năm gần đây cho thấy, hầu hết học sinh THCS đều thích các môn học thời thượng như Toán, Lí, Hoá ,Tiếng Anh, rất ít học sinh thích học môn Văn , theo đó luôn trong tình trạng đối phó của các em.Tài liệu tham khảo đã trở thành cẩm nang trong mọi tình huống. Số ít những em yêu thích môn Văn thì bài giảng của thầy, những tài liệu phân tích bình giảng tác phẩm, những sách văn mẫu, tài liệu luyện thi… sẽ là những vật bất li thân, là "bùa hộ mệnh. Nhận thức được điều đó, tôi thường yêu cầu học sinh tóm tắt một số nội dung tác phẩm trước bằng lập sơ đồ, bảng biểu, sau đó kiểm tra thực hiện của học sinh trong thời gian hỏi bài cũ. Ví dụ: Chuẩn bị cho bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ", tôi yêu cầu học sinh lập bảng: - Bảng 1: Tìm hiểu tác giả Thanh Hải và tác phẩm "Mùa xuân nho nhỏ", (Yêu cầu: Học sinh tìm hiểu và hoàn tất các thông tin về tác giả, quê quán, thời đại... về hoàn cảnh ra đời, nội dung và đặc điểm thể loại...) - Bảng 2: Khái quát mạch cảm xúc của bài thơ để có cách đọc phù hợp: Bài thơ có mạch cảm xúc của tác giả về mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước và qua đó thể hiện ước nguyện được cống hiến cho đời. Như vậy để trả lời các câu hỏi và trình bày được các yêu cầu trên, nhất định học sinh phải đọc phần chú thích về tác giả và đọc trực tiếp văn bản thơ, vừa đọc vừa suy ngẫm, vừa hiểu. Ban đầu, việc làm này chưa nhận được sự hưởng ứng nhiệt thành, gây tâm lí lo ngại trong học sinh , nhưng dần dần đã trở thành việc làm bình thường và có hiệu quả. Thói quen này tôi nhận thấy đã được hình thành một cách tự giác trong học sinh và như thế chính giáo viên, học sinh
- 6 đã làm được một khâu quan trọng trong yêu cầu đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình nói chung, thơ trữ tình hiện đại Việt Nam nói riêng. 1.2. Bồi dưỡng năng lực đọc sáng tạo: Cùng quan điểm với GS Trần Đình Sử, cố GS Hoàng Ngọc Hiến nhấn mạnh yêu cầu cần đạt được của việc đọc văn bản là phải nắm bắt trúng giọng điệu của tác phẩm. Theo ông, “Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đà của bài văn trước hết là ở giọng. Năng khiếu văn ở phần tinh tế nhất là năng lực bắt được trúng cái giọng của văn bản mình đọc và tạo ra được giọng đích đáng cho tác phẩm mình viết. Bắt được giọng đã khó, làm cho học sinh cảm nhận được cái giọng càng khó, công việc này đòi hỏi sáng kiến và tài tình của giáo viên …”. Tục ngữ có câu: “Ăn không nên đọi, nói không nên lời”. “Nói không nên lời” là một sự đau khổ của con người. Năng lực văn nhất thiết phải bao hàm năng lực nói nên lời. Đọc sáng tạo chiếm một vị trí tương đối quan trọng trong dạy học văn. Thực chất đây là cách tiếp cận nghệ thuật có sáng tạo mà vấn đề chủ yếu cần quan tâm đó là sự cảm thụ trực tiếp. Một trong những biện pháp có hiệu quả để học sinh đọc sáng tạo là đọc diễn cảm. Không biết đọc diễn cảm, không tìm được ngữ điệu thích đáng trong giảng bài, đó là sự bất lực của người dạy văn. Có nhiều giáo viên có kiến thức, nhưng khi giảng bài, học sinh thấy chán, buồn ngủ, bởi vì giáo viên đó thiếu khẩu khí, thiếu hơi văn, chưa tìm được ngữ điệu, giọng điệu thích đáng cho mình. Như vậy, người dạy văn giỏi, ngoài kiến thức cần phải có ngữ điệu, giọng điệu phù hợp, đa dạng. Có như vậy tác phẩm mới tác động sâu vào cảm nhận của học sinh. Và đây là một phần quan trọng để phát huy tiềm lực, kích thích hứng thú học văn của học sinh. Ngữ điệu và giọng điệu trong dạy học môn văn trước hết được thể hiện ở khả năng đọc diễn cảm và ngữ điệu giảng bài của giáo viên. Vậy đọc diễn cảm là gì? Ngoài việc đọc đúng quy tắc ngữ pháp, đúng đặc trưng thể loại. Mỗi tác phẩm có một giọng điệu riêng. Nắm bắt đúng giọng điệu của tác phẩm chính là nắm bắt đúng tư tưởng và tình cảm của tác giả. Tác phẩm trữ tình cần đọc khác với tác phẩm tự sự; đọc đoạn đối thoại khác đoạn độc thoại nội tâm; đọc văn tả khác đọc văn kể, văn tường thuật; đọc văn chính luận khác với đọc bài tùy bút… Đối với học sinh, muốn đạt tới trình độ đọc diễn cảm, học sinh phải đọc đúng đọc hay. Đọc đúng là đọc trung thành với nội dung ý nghĩa của văn bản. Đọc hay là biết phát huy ưu thế về chất giọng, biết khắc phục những nhược điểm về phát âm để làm chủ giọng đọc và kỹ thuật đọc phù hợp với giọng điệu cảm xúc của nhà văn và ý nghĩa của tác phẩm.
- 7 Đọc sẽ làm âm vang lên những tín hiệu của cuộc sống mà nhà văn định gửi gắm. Âm vang của lời đọc kích thích quá trình tri giác, tưởng tượng và tái hiện tình cảm.Nhập thân vào tác phẩm chỉ có thể bắt đầu bằng đọc diễn cảm. Nghệ thuật đọc diễn cảm chính là nghệ thuật xử lý một cách hợp lý mối quan hệ giữa khách quan phản ánh và chủ quan biểu hiện của tác giả, quan hệ giữa chủ quan người đọc và chủ quan tác giả đến bạn đọc. Giọng đọc là thước đo tần số rung động rung cảm của người đọc đối với tác phẩm và tác giả. Bằng ngữ điệu của mình, học sinh làm nổi bật được tiếng nói nhất là ngụ ý của nhà văn trong từng dòng thơ, từng đoạn thơ qua việc nhấn mạnh trọng âm lô gíc, trọng âm tâm lý và ngữ pháp. Đọc diễn cảm có thể dưới nhiều hình thức khác nhau, đọc to, đọc thầm, đọc theo vai. Đọc có thể thực hiện ở tất cả các bước của tiến trình giờ dạy với những yêu cầu không giống nhau: đọc cả bài, đọc từng đoạn, đọc để gây không khí; đọc để sáng tỏ lời bình, đọc đầu giờ và đọc ở phần kết thúc bài giảng. Như vậy, qua âm vang của giọng đọc, học sinh nắm được chi tiết cụ thể về nghệ thuật, nội dung từ đó có năng lực cảm nhận về tác phẩm. Một điều đáng lưu tâm là học sinh phải phân biệt được việc đọc thơ sẽ khác với việc đọc văn xuôi. Nếu là tác phẩm thơ thì giọng điệu thường thể hiện trong tiết tấu, nhịp điệu, cường độ, âm hưởng, ngôn ngữ...còn trong tác phẩm văn xuôi thì giọng điệu chủ yếu thể hiện qua thái độ, sắc thái ngôn ngữ khác nhau của tác giả. VÝ dô: - Khi dạy bài thơ “ ViÕng l¨ng B¸c”, tôi đã cho học sinh đọc diễn cảm hai lần đặc biệt lưu ý học sinh khi đọc các câu thơ: “ Mà sao nghe nhói ở trong tim” Khi đọc câu thơ trên học sinh phải bắt cho ra cái giọng tha thiết mà lắng đọng “ mà sao” để thể hiện nỗi đau xót “nghe nhói” của tác giả, của nhân dân miền Nam trước sự ra đi của Người. - Hay khi dạy bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” để giúp các em đọc đúng, đọc hay bài thơ, tôi đã lưu ý cho các em về ngôn ngữ thơ mà tác giả sử dụng, cách ngắt nhịp thơ, học sinh đọc thể hiện, và nhận xét, uốn nắn cho các em. Và cái đích cuối cùng học sinh cần đạt được là đọc bài thơ với một giọng điệu thản nhiên, khoẻ khoắn, ngang tàng thể hiện sự sôi nổi, trẻ trung của người lính lái xe bất chấp gian khổ, hiểm nguy… - Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi. - Không có kính/ ừ thì có bụi - Không có kính/ ừ thì ướt áo.
- 8 Qua việc hướng dẫn học sinh đọc đúng, sáng tạo, tôi nhận thấy học sinh hứng thú hơn trong các tiết học thơ trữ tình hiện đại và không còn tâm lí e ngại học giờ Ngữ văn nữa. Như vậy: Bằng hình thức đọc diễn cảm, giáo viên có thể tạo cho học sinh những bất ngờ, hứng thú, giúp các em có cảm nhận mới mẻ về văn bản, kích thích khả năng liên tưởng, trí tưởng tượng để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của văn bản. Có thể nói, phát triển năng lực đọc diễn cảm là biện pháp hữu hiệu trong rèn luyện cảm thụ văn học cho học sinh. 2. Biện pháp 2: Bồi dưỡng năng lực liên tưởng, tưởng tượng: Kỹ năng này phù hợp với giai đoạn bước đầu của cảm thụ tác phẩm từ vỏ âm thanh đến lớp hình. Đây là hoạt động giúp học sinh bước vào thế giới nghệ thuật. Tác phẩm được tái hiện trong tưởng tượng của học sinh không còn là tổng hợp ký hiệu chết, phi vật thể nữa mà là những tác phẩm đích thực đang tồn tại trong trí tưởng tượng của học sinh. Nếu ta không hình thành và phát triển năng lực này cho học sinh thì không có sự thâm nhập vào tác phẩm. Có thể nói đây là bước giúp cho người đọc “nhìn vào bên trong” tác phẩm . Để phát triển năng lực liên tưởng, tưởng tượng giáo viên cần có câu hỏi yêu cầu học sinh liệt kê ghi chú những từ ngữ, hình ảnh mang ý nghĩa nội dung nhằm nhận diện một nhân vật, một phong cách, một bức tranh... VÝ dô: Khi hướng dẫn học sinh phân tích "Bài thơ về tiểu đội xe không kính” sau khi cho học sinh tìm hiểu về hình ảnh những chiếc xe không kính, tôi đã đặt câu hỏi để kích thích khả năng liên tưởng, tưởng tượng của học sinh: Câu hỏi: ? Hình ảnh những chiếc xe không kính trong bài thơ giúp em hình dung ra hiện thực của cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ của dân tộc ta như thế nào? - Học sinh có thể dựa vào hiểu biết của mình về lịch sử cũng như qua cách miêu tả của nhà thơ về những chiếc xe không kính mà liên tưởng đến hiện thực của cuộc chiến tranh và từ đo có thể khái quát: Đó là hiện thực của cuộc chiến tranh khốc liệt. Bom đạn của kẻ thù đã tàn phá đi rất nhiều thứ. VÝ dô: Ở bài “ Đoàn thuyền đánh cá” , bài thơ dưới cảm hứng lãng mạn nhưng lại rất hiện thực. Thơ ngắn gọn nhưng “ thơ cũng là hoa”. Vì vậy, với mọi chi tiết thơ, giáo viên cần cho các em tưởng tượng một cách cụ thể. Chẳng hạn, đọc khổ đầu , các em có thể hình dung ra cảnh màn đêm buông xuống và đoàn thuyền ra khơi. Để các em tưởng tượng tốt, giáo viên có thể vẽ hình ảnh đó và cho các em xem kết hợp với sự thuyết trình về thời gian làm việc sẽ giúp học sinh hiểu sâu hơn ý nghĩa của vấn đề.
- 9 Hay cảnh đánh cá vất vả, gian khổ và nguy hiểm, giáo viên cũng cần gợi qua về công việc của người đánh cá ngoài biển: Phải đi xa, dò sâu mới có nhiều cá,...Từ đó các em sẽ hình dung ra cảnh lao động của ngư dân trong một chuyến đi biển nhọc nhằn như thế nào đồng thời cũng thấy được bút pháp lãng mạn trong thơ Huy Cận. Kết thúc bài thơ tôi đã đặt câu hỏi để phát triển khả năng liên tưởng, tưởng tượng của các em: Câu hỏi: ? Thông qua việc miêu tả một hình ảnh rất cụ thể: Cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá, cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển và đoàn thuyền đánh cá trở về bằng cảm hứng lãng mạn kết hợp với hiện thực giúp em liên tưởng đến hiện thực miền Bắc những năm xây dựng CNXH như thế nào? - Học sinh khái quát: Không khí miền Bắc những năm xây dựng CNXH hết sức khẩn trương, người lao động vui tươi, phấn khởi lao động, tràn đầy niềm tin vào tương lai đất nước… VÝ dô: Khi dạy bài thơ “Đồng chí” , tôi đã giúp học sinh liên tưởng và tưởng tượng đến quá khứ. Sống trong một xã hội đầy đủ vật chất, nếu không giúp các em tự tưởng tượng thì có lẽ rất khó trong cảm nhận vẻ đẹp bình dị, giản đơn mà cao đẹp của người lính: “ Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày” Đói rách, thiếu thốn là điều kiện thực tế, nhưng các em tưởng tượng ra về thực tế cuộc sống đó không phải để coi thường mà là sự khâm phục, kính trọng các anh: Trong hoàn cảnh không mấy thuận lợi ấy, người lính vẫn toát lên vẻ đẹp sáng ngời. Cũng chính từ hoàn cảnh ấy, tôi giúp các em ngược dòng hiểu về cuộc chiến đấu chống Pháp của các anh bộ đội, của dân tộc ta: Sự chiến thắng đã đánh đổi bằng sự vươn lên, vượt qua khó khăn gian khổ. Từ đó, các em soi rọi vào chính bản thân mình cần học đức tính đó trong học tập, trong cuộc sống đời thường,... noi gương anh bộ đội kính yêu. Việt Nam cho đến bây giờ vẫn là một dân tộc còn hạn chế về tiềm lực kinh tế, song từ bài này, cùng với một số bài thơ khác nữa các em cảm thấy tự hào về truyền thống đánh giặc , về ý thức vượt lên gian khổ đầy nghị lực phi thường. Cũng từ đó, các em có ý thức giữ gìn và phát huy nét đẹp đó trong tương lai bởi chính các em là chủ nhân của đất nước này.
- 10 Bằng những câu hỏi nhằm khơi gợi khả năng liên tưởng, tưởng tượng của học sinh, tôi nhận thấy học sinh đã say mê hơn với tiết học, học sinh đã hiểu bài và cảm thụ văn bản thơ trữ tình nhất là các văn bản thơ trữ tình hiện đại Việt Nam được đầy đủ và cụ thể hơn. 3. Biện pháp 3: Bồi dưỡng năng lực tìm tòi, phát hiện của học sinh: Tác phẩm văn chương là một tổ chức tinh vi , là một cấu trúc phức tạo nhiều tầng , là sự kết hợp hữu cơ giữa khách quan được phản ánh với chủ quan biểu hiện của tác giả. Nếu chỉ tái hiện được lớp cấu tạo âm thanh, lớp vỏ vật chất, lớp hình vẫn chưa nắm được tác phẩm, lớp nghĩa, lớp ý của tác phẩm. Bồi dưỡng năng lực cho học sinh không chỉ đòi hỏi học sinh tri giác ngôn ngữ nghệ thuật, tưởng tượng mà còn biết phân tích, cắt nghĩa, so sánh tổng hợp, khái quát để nắm được tác phẩm. Giáo viên cần đưa ra những câu hỏi cần thiết, vừa đủ nhằm gợi mở, dẫn dắt học sinh tìm tòi, khám phá những giá trị của tác phẩm, đôi khi cần dự tính nhiều đến tình huống có thể xảy ra ở học sinh. Chính bước dẫn dắt học sinh phát hiện phần nghĩa phần ý của tác phẩm mới biểu lộ rõ bản chất sáng tạo của câu hỏi. VÝ dô: Khi dạy bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ”, khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu khổ thơ đầu tiên đó là tìm hiểu những cảm xuân của nhà thơ Thanh Hải về mùa xuân thiên nhiên, tôi đã đặt những câu hỏi để phát triển khả năng tìm tòi, phát hiện của học sinh: Câu hỏi: ? Trong khổ thơ thứ nhất, xúc cảm về mùa xuân được thể hiện qua những hình ảnh và âm thanh nào? - Học sinh sẽ tìm trong văn bản: + Hình ảnh bông hoa và dòng sông, sương sớm ngày xuân… + Âm thanh tiếng chim chiền chiện -> Đó là khung cảnh tươi đẹp, sáng sủa, rộn rã, vui tươi. Câu hỏi: ? Em hãy chỉ ra biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong hai câu thơ: “Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng”. - Học sinh tìm tòi và phát hiện: Nghệ thuật sử dụng trong hai câu thơ trên là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Giọt long lanh ở đây có thể là giọt nắng, giọt mùa xuân hay giọt hạnh phúc cuộc đời. Nhưng ở đây chính là giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện hót. Cái đặc sắc là sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác tiếng chim từ chỗ âm thanh được cảm nhận bằng thính giác chuyển thành hình khối và long lanh ánh sáng và sắc màu ....Tác giả cảm nhận tất cả vẻ đẹp của mùa xuân bằng cảm xúc say sưa, trân trọng.
- 11 Tóm lại, Việc đặt các câu hỏi khi phân tích tìm hiểu các bài thơ làm cho học sinh phải suy nghĩ, tìm tòi, tổng hợp, khái quát, tự học sinh tìm ra được câu trả lời. chính là giáo viên đã phát triển được năng lực tìm tòi, phát hiện của học sinh, tránh lối học thụ động đựa vào văn mẫu hoặc hướng dẫn của thầy cô. 4. Biện pháp 4: Bồi dưỡng năng lực phân tích, nhận xét, khái quát của học sinh: Năng lực tái hiện và liên tưởng sơ bộ đưa học sinh dần bước vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Năng lực tìm tòi, phát hiện nhằm dẫn dắt học sinh hướng vào cấu tạo đặc thù và tư tưởng cơ bản của tác phẩm. Nhưng mọi tìm kiếm, nhận biết đó chỉ thực sự có ý nghĩa tiêu biểu quy tụ vào chủ đề của tác phẩm. Với mức độ từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, cần cho học sinh đi từ khâu phát hiện hình ảnh, chi tiết, biện pháp nghệ thuật, sau đó mới đi vào phân tích theo hướng dẫn của thầy. Sau khi học sinh phân tích từ ngữ, hình ảnh, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đưa ra những nhận xét hay khái quát của mình. VÝ dô: Khi dạy bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính”- Phạm Tiến Duật, sau khi nêu các câu hỏi để học sinh tìm tòi, phát hiện biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong hai câu thơ cuối: Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim” - Học sinh phát hiện nghệ thuật sử dụng trong hình ảnh thơ “ một trái tim” đó là sử dụng biện pháp tu từ hoán dụ. Giáo viên cần đặt câu hỏi: Câu hỏi ? Hình ảnh “ một trái tim” được đưa vào trong thơ mang ý nghĩa gì? Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh điều gì? - Học sinh cần nhận xét khái quát được vấn đề : Tình yêu miền Nam là sức mạnh vô song, tinh thần bất khuất của con người quyết tâm giải phóng miền Nam, xe có thể thiếu nhiều thứ nhưng không thể thiếu được trái tim hướng về miền Nam. Từ ngữ, hình ảnh thơ tạo nên sự đặc sắc của bài thơ. Giáo viên cần cho học sinh chọn từ hay và hình ảnh thơ có giá trị để rồi từ đó tự các em phân tích để tìm nội dung và nghệ thuật. Ví dụ Khi phân tích phần thứ nhất trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”: “ Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
- 12 Từ cảnh ra khơi học sinh cần bám sát biện pháp so sánh nhân hóa “ mặt trời xuống biển như hòn lửa”,”sóng cài then”,”đêm sập cửa”, và từ “ lại” để làm rõ đoàn thuyền ra khơi khi vũ trụ đi vào nghỉ ngơi như bao nhiêu lần đầy khí thế . Trong phân tích cũng cần hướng cho học sinh tập trung theo ý thơ dù các ý đó không tập trung ở từng khổ thơ. Ở đây thiên nhiên và con người lao động luôn song song, không tách rời nhau. Chẳng hạn: “ Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng”. “ Cá nhụ, cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe Đêm thở sao luà đất Hạ Long” . Một điều học sinh cần biết thêm đó là Huy Cận viết bài thơ này khi miền Bắc đang hối hả xây dựng chủ nghĩa xã hội và tâm hồn cũng như con đường thơ của tác giả đang chuyển mình theo niềm vui thời đại. Điều đó được nhà thơ thể hiện qua hình ảnh được nhắc đi, nhắc lại “ câu hát” và “ mặt trời”. Như vậy trong quá trình dạy học tác phẩm trữ tình nếu như giáo viên kết hợp được sự cảm thụ chi tiết với với sức khái quát sâu sắc khi chiếm lĩnh một tác phẩm văn chương thì giáo viên đã hình thành và phát triển cho học sinh năng lực phân tích, khái quát. Đây là một việc làm cực kỳ quan trọng để nâng cao trình độ cảm thụ tác phẩm văn chương lên một bước cao hơn. IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN 1. Đối với hoạt động giáo dục: Với những phương pháp đã nêu ở trên tôi đã áp dụng vào giảng dạy trong nhiều năm và kết quả qua các tiết học cũng như qua các bài kiểm tra về thơ hiện đại Việt Nam, tôi đã nhận thấy đã có nhiều kết quả đáng mừng ở học sinh lớp 9: - Khả năng đọc và đọc sáng tạo của học sinh đã có chất lượng hơn, đúng yêu cầu hơn. - Học sinh say mê hơn trong các tiết học Ngữ văn nhất là các tiết học phần thơ trữ tình hiện đại Việt Nam: Học sinh chú ý và luôn cố gắng tìm tòi, phát hiện, suy nghĩ để xây dựng bài hơn. - Các em cũng đã có nhiều cố gắng trong việc bình văn, tuy còn nhiều lỗi như diễn đạt còn vụng, hiểu ý nhưng dùng từ chưa hay...Nhưng đây cũng là kết quả đáng mừng trong việc giúp học sinh cảm thụ văn bản thơ trữ tình hiện đại Việt Nam.
- 13 - Việc sử dụng ngôn ngữ diễn đạt trong các bài văn cũng đã có nhiều tiến bộ hơn, các bài văn đã mang đậm dấu ấn văn chương hơn. 2. Đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường: Thông qua các tiết dạy thơ hiện đại Việt Nam ở lớp 9 ở các năm tôi đã có thêm những kinh nghiệm trong việc dạy các tác phẩm thơ hiện đại Việt Nam lớp 9, lôi cuốn các em cùng tham gia tìm hiểu và cảm thụ tác phẩm một cách hăng hái, nhiệt tình. Các tiết dạy phần thơ hiện đại Việt Nam ở lớp 9 không còn nhàm chán nữa. Kết quả qua các bài kiểm tra cũng như kết quả thi vào 10 THPT môn Ngữ văn hằng năm ngày càng nâng cao đã khẳng định tính hiệu quả của những kinh nghiệm mà tôi đã áp dụng khi dạy phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9. C. PHẦN KẾT LUẬN- KIẾN NGHỊ: 1. Kết luận: Qua thực tế giảng dạy phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 tôi nhận thấy: Việc giảng thơ để học sinh hiểu được nghệ thuật và nội dung của tác phẩm đã khó mà giảng thơ trữ tình để phát triển năng lực đọc - hiểu cho học sinh thì càng khó hơn Đi tìm một phương pháp giảng đúng, giảng tốt, giảng hay thơ trữ tình Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám để tạo ra những con người năng động sáng tạo, có tâm hồn trong sáng, biết yêu thương, biết hòa đồng …là một yêu cầu cần thiết. Bản thân tôi thiết nghĩ, xác định được tầm quan trọng của đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm đồng thời thấy rõ được vị trí và hiểu rõ những tác phẩm thơ Việt Nam sau cách mạng tháng Tám được chọn dạy trong chương trình Văn ở THCS nói chung và ở lớp 9 nói riêng sẽ là cơ sở cho giáo viên giảng tốt, giảng hay; giáo viên phải xác định rõ vai trò của cấp học, đối tượng học sinh mà có phương pháp dạy phù hợp đồng thời học sinh phải có tâm thế, hứng thú say mê khi tìm hiểu những tác phẩm văn học này. Như vậy đề tài “ Bồi dưỡng năng lực đoc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9” tôi đã giải quyết được hai vấn đề chính: Tìm hiểu phương hướng để bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu các văn bản thơ trữ tình Việt Nam hiện đại lớp 9 cho học sinh và việc vận dụng vào giảng dạy trong nhà trường THCS . Các em học sinh say mê hơn trong các tiết học Ngữ văn nhất là các tiết học phần thơ trữ tình hiện đại Việt Nam; chú ý và luôn cố gắng tìm tòi, phát hiện, suy nghĩ để xây dựng bài hơn. Tất cả những nghiên cứu và kinh nghiệm trên chỉ là bước đầu xong nó có ý nghĩa to lớn đối với tôi. Chắc chắn những gì tôi trình bày ở đây còn khó tránh khỏi những thiếu sót rất mong nhận được sự góp ý tận tình của Hội đồng khoa học và các đồng chí, đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn. 2. Kiến nghị
- 14 - Các cấp chỉ đạo chuyên môn tổ chức bồi dưỡng thêm cho giáo viên THCS một số vấn đề chuyên môn về thơ. + Đặc trưng thơ trữ tình + Thi pháp thơ hiện đại Việt Nam cách mạng tháng Tám + Phương pháp thẩm bình thơ và giảng dạy thơ + Phong cách bút pháp của các tác giả trong chương trình văn THCS. - Đối với giáo viên: Cần phải đổi mới phương pháp dạy học để phát huy những tài năng sẵn có còn tiềm ẩn trong mỗi cá nhân học sinh qua các tiết dạy phần thơ hiện đại Việt Nam, giúp các em hoàn thiện nhân cách, phát huy vốn tri thức của nhân loại làm giàu cho quê hương đất nước. Cần tham khảo tài liệu, tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên đề về dạy học phần thơ Việt Nam hiện đại, nghiên cứu bài dạy, hiểu sâu bài dạy, cần cảm nhận các văn bản thơ bằng cả tâm hồn mình để giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp của các văn bản thơ và từ đó các em hứng thú, say mê hơn với môn học. Cuèi cïng t«i xin ch©n thµnh c¸m ¬n BGH nhµ trêng, Tæ X· héi trường THCS XH ®· t¹o ®iÒu kiÖn gióp t«i hoµn thµnh s¸ng kiÕn kinh nghiÖm nµy. Đề tài này chỉ là do bản thân học hỏi, đúc rút kinh nghiệm qua giảng dạy nên chắc chắn cũng không tránh khỏi những sai sót. Rất mong các đồng nghiệp tham khảo và góp ý chân thành để nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn. Tôi xinh chân thành cảm ơn! Minh Châu, ngày 05 tháng 04 năm 2023 Người viết Hoàng Thị Hiền
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. “ Phương pháp dạy học văn bậc THCS” Phan Trọng luận- Vũ Nho - Nguyễn Thúy Hồng – Nguyễn Thị Ngọc. 2. “Một số ván đề đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS – Môn Ngữ văn”– Bộ GD & ĐT - Nhóm tác giả: Vũ Nho – Nguyễn Trọng Hoàn – Nguyễn Thúy Hồng – Nguyễn Thị Ngọc - Đỗ Việt Hùng. 3. “Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS môn Ngữ văn – Bộ GD & ĐT” – Tác giả: Nguyễn Hải Châu – Nguyễn Trọng Hoàn – Vũ Nho. 4. “Từ điển Tiếng Việt”: Đỗ Hữu Châu – Hoàng Hữu Bội. 5. “Rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh lớp 9”- Nguyễn Trọng Hoàn- NXB Đại học quốc gia TP hồ Chí Minh 6. SGK Ngữ văn 9 , tập 1,2. 7. SGK Ngữ văn 6,7, tập 1,2. 8. SGV Ngữ văn 6,7,9, tập 1,2. 9. “Tuyển tập thơ Tố Hữu”.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi THCS năm 2016 - Ứng dụng đồng dư thức trong giải toán lớp 7
16 p | 181 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phương pháp gây hứng thú tập luyện thể dục thể thao cho học sinh THCS
18 p | 80 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Bồi dưỡng phương pháp thực nghiệm cho học sinh trong việc thực hiện mục tiêu dạy học Vật lý
16 p | 22 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng đồ dùng trực quan điện tử hiệu quả trong dạy học theo hướng phát triển năng lực môn Lịch sử lớp 9
27 p | 83 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng định lý Pytago để giải một số loại bài tập trong bồi dưỡng học sinh giỏi vật lý các khối 8;9
27 p | 80 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Vận dụng bất đẳng thức Côsi vào giải một số bài toán tìm giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất
10 p | 62 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phương pháp nâng cao chất lượng dạy học Văn học trung đại trong chương trình Ngữ văn 9
18 p | 103 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Khai thác và phát triển từ một bài toán đơn giản để bồi dưỡng toán 8
12 p | 45 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phương pháp giảng dạy và huấn luyện chạy cự li trung bình, dài ở trường THCS
17 p | 39 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Dạy học văn học dân gian lớp 6
12 p | 26 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp khắc phục những sai sót khi giải toán liên quan đến bội và ước lớp 6
14 p | 25 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phương pháp dạy một bài ngữ pháp dễ hiểu
14 p | 15 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giúp Học sinh tiếp cận, luyện thi học sinh giỏi giải toán trên máy tính bỏ túi Casio
41 p | 33 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 9 tại Trường THCS Phạm Hồng Thái, huyện EA Kar, tỉnh Đăk Lăk
30 p | 60 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trường THCS Bình Khê
29 p | 51 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số phương pháp dạy và kiểm tra từ vựng tiếng Anh
20 p | 38 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn bậc THCS
20 p | 38 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giải pháp nhằm nâng cao công tác bồi dưỡng giáo viên giỏi ở trường THCS Vạn Phúc, Huyện Thanh Trì- Hà Nội
15 p | 24 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn