intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp tổ chức dạy học nhóm nhằm nâng cao kỹ năng viết văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề - Ngữ văn 10

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:88

12
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài được lựa chọn và nghiên cứu nhằm mục đích đề ra các phương pháp tổ chức dạy học nhóm nhằm nâng cao kỹ năng viết văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề. Các GV được trau dồi nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho bản thân. Các em HS rèn luyện được kỹ năng viết văn nghị luận, nâng cao kết quả học tập trong môn Ngữ văn 10.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp tổ chức dạy học nhóm nhằm nâng cao kỹ năng viết văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề - Ngữ văn 10

  1. SỞ GD&ĐT NGHỆ AN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: " BIỆN PHÁP TỔ CHỨC DẠY HỌC NHÓM NHẰM NÂNG CAO KỸ NĂNG VIẾT VĂN NGHỊ LUẬN BÁO CÁO MỘT VẤN ĐỀ - NGỮ VĂN 10 (BỘ KẾT NỐI TRI THỨC VỚI CUỘC SỐNG)" LĨNH VỰC: NGỮ VĂN Năm 2023
  2. 2 SỞ GD&ĐT NGHỆ AN TRƯỜNG THPT THÁI HÒA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: " BIỆN PHÁP TỔ CHỨC DẠY HỌC NHÓM NHẰM NÂNG CAO KỸ NĂNG VIẾT VĂN NGHỊ LUẬN BÁO CÁO MỘT VẤN ĐỀ - NGỮ VĂN 10 (BỘ KẾT NỐI TRI THỨC VỚI CUỘC SỐNG)" Lĩnh vực : Ngữ văn Tác giả: Nguyễn Thị Phương Thúy – Trường THPT Thái Hòa SĐT: 0968412352 Năm 2023
  3. 3 MỤC LỤC I. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1 II. Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 3 III. Tính mới của đề tài ................................................................................. 3 IV. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................. 3 V. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 3 VI. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 4 VII. Giả thuyết khoa học ............................................................................... 4 Nếu thiết kế và tổ chức được dạy học nhóm sẽ nâng cao kỹ năng viết văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề cho HS khi học môn Ngữ văn 10 THPT. .................................................................................................................... 4 VIII. Thời gian thực hiện .............................................................................. 4 CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ...................................... 4 1.1. Cơ sở lý luận ...................................................................................... 4 1.2. Thực trạng giảng dạy môn Ngữ văn tại trường ............................... 10 2.2. Giao nhiệm vụ cho HS trình bày trước lớp về các vấn đề đã tìm hiểu ......................................................................................................................... 17 2.3. Giao nhiệm vụ thực hành viết báo cáo theo chủ đề cho từng nhóm cụ thể ......................................................................................................................... 22 2.4. Hướng dẫn HS xây dựng đề cương bài báo cáo nghiên cứu theo nhóm dưới hình thức sơ đồ tư duy .................................................................. 25 2.5. Hướng dẫn HS các nhóm phân tích, đánh giá chéo bài viết báo cáo nghiên cứu ....................................................................................................... 31 2.6. Áp dụng kỹ năng chia sẻ và lắng nghe tích cực trong quá trình các nhóm trình bày trước lớp ................................................................................. 33 2.7. Đánh giá sản phẩm bài viết của các nhóm theo rubric đánh giá và hướng dẫn tự sửa lỗi ........................................................................................ 36 CHƯƠNG III: KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ..................... 39 3.1. Phương pháp đánh giá hiệu quả sáng kiến ....................................... 39 3.2. Đánh giá sự thay đổi của HS sau khi áp dụng giải pháp ................. 39 3.3. Đánh giá hiệu quả đối với GV trong quá trình giảng dạy................ 43
  4. 4 PHẦN III: KẾT LUẬN ................................................................................... 45 1. Kết quả đạt được của đề tài ..................................................................... 45 1.1. Đối với bộ môn ................................................................................ 46 1.2. Đối với giáo viên .............................................................................. 47 1.3. Đối với học sinh ............................................................................... 47 2. Khả năng áp dụng của đề tài ................................................................... 48 3. Vận dụng vào thực tiễn ........................................................................... 48 4. Kiến nghị ................................................................................................. 48 5. Hướng phát triển của đề tài ..................................................................... 50 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 51 PHỤ LỤC ........................................................................................................ 52 - Chú ý thời gian thuyết trình gọn hơn. ........................................................... 73 ………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… …… ......................................................................................................................... 73
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT GV Giáo viên HS Học sinh GDPT Giáo dục phổ thông BGDĐT Bộ Giáo dục Đào tạo THPT Trung học phổ thông
  6. PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài Nghị quyết số 29-NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” sau khi được Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) thông qua đã trở thành định hướng và động lực cho sự phát triển của Giáo dục Đào tạo Việt Nam trong giai đoạn mới. Trong đó, một trong những nội dung quan trọng là chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Để thực hiện thắng lợi nghị quyết 29, nhận thức của người GV trong bối cảnh hiện nay cũng cần sự thay đổi. Từ vị thế trung tâm, GV cần phải tổ chức được các chuỗi hoạt động nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Yêu cầu này đối với bộ môn Ngữ văn lại cần thiết hơn bao giờ hết để chấm dứt kiểu “thầy đọc trò chép”. Môn Ngữ văn không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao kỹ năng đọc - viết cho HS, mà còn giúp HS hiểu rõ hơn về con người, xã hội và thế giới xung quanh mình. Nhờ môn học này, các em được tiếp cận với những tác phẩm văn học đa dạng qua các thời kỳ, tác giả với nhiều nền văn hóa khác nhau; để từ đó, HS có thể hiểu sâu sắc hơn về những giá trị tư tưởng, văn hóa mà các tác phẩm đó mang lại. Môn ngữ văn cũng giúp HS rèn luyện khả năng tư duy, phản biện và giải quyết vấn đề. Trong quá trình phân tích, cảm nhận các tác phẩm văn học, HS được yêu cầu suy nghĩ một cách toàn diện và dẫn ra những quan điểm của mình. Đây là cơ hội tốt để các em học cách đưa ra chính kiến, bảo vệ quan điểm của bản thân và thuyết phục người đọc hoặc người nghe. Những kỹ năng này là cần thiết cho sự thành công không chỉ trong lĩnh vực học thuật mà còn trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra, môn ngữ văn còn giúp HS phát triển khả năng cảm nhận và đánh giá nghệ thuật. Các tác phẩm văn học không chỉ là những bài viết, mà còn là những “công trình nghệ thuật”. HS được học cách phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học dựa trên cảm nhận cá nhân và các tiêu chuẩn nghệ thuật. Đó là điều kiện lý tưởng cho HS phát triển cái nhìn đa chiều hơn về nghệ thuật, đánh giá được chất lượng của các tác phẩm văn học khác nhau. Tất cả những kỹ năng này đều là cơ sở cho sự thành công trong học tập và cuộc sống của học sinh. Văn nghị luận đóng vai trò quan trọng và chiếm một vị trí không thể thiếu trong quá trình học tập và phát triển của các em HS từ bậc trung học cơ sở đến THPT. Không chỉ có ý nghĩa trong văn học, văn nghị luận còn giáo dục và rèn luyện cho các em những phẩm chất đạo đức con người. Văn nghị luận luôn đưa ra hai mặt tốt - xấu, phải - trái để HS bàn luận, thể hiện quan điểm cá nhân, đưa ra những minh chứng lý luận về cả hai mặt giúp các em hiểu rõ từng vấn đề, giáo dục các em học theo những điều tốt, tránh xa những điều xấu. Thông qua đó, văn nghị luận hình thành cho HS một lối sống tốt, giúp các em tự nhận thức về suy nghĩ, hành động của bản thân, sống theo chủ nghĩa tốt đẹp và kiên định với quan điểm của mình, tích cực tu dưỡng đạo đức và tích lũy những bài học đắt giá làm hành trang cho tương lai.
  7. 2 Theo chương trình sách giáo khoa mới của GDPT 2018, dạng bài viết văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề trong môn Ngữ văn 10 có nhiều sự khác biệt và đổi mới. Các em HS cần viết báo cáo về một đề tài văn học đã thực hiện, hoặc về một vấn đề thực tế trong cuộc sống. Dù là vấn đề nào, các em cũng cần nghiên cứu kỹ lưỡng về các đề tài lựa chọn, xác định các luận điểm, đưa ra những lý lẽ, lập luận và dẫn chứng để chứng minh cho các luận điểm đó. Các em cần bổ sung thêm những trích dẫn, nhận định của người khác hay những thống kê thực tế để xác minh cho nhận định của mình. Trong thực tế công tác giảng dạy hiện nay, các GV luôn cố gắng trau dồi kiến thức và đổi mới phương pháp giảng dạy. Tuy nhiên, chương trình Ngữ văn 10 học theo chương trình sách giáo khoa mới nên các bộ sách tham khảo, nâng cao còn hạn chế. Thêm vào đó, lượng kiến thức ở mỗi bài khá nhiều nên các GV còn nhiều bỡ ngỡ, lúng túng trong quá trình giảng dạy, đặc biệt là đối với việc dạy viết dạng văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề. Theo Thông tư 32/2018/TT - BGDĐT về ban hành Chương trình GDPT mới, yêu cầu mà Bộ giáo dục đưa ra đối với các em HS lớp 10 thông qua môn Ngữ văn là nâng cao tính chủ động, sáng tạo, phát triển các phẩm chất và kỹ năng cần thiết như: Kỹ năng tự học, tự chủ, năng lực tư duy logic sáng tạo, kỹ năng giao tiếp hợp tác, kỹ năng giải quyết vấn đề,... Chương trình học trước đây đè nặng lý thuyết, nhẹ về thực hành, chủ yếu chỉ giáo dục HS bằng những kiến thức sách vở. Chính vì vậy mà chương trình học không thể đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện cho HS, hạn chế về phát triển năng lực đồng thời ít tạo được sự hứng thú từ các em. HS chủ yếu chỉ học với tâm thế đối phó, chưa thật sự được trau dồi các kỹ năng cần thiết. Đây cũng là lý do dẫn đến việc cần thay đổi phương pháp dạy học mới. Điều này nhằm hướng đến sự phát triển năng lực toàn diện về phẩm chất cho người học, thông qua những kiến thức mới mẻ cùng với các phương pháp dạy học tích cực. Đó là tiền đề giúp các em dễ dàng hơn trong việc tiếp cận kiến thức cũng như nâng cao các kỹ năng cần thiết, cải thiện hiệu quả học tập. Thực tiễn cho thấy, nhiều HS cảm thấy bị động khi học Ngữ văn theo phương pháp truyền thống, bản thân chưa chủ động chuẩn bị kiến thức mới trước khi đến lớp, sự tương tác giữa các em trong lớp rời rạc, đôi khi các em mất hoàn toàn hứng thú với môn Ngữ văn vì cảm thấy khó và áp lực. Việc truyền tải những kiến thức khô khan đến HS theo cách truyền thống vẫn chưa đủ để HS ghi nhớ và vận dụng. Do đó, việc sử dụng những phương pháp dạy học mới để nâng cao hiệu quả giờ học và tăng hứng thú học tập cho HS là vô cùng cần thiết. Những phương pháp này không chỉ giúp HS dễ dàng hơn trong việc tiếp cận kiến thức mà còn là công cụ hỗ trợ các em ghi nhớ kiến thức tốt hơn. Việc cấp thiết hiện tại là GV phụ trách bộ môn Ngữ văn 10 cần nghiên cứu và đưa ra các phương pháp dạy học mới, trong đó phương pháp dạy học theo nhóm thích hợp để phát triển cho HS những năng lực phẩm chất cần thiết. Thông qua hoạt động nhóm, các em HS được rèn luyện và phát triển năng lực ngôn ngữ, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, làm việc nhóm và những năng lực khác giúp các
  8. 3 em HS phát triển toàn diện. Các thành viên trong nhóm có thể chia sẻ băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng những nhận thức mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi HS có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy bản thân cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp thu thụ động từ giáo viên. Từ yêu cầu của sự đổi mới cùng với việc nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của dạng bài văn nghị luận, cũng như những bất cập mà GV gặp phải trong quá trình dạy học dạng văn nghị luận, tôi đã mạnh dạn lựa chọn và nghiên cứu đề tài “Biện pháp tổ chức dạy học nhóm nhằm nâng cao kỹ năng viết văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề - Ngữ văn 10” với mong muốn áp dụng các phương pháp học tập tích cực để nâng cao kỹ năng viết văn nghị luận cho HS. II. Mục đích nghiên cứu Đề tài được lựa chọn và nghiên cứu nhằm mục đích đề ra các phương pháp tổ chức dạy học nhóm nhằm nâng cao kỹ năng viết văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề. Các GV được trau dồi nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho bản thân. Các em HS rèn luyện được kỹ năng viết văn nghị luận, nâng cao kết quả học tập trong môn Ngữ văn 10. III. Tính mới của đề tài Đề tài được lựa chọn và nghiên cứu kỹ lưỡng, sáng tạo trong các biện pháp để đáp ứng chương trình dạy học theo sách giáo khoa mới. Các biện pháp đều được thực hiện theo các phương pháp giáo dục mới, theo hướng dạy học tích cực để nâng cao kỹ năng viết văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề cho HS trong chương trình Ngữ văn 10, đồng thời rèn luyện và bổ sung cho HS những năng lực cần thiết, đặc biệt là năng lực hợp tác để các em hoàn thiện bản thân. IV. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu các biện pháp tổ chức dạy học nhóm nhằm nâng cao kỹ năng viết văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề - Ngữ văn 10, áp dụng thực nghiệm với HS lớp 10 trường THPT Thái Hòa. V. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu với nhiệm vụ giải đáp các vấn đề cụ thể được liệt kê dưới đây: - Nâng cao kỹ năng viết văn nghị luận về một vấn đề cụ thể trong đời sống và báo cáo nghiên cứu một vấn đề cho HS lớp 10. - Nâng cao kỹ năng hoạt động nhóm, rèn luyện cho HS những năng lực phẩm chất cần thiết. - Thực nghiệm sư phạm để minh họa tính hiệu quả và khả thi của các biện pháp trong đề tài.
  9. 4 VI. Phương pháp nghiên cứu Để có thể hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã tiến hành sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: GV nghiên cứu kiến thức từ sách giáo khoa và tìm hiểu các tài liệu tham khảo về kỹ năng dạy và viết văn nghị luận cho HS. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: GV nghiên cứu và rút ra những bài học kinh nghiệm qua thực tế giảng dạy, qua quá trình quan sát và trao đổi với các đồng nghiệp. - Phương pháp phân tích, tổng hợp: GV phân tích kiến thức lý thuyết với thực tiễn áp dụng, kết hợp với các kinh nghiệm đã rút ra, tổng hợp lại những mặt lợi, hại để đề xuất các giải pháp phù hợp. - Phương pháp kiểm tra: GV kiểm tra chất lượng học sinh viết văn nghị luận, so sánh kết quả trước và sau quá trình áp dụng các biện pháp vào thực tiễn để kiểm tra tính hiệu quả của đề tài. VII. Giả thuyết khoa học Nếu thiết kế và tổ chức được dạy học nhóm sẽ nâng cao kỹ năng viết văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề cho HS khi học môn Ngữ văn 10 THPT. VIII. Thời gian thực hiện Thời gian Nội dung Tháng 9/2022 – 12/2022 Xây dựng và bảo vệ đề cương, triển khai viết Hoàn thiện dần và tiếp tục áp dụng sáng kiến để Tháng 01/2022– 02/ 2022 kiểm định độ tin cậy của các giải pháp đề ra. Tháng 3/2022 Hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm. PHẦN II: NỘI DUNG ĐỀ TÀI CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Một số khái niệm liên quan 1.1.1.1. Phương pháp tổ chức dạy học nhóm Phương pháp tổ chức dạy học nhóm là một trong những phương pháp dạy học tích cực. Đây là cách dạy học trong đó HS được chia thành nhiều nhóm nhỏ, các thành viên trong nhóm cùng hợp tác để thực hiện yêu cầu mà GV đưa ra. Phương pháp này tập trung vào việc phát triển các kỹ năng xã hội, giải quyết vấn đề, giao
  10. 5 tiếp và hợp tác giữa các thành viên trong nhóm. Nó giúp HS tăng cường khả năng tư duy, trao đổi ý kiến và giải quyết vấn đề, từ đó nâng cao hiệu quả học tập. Theo nhà giáo dục học nổi tiếng người Mỹ Elliot Aronson, phương pháp dạy học theo nhóm được gọi là Jigsaw Classroom. Ông Elliot Aronson đã phát triển phương pháp này vào năm 1971, nhằm giải quyết vấn đề xung đột giữa các sinh viên trong các khóa học của ông. Từ đó, phương pháp này đã được ứng dụng rộng rãi trong giáo dục trên toàn thế giới. Phương pháp dạy học theo nhóm giúp HS tăng cường khả năng tự học, tư duy độc lập và phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề. Đồng thời, phương pháp này cũng giúp các em phát triển kỹ năng xã hội, giao tiếp và hợp tác với nhau trong một môi trường học tập tích cực và đầy đủ trách nhiệm. Phương pháp tổ chức dạy học nhóm đã được ứng dụng trong giáo dục, trong các tiết học từ trước đến nay và thể hiện được vai trò quan trọng của mình. Đồng thời, nó cũng có tính xây dựng cao đối với công tác đổi mới phương pháp giáo dục và phát huy năng lực của HS. Dạy học theo nhóm là hoạt động giúp các em tích lũy và chủ động tìm hiểu kiến thức, bàn luận về thông tin, bày tỏ quan điểm cá nhân về một vấn đề cụ thể. Phương pháp dạy học theo nhóm không chỉ giúp HS phát huy tinh thần học tập chủ động, năng động sáng tạo hơn mà còn là “công cụ hỗ trợ đắc lực” để các em rèn luyện thêm những kỹ năng mềm cần có ở người chủ nhân tương lai của thế giới. Thông qua phương pháp này, HS được trau dồi kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng hợp tác với các thành viên khác, kỹ năng tìm kiếm thông tin, kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng thể hiện quan điểm,.... Đây cũng là mục tiêu được đề ra và chú trọng trong giáo dục hiện nay. Dần dần, phương pháp dạy học theo nhóm trở thành một phần nhất định trong đổi mới phương pháp giáo dục. Hình 1: Hình ảnh các em HS trong giờ sinh hoạt nhóm.
  11. 6 1.1.1.2. Dạng bài văn nghị luận báo cáo nghiên cứu về một vấn đề Báo cáo nghiên cứu là văn bản trình bày kết quả nghiên cứu về một vấn đề dựa trên các dữ liệu khách quan, chính xác, đáng tin cậy. Văn nghị luận báo cáo nghiên cứu về một vấn đề là dạng văn mà trong đó, tác giả sử dụng chủ yếu các lý lẽ, dẫn chứng sau đó dẫn vào lập luận; nhằm đưa ra luận điểm, chứng cứ để xác định và chỉ ra cho người đọc, người nghe thấy được tư tưởng, quan điểm của tác giả về một vấn đề cụ thể; đồng thời tạo điểm nhấn riêng cho bài viết. Dạng văn này có đặc điểm chung của các dạng văn nghị luận khác, tuy nhiên, yêu cầu cao hơn về tư duy logic cũng như những luận điểm, luận cứ trong đó. Văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề có hàm lượng khoa học cao, cần có lối hành văn mạch lạc, thông minh và rõ ràng. Để viết một bài báo cáo nghiên cứu về một vấn đề cụ thể, người viết cần tìm hiểu kỹ lưỡng về vấn đề nghiên cứu, thu thập và phân tích các dữ liệu liên quan đến vấn đề, từ đó đưa ra các luận điểm, chứng cứ hợp lý, thuyết phục. Trong quá trình viết, người viết cần phải sử dụng các thuật ngữ chuyên ngành, các công thức, các định lượng để minh chứng cho các luận điểm của mình. Với mục đích trình bày các nghiên cứu, báo cáo về một vấn đề cụ thể, văn nghị luận báo cáo nghiên cứu đòi hỏi người viết phải có khả năng sử dụng ngôn ngữ mạch lạc, dễ hiểu và truyền đạt được tư tưởng, quan điểm của mình một cách thuyết phục. Do hàm lượng kiến thức chuyên ngành cao, đây là một dạng văn yêu cầu người viết phải có sự kiên nhẫn, tập trung cao độ và sự cẩn trọng để tránh những sai sót trong quá trình viết. Dạng văn này giúp các em HS rèn luyện góc nhìn, tư duy đúng đắn, nhạy bén, khách quan về nhiều vấn đề trong cuộc sống. Để đáp ứng các yêu cầu của dạng văn này, HS cần tự trau dồi cho mình những kiến thức xã hội phong phú, tham khảo những ánh nhìn từ các góc độ khác nhau về các vấn đề của xã hội, kết hợp với cái tôi cá nhân, HS thể hiện suy nghĩ, tư duy của riêng mình về cuộc sống, về xã hội. Đây là một trong những đức tính cần thiết ở một công dân tương lai. Thông qua quá trình phát triển đó, bản thân các em sẽ có quan niệm vững vàng, nhìn nhận các vấn đề xã hội và sẵn sàng cống hiến, xây dựng, đổi mới đất nước. Bài văn nghị luận báo cáo nghiên cứu có bố cục cơ bản gồm 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Tuy nhiên, yêu cầu đối với mỗi phần lại khác nhau: - Mở bài: Trong phần đầu của bài viết, cần nêu ra được vấn đề nghiên cứu và giới thiệu về bối cảnh nghiên cứu. Người viết cần chỉ ra một cách khái quát nhất các câu hỏi báo cáo nghiên cứu về cái gì? Nghiên cứu trong hoàn cảnh nào. Như vậy, người đọc có thể dễ dàng nhận ra các nội dung được thể hiện trong bài viết. Không nên trình bày quá dài dòng, viết ngắn gọn và hạn chế các từ ngữ mang tính chủ quan, ảnh hưởng đến tính khoa học, khách quan của toàn bài. Nên sử dụng ngôn ngữ đơn giản, trực tiếp trong phần này. - Thân bài: Thân bài là phần quan trọng nhất trong toàn bài viết, bao hàm toàn bộ các nội dung quan trọng trong bài. Thông qua phần này, tác giả thể hiện toàn bộ
  12. 7 kết quả, thành tựu nghiên cứu của mình một các logic nhất. Thân bài cần bao hàm một số nội dung sau: + Các vấn đề cơ bản của nghiên cứu: sau khi đã giới thiệu sơ qua về nghiên cứu trong phần mở bài, người viết cần nêu đầy đủ hơn về các vấn đề cơ bản của nghiên cứu ngay phần đầu thân bài. + Phần thân bài cần trình bày rõ ràng những kết quả nghiên cứu đề tài đã được thực hiện trong nghiên cứu. Tác giả cần nêu lên cụ thể những góc độ ảnh hưởng cũng như quá trình lý luận, dẫn dắt đến các kết quả nghiên cứu đã thực hiện được. + Trong phần thân bài này, tác giả cũng cần nêu được những nhận định, tổng kết của mình về nghiên cứu. Những kinh nghiệm, kiến nghị của cá nhân để phát triển đề tài cũng như những cống hiến của đề tài cho xã hội. - Kết bài: Kết bài là phần cuối cùng của bài văn nghị luận báo cáo kết quả nghiên cứu. Trong phần này, tác giả phải tổng kết lại toàn bộ các luận điểm được nhắc đến trong bài cũng như mở rộng và nêu ra các vấn đề mới tiếp theo. Mở bài, thân bài, kết bài là các phần hết sức quen thuộc và cần thiết đối với mỗi bài văn. Để hoàn thành bài viết này, không chỉ nội dung, mà tác giả còn cần chú ý đến bố cục của bài viết. Phần mở bài và phần kết bài cần có dung lượng tương đương với nhau. Phần thân bài nên có độ dài tối thiểu dài hơn 3 lần so với phần mở bài và kết bài. Như vậy, cấu trúc của bài sẽ trở nên cân đối, mạch lạc và phù hợp hơn. Trong phần thân bài, HS nên chia ra thành các đoạn nhỏ để có bài viết dễ nhìn nhất. Mỗi luận điểm là một đoạn văn. Trong trường hợp viết văn nghị luận báo cáo nghiên cứu phát triển thành một báo cáo nghiên cứu, học sinh có thể dựa vào kết cấu trên và chia ra thành các chương, các mục theo các nhóm nội dung cụ thể, theo ý đồ nghiên cứu cũng như mạch logic của tác giả. 1.1.2. Nguyên tắc tổ chức dạy học nhóm trong môn ngữ văn Để có thể tổ chức dạy học nhóm trong giờ học môn ngữ văn, GV cần nắm được một số nguyên tắc cụ thể. Bất kỳ nguyên tắc nào cũng sẽ đều có các ưu điểm, hạn chế nhất định. Vì thế, để khắc phục nhược điểm và phát huy tối đa ưu điểm của phương pháp dạy học này, giáo viên cần linh hoạt một số nguyên tắc nhất định, cụ thể như sau: - GV cần dựa vào tình hình thực tế của mỗi lớp để chọn cách thức chia nhóm cho phù hợp. Mỗi lớp sẽ có số lượng HS khác nhau. Mỗi hoạt động nhóm sẽ có nhu cầu nhất định về thực hiện nhóm, số lượng nhóm trong hoạt động. Ngoài ra, việc các em HS di chuyển quá nhiều trong lớp có thể dễ dẫn đến mất trật tự lớp học, GV cần sắp xếp sao cho phù hợp. Thêm vào đó, việc làm việc quá lâu trong một nhóm nhất định cũng dễ khiến các em HS cảm thấy nhàm chán hay làm giảm đi hiệu quả của phương pháp tổ chức dạy học theo nhóm. Vậy nên, tùy theo từng
  13. 8 giai đoạn, thời điểm thích hợp, GV có thể thay đổi cách chia nhóm, để HS có thể thích nghi với cách làm việc trong nhóm mới, từ đó phát triển kỹ năng làm việc nhóm của mình. - GV luôn phải chú ý, quan sát và theo dõi, hướng dẫn hoạt động của từng nhóm. Các em HS chưa có quá nhiều kỹ năng làm việc theo nhóm, để thực hiện hiệu quả, GV cần đưa ra những hướng dẫn chi tiết. Song song cùng với quá trình các em làm việc nhóm, GV cũng cần theo sát để kịp thời phát hiện ra những sai sót, từ đó hướng dẫn các em thực hiện lại sao cho đúng. Lứa tuổi HS hiếu động, dễ sao nhãng trong quá trình làm việc nhóm, nói chuyện riêng dẫn đến mất trật tự lớp học, GV nên bám sát các em để đảm bảo trật tự lớp, đảm bảo các em làm việc hiệu quả, không làm ảnh hưởng đến các lớp học khác trong trường. Hình 2: Hình ảnh giáo viên hướng dẫn hoạt động nhóm trong giờ học - Việc lựa chọn các hoạt động được tổ chức cần phải phù hợp, nằm trong khả năng thực hiện của HS và tiết học. Đặc điểm của các nội dung nên cụ thể, tường minh giúp các em dễ dàng tiếp nhận. Để có thể phát huy tối đa hiệu quả của phương pháp học tập theo nhóm, trước hết, GV cần lựa chọn các nội dung và cách ứng dụng phù hợp. Không phải với nội dung nào thì phương pháp làm việc nhóm cũng hiệu quả nhất. Đồng thời, cũng cần căn cứ vào khả năng của HS để giao nhiệm vụ cho từng thành viên trong lớp sao cho hiệu quả. - Sau khi kết thúc các hoạt động nhóm, GV luôn phải kết luận, chuẩn hóa kiến thức cho HS. Đây là một công tác hết sức quan trọng và cần thiết. GV cần nhắc lại và tổng hợp kiến thức cho các em. Thông qua quá trình tìm hiểu của mình, HS đã có những hiểu biết nhất định về kiến thức nhưng không tránh khỏi những lỗi sai dễ mắc phải. GV cần chuẩn hóa lại những kiến thức này để HS hiểu đúng kiến thức được truyền tải.
  14. 9 1.1.3. Một số lưu ý khi hướng dẫn học sinh viết bài văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề Bên cạnh đó, khi viết bài văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề, các em HS sẽ khó tránh khỏi một số lỗi sai nên GV cần nắm được và lưu ý với HS một số vấn đề như sau: - GV cần lưu ý cho HS trong việc xác định chủ đề và mục tiêu. Trước khi viết bài, HS cần được giáo viên hướng dẫn cách xác định rõ chủ đề và mục tiêu của bài viết. Các em cần phải hiểu rõ về vấn đề cần nghiên cứu, tìm hiểu các thông tin liên quan, đưa ra các giả thuyết, dẫn chứng và luận điểm hợp lý để phản biện vấn đề. - GV cần lưu ý nhắc nhở HS đọc kỹ yêu cầu của đề bài, chú ý từng từ ngữ, câu chữ được thể hiện trong bài. Vì các bài văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề có hàm lượng khoa học cao, cần viết đúng và chặt chẽ trong từng luận điểm, nên sử dụng hệ thống ngôn từ ngắn gọn, mạch lạc, tránh dài dòng, lan man. Đồng thời, các em cũng cần đọc kỹ yêu cầu của đề bài và đáp án trong bài viết, tránh lạc đề hay xa đề. - Lưu ý trong việc gợi ý lựa chọn tài liệu tham khảo cho HS. Hiện nay, tốc độ Internet phát triển nhanh chóng mà bản thân mỗi HS đều được trang bị cho mình các thiết bị điện tử truy cập thông tin, đây vừa là ưu điểm nhưng cũng vừa là hạn chế cần lưu tâm. Thu thập tài liệu cho mục đích học tập, nghiên cứu, làm việc là vô cùng quan trọng. Tài liệu là nguồn thông tin phục vụ cho mục đích nhất định. Trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ như hiện nay thì nguồn tài liệu trên Internet đang là nguồn cung cấp chủ yếu, phổ biến nhất. Nó chứa đựng tất cả các thông tin trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, khoa học. Tuy nhiên, không xác định được nguồn gốc là hạn chế lớn nhất của tài liệu Internet; có nhiều nguồn tài liệu tham khảo không chính thống, thông tin chưa được kiểm chứng dễ khiến các em hiểu sai lệch về kiến thức. Để giúp HS tránh được việc này, GV cần lưu ý với các em cách lựa chọn tài liệu tham khảo phù hợp hay gợi ý cho các em một số tài liệu tham khảo có liên quan. - Lưu ý về các lỗi sai khi làm bài văn nghị luận báo cáo về một vấn đề mà HS thường gặp. Cùng với kinh nghiệm giảng dạy của mình, GV cần liệt kê ra một số lỗi sai mà HS thường gặp trong quá trình viết bài văn nghị luận báo cáo về một vấn đề để các em có thể biết và tránh, từ đó nâng cao kết quả học tập, rèn luyện về lối viết dạng văn này. - Lưu ý hướng dẫn HS sắp xếp và triển khai nội dung chính của bài văn. Các bài văn nghị luận báo cáo về một vấn đề cần có tính logic cao. GV cần lưu ý hướng dẫn các em cách sắp xếp và triển khai các nội dung chính trong bài văn sao cho phù hợp, mạch lạc, thể hiện đúng luận điểm mà các em muốn nêu lên trong bài.
  15. 10 1.2. Thực trạng giảng dạy môn Ngữ văn tại trường 1.2.1. Thực trạng phương pháp giảng dạy môn ngữ văn tại trường Qua quá trình quan sát và ghi chép, tôi nhận thấy thực trạng phương pháp giảng dạy môn ngữ văn ở trường THPT Thái Hòa còn có một số hạn chế như sau: - Tại trường chưa có nhiều phương pháp tổ chức dạy học môn ngữ văn sáng tạo, dạy học theo phương pháp truyền thống là chủ yếu, GV đưa ra kiến thức, HS ghi chép, tự tìm hiểu và làm bài. Chính vì vậy, các tiết học thường nhàm chán. Các em tập trung vào việc ghi bài thay vì hiểu và nhớ kiến thức thông qua lời giảng của thầy cô. Vậy nên khả năng ghi nhớ kiến thức và ứng dụng các kiến thức đã học trong viết các bài văn cụ thể của các em HS chưa tốt. Một số giờ học, GV còn “cháy” giáo án, không kịp hoàn thiện chương trình, nội dung đã được xây dựng trước đó. Đồng thời, tiết học cũng trở nên mệt mỏi, ảm đạm. Việc tiếp thu kiến thức của HS chưa cao, ngay cả tinh thần tự học tại nhà của các em cũng chưa được chú trọng, dẫn đến nhiều điểm còn chưa hiểu bài. - Một số HS không thực sự yêu thích môn ngữ văn. Các em thường có thái độ đối phó khi tham gia môn học. HS ghi bài còn sơ sài, bài có bài không, thậm chí một số phần còn ghi sai. Vở ghi chép của HS ẩu, không đáp ứng đủ nội dung cần thiết cho việc học. Các em không yêu thích môn ngữ văn nên cũng thường xuyên mất tập trung trong lớp, nói chuyện riêng hay là làm các bài tập khác,.... Chất lượng các bài tập, bài viết chưa tốt, đôi khi còn mang tính chất đại khái. Một số em HS còn chép lại các bài văn tham khảo và nộp cho giáo viên thay vì tự tìm hiểu và thực hiện bài. - Các hoạt động tập thể dành cho HS trong giờ học ngữ văn chưa được khai thác tốt, thiếu đa dạng, chủ yếu là cho HS cùng thảo luận ngắn. Các em chưa thể cùng nhau tìm hiểu kiến thức. Nếu có, các hoạt động cũng được tổ chức không hiệu quả, mang tính hình thức và chưa thực sự thu hút được sự chú ý của học sinh hay giúp các em ghi nhớ kiến thức tốt hơn. Với môn Ngữ văn, đa phần thầy cô đều chú ý đến việc nhanh chóng “chạy” cho kịp chương trình, nội dung đã xây dựng thay vì chú ý phát triển các hoạt động làm việc nhóm cho HS. 1.2.2. Thực trạng làm quen với chương trình ngữ văn lớp 10 mới Các em HS (2007) là khóa đầu tiên áp dụng chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 mới và đang tiến hành làm quen với chương trình học nên còn nhiều bỡ ngỡ. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn lớp 10, GV cũng có nhiều thuận lợi như: - Sau khi triển khai chương trình học tập theo sách giáo khoa mới, việc học tập môn Ngữ Văn lớp 10 nói riêng và hoạt động học tập trong toàn trường nói chung luôn có sự động viên, khuyến khích và hỗ trợ của các cấp lãnh đạo, nhà trường; thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn cho GV trong tổ chuyên môn. Các thầy cô có thể tìm hiểu, chia sẻ với nhau về những cập nhật mới trong sách, điểm
  16. 11 khác biệt giữa chương trình mới và chương trình cũ để từ đó có định hướng xây dựng giáo án phù hợp. Trong các buổi tập huấn, thầy cô cũng đã làm việc tích cực, chú ý tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm. Hình 3,4: Hình ảnh giáo viên tổ Ngữ văn trường THPT Thái Hòa tham gia các buổi tập huấn sách giáo khoa mới do Sở Giáo dục tổ chức. Hình 5,6: Hình ảnh GV tổ Ngữ văn các trường THPT 1/5, Thái Hòa, Đông Hiếu, Tây Hiếu, trong buổi học tập, trao đổi chuyên môn với thầy Nguyễn Chí Hòa – Chuyên viên Sở giáo dục và đào tạo Nghệ An.
  17. 12 - Nhà trường cũng luôn tạo điều kiện cho GV đổi mới phương pháp giáo dục, cung cấp đầy đủ các phương tiện hỗ trợ giảng dạy để nâng cao hiệu quả học tập tại trường. Ban giám hiệu nhà trường luôn theo sát hoạt động của các tổ chuyên môn, kịp thời đưa ra các chỉ đạo cần thiết để phát triển, nâng cao hiệu quả giảng dạy. - Các GV giảng dạy môn ngữ văn đã và đang tích cực, chủ động nghiên cứu, xây dựng bài giảng, tìm kiếm phương pháp dạy học phù hợp với chương trình ngữ văn lớp 10 mới. Các thầy cô đều tâm huyết với nghề, yêu thương HS, có tinh thần học tập, sáng tạo cao, không ngừng tìm tòi và học tập các phương pháp hiệu quả khác, thử nghiệm áp dụng trong quá trình giảng dạy môn ngữ văn lớp 10 để ngày càng nâng cao hiệu quả, thích nghi với hơi thở mới của thời đại. 1.2.3. Khảo sát thái độ của học sinh khi học môn ngữ văn và dạng bài văn nghị luận Để có thể nhìn thấy về tác động của phương pháp giảng dạy môn ngữ văn tại trường THPT Thái Hòa, tôi đã tiến hành khảo sát thái độ của HS khi học môn ngữ văn và đặc biệt là dạng văn nghị luận báo cáo một vấn đề. Khảo sát được tiến hành ở 2 lớp 10 của trường THPT Thái Hòa (gồm lớp 10C và 10E) trên tổng số 85 HS, thu về được kết quả như sau: Bảng khảo sát thái độ HS khi học môn ngữ văn và dạng văn nghị luận Tiêu chí Không thích Bình thường Thích Số HS 48 31 6 Tỷ lệ 56% 37% 7% Qua bảng trên có thể thấy, số HS yêu thích tiết học ngữ văn chỉ có 7%, nhưng số HS không thích tiết ngữ văn lại lên đến 56%. Số HS với thái độ trung hòa cũng chiếm tỉ lệ không ít. Có thể thấy, đa phần các em HS đều không quá yêu thích môn ngữ văn và dạng văn nghị luận. Tuy nhiên, các em lại khá yêu thích hoạt động làm việc nhóm trong giờ học. 1.2.4. Khảo sát mức độ nhận biết và thông hiểu của học sinh về dạng bài văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề Tôi cũng đã tiến hành tìm hiểu cụ thể về mức độ nhận biết và thông hiểu của HS đối với dạng bài nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề. Thông qua đó, tôi có thể hiểu hơn về năng lực của các em để từ đó xây dựng phương pháp giáo dục mới sao cho phù hợp. Bảng khảo sát mức độ hiểu của HS về dạng bài văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề, được tiến hành ở 2 lớp 10C và 10E. Tiêu chí Không thích Bình thường Thích Số HS 60 18 7 Tỷ lệ 70% 21% 9%
  18. 13 Qua bảng trên có thể thấy, số HS nhận biết được dạng bài văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề lên đến 70%. Đa phần các em HS đều đã biết về dạng văn này cũng như khái niệm, các đặc điểm cơ bản của dạng văn. Tuy vậy, số HS thông hiểu, có thể trả lời các câu hỏi, bài tập cơ bản về văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề chỉ có 21%. Số HS biết vận dụng các kiến thức này chỉ có 9%. Chỉ có số ít các em hiểu và viết được các bài văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề đạt yêu cầu. 1.2.5. Khảo sát kỹ năng làm việc nhóm trong môn ngữ văn của HS Hiện nay, phương pháp tổ chức làm việc nhóm đã được tổ chức trong giờ giảng dạy môn ngữ văn, tuy nhiên chưa gặt hái được quá nhiều thành quả. Để có thể phát triển công tác này, cần hiểu rõ hơn về kỹ năng làm việc nhóm của các em. Trong quá trình thực hành trên lớp, tôi đã tiến hành khảo sát về kỹ năng làm việc nhóm của các em HS trong môn học. Bảng khảo sát kỹ năng làm việc nhóm trong môn ngữ văn của HS ở 2 lớp 10C và 10E Tiêu chí Kỹ năng kém Có kỹ năng Kỹ năng tốt Số HS 46 30 9 Tỉ lệ 54% 35% 11% Qua bảng trên có thể thấy, đa phần các em HS có kỹ năng làm việc nhóm kém. 54% các em chưa biết cách kết hợp với các thành viên trong nhóm, còn phụ thuộc, ỷ lại vào các thành viên khác. Chỉ có một số ít 35% các HS có kỹ năng làm việc nhóm. Các em đã biết về nhiệm vụ của mình trong hoạt động nhóm tuy nhiên chưa có sự trao đổi, kết hợp cùng các thành viên khác để nâng cao hiệu quả công việc. Chỉ có 11% số HS trong lớp có kỹ năng làm việc nhóm tốt, phát huy tốt vai trò của mình trong nhóm, có trách nhiệm với các công việc được giao, cũng như phối hợp cùng các thành viên khác đem lại hiệu quả vượt trội cho các nhiệm vụ được giao.
  19. 14 CHƯƠNG II. BIỆN PHÁP TỔ CHỨC DẠY HỌC NHÓM NHẰM NÂNG CAO KỸ NĂNG VIẾT VĂN NGHỊ LUẬN BÁO CÁO NGHIÊN CỨU MỘT VẤN ĐỀ - NGỮ VĂN 10 2.1. Chia nhóm và giao nhiệm vụ cho HS tìm kiếm, nghiên cứu các bài tư liệu báo cáo nghiên cứu mẫu * Mục tiêu của biện pháp: Biện pháp được thực hiện là bước đầu của hoạt động tổ chức làm việc nhóm trong giờ học môn ngữ văn. Biện pháp này nhằm giúp các em HS tìm hiểu các bài mẫu về các báo cáo nghiên cứu hay tư liệu nghiên cứu trước đó. Từ đó, các em sẽ có cái nhìn cụ thể hơn về tính ứng dụng của văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề, cách viết bài, cũng như những trường hợp sử dụng đến dạng văn này trong cuộc sống. Thông qua việc tham khảo, nghiên cứu các tư liệu trước đó, HS có thể tiếp thu thêm những ưu điểm, điểm mạnh của các báo cáo và ứng dụng vào các hoạt động của mình. * Cách thức thực hiện: Việc tìm kiếm và nghiên cứu các tài liệu báo cáo nghiên cứu mẫu là vô cùng cần thiết. Đây không chỉ là ví dụ mà còn là hướng dẫn, mẫu để các em có thể thực hiện theo. Thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu các tài liệu mẫu này, HS sẽ có thêm kiến thức không chỉ về dạng văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề mà còn về vấn đề nghiên cứu, được báo cáo đề cập đến. Khi tìm hiểu rõ về bố cục, nội dung, cách trình bày của các báo cáo nghiên cứu mẫu tìm thấy được, HS cũng sẽ hiểu rõ hơn về cách thức làm bài văn báo cáo nghiên cứu một vấn đề. Các em sẽ nắm được cách triển khai các vấn đề sao cho hợp lý, cách xây dựng luận điểm dựa trên các luận cứ cụ thể. Từ đó, thiết lập bố cục, dung lượng của từng phần, lưu ý của chúng, hiểu được các phần cơ bản cần thể hiện trong các dạng văn nghị luận nghiên cứu một vấn đề. Hoạt động tìm hiểu và tham khảo các báo cáo nghiên cứu mẫu là một công việc khó và cần có sự hợp tác của nhiều thành viên, xuất phát từ thực trạng các em HS trong lớp chưa có khả năng làm việc nhóm tốt. GV cần chia nhóm theo số lượng hợp lý và giao nhiệm vụ cho các nhóm. Như vậy sẽ đảm bảo sự đồng đều trong việc phân công nhiệm vụ cho các nhóm trong lớp, cho từng thành viên trong nhóm. Mỗi em HS đều phải tự học, tự làm việc để hoàn thành công việc mà GV giao cho. Tổ chức tìm hiểu và tham khảo các báo cáo nghiên cứu mẫu cũng sẽ thúc đẩy hoạt động học tập của các em, giúp HS nâng cao khả năng tự học, tìm kiếm thông tin, khả năng làm việc nhóm, tránh tình trạng ganh tị giữa các thành viên trong lớp. Ngoài ra, còn tạo cho các em một thói quen tốt trong việc tìm hiểu trước khi thực hiện bất kỳ công việc nào. Đồng thời, hoạt động chia nhóm tìm hiểu về các tài liệu, tư liệu mẫu cũng góp phần khơi dậy phần nào niềm yêu thích của HS đối với dạng bài văn nghị luận báo cáo nghiên cứu một vấn đề và với môn ngữ văn.
  20. 15 Để thực hiện biện pháp này, tôi đã tiến hành theo các bước cụ thể sau: + Bước 1: Phân chia HS trong lớp thành nhiều nhóm và hướng dẫn các nhóm cách làm việc nhóm hiệu quả. Đối với nhiệm vụ tìm hiểu, tham khảo các báo cáo nghiên cứu mẫu, tôi đã chia lớp thành các nhóm nhỏ, mỗi nhóm sẽ có từ 6-7 HS. Trước khi nhận nhiệm vụ, tôi yêu cầu các nhóm thảo luận và đặt tên cho nhóm, bầu nhóm trưởng và thư ký nhóm. Mỗi thành viên sẽ có các nhiệm vụ nhất định. Tôi cũng đã chia sẻ rõ với các em vai trò của từng vị trí trong quá trình hoạt động của một nhóm. Đồng thời, hướng dẫn các em cách làm việc theo nhóm sao cho đúng trình tự, đảm bảo và hiệu quả nhất. Hình 7: Hình ảnh các em HS làm việc nhóm sau khi GV hoàn thành chia nhóm. Nhóm trưởng sẽ tổ chức họp nhóm để bàn về nhiệm vụ được GV giao, các thành viên sẽ lần lượt đưa ra ý kiến, từ đó xây dựng các công việc cần thực hiện và phân công nhiệm vụ phù hợp với năng lực của từng thành viên. Cần chú ý là nhóm trưởng phải đề ra thời hạn hoàn thành công việc của các bạn, đảm bảo tiến trình làm việc diễn ra đúng tiến độ mà GV đã giao. Sau khi đã hoàn thành phân công công việc và có hạn nộp bài cụ thể, các em có thể bắt đầu thực hiện phần công việc của mình và hoàn thành nhiệm vụ. + Bước 2: Giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm hoạt động Sau khi các nhóm đã được hình thành, đặt tên cho nhóm mình, tôi tiến hành giao nhiệm vụ cho từng nhóm. Ví dụ: Khi dạy học sinh Bài 4 - Sức sống của sử thi, viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề, tôi đã yêu cầu các nhóm tìm kiếm và nghiên cứu các bài tư liệu báo cáo nghiên cứu mẫu. Tôi đã cung cấp tên một số báo cáo để các em HS tìm hiểu thêm. Trong phần này, tôi cũng lưu ý từng nhóm về cách thức nghiên cứu và tìm kiếm các báo cáo. Đầu tiên, các em cần đảm bảo, các báo cáo mà mình tìm được
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2