Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Chữa lỗi trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi
lượt xem 2
download
Sáng kiến hệ thống hóa các lỗi thường gặp trong bài viết của học sinh trong bài văn nghị luận xã hội, trình bày đặc điểm và cách khắc phục một cách tường minh, chi tiết. Đây là nội dung chưa được giới thiệu trong các tài liệu tham khảo khác. Sáng kiến cũng giới thiệu một số bài viết cụ thể của học sinh có ý nghĩa minh họa cho các lỗi, cách khắc phục lỗi, phục vụ thiết thực trong công tác rèn kĩ năng làm bài cho HSG của GV.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Chữa lỗi trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Trong sáng kiến kinh nghiệm nay, chung tôi đa s ̀ ́ ̃ ử dung môt sô ki hiêu viêt ̣ ̣ ́ ́ ̣ ́ ̣ ̉ ư sau: tăt. Cu thê nh ́ ̣ ̣ ̃ ̣ NLXH: Nghi luân xa hôi ̣ ̣ NLVH: Nghi luân văn học TPVH: Tác phẩm văn học ̣ ̉ THPT: Trung hoc phô thông THCS: Trung học cơ sở SGK: Sach giao khoa ́ ́ ̀ ́ ̉ NXB: Nha xuât ban HSGQG: Học sinh giỏi Quốc gia ĐTHSGQG: Đội tuyển học sinh giỏi Quốc gia GV: Giao viên ́ ̣ HS: Hoc sinh XH: Xã hội 1
- Tên Sáng kiến: Chữa lỗi trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi Tác giả: Đào Thị Hoài Bắc Chức vụ: giáo viên Đơn vị công tác: Trường THPT Chuyên Bắc Giang I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm 1.1.1. Nghị quyết 29 NQ/TƯ của BCH TƯ Đảng về Đổi mới căn bản toàn diện Giáo dục & Đào tạo đã khẳng định mục tiêu đối với giáo dục phổ thông: “… tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho HS. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn…”. Điều đó cho thấy phát triển năng lực và kỹ năng thực hành cho HS phổ thông đã được BCH TƯ Đảng quan tâm chú trọng. Trong những năm gần đây đổi mới phương pháp dạy học luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của ngành giáo dục. Điểm mấu chốt của đổi mới phương pháp dạy học là việc người học đối tượng của hoạt động dạy, chủ thể của hoạt động học được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, để khám phá những điều mình chưa rõ, chứ không phải là tiếp thu một cách thụ động những tri thức đã được giáo viên sắp đặt, từ đó nắm chắc kiến thức, kĩ năng, không rập khuôn theo những khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Nhất là đối với học sinh giỏi thì đây là cơ 2
- hội để các em bộc lộ được cả năng khiếu và năng lực của mình. Điều 28.2, Luật Giáo dục đã ghi: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS: phù hợp với từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập với HS. Trong văn kiện chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2009 – 2020 về định hướng phát triển giáo dục, các mục tiêu chiến lược giai đoạn 2009 – 2020 có nội dung như sau: Thực hiện cuộc vận động toàn ngành đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, biến quá trình học tập thành quá trình tự học có hướng dẫn và quản lý của GV..... Do đó, cần nhìn nhận rõ “yếu tố tất yếu chi phối quan hệ giáo dục, trung tâm của hệ thống giáo dục, chính là người học”. Việc dạy học lấy HS làm trung tâm đã khẳng định một hướng đi đúng đắn. 1.1.2. Trong nhà trường phổ thông, văn nghị luận được đánh giá là trọng tâm của chương trình dạy học Ngữ văn, bởi lẽ, văn nghị luận là loại văn trong đó người viết đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng về một vấn đề nào đó và thông qua cách thức bàn luận mà làm cho người đọc hiểu, tin, tán đồng những ý kiến của mình và hành động theo những gì mình đề xuất. Bản thân văn nghị luận có liên quan trực tiếp tới quá trình các em học sinh tập vận dụng tổng hợp các tri thức văn học, tri thức xã hội và đời sống vào quá trình làm văn, rèn luyện kĩ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ và đặc biệt giúp đắc lực vào việc phát triển tư duy khoa học, tư duy lí luận. Những đề bài nghị luận xã hội đặt ra những vấn đề tư tưởng, đạo lí, hiện tượng đời sống đòi hỏi học sinh phải huy động những hiểu biết xã hội, văn học và thực tiễn để giải quyết nhằm xây dựng một phương pháp, tư tưởng khoa học để có nhận thức và thái độ đúng trước những vấn đề 3
- bàn luận cũng tức là giúp học sinh có sự chuẩn bị cần thiết để tiến tới những hành động đúng đắn, tích cực và sáng tạo trong đời sống hiện tại và tương lai. 1.1.3. Đã từ lâu, với đa số học sinh ở các cấp học. Việc Làm văn được coi là một loại lao động học tập khó khăn và cực nhọc. Gần đây, khi nghị luận xã hội được đưa vào chương trình học với một thời lượng nhiều hơn, khi yêu cầu làm bài văn nghị luận xã hội trở nên cấp thiết hơn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển toàn diện của học sinh và nhất là khi nó chính thức chiếm một phần trong các đề thi (học sinh giỏi các cấp, Tuyển sinh đầu vào, kì thi THPTQG…), tức là trở thành một yêu cầu bắt buộc với học sinh thì những khó khăn đối với học sinh lại càng tăng lên do những non kém trong nhận thức về đời sống xã hội và kĩ năng thực hành làm một bài văn thuộc loại này. Để giúp học sinh, nhất là học sinh giỏi làm tốt dạng bài này, chúng tôi chọn sáng kiến: CHỮA LỖI TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH GIỎI. Với sáng kiến này, chúng tôi hướng đến chỉ ra và khắc phục những lỗi thường gặp đối với kiểu bài nghị luận xã hội. I.2. Tính mới của sáng kiến kinh nghiệm Nếu như trước đây, sau mỗi kì thi, cơ quan chức năng thường chỉ công bố: Đề thi, Bài làm đoạt giải Nhất và Lời nhận xét của Hội đồng chấm thi về bài làm đó; thì bắt đầu từ năm học 19941995, đã công bố thêm Yêu cầu làm bài mà thực chất phần nào có thể coi là đáp án và biểu điểm chấm bài đối với tất cả các đề. Ngoài ra, sau vài ba năm lại công bố một bài nhận xét khá chi tiết về chất lượng bài làm của học sinh và gián tiếp hoặc trực tiếp đề xuất phương hướng điều chỉnh việc dạy và học. Đây là một chủ trương đúng đắn, thể hiện xu hướng công khai, dân chủ ngày càng cao hơn, đặc biệt là góp phần giúp cho giáo viên và học sinh có thể định hướng tốt hơn trong quá trình giảng dạy và học tập một môn học mà sự đúng sai đôi khi không thể phân biệt một cách rõ ràng. 4
- Về một khía cạnh nào đó thì đây cũng là một cách định hình những lỗi thí sinh mắc phải khi làm bài nếu không thỏa mãn những yêu cầu đặt ra. Những nhận xét của Hội đồng chấm thi về ưu điểm và hạn chế của các bài thi cũng là những phương hướng nhận diện lỗi trong bài thi của các thí sinh. Trong cuốn Tài liệu tập huấn phát triển chuyên môn giáo viên trường THPT Chuyên môn Ngữ văn của Vụ giáo dục trung học xuất bản tháng 11 năm 2011 do PGS.TS Đỗ Ngọc Thống cùng các cộng sự biên soạn cũng đưa vào Một số đề thi đáp án và bài văn đoạt giải Nhất kì thi HSG Quốc gia môn Ngữ văn một số năm phần cuối có nhận xét ngắn gọn, khúc triết những thành công, ưu điểm của bài viết. Trên cơ sở ưu điểm của những bài làm tốt giúp chúng tôi hiểu được yêu cầu của Hội đồng chấm và hạn chế của những bài văn đạt giải thấp hoặc không đạt giải. Chúng tôi tìm đến với cuốn sách Tuyển chọn những bài văn đạt giải quốc gia học sinh giỏi THPT 2004 đến 2014 do hai tác giả Nguyễn Duy Kha và Hoàng Văn Quyết tuyển chọn và biên soạn. Đây là công trình tập hợp trong đó những bài viết xuất sắc nhất của kì thi học sinh giỏi quốc gia hàng năm. Gắn với đề thi mỗi năm là phần gợi ý làm bài. Cuối mỗi bài thi xuất sắc đều có phần nhận xét. Mặc dù tác giả biên soạn không có mục đích chỉ ra lỗi và đề xuất cách khắc phục nhưng từ những nhận xét đã gợi ý cho chúng tôi hướng nhận diện và triển khai vấn đề. Trong chương trình Ngữ văn cấp THPT có bài Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận. Có lẽ đây là tài liệu có tính lí thuyết duy nhất đề cập đến vấn đề nhận diện các lỗi trong văn nghị luận. Ngoài ra trong Phân phối chương trình Ngữ văn có các tiết học chữa trả bài kiểm tra 90 phút, đây chính là các tiết học giáo viên trên cơ sở chấm bài đã tìm và chỉ ra các ưu khuyết điểm trong bài viết của học sinh, giúp các em phát huy ưu điểm, hạn chế, sửa chữa những lỗi sai. 5
- Nhưng chưa có bài học nào tập trung phát hiện và khắc phục các lỗi trong bài làm văn nói chung và kiểu bài nghị luận xã hội nói riêng. Tham khảo trong mảng nghiên cứu thì mới chỉ là những bài viết rời rạc trên các trang báo về cách khắc phục lỗi trong nghị luận xã hội của các tác giả: Th.S Nguyễn Thị Liễu Hoàn – trường THPT Chuyên Võ Nguyên Giáp – Quảng Bình; hay bài viết của cô Vũ Thị Hà giáo viên môn Ngữ văn tại Hệ thống Giáo dục HOCMAI… chưa xuất hiện những công trình nghiên cứu cụ thể, hệ thống, chuyên sâu về vấn đề này. Vì vậy công tác khảo cứu không thể thực hiện được. Thực tiễn trên trở thành nguồn động lực giúp chúng tôi quyết tâm viết sáng kiến này để mong có được một tài liệu ban đầu phục vụ trực tiếp trong công tác giảng dạy, bồi dưỡng học sinh giỏi. Khi triển khai sáng kiến, chúng tôi chủ yếu dựa vào những gợi ý của các tài liệu được nhắc đến ở trên; vào kinh nghiệm giảng dạy, bồi dưỡng học sinh giỏi và thực tiễn bài làm của học sinh… chúng tôi mạnh dạn đóng góp, chia sẻ một số kinh nghiệm: Sáng kiến hê thông hoa cac l ̣ ́ ́ ́ ỗi thường gặp trong bài viết của học sinh trong bài văn nghị luận xã hội, trinh bay đăc điêm va cach ̀ ̀ ̣ ̉ ̀ ́ khắc phục môt cach ̣ ́ tương minh, chi tiêt. Đây la nôi dung ch ̀ ́ ̀ ̣ ưa được giơi thiêu ́ ̣ trong cac tai liêu tham ́ ̀ ̣ ̉ khao khac. ́ Sáng kiến cung gi ̃ ơi thiêu môt sô bai ́ ̣ ̣ ́ ̀ viết cụ thể của học sinh co y nghia ́ ́ ̃ ̣ minh hoa cho các lỗi, cách khắc phục lỗi, phuc vu thiêt th ̣ ̣ ́ ực trong công tac ren ki ́ ̀ ̃ ̀ ̀ ̉ năng lam bai cho HSG cua GV. II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN 2.1. Thực trạng tình hình về vấn đề 2.1.1. Bồi dưỡng học sinh giỏi ở dạng bài nghị luận xã hội không chỉ đơn thuần là cung cấp kiến thức tổng hợp về các vấn đề đời sống, xã hội mà còn 6
- nhằm phát triển khả năng tư duy và phẩm chất nhân cách con người. Nhận thức được tầm quan trọng của nghị luận xã hội, trong đề thi học sinh giỏi cấp quốc gia, kiểu bài nghị luận xã hội trở thành kiểu bài bắt buộc trong đề thi. Những năm gần đây, với thang điểm 20 của đề thi, kiểu bài này thường chiếm một số lượng điểm: 08/20 điểm, đòi hỏi học sinh phải nắm bắt nhanh nhạy, kịp thời vấn đề xã hội và thành thục, linh hoạt trong kĩ năng làm bài…cho câu hỏi này. Nói cách khác, kĩ năng làm kiểu bài nghị luận xã hội đã trở thành một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực của học sinh giỏi cấp quốc gia môn Văn. Song thực tế làm bài cho thấy đây lại là câu hỏi mà học sinh thường hay mắc lỗi nhất, gặp nhiều khó khăn nhất trong cách xử lí kiến thức và áp dụng kĩ năng. Mặc dù đã trở thành kiểu bài mang tính “công thức” của đề thi học sinh giỏi cấp quốc gia môn Văn từ nhiều năm nay nhưng điều đó không có nghĩa là học sinh đã thành thục trong năng lực xử lí kiểu bài này. Bởi học sinh mỗi năm mỗi khác và hơn thế, xu thế của xã hội cũng tạo ra những định hướng dần khác hơn cho kiểu bài này. 2.1.2. Chương trình sách giáo khoa chỉ đưa ra những bài học thuần túy cung cấp kiến thức lí thuyết và cách làm dạng bài NLXH như: Nghị luận xã hội và nghị luận văn học; Các kiểu kết cấu của bài văn nghị luận; Nghị luận về một tư tưởng đạo lí; Nghị luận về một hiện tượng đời sống; Luyện tập nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học…Với học sinh giỏi kiến thức thôi chưa đủ. Thực tế cho thấy nhiều em không có “năng lực” xử lí kiến thức sao cho khéo léo, nhuần nhuyễn, hợp lí. Như trên đã nói, cần phải hình thành năng lực, kĩ năng nhận thức, phát hiện và làm bài cho các em. Theo chúng tôi, muốn nâng cao chất lượng bài viết của học sinh giỏi, cũng là nâng cao chất lượng của môn Ngữ văn để tạo ra những lứa học sinh có nhiều tài năng, nhân cách cho đất nước thì cần phải làm tốt khâu đánh giá bài làm của học sinh. Ngoài việc ghi nhận, trân 7
- trọng những cố gắng tìm tòi để biểu dương thì cũng cần nghiêm khắc và cảm thông trước những lỗi của học sinh, chỉ ra chính xác các lỗi cho các em và yêu cầu sửa một cách nghiêm túc. Trên tinh thần đó sẽ giúp cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi đạt được mục tiêu đề ra bằng việc khắc phục tối đa những lỗi trong bài viết. 2.2. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề Nhằm mục đích giúp học sinh khắc phục những lỗi sai trong bài nghị luận xã hội, sáng kiến: Chữa lỗi trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi, đặt ra và hướng tới việc giải quyết các vấn đề sau: Thứ nhất: Khái quát lại về kiểu bài nghị luận xã hội để giúp giáo viên và học sinh có cái nhìn đúng đắn về kiểu bài này. Thứ hai: Hệ thống lại những lỗi thường gặp của HS trong quá trình làm bài. Thứ ba: Đề xuất một số giải pháp để khắc phục những lỗi vừa hệ thống. Với mục tiêu trinh bay vân đê môt cach dê hiêu va cac nôi dung nêu ra co ̀ ̀ ́ ̀ ̣ ́ ̃ ̉ ̀ ́ ̣ ́ ̉ ̣ ̣ ̣ ́ ực nhât cua công tac bôi d thê phuc vu cho muc đich thiêt th ́ ́ ̉ ́ ̀ ưỡng HSG Ngữ văn; ́ ̉ ương trinh bay t chung tôi chu tr ̀ ̀ ừ li thuyêt đên th ́ ́ ́ ực hanh, t ̀ ừ nôi dung khai quat ̣ ́ ́ ́ ững vân đê chi tiêt. đên nh ́ ̀ ́ Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: từ các tài liệu, bài báo khoa học. Phương pháp thực hành: từ các bài viết của học sinh. Tiến hành tìm hiểu các công bố mới nhất liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Tiến hành lập đề cương nghiên cứu và kế hoạch nghiên cứu. Phân tích, tổng hợp kết quả thu được và rút ra kết luận khoa học. Viết báo cáo khoa học. 8
- 2.3. Nội dung của sáng kiến 2.3.1. Kiểu bài Nghị luận xã hội: Dựa theo cách hiểu của Từ điên t ̉ ừ va ng ̣ về xã hội (“xã hội ̀ ữ Han Viêt ́ ̣ ̣ ̉ ươi cung sông, găn bo v là môt tâp thê ng ̀ ̀ ́ ́ ́ ơi nhau trong quan hê san xuât va cac ́ ̣ ̉ ́ ̀ ́ ̣ ́ ); chúng ta có thể hiểu Nghi luân xa hôi quan hê khac” ̣ ̣ ̃ ̣ là kiểu bài hướng tới ́ ̀ ̣ ̀ ́ ́ ̀ ́ ́ ́ ̣ ̉ phân tich, ban bac vê cac vân đê liên quan đên cac môi quan hê cua con ng ười trong đời sông xa hôi. Ph ́ ̃ ̣ ạm vi của nghị luận xã hội rất rộng, có thể kể tới những nội dung quan trọng như: mối quan hệ của con người với môi trường sống, mối quan hệ của cá nhân với cộng đồng, các vấn đề về lối sống, lý tưởng sống, những hiện tượng tích cực hoặc tiêu cực của đời sống xã hội… Việc bàn luận về những vấn đề trên sẽ góp phần làm cho nhận thức và tâm hồn của con người thêm phong phú, tạo cho mỗi người ý thức chăm sóc cuộc sống tinh thần của mình và xây dựng các mối quan hệ trong xã hội, trong cộng đồng ngày càng văn minh, tốt đẹp hơn. Không chỉ vậy, nó còn có khả năng rèn năng lực tư duy, giúp con người có thể đối diện với các vấn đề xã hội và biết cách giải quyết những vấn đề ấy. Nghị luận xã hội thường được chia thành ba dạng: + Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí + Nghị luận về một hiện tượng đời sống + Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học Ba dạng đề này có những nét tương đồng và khác biệt: Dạng đề Nghị luận về Nghị luận về Nghị luận về một vấn đề một tư một hiện tượng xã hội đặt ra trong TPVH So sánh tưởng, đạo lí đời sống Khác nhau Bàn luận về Bàn luận về một Bàn luận về một vấn đề xã 9
- một vấn đề hiện tượng, một hội (một tư tưởng, đạo đức, tư tưởng, đạo vấn đề có tính lối sống hoặc một hiện đức, lối thời sự, được dư tượng đời sống) được rút ra sống… của luận xã hội quan từ một câu/ một đoạn trích con người. tâm. hoặc rút ra từ nội dung của một tác phẩm văn học nào đó. Mang tính Thường đi vào Xuất phát từ nội dung xã hội khái quát cao những vấn đề cụ cụ thể trong một tác phẩm về những thể (như những văn học, đề bài hướng đến chân lí, những biểu hiện tích mục tiêu: Hình thành cho học bài học đạo cực hoặc tiêu sinh năng lực khái quát vấn đức; góp cực) trong cuộc đề, thể hiện quan điểm của phần định sống. Từ đó, gợi mình trước những vấn đề đời hướng cho ý cho con người sống. con người có những hành vi và lẽ sống tốt cách ứng xử đẹp. đúng đắn. * Về nội dung: Cùng đề cập đến những vấn đề xã hội, góp phần nâng cao nhận thức và định hướng về lối sống, cách ứng xử cho con người. * Về phương pháp nghị luận: Để thực hiện các dạng bài trên, Giống nhau người viết đều cần vận dụng kết hợp các thao tác lập luận như: giải thích, bình luận, phân tích, chứng minh, bác bỏ để bàn luận, trình bày quan điểm của mình xoay quanh vấn đề xã hội được đề cập. 10
- 2.3.2. Một số cách ra đề thi học sinh giỏi những năm gần đây Qua khảo sát các đề thi học sinh giỏi Quốc gia của những năm gần đây, chúng tôi nhận thấy đề thi có nhiều thay đổi nhằm điều chỉnh lại thực tiễn dạy học, mở rộng hiểu biết về vấn đề xã hội cho học sinh. Nhiều đề văn được ra theo kiểu đề mở gây được hứng thú cho học sinh giỏi, kích thích được sự say mê, sáng tạo của các em. Chúng tôi nhận thấy có những hướng ra đề như sau: Đề bài đưa ra một ý kiến, nhận định hay câu chuyện ..., yêu cầu học sinh bình luận, trình bày suy nghĩ về vấn đề. Mục đích của dạng đề này là kiểm tra kiến thức nghị luận xã hội và khả năng vận dụng kĩ năng dạng bài, để cắt nghĩa, giải thích và làm rõ vấn đề nghị luận. Qua bài viết, học sinh không chỉ thể hiện những nhận thức về các lĩnh vực của đời sống, mà còn thể hiện được quan điểm, chính kiến của bản thân, vẻ đẹp tâm hồn và cả vốn sống, kĩ năng sống của mình. Năm Đề thi 2015 Nếu không sống bằng cái đầu của mình thì có nghĩa là bạn đang sống bằng cái đầu của người khác. Ý kiến trên gợi cho bạn những suy nghĩ gì? 2016 Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến của Oliver Wendell Holmes : “Điều quan trọng không phải là chúng ta có được vị trí nào trong cuộc đời, mà là đích đến cuối cùng của chúng ta ở đâu”. 2017 Ngày xưa, ở một xứ nọ, có một vị vua rất yêu đàn gia súc của mình. Khi phải chuyển chúng từ vườn thượng quyển ra nuôi ở ngoài đồi núi, ngài cần một người hoàn toàn tin cậy để trông nom. Cất công đi khắp nơi, cuối cùng, quan quân tìm được bác nông dân Masaro người được coi là thật như đếm. Vua truyền cứ cuối tuần, bác phải vào cung bẩm báo trung thực về đàn gia súc. Mọi việc đều diễn ra tốt đẹp. Sự trung thực của Masaro làm nhà vua rất hài 11
- lòng và cũng khiến ngài nhận ra tư cách thấp kém của nhiều cận thần. Do đố kỵ, quan tể tướng đã dèm pha rằng, trên đời làm gì có người thật thà như thế, và xúc xiểm: Lần tới Masaro sẽ nói dối vua. Do tin tưởng Masaro, nhà vua đặt cược: nếu Masaro nói dối, sẽ bị chém đầu. Còn tể tướng cũng cược cả mạng sống của mình, Masaro vẫn nói thật. Để giúp chồng thắng cược, vợ tể tướng đã cải trang thành một phụ nữ sang trọng, quyến rũ, tìm gặp Masaro ngỏ ý sẵn sàng đổi tất cả trang sức, vàng ngọc cùng nụ hôn để lấy một con cừu, đồng thời bầy cho Masaro cách nói dối vua sao cho trót lọt. Nhưng Masaro đã kiên quyết từ chối. Thất bại, bà ta bèn sắm vai một người mẹ đau khổ đang cần sữa bò để cứu đứa con trai duy nhất khỏi trọng bệnh. Lần này Masaro đã mủi lòng, mà tự ý cho đi con bò yêu quý của vua. Đêm được con bò về cung, vợ chồng tể tướng yên chí mình thắng cược. Biết đã phạm trọng tội, Masaro tìm cách nói dối. Nghĩ được cách nào, bác đều tập theo cho nhập vai. Cuối cùng bác đã chọn được cách ưng ý nhất. Khi vào chầu, trước mặt đức vua và quần thần, Masaro đã kể ra hết sự thật. Bác nói rõ ràng con bò ấy cần cho người đàn bà khổ hạnh hơn là cần cho nhà vua, và sẵn sàng chịu tội. Nghe xong, nhà vua khen ngợi Masaro là người không sự quyền uy và muốn trọng thưởng cho bác. Thật bất ngờ, phần thưởng mà Masaro xin nhà vua lại chính là tha chất cho kẻ mua cược. Hơn thế, bác còn cảm ơn ông ta vì nhờ có tình thế này, bác mới biết chắc chắn mình là Masaro Thật – Như – Đếm. (Phỏng theo Masaro Thật – Như – Đếm , truyện cổ tích Italia, bản 12
- dịch của Nguyễn Chí Được, Báo văn nghệ, số 50/10122016) Bài học cuộc sống mà anh chị tâm đắc nhất từ câu chuyện trên? 2018 Suy nghĩ của anh/chị về quan niệm: Sống tức là thay đổi. 2019 Hãy để tâm đến tiếng nói nội tâm nhỏ bé nhưng bền vững trong bạn hơn là những tiếng nói ồn ào, náo loạn từ bên ngoài. Anh/chị hãy bình luận ý kiến trên? 2019 Con đường đi đến thành công bằng sự tử tế là nhan đề bản dịch 2020 tiếng Việt cuốn sách của Inamori Kazuo – một doanh nhân người Nhật. Suy nghĩ của anh/chị về “con đường” này? 2.3.3. Những yêu cầu cơ bản khi tìm hiểu kiểu bài nghị luận xã hội 2.3.3.1. Yêu cầu về kiến thức cơ bản Kiến thức cơ bản là nơi thể hiện vốn hiểu biết rộng hay hẹp của người viết, là nền tảng quan trọng cho bài văn. Để viết được một bài nghị luận xã hội hay, người viết phải sử dụng rất nhiều loại kiến thức cơ bản khác nhau. Dĩ nhiên, tùy mỗi vấn đề cụ thể của đề ra mà xác định những loại kiến thức cần và đủ. Mặt khác, không phải bài viết nào cũng đưa vào tất cả những kiến thức mình có. Nhưng muốn có một năng lực cảm thụ chắc chắn để đáp ứng kiểu bài nghị luận xã hội, thì học sinh cần trang bị cho mình một vốn kiến thức cơ bản, phong phú, có hệ thống. Đặc biệt kiểu bài nghị luận xã hội cần đảm bảo những kiến thức cơ bản sau: a. Kiến thức nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lí: Những vấn đề tư tưởng đạo lí chiếm khối lượng lớn nhất trong các đối tượng của nghị luận xã hội. Trong các tài liệu hiện hành, tư tưởng đạo lí là một cặp khái niệm đi kèm với nhau. Các tác giả soạn sách giáo khoa, sách tham khảo hầu như không quan tâm đến vấn đề khái niệm. Điều này ảnh hưởng 13
- không nhỏ đến nhận thức của học sinh: Các em lúng túng trong việc hiểu khái niệm đã đành, khả năng bao quát vấn đề lại càng hạn chế. Phần lý thuyết không được chú trọng, phần thực hành cũng phiến diện khi lựa chọn vấn đề. Tên bài học là Nghị luận về một tư tưởng – đạo lí, nhưng những vấn đề được chọn trong sách giáo khoa cả ba năm học (lớp 10; 11; 12) tuyệt nhiên không có một đề nào bàn đến đạo lí, thuần nhất là những vấn đề tư tưởng. Chẳng hạn sách giáo khoa 12 bộ chuẩn. Phần thực hành nêu một vấn đề: Anh chị hãy trả lời câu hỏi sau của nhà thơ Tố Hữu: “Ôi sống đẹp là thế nào hỡi bạn ?” (Một khúc ca xuân) Phần luyện tập đưa ra hai bài tập: Bài tập 1 là một văn bản của G.Nêru bàn về vấn đề văn hóa và sự khôn ngoan của con người. Bài tập 2 nêu một nhận định của Lép Tônxtôi: “Lý tưởng là ngọn đèn chi đường. Không có lý tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống”. (Sách giáo khoa bộ Chuẩn trang 1 và trang 22) Sách giáo khoa 12 Bộ Nâng cao đưa ba vấn đề: Đề 1: Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường…(giống bài tập 2 của bộ chuẩn). Đề 2: Một con người làm sao có thể nhận thức được chính mình ? Đó không phải là việc của tư duy mà là của thực tiễn. Hãy ra sức thực hiện bổn phận của mình lúc đó bạn lập tức hiểu được giá trị của mình(Gớt). Đề 3: Chúng ta phải thực hiện các đức tính trong sạch, chất phác, hăng hái, cần kiệm; xóa bỏ hết những vết tích nô lệ trong tư tưởng và hành động. (Hồ Chí Minh). 14
- Việc biên soạn sách thiếu tính toàn diện như vậy càng làm cho học sinh lơ mơ về khái niệm, không có ý thức bao quát vấn đề. Tình trạng “chỉ thấy cây” mà “không thấy rừng” này cũng xảy ra tương tự với các đối tượng: Nghị luận về một hiện tượng xã hội; Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. Trên cơ sở thống kê, đối chiếu, so sánh, phân loại, chúng tôi tạm thời chia tách tư tưởng đạo lí thành hai vấn đề, hai khái niệm để tiện cho việc nghiên cứu: * Những vấn đề tư tưởng được đem ra bàn luận rất rộng, bao gồm: Quan niệm sống, quan niệm về cuộc sống, về con người; quan niệm về văn hóa, giáo dục, về tình bạn, tình yêu, về hạnh phúc, về tiền bạc, về vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách con người; tầm quan trọng của việc làm; con đường lập thân của thanh niên; Những bài học về cách nhìn nhận con người, cuộc sống… Trong số những vấn đề kể trên, chiếm số lượng nhiều nhất, giành được mối quan tâm lớn nhất với các nhà tư tưởng là những quan niệm, những bài học, những triết lý về sống. Những câu hỏi về sống, sống đẹp; những lời khuyên, những bài học về sống (sống là phải hành động, là phải đấu tranh; sống là phải cống hiến; sống là phải biết lắng nghe, biết quan tâm chia sẻ; sống là phải có ý chí nghị lực, phải quyết đoán, phải lạc quan…). Tiếp đó là những quan niệm, những bài học, những lời khuyên, những triết lý về con người: Những triết lý về thói xấu (…ban đầu là khách qua đường, sau trở thành ông chủ nhà khó tính…), thói quen (Đừng bắt thói quen nhảy qua cửa sổ…); những bài học về cách nhìn nhận đánh giá con người (Không phải cái gì lóng lánh cũng đều là vàng…), về con đường đời mà mỗi người phải trải qua (Ai chiến thắng mà không hề chiến bại…); những phẩm 15
- chất cần có, cần phải rèn luyện (tình yêu thương, tinh thần đoàn kết, thái độ đồng cảm, chia sẻ, sự khiêm tốn, giản dị, trung thực, lòng khoan dung, tha thứ, tinh thần tự lực cánh sinh, phẩm chất cần cù, tiết kiệm…); những thói xấu cần tránh (lười biếng, ỷ lại, đố kỵ, ích kỷ, vô cảm, hung hăng, kiêu ngạo, nói xấu người khác…). Ngoài ra là những quan niệm, nhận thức về các mặt khác, vô cùng phong phú của đời sống. * Những vấn đề đạo lý được đem ra bàn bạc là những bài học, những lời khuyên về thái độ sống, cách ứng xử mang tính nhân văn, phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội: Đó là những mối quan hệ: Thày trò, cha con, anh em, vợ chồng, bè bạn… Là những tình cảm: Họ hàng (Một giọt máu đào hơn ao nước lã); làng xóm (tối lửa tắt đèn có nhau); giai cấp (Bầu ơi thương lấy bí cùng); dân tộc (Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước thì thương nhau cùng). Là thái độ sống: Tôn trọng người lớn tuổi, yêu thương trẻ thơ, tôn trọng người lao động, bênh vực kẻ yếu, thái độ trân trọng quá khứ, uống nước nhớ nguồn… Là trách nhiệm nghĩa vụ đối với Tổ quốc, với cộng đồng xã hội. b. Kiến thức nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống: Nghị luận về một hiện tượng đời sống là dạng đề có nội dung bàn bạc về một hiện tượng, một vấn đề có tính thời sự, được dư luận xã hội trong nước cũng như cộng đồng quốc tế quan tâm. Ngoài những nét tương đồng với kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí, kiểu bài nghị luận về một hiện tượng đời sống có những nét khác biệt cần lưu ý. Từ một hiện tượng xảy ra trong đời sống xã hội, người viết phải phân tích, tìm ra ý nghĩa xã hội về tư tưởng, đạo đức để bàn bạc, đánh giá… 16
- Những vấn đề, hiện tượng của đời sống rất phong phú, những vấn đề đưa ra bàn bạc phải sát hợp với trình độ nhận thức của học sinh và mang tính thời sự cấp thiết: + Vấn đề an toàn giao thông. + Hiện tượng ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu. + Nạn bạo hành trong gia đình. + Bạo lực học đường. + Hiện tượng “chảy máu chất xám”. + Đại dịch HIV/AIDS. + Cuộc vận động giúp đỡ đồng bào hoạn nạn. + Di chứng chất độc màu da cam. + Trẻ em lang thang cơ nhỡ. + Văn hoá đọc. + Phong cách ăn mặc thời trang. + Bệnh vô cảm. + Internet và game… c. Kiến thức nghị luận xã hội về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học: Trước hết, dạng bài nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học có những nét tương đồng với hai dạng bài trên. Về nội dung bàn luận: có thể là một vấn đề thuộc tư tưởng đạo lý, có thể về một hiện tượng đời sống; về thao tác lập luận, dạng bài này cũng yêu cầu phải vận dụng các thao tác: giải thích, bình luận, phân tích, chứng minh, bác bỏ… Ngoài những nét tương đồng với hai kiểu bài trên, kiểu bài nghị luận về một vấn đề được đặt ra trong tác phẩm văn học có những điểm riêng: 17
- Tác phẩm văn học phản ánh hiện thực đời sống con người. Cho nên, những vấn đề đặt ra trong tác phẩm cũng chính là những vấn đề của đời sống. Và những vấn đề ấy không chỉ có ý nghĩa đối với con người và cuộc sống tại thời điểm nó ra đời mà còn có ý nghĩa lâu dài. Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là nhằm làm rõ sự thay đổi (hay không thay đổi) của vấn đề mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm và trong đời sống. Ví dụ: (1) Từ bài “Tiến sĩ giấy” của Nguyễn Khuyến, anh (chị) hãy viết bài văn bàn về danh và thực trong cuộc sống hiện nay. (2) Từ truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao, anh (chị) hãy trình bày quan điểm của mình về tình trạng “sống thừa” của con người trong xã hội… Trên cơ sở đó, người học sẽ nhận thức sâu sắc hơn về vấn đề xã hội được nhà văn đặt ra trong tác phẩm; nhận thức sâu sắc hơn về thực tại đời sống xã hội, từ đó biết điều chỉnh con người của mình (tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống, giao tiếp, ứng xử) để con người ngày càng hoàn thiện, xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Ý nghĩa tồn tại của văn chương xét đến cùng là vì con người. Học làm văn, xét đến cùng là học làm người. Từng người tốt thì xã hội sẽ tốt đẹp hơn. 2.3.3.2. Yêu cầu về kĩ năng Trong bài văn kiểu bài nghị luận xã hội, học sinh không chỉ phải đảm bảo những kiến thức, hiểu biết xã hội. Bài viết của học sinh còn cần phải đảm bảo những kĩ năng cơ bản của bài văn kiểu bài nghị luận xã hội. Học sinh cần rèn luyện những kĩ năng cơ bản sau: Kĩ năng nhận diện đề và huy động kiến thức Kĩ năng giải thích, cắt nghĩa vấn đề Kĩ năng bàn luận vấn đề 18
- Kĩ năng chọn và đưa dẫn chứng để làm rõ vấn đề. Kĩ năng mở rộng, lật lại vấn đề, rút ra bài học Ngoài những kĩ năng làm văn cơ bản đối với kiểu bài nghị luận xã hội, bài viết cần đảm bảo các kĩ năng khác của bài văn nghị luận như: Mở bài, kết bài, viết đoạn, viết câu, chuyển đoạn, chuyển ý, chọn và trình bày dẫn chứng, diễn đạt. 2.3.4. Một số lỗi cơ bản của học sinh giỏi khi làm kiểu bài Nghị luận xã hội Do chưa nắm chắc yêu cầu về kiến thức và kĩ năng đối với kiểu bài nghị luận xã hội, còn lúng túng trước những dạng đề NLXH ra theo hướng mở nên trong thực tế học sinh hay mắc một số lỗi sau trong quá trình làm bài: 2.3.4.1. Lỗi không xác định đúng dạng đề nghị luận xã hội Nghị luận xã hội thường chia làm hai dạng là nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống và nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lí. Qua khảo sát thực tế, khi làm kiểu bài NLXH, học sinh có thể mắc lỗi liên quan đến kiến thức và kĩ năng làm bài. Với đối tượng học sinh giỏi, lỗi sai về kiến thức cơ bản của từng dạng bài NLXH trong những đề mà vấn đề rõ ràng có thể ít gặp hơn. Nhưng với những dạng đề chưa thật rõ nghĩa hay những dạng đề nội dung vấn đề có sự đan lồng cả tư tưởng đạo lí và hiện tượng đời sống thì nhiều HS lại chỉ phát hiện ra được một dạng: hoặc tư tưởng đạo lí, hoặc hiện tượng đời sống. Ví dụ 1: Suy nghĩ của anh/chị về vấn đề tự học? * Với cách hỏi đơn giản như trên, nhiều học sinh chỉ nhận ra: đó là dạng đề NLXH bàn về tư tưởng đạo lí. Nhưng thực chất khi đặt vấn đề tự học trong thực tế cuộc sống: thực trạng tự học hiện nay như thế nào?, thì đó lại là NLXH 19
- bàn về hiện tượng đời sống. Đề trên chính là sự đan lồng của cả hai dạng bài NLXH bàn về: tư tưởng đạo lí và hiện tượng đời sống. * GỢI Ý DÀN Ý: a. Mở bài: có nhiều phương pháp học tập, mỗi người có một phương pháp riêng, một trong những phương pháp hữu hiệu là vấn đề tự học. b. Thân bài: b.1. Giải thích: Thế nào là tự học? Tự mình lao động để chiếm lĩnh kiến thức Tự tìm tòi để đi đến chân lí b.2. Bàn luận: b.2.1. Bàn về một tư tưởng đạo lí: * Khẳng định: đây là một trong những phương pháp học tập đem lại lợi ích và hiệu quả rất lớn đến người đọc * Biểu hiện: Tự học có nhiều mức độ, hình thức khác nhau: Ôn lại những kiến thức đã được thầy cô truyền thụ. Tự mình tìm ra cách giải mới hoặc kết quả trước một vấn đề đang tranh luận Tự nghiên cứu chuyên sâu một mảng kiến thức mà mình quan tâm (Sinh viên hay các nghiên cứu sinh làm đề tài nghiên cứu khoa học, luận án…) * Vì sao phải tự học? Vì biển kiến thức là vô cùng vô tận Vì nhu cầu hiểu biết là không có giới hạn: nhà trường, thầy cô chỉ cung cấp được một phần của lượng kiến thức khổng lồ đó. Phần còn lại, mỗi người phải tự chiếm lĩnh. Vì thầy cô không thể học thay, làm thay cho học trò: trong việc chiếm lĩnh kiến thức, vai trò của người thầy là vô cùng quan trọng, dân gian có câu “Không 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Tổ chức dạy tiết THTN Vật lý trong điều kiện chưa có phòng THTN
7 p | 281 | 69
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng hệ thống bài tập tán sắc và giao thoa ánh sáng
84 p | 40 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học kỹ thuật đạt hiệu quả
19 p | 28 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Áp dụng mô hình dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh thông qua một vài hoạt động trải nghiệm sáng tạo để tạo cảm hứng học kĩ năng nói – viết Tiếng Anh của học sinh (an application of ability development orientation through some extra curricular activities to promote student’s learning of speaking and writing skill )
22 p | 35 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục ý thức phòng cháy chữa cháy cho học sinh trung học phổ thông trong các giờ dạy môn Hóa học
21 p | 39 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp giúp học sinh làm nhanh các bài toán trắc nghiệm: Xác định khoảng thời gian đặc biệt trong dao động có tính chất điều hòa
43 p | 62 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học tại di sản Chùa Bái Đính - Mô hình lớp học không gian mở
95 p | 40 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng STEM để tạo hứng thú học tập môn Hoá học với chủ đề Bình chữa cháy mini
45 p | 7 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp dạy học chủ đề môn Toán lớp 10 theo định hướng giáo dục STEM tại trường THPT Nguyễn Duy Trinh
63 p | 39 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Ứng dụng của đồ thị hàm số bậc hai để biện luận số nghiệm của phương trình đại số lớp 10
23 p | 40 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy tích hợp liên môn để gây hứng thú học tập lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 ở trường trung học phổ thông
45 p | 34 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các giải pháp khắc phục một số thiếu sót nhằm nâng cao kết quả việc học toán ở trung học phổ thông
31 p | 30 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xác định và lựa chọn một số bài tập nhằm sửa chữa những sai lầm thường mắc trong học kỹ thuật nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho học sinh khối 11 Trường THPT Yên Khánh A
17 p | 8 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giúp học sinh giải tốt các bài toán phương trình, bất phương trình mũ và lôgarit có chứa tham số
37 p | 43 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kĩ năng giải các bài toán cực trị hàm số cho học sinh lớp 12 THPT
49 p | 34 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Chế tạo dụng cụ thí nghiệm minh họa quá trình truyền pha dao động điều hòa
14 p | 48 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh trường trung học phổ thông Nguyễn Trung Trực, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang
62 p | 22 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn