intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng STEM để tạo hứng thú học tập môn Hoá học với chủ đề Bình chữa cháy mini

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:45

8
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm "Vận dụng STEM để tạo hứng thú học tập môn Hoá học với chủ đề Bình chữa cháy mini" đã kích thích sự sáng tạo không ngừng của mỗi người giáo viên và qua đó góp phần nâng cao trình độ chuyên môn của người thầy. Các tiết học hấp dẫn đã góp phần tạo ra uy tín cho giáo viên. Thầy sáng tạo dạy, trò hứng thú học là một điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Chất lượng giáo dục được nâng lên đã góp phần tạo ra niềm tin của học sinh và phụ huynh đối với môn học và đối với nhà trường.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng STEM để tạo hứng thú học tập môn Hoá học với chủ đề Bình chữa cháy mini

  1. CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng thẩm định sáng kiến Sở Giáo dục và Đào tạo Ninh Bình. Chúng tôi: Tỉ lệ % đóng Trình độ Ngày tháng Chức góp vào TT Họ tên chuyên năm sinh danh việc tạo môn ra sáng kiến 1 Lương Thị Tuyết 09/10/1989 Giáo viên Đại học 40% Phó Hiệu 2 Đỗ Thị Việt Hà 03/11/1982 Đại học 20% trưởng 3 Nguyễn Tố Uyên 30/08/1980 Giáo viên Đại học 20% 4 Trần Thị Loan 15/12/1990 Giáo viên Đại học 20% Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: Vận dụng STEM để tạo hứng thú học tập môn Hoá học với chủ đề “Bình chữa cháy mini”. I. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN - Lĩnh vực áp dụng: áp dụng trong lĩnh vực giảng dạy bộ môn Hoá học - Vấn đề sáng kiến giải quyết được: + Cung cấp kiến thức về dạy học Stem. + Cách vận dụng Stem vào các chủ đề bài học. II. CHỦ ĐẦU TƯ SÁNG KIẾN Lương Thị Tuyết, Đỗ Thị Việt Hà, Nguyễn Tố Uyên, Trần Thị Loan III. THỜI GIAN ÁP DỤNG Trong năm học: 2021 - 2022 IV. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN 1. Nội dung sáng kiến Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ảnh hưởng sâu rộng vào mọi mặt đời sống, xã hội, giáo dục cũng không ngoại lệ. Vì thế đòi hỏi giáo viên phải thay đổi phương pháp, học sinh phải thay đổi cách học. Do vậy, vai trò của giáo viên phải chuyển đổi từ “dạy cái gì”, “điều gì” sang dạy cho học sinh “phải làm gì” và “làm
  2. như thế nào”. Phương pháp dạy học STEM đang là sự lựa chọn của nhiều nước có nền giáo dục hiện đại vì thông qua quá trình học giúp các em tự lĩnh hội được kiến thức, kĩ năng và có khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết các vấn đề thực tế. Nhưng làm thế nào để vận dụng phương pháp dạy học STEM vào trường THCS của ta để mang lại hiệu quả? Qua quá trình giảng dạy chúng tôi đã lồng ghép STEM với dạy học truyền thống và xây dựng một số chủ đề dạy học theo điều kiện của trường đã mang lại hiệu quả khả quan. Nên chúng tôi mạnh dạn đơn cử một chủ đề đã thực hiện tương đối có hiệu quả đó là Vận dụng STEM để tạo hứng thú học tập môn Hoá học với chủ đề “Bình chữa cháy mini”. Giáo dục STEM là phương thức giáo dục tích hợp theo cách tiếp cận liên môn và thông qua thực hành, ứng dụng. Thay vì dạy bốn môn học như các đối tượng tách biệt và rời rạc, STEM kết hợp chúng thành một mô hình học tập gắn kết dựa trên các ứng dụng thực tế. Qua đó, học sinh vừa học được kiến thức khoa học, vừa học được cách vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn. Giáo dục STEM sẽ phá đi khoảng cách giữa hàn lâm và thực tiễn, tạo ra những con người có năng lực làm việc “tức thì” trong môi trường làm việc có tính sáng tạo cao với những công việc đòi hỏi trí óc của thế kỷ 21. Giáo dục STEM đề cao đến việc hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho người học. Trong mỗi bài học theo chủ đề STEM, học sinh được đặt trước một tình huống có vấn đề thực tiễn cần giải quyết liên quan đến các kiến thức khoa học. Để giải quyết vấn đề đó, học sinh phải tìm tòi, nghiên cứu những kiến thức thuộc các môn học có liên quan đến vấn đề (qua sách giáo khoa, học liệu, thiết bị thí nghiệm, thiết bị công nghệ) và sử dụng chúng để giải quyết vấn đề đặt ra. Giáo dục STEM đề cao một phong cách học tập mới cho người học, đó là phong cách học tập sáng tạo. Đặt người học vào vai trò của một nhà phát minh, người học sẽ phải hiểu thực chất của các kiến thức được trang bị; phải biết cách mở rộng kiến thức; phải biết cách sửa chữa, chế biến lại chúng cho phù hợp với tình huống có vấn đề mà người học đang phải giải quyết. 1.1. Giải pháp cũ thường làm 1.1.1. Nội dung giải pháp Việc dạy và học môn hoá học ở hầu hết các trường THCS hiện nay thường gói gọn trong không gian lớp học hoặc trong các phòng bộ môn của nhà trường. Truyền thụ kiến thức một chiều vẫn là phương pháp dạy học chủ yếu của nhiều giáo viên. Học sinh không được trải nghiệm thực tế, nên việc đưa kiến thức khoa học trở nên nặng nề. Môn hoá học là một trong những bộ môn khoa học cơ bản nhưng lí do lựa chọn môn hoá học của học sinh THCS là chủ yếu học để thi tốt nghiệp hay thi vào 10, … Việc kiểm tra đánh giá và chương trình thi cử chủ yếu về lí thuyết nên đa số các em học theo kiểu nhồi nhét kiến thức để đáp ứng cho các kì thi, chính vì vậy mà các em ít nhận thấy vai trò ứng dụng của hoá học vào đời sống.
  3. Đó là lí do các em học sinh học chủ yếu là để đối phó với các kì thi còn yếu tố đam mê yêu thích rất ít. Vậy đó là lí do chúng tôi muốn đưa phương pháp dạy học STEM vào để giảng dạy kết hợp phương pháp truyền thống. 1.1.2. Nhược điểm của giải pháp cũ Còn nặng về kiến thức lý thuyết, học sinh không được vận dụng kiến thức đã học để trải nghiệm. Sự liên kết các môn trong dạy học còn hạn chế, rời rạc chưa khoa học. Chưa có sự liên kết và ứng dụng khoa học, công nghệ, kĩ thuật vào môn học. Không đánh thức được sự sáng tạo và tiềm năng của học sinh. 1.2. Giải pháp mới cải tiến Giải pháp 1. Kết hợp xây dựng các chủ đề dạy học STEM với phương pháp dạy học truyền thống Rõ ràng STEM có rất nhiều ưu điểm tuy nhiên hạn chế như sau: - Thứ nhất là mất nhiều thời gian thực hiện. Một chủ đề thực hiện sẽ mất khá nhiều thời gian ở trên lớp cũng như ngoài lớp nên ảnh hưởng đến việc học tập trên lớp các em cũng như thời gian học tập các môn học khác vì các em cần đầu tư thời gian tương đối nhiều khi thực hiện một chủ đề. - Thứ hai trong khi các kì thi hiện tại vẫn chủ yếu rèn luyện trí nhớ kiến thức hàn lâm và nặng về các bài tập tính toán nên các em vẫn phải học để đáp ứng các kì thi, do thói quen học tập cũ nặng về nhồi nhét kiến thức vậy nên chưa chú tâm học tập và trải nghiệm các công việc được giao ở nhà, một số em còn làm theo đối phó và suy nghĩ rằng chưa thiết thực với thi cử hiện hành. - Thứ ba đó kinh phí thực hiện một số dụng cụ, nguyên liệu khi làm thực hành chưa đầy đủ, và khá tốn kém nên đôi khi giáo viên và các em cũng ngại làm. - Thứ tư đó là STEM là phương pháp tích hợp nên chắc chắn giáo viên giảng dạy đòi hỏi phải nắm rõ phương pháp và cách thức tổ chức giảng dạy cũng như trình độ liên môn nhất định vì STEM như là khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học. Đòi hỏi giáo viên phải có trình độ và đam mê công việc nó mất nhiều thời gian và công sức của giáo viên. Do vậy chúng tôi đã phối hợp lồng ghép giữa phương pháp học tập truyền thống và giáo dục STEM để học sinh có thể đạt hiệu quả học tập tốt nhất hiện nay. Khi dạy học Stem phải có sự linh hoạt và nhất quán theo mô hình 5E thì hiệu quả sẽ tốt nhất trong quá trình dạy và lĩnh hội kiến thức, củng cố kiến thức, vận dụng kiến thức… Chúng tôi đã thấy sự khác nhau trong dạy học nếu nhất quán theo mô hình 5E và không nhất quán như sau: Sự khác nhau trong các hoạt động của giáo viên nhất quán và không nhất quán theo mô hình dạy học stem - 5E Hoạt động của giáo viên Các bước dạy học theoThống nhất với mô hình 5E 5E Không thống nhất với mô hình 5E Gắn kết Tạo hứng thú Giải thích khái niệm (Engagment) - Kích thích sự tò mò - Cung cấp các định
  4. - Nêu câu hỏi nghĩa và câu trả lời - Làm rõ hơn các câu trả lời hoặc các - Kết luận phát hiện mà học sinh đã biết hoặc suy - Đưa ra những câu hỏi nghĩ về chủ đề bài học đóng - Giảng bài Khảo sát Khuyến khích học sinh làm việc cùng Cung cấp câu trả lời (Exploration) nhau mà không có sự hướng dẫn trực - Nói hoặc giải thích tiếp từ giáo viên cách làm việcthông qua - Quan sát và lắng nghe các học sinh vấn đề trong quá trình tương tác - Đưa ra những kết luận - Yêu cầu kiểm tra các câu hỏi để - Trực tiếp nói với học chuyển hướng khảo sát thí nghiệm của sinh rằng các em là sai học sinh khi cần thiết - Cung cấp thông tin - Cung cấp thời gian cho học sinh để hoặc sự kiện giúp giải giải quyết các vấn đề quyết vấn đề - Đóng vai trò như một nhà tư vấn cho - Hướng dẫn học sinh học sinh từng bước tìm ra lời giải - Tạo ra danh sách những điều “cần phải biết” tối thiểu Giải thích - Khuyến khích học sinh giải thích các - Chấp nhận những lời (Explanation) khái niệm và các định nghĩa bằng cách giải thích mà không cần hiểu riêng của mình chứng minh gì thêm - Đưa ra các lời giải thích, chứng minh - Tìm cách phủ nhận để (bằng chứng) và làm rõ từ học sinh buộc học sinh phải chấp - Chính thức làm rõ các định nghĩa, nhận giải thích,và đưa ra các khái niệm mới - Giới thiệu các khái khi cần thiết niệm hoặc kỹ năng - Sử dụng kinh nghiệm trước đây của không liên quan học sinh làm cơ sở để giải thích các khái niệm - Đánh giá sự hiểu biết ngày càng tăng của học sinh Áp dụng cụ thể - Mong đợi học sinh sử dụng các khái - Cung cấp câu trả lời (Elaboration) niệm khoa học, định nghĩa và lời giải dứt khoát thích được cung cấp trước đây - Trực tiếp nói với học - Khuyến khích học sinh áp dụng hoặc sinh rằng các em là sai mở rộng các khái niệm và kỹ năng - Tiếp tục bài giảng trong các tình huống mới - Dạy học sinh từng - Nhắc nhở học sinh tìm cách giải bước một để tìm ra lời thích giải ngay - Đề cập đến học sinh dữ liệu hiện có - Giải thích làm thế nào và bằng chứng và hỏi: “các em đã biết để làm việc thông qua gì rồi? “, ” Tại sao các em lại nghĩ …? vấn đề “(Chiến lược khám phá khoa học cũng
  5. áp dụng ở đây.) Đánh giá - Quan sát học sinh khi áp dụng các - Kiểm tra từ vựng, thuật (Evaluation) khái niệm và kỹ năng mới ngữ và các sự kiện một - Đánh giá kiến thức và kỹ năng của cách rời rạc học sinh - Giới thiệu những ý - Tìm kiếm bằng chứng rằng học sinh tưởng hay khái niệm có thay đổi suy nghĩ hoặc hành vi mới trong quá trình học - Tạo ra sự mơ hồ - Cho phép học sinh đánh giá bài học - Đặt toàn bộ những câu của mình và kỹ năng nhóm-quá trình hỏi đóng, chỉ trả lời - Đặt những câu hỏi mở như “Các em đúng/sai nghĩ điều gì sẽ xảy ra nếu…? “, “Các - Thúc đẩy thảo luận mở em có bằng chứng/chứng cứ gì ở trong mà không gắn kết đến tình huống này?”, ” Các em đã biết gì khái niệm hoặc kỹ năng về …? “, ” Các em thử giải thích hiện đang được học tượng này được không?” Giải pháp 2. Xây dựng chủ đề bài học STEM từ những kiến thức của những bài cơ bản trong sách giáo khoa Trong chương trình sách giáo khoa hiện hành môn Hoá học, có nhiều bài có thể liên kết với nhau cùng với các lĩnh vực: Toán học, Kỹ thuật, Khoa học và Công nghệ, để tạo ra những sản phẩm hứng thú. Từ đó giúp học sinh vận dụng và ghi nhớ kiến thức một cách sinh động, hấp dẫn. Trong chủ đề “Bình chữa cháy Mini” chúng tôi hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức nền trong sách giáo khoa hoá học lớp 9 của những bài: Bài 27: Cacbon; Bài 28: Các oxit của cacbon; Bài 29: Axit Cacbonic và muối Cacbonat. Kết hợp cùng với các kiến thức thực tiễn về kỹ thuật, khoa học, công nghệ để nghiên cứu, tìm tòi, lựa chọn các dụng cụ chế tạo ra sản phẩm “Bình chữa cháy mini”. Giải pháp 3. Tạo môi trường, không gian học tập đa dạng. Thay đổi phương pháp dạy học tích cực Trong chủ đề bài học STEM “Bình chữa cháy mini” học sinh được nghiên cứu kiến thức và giáo viên giao nhiệm vụ học tập trên lớp, trong phòng thí nghiệm. Nhiệm vụ học tập của các em tự nghiên cứu kiến thức liên quan đến chủ đề ở nhà; trong giờ ra chơi; nghiên cứu tìm hiểu trên mạng Internet…. Trong chủ đề có sự liên hệ giữa nội dung học tập với hoàn cảnh thực tiễn và xã hội. Học sinh nghiên cứu, phân công các công đoạn thực hiện làm sản phẩm cho các thành viên trong nhóm. Học sinh thu thập và xử lý thông tin, làm việc theo nhóm hoặc cá nhân theo kế hoạch đề ra. Tiến hành làm sản phẩm, thử nghiệm sản phẩm tại nhà hoặc trong sân trường. Trong các hoạt động trên giáo viên có vai trò định hướng, giám sát học sinh thực hiện.
  6. Khi thực hiện hoạt động báo cáo sản phẩm: - Báo cáo kiến thức nền và phương án thiết kế sản phẩm được thực hiện ngay tại lớp học. Các nhóm báo cáo bằng nhiều cách khác nhau: Quay video; Thiết kế powerpoint; thuyết trình bằng Poster…. - Báo cáo sản phẩm: Học sinh thực hiện ngoài trời, có thể trong sân trường… Như vậy kiến thức được tích luỹ qua quá trình làm việc và được thực nghiệm qua hoạt động thực tiễn. Việc đa dạng hoá không gian học tập, đổi mới phương pháp dạy học tích cực làm tăng hứng thú học tập của học sinh với bộ môn Hoá học. Rèn kỹ năng thực hành, kỹ năng quan sát, so sánh nhận biết kiến thức, hoạt động nhóm; Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin; Kĩ năng tự tin khi trình bày ý kiến trước nhóm, tổ, lớp. Phát triển phẩm chất: Có ý thức phòng cháy, chữa cháy. Nhận thấy sự vận dụng của kiến thức môn học để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. Phát triển năng lực: Năng lực thực nghiệm, nghiên cứu khoa học; Năng lực giải quyết vấn đề, sáng tạo; Năng lực giao tiếp và hợp tác và trình bày vấn đề. Thông qua đó kiến thức được tiếp nhận không còn gượng ép, ghi nhớ máy móc. Học sinh chủ động tìm tòi và lĩnh hội tri thức. Giải pháp 4. Thay đổi cách thức kiểm tra đánh giá Thông qua bài học STEM, giáo viên và học sinh thiết lập các phiếu đánh giá, các bảng tiêu chí đánh giá sản phẩm. Hoạt động tự đánh giá: Học sinh tự đánh giá bản thân; đánh giá các bạn trong cùng nhóm; đánh giá hoạt động của nhóm khác. Đưa ra phương án cho nhóm khác (nếu có). Giáo viên tổng hợp hoạt động tự đánh giá của học sinh. Hướng dẫn học sinh nhận xét đánh giá. Chốt lại kiến thức chuẩn. Trên cơ sở đó chấm điểm cho học sinh và cho các nhóm. 2. Khả năng áp dụng của sáng kiến Sáng kiến làm về phương pháp giảng dạy nên có thể áp dụng đối với tất cả các bộ môn. Khi áp dụng sáng kiến vào giảng dạy giáo viên có thể phát hiện ra được các sáng tạo của học sinh thông qua các sản phẩm, các quy trình mà học sinh vận dụng. Tận dụng được các nguyên liệu tái chế để giảng dạy. Tạo ra một số sản phẩm làm dụng cụ trực quan để giảng dạy các môn học khác cùng cấp học ở các cấp học dưới. Để định lượng kết quả học tập của các em trong suốt quá trình học chúng tôi luôn theo sát sự tiến bộ của từng em, cũng như chú trọng đánh giá kết quả mỗi bài kiểm tra để đánh giá một cách đúng nhất. V. HIỆU QUẢ DỰ KIẾN ĐẠT ĐƯỢC CỦA SÁNG KIẾN Sản phẩm của quá trình dạy học là các kiến thức, kỹ năng, khả năng, năng lực của người học, là một dạng năng lượng ở dạng dự trữ. Vì vậy không thể đánh giá cụ thể được hiệu quả kinh tế mà đề tài mang lại, nhưng việc áp
  7. dụng đề tài này trong dạy học Hoá học lớp 9 năm học 2021-2022 đã bước đầu thu được kết quả tốt đẹp. Từ đó dưới góc độ cá nhân tôi nhận thấy một số hiệu quả kinh tế có thể được thể hiện dưới hình thức: Kiến thức hoá học được hiểu sâu giúp các em vận dụng tốt hơn trong cuộc sống, trong đó có cả việc phòng tránh “cháy nổ”. Hiệu quả về mặt xã hội của sáng kiến là rất lớn. Nó có tác động quan trọng tới nhận thức của học sinh trong việc hình thành kiến thức, kĩ năng và nhất là thái độ của học sinh; góp phần hình thành phẩm chất, năng lực tự chủ, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo... rất cần thiết của những công dân trong tương lai. Một số kết quả cụ thể: 1. Hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng học sinh Sau khi áp dụng sáng kiến thì chất lượng nhà trường được nâng lên rõ rệt. Cụ thể số học sinh đạt giải trong các cuộc thi học sinh giỏi năm sau tăng hơn năm trước. Thành tích môn hoá học của trường trước và sau khi tiến hành sáng kiến Số HS đạt giải các năm Ghi chú học Tên cuộc thi Trước khi áp Sau khi áp dụng SK dụng SK 2020-2021 2021-2022 Thi học sinh giỏi cấp huyện môn Hoá học 9 (số HS đạt giải/số HS 4/4 6/6 dự thi) Thi học sinh giỏi cấp tỉnh môn Hoá 1/2 3/3 học (số HS đạt giải/số HS dự thi) 2. Hiệu quả trong việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tình cảm nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên; nâng cao uy tín của giáo viên và nhà trường Áp dụng Vận dụng STEM để tạo hứng thú học tập môn Hoá học với chủ đề “Bình chữa cháy mini” chính là cải tiến cách dạy, cách học. Nó đòi hỏi người giáo viên phải không ngừng tự bồi dưỡng về kiến thức và phương pháp dạy học. Những kiến thức của người giáo viên không chỉ “đóng khung” trong bộ môn được đào tạo mà là tất cả những gì có liên quan, là sự ứng dụng rộng rãi trong các tình huống phong phú của cuộc sống hàng ngày. Việc dạy Vận dụng STEM để tạo hứng thú học tập môn Hoá học với chủ đề “Bình chữa cháy mini” đã kích thích sự sáng tạo không ngừng của mỗi người giáo viên và qua đó góp phần nâng cao trình độ chuyên môn của người thầy. Các tiết học hấp dẫn đã góp phần tạo ra uy tín cho giáo viên. Thầy sáng tạo dạy, trò hứng thú học là một điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Chất lượng giáo dục được nâng lên đã góp phần tạo ra niềm tin của học sinh và phụ huynh đối với môn học và đối với nhà trường. 3. Hiệu quả trong việc rèn luyện kĩ năng học tập và nâng cao tình cảm của học sinh đối với môn Hoá học
  8. Môn Hoá học được coi là một môn học khó bởi nó đòi hỏi tư duy khoa học, đòi hỏi sự tập trung chú ý cao, sự tìm tòi, khám phá và sáng tạo trong học tập. Chính vì vậy, nhiều học sinh “sợ” khi phải học Hoá học; những học sinh học giỏi môn Hoá học thường được bạn bè và thầy cô đánh giá rất cao. Việc làm sản phẩm STEM theo hướng tích cực là một phương tiện để ôn tập, củng cố kiến thức lý thuyết đã học một cách sinh động và có hiệu quả. Giúp học sinh được rèn luyện tư duy liên tưởng sáng tạo; từ đó giúp các em biết vận dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống phong phú của thực tiễn. Học Hoá học theo cách trên cũng giúp các em có thói quen, có phương pháp học tập chủ động, tích cực; luôn say mê tìm tòi, khám phá khoa học. Thông qua hoạt động STEM có thể rèn luyện cho học sinh những đức tính tốt như tinh thần tự lập, tính cẩn thận, tính kiên trì, tinh thần vượt khó. Cuối năm học 2021-2022 sau khi thực nghiệm thí điểm phương pháp STEM Chúng tôi đã khảo sát 129 học sinh lớp 9 và kết quả như sau: Kết quả Câu Nội dung Số lượng Tỉ lệ % Sự hứng thú học môn hoá ở các em thuộc mức nào ? Rất thích 26 20,1 Thích 62 48.1 1 Bình thường 38 29,5 Không thích 3 2,3 Em thích học môn hoá vì: Môn hoá là một trong những em sẽ thi vào các trường ĐH, CĐ 15 11,6 Bài học sinh động, thầy cô dạy vui vẻ, dễ hiểu 47 36,4 2 Kiến thức dễ nắm bắt 33 25,6 Kiến thức gắn thực tế nhiều 34 26,4 3 Trong giờ học môn hoá em thích được học như thế nào
  9. Tập trung nghe giảng, phát biểu ý kiến, thảo luận và làm việc 58 45 Nghe giảng và ghi chép một cách thụ động 16 12,4 Được làm các thực hành để hiểu sâu sắc vấn đề về sinh học 55 42,6 Nội dung dạy học Không cần thí nghiệm thực hành nhiều 30 31,9 4 Tăng cường học lí thuyết 20 21,3 Giảm tải lí thuyết, vận dụng kiến thức đã học để đưa kiến thức vào thực tiễn, 44 46,8 tăng cường phần thực hành. Phân tích kết quả khảo sát Câu 1. Sự hứng thú học môn hoá ở các em thuộc 2020-2021 2021- mức nào ? 2022 TL% TL% Rất thích 8,3 20,1 Thích 20,2 48.1 Bình thường 50.5 29,5 Không thích 21,1 2,3 Qua khảo sát ta thấy số lượng học sinh thích học môn Hoá đã tăng lên, từ 28,5% năm học 2020-2021 lên 68,2% năm học 2021-2022, còn học sinh không thích và bình thường giảm đi từ 71,6% xuống 31,8%. 2020-2021 2021-2022 Câu 2. Em thích học môn Hoá vì: TL% TL% Môn hoá là một trong những môn thi vào các trường ĐH, CĐ 8,3 11,6 Bài học sinh động, thầy cô dạy vui vẻ, dễ hiểu 41,3 36,4 Kiến thức dễ nắm bắt 29,4 25,6 Kiến thức gắn thực tế nhiều 21,1 26,4 Qua thực nghiệm cho thấy kiến khi dạy theo phương pháp Stem, các em thấy được vai trò của sinh học với thực tiễn nhiều hơn từ 21,1% lên 26,4%, cùng với vai trò của giáo viên giúp bài giảng dễ hiểu và hấp dẫn hơn. Câu 3. Trong giờ học môn hoá em thích được học như thế 2020-2021 2021-2022 nào TL % TL % Tập trung nghe giảng, phát biểu ý kiến, thảo luận và làm bài 37,6 45 tập Nghe giảng và ghi chép một cách thụ động 40,4 12,4 Được làm thực hành để hiểu sâu sắc vấn đề về sinh học 22 42,6
  10. Từ số liệu thống kê cho thấy nguyện vọng các em rất mong muốn được thí nghiệm thực hành trải nghiệm nhiều hơn (từ 22% lên 42,6%). Câu 4. Nội dung dạy học 2020-2021 2020-2021 TL % TL % Không cần thực hành nhiều 37,6 31,9 Tăng cường học lí thuyết và giải bài tập tính toán gắn với kì thi đại 41,3 21,3 học cao đẳng Giảm tải lí thuyết, vận dụng kiến thức đã học để đưa kiến thức vào 21,1 46,8 thực tiễn, tăng cường thực hành. Từ số liệu thống kê ta cũng nhận ra rằng tỉ lệ các em thấy được ý nghĩa của vận dụng kiến thức hoá học vào thực tiễn tăng lên từ 21,1% lên 46,8%. Kết quả này cho thấy sự lựa chọn các biện pháp dạy học STEM đã áp dụng mang lại kết quả khả quan. Đa số các em thấy yêu thích hoá học hơn, tiết hoá học trở nên hấp dẫn và bổ ích với các em, các em thấy được sự liên quan giữa lí thuyết và thực tiễn, kĩ năng thí nghiệm thực hành được tăng lên rõ rệt, nên các em rất hứng thú triển khai công việc được giao. VI. CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN Sáng kiến được áp dụng trong tại trường trung học cơ sở Thị trấn Nho Quan trong điều kiện toàn ngành đang tích cực đổi mới phương pháp dạy học; đổi mới hình thức thi vào 10 trung học phổ thông, đổi mới áp dụng dạy học STEM, vì vậy đã thu được những kết quả khả quan. Qua thực tế giảng dạy, chúng tôi có thể khẳng định Vận dụng STEM để tạo hứng thú học tập môn Hoá học với chủ đề “Bình chữa cháy mini” có thể áp dụng hiệu quả được ở các trường THCS trên địa bàn toàn tỉnh. Đồng thời có thể áp dụng tương tự cho các môn học khác như Vật lý, Sinh học dạy học STEM đạt hiệu quả. Chúng tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật./. Nho Quan, ngày 10 tháng 04 năm 2022 NGƯỜI NỘP ĐƠN TÁC GIẢ ĐỒNG TÁC GIẢ Lương Thị Tuyết Đỗ Thị Việt Hà Nguyễn Tố Uyên Trần Thị Loan XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG
  11. XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
  12. PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1: Kết quả khảo sát trước khi áp dụng sáng kiến Kết quả Câu Nội dung Số Tỉ lệ lượng % 1 Sự hứng thú học môn Hoá ở các em thuộc mức nào ? Rất thích 9 8,3 Thích 22 20,2 Bình thường 55 50.5 Không thích 23 21,1 2 Em thích học môn Hoá học vì: Môn hoá là một trong những môn em sẽ thi vào các trường ĐH, CĐ 9 8,3 Bài học sinh động, thầy cô dạy vui vẻ, dễ hiểu 41 41,3 Kiến thức dễ nắm bắt 32 29,4 Kiến thức gắn thực tế nhiều 23 21,1 3 Trong giờ học môn hoá em thích được học như thế nào Tập trung nghe giảng, phát biểu ý kiến, thảo luận và làm việc 41 37,6 Nghe giảng và ghi chép một cách thụ động 44 40,4 Được làm các thí nghiệm thực hành để hiểu sâu sắc vấn đề về sinh học 24 22
  13. 4 Nội dung dạy học Không cần thí nghiệm thực hành nhiều 41 37,6 Tăng cường học lí thuyết 45 41,3 Giảm tải lí thuyết, vận dụng kiến thức đã học để đưa kiến thức vào thực tiễn, tăng cường phần thực hành. 23 21,1 Kết quả khảo sát cho thấy số lượng học sinh yêu thích và thích môn Hoá học rất thấp chỉ chiếm 8,3% và 20,2% là các em thích học bộ môn là do giáo viên dạy, do là môn các em có dự định thi đại học hay đề phòng môn Hoá học có khẳ năng thi vào 10. Rõ ràng qua phân tích thì các em vẫn chủ yếu học theo lối truyền thống nặng về thi cử đối phó, do vậy mà các em ít có yếu tố đam mê nghiên cứu và thực sự yêu thích là rất ít, kĩ năng thực hành và khả năng áp dụng kiến thức vào thực tế còn rất hạn chế. PHỤ LỤC 2: Khái niệm dạy học STEM - STEM là thuật ngữ xuất phát từ phương pháp giảng dạy và học tập tích hợp nội dung và các kỹ năng khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học. - Giáo dục STEM là phương thức giáo dục tích hợp theo cách tiếp cận liên môn (interdisciplinary) và thông qua thực hành, ứng dụng. Thay vì dạy bốn môn học như các đối tượng tách biệt và rời rạc, STEM kết hợp chúng thành một mô hình học tập gắn kết dựa trên các ứng dụng thực tế. Qua đó, học sinh vừa học được kiến thức khoa học, vừa học được cách vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn. - Thuật ngữ STEM được hiểu như một “tổ hợp đa lĩnh vực” bao gồm: Khoa học (Science), Công nghệ (Technology), Kỹ thuật (Engineering) và Toán học (Mathematics). Bốn lĩnh vực này được mô tả như sau: + Khoa học. Là việc nghiên cứu thế giới tự nhiên, bao gồm các quy luật tự nhiên của Vật lý, Hoá học, Sinh học và giải quyết hoặc ứng dụng các hiện tượng, nguyên lý, quan niệm hoặc quy tắc của các môn này. Khoa học vừa là
  14. một chỉnh thể kiến thức được tích luỹ qua thời gian, vừa là một tiến trình - mang tính khoa học - tạo ra kiến thức mới. Kiến thức từ khoa học sẽ cung cấp thông tin cho tiến trình thiết kế kỹ thuật. + Công nghệ. Mặc dù không phải là một lĩnh vực, theo nghĩa chặt chẽ nhất, bao gồm toàn bộ hệ thống con người và tổ thức, kiến thức, tiến trình, và thiết bị dùng để tạo ra và thao tác các đồ vật (tạo tác) công nghệ, cũng như chính các đồ vật đó. Suốt chiều dài lịch sử, con người đã tạo ra các công nghệ để thoả mãn mong muốn và nhu cầu của mình. Phần lớn các công nghệ hiện đại là sản phẩm của khoa học và kỹ thuật, và các công cụ công nghệ được sử dụng trong cả hai lĩnh vực. + Kỹ thuật. Vừa là một chỉnh thể kiến thức, về thiết kế và chế tạo các sản phẩm nhân tạo, vừa là một quá trình giải quyết vấn đề. Quá trình này chịu ảnh hưởng của các ràng buộc. Một trong số đó là các quy luật tự nhiên, hoặc khoa học. Những ràng buộc khác có thể kể đến là thời gian, tiền bạc, nguyên vật liệu sẵn có, hệ sinh thái, quy định về môi trường, khả năng sản xuất và sửa chữa. Kỹ thuật sử dụng các khái niệm khoa học và toán học như những công cụ công nghệ. + Toán học. Là việc nghiên cứu các mô hình và mối quan hệ giữa số lượng, số và không gian. Không giống như trong khoa học, nơi các bằng chứng thực nghiệm được tìm kiếm để đảm bảo hoặc bác bỏ các mệnh đề, các mệnh đề toán học được đảm bảo bằng các lập luận logic dựa trên các giả định cơ bản. Những lập luận logic, bản thân nó đã là một phần của toán học đi cùng với các mệnh đề. Cũng như khoa học, kiến thức toán ngày một phát triển, nhưng không giống khoa học, kiến thức toán không thể bị bác bỏ, trừ phi các giả định cơ bản bị thay đổi. Các loại khái niệm toán đặc thù của 12 năm học phổ thông bao gồm số và số học, đại số, hàm số, hình học, xác suất, thống kê. Toán học được dùng trong khoa học, kỹ thuật và công nghệ. - Giáo dục STEM là phương pháp tiếp cận, khám phá trong giảng dạy và học tập giữa hai hay nhiều hơn các môn học STEM, hoặc giữa một chủ đề STEM và một hoặc nhiều môn học khác trong nhà trường. Đó là cách nhìn nhận và giải quyết vấn đề một cách toàn diện, xem các thành phần của STEM tương tác với nhau như thế nào. Nói một cách đơn giản, đó là sự giao thoa hội tụ của khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học. Nó sử dụng hợp nhất các lĩnh vực này để giải quyết một vấn đề. - STEM trong trường THCS được hiểu là trang bị cho người học những kiến thức và kĩ năng cần thiết liên quan đến các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học. Những kiến thức và kĩ năng này phải được tích hợp, lồng ghép và bổ trợ nhau giúp học sinh không chỉ hiểu biết về nguyên lý mà còn có thể áp dụng để thực hành và tạo ra được những sản phẩm trong cuộc sống thường ngày. Những sản phẩm này không nhất thiết phải là sản phẩm mới, đừng suy nghĩ rằng các em phải tạo ra điều gì đó mới mẻ mới là Stem, như vậy các em đã là những nhà sáng chế rồi, tất nhiên nếu tạo ra sản phẩm mới thì càng tốt. - Dạy học STEM là mô hình dạy học 5E gồm 5 giai đoạn giúp học sinh khám phá khoa học.
  15. - 5E viết tắt của 5 từ bắt đầu bằng chữ E trong tiếng Anh: Engage (Gắn kết), Explore (Khảo sát), Explain (Giải thích), Elaborate (Áp dụng cụ thể), và Evaluate (Đánh giá). Trong các lớp học khoa học (Science) và các chương trình tích hợp STEM (Science, Technology, Engineering, Mathematics) (integrated STEM education). Mô hình 5E dựa trên thuyết kiến tạo nhận thức (cognitive constructivism) của quá trình học, theo đó học sinh xây dựng các kiến thức mới dựa trên các kiến thức hoặc trải nghiệm đã biết trước đó. + Engagement (Gắn kết) Trong giai đoạn đầu của chu kỳ học tập, giáo viên làm việc để đạt được sự hiểu biết về kiến thức sẵn có của học sinh và xác định bất kỳ khoảng trống kiến thức nào. Điều quan trọng là khuyến khích quan tâm đến các khái niệm sắp tới để học sinh có thể sẵn sàng tìm hiểu. Giáo viên có thể làm cho học sinh đặt câu hỏi mở hoặc ghi lại những gì họ đã biết về chủ đề. Thông qua các hoạt động đa dạng, giáo viên thu hút sự chú ý và quan tâm của học sinh, tạo không khí trong lớp học, học sinh cảm thấy có sự liên hệ và kết nối với những kiến thức hoặc trải nghiệm trước đó. Giai đoạn này cho phép học sinh gắn kết, liên hệ lại với các trải nghiệm và quan sát thực tế mà các em đã có trước đó. Trong bước này, các khái niệm mới cũng sẽ được giới thiệu cho các em. + Khảo sát (Exploration) Trong giai đoạn này, học sinh được chủ động khám phá các khái niệm mới thông qua các trải nghiệm học tập cụ thể. Giáo viên cung cấp những kiến thức hoặc những trải nghiệm mang tính cơ bản, nền tảng, dựa vào đó các kiến thức mới có thể được bắt đầu. Giai đoạn này, học sinh sẽ trực tiếp khám phá và thao tác trên các vật liệu hoặc học cụ đã được chuẩn bị sẵn. Giáo viên có thể yêu cầu học sinh thực hiện các hoạt động như quan sát, làm thí nghiệm, thiết kế, thu số liệu. + Giải thích (Explanation) Ở giai đoạn này, giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh tổng hợp kiến thức mới và đặt câu hỏi nếu họ cần làm rõ thêm. Giáo viên tạo điều kiện cho học sinh
  16. được trình bày, miêu tả, phân tích các trải nghiệm hoặc quan sát thu nhận được ở bước Khám phá. Ở bước này, giáo viên có thể giới thiệu các thuật ngữ mới, khái niệm mới, công thức mới, giúp học sinh kết nối và thấy được sự liên hệ với trải nghiệm trước đó. Để giai đoạn này có hiệu quả, giáo viên nên yêu cầu học sinh chia sẻ những gì mà các em đã học được trong giai đoạn Khám phá trước khi giới thiệu thông tin chi tiết một cách trực tiếp hơn. + Áp dụng cụ thể (Elaborate) Giai đoạn này tập trung vào việc tạo cho học sinh có được không gian áp dụng những gì đã học được. Giáo viên giúp học sinh thực hành và vận dụng các kiến thức đã học được ở bước Giải thích, giúp học sinh làm sâu sắc hơn các hiểu biết, khéo léo hơn các kỹ năng, và có thể áp dụng được trong những tình huống và hoàn cảnh đa dạng khác nhau. Điều này giúp các kiến thức trở nên sâu sắc hơn. Giáo viên có thể yêu cầu học sinh trình bày chi tiết hoặc tiến hành khảo sát bổ sung để củng cố các kỹ năng mới. Giai đoạn này cũng nhằm giúp học sinh củng cố kiến thức trước khi được đánh giá thông qua các bài kiểm tra. + Đánh giá (Evaluation) Mô hình 5E cho phép đánh giá chính thức (dưới dạng các bài kiểm tra) và phi chính thức (dưới dạng những câu hỏi nhanh). Trong giai đoạn này, giáo viên có thể quan sát học sinh thông qua các hoạt động nhóm nhỏ hoặc nhóm lớn để xem sự tương tác trong quá trình học. Cũng cần lưu ý là học sinh tiếp cận các vấn đề theo một cách khác dựa trên những gì họ học được. Các yếu tố hữu ích khác của Giai đoạn đánh giá bao gồm tự đánh giá, bài tập viết và bài tập trắc nghiệm, hoặc các sản phẩm. Ở đây, giáo viên sẽ linh hoạt sử dụng các kỹ thuật đánh giá đa dạng để nhận biết quá trình nhận thức và khả năng của từng học sinh, từ đó đưa ra các phương hướng điều chỉnh và hỗ trợ học sinh phù hợp, giúp học sinh đạt được các mục tiêu học tập như đã đề ra.
  17. PHỤ LỤC 3: Quy trình xây dựng bài học STEM Bước 1: Thiết kế chủ đề bài học - Nghiên cứu nội dung chương trình chọn những nội dung và tri thức thuộc lĩnh vực STEM tức những nội dung gắn liền với thực tiễn đời sống, giúp HS trải nghiệm và tạo ra những sản phẩm mang tính ứng dụng. Khi đã lựa chọn được chủ đề STEM có thể thiết kế bằng nhiều hình thức khác nhau có thể bằng một nghiên cứu khoa học hoặc một bài tập tình huống, một câu chuyện… Bước 2: Xác định vấn đề cần giải quyết - Sau khi chọn chủ đề của bài học, cần xác định vấn đề cần giải quyết để giao cho học sinh thực hiện sao cho khi giải quyết vấn đề đó, học sinh phải học được những kiến thức, kĩ năng, năng lực cần dạy trong chương trình môn học đã được lựa chọn (đối với STEM kiến tạo) hoặc vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã biết (đối với STEM vận dụng) để xây dựng bài học, lĩnh hội kiến thức hay vận dụng và củng cố kiến thức. Bước 3: Xây dựng tiêu chí của thiết bị/giải pháp giải quyết vấn đề - Sau khi đã xác định vấn đề cần giải quyết, sản phẩm cần chế tạo, cần xác định rõ tiêu chí của giải pháp, của sản phẩm hay của quy trình chế tạo sản phẩm. Những tiêu chí này là căn cứ quan trọng để đề xuất giả thuyết khoa học, giải pháp giải quyết vấn đề, thiết kế mẫu sản phẩm. Bước 4: Thiết kế các hoạt động/ nhiệm vụ + Hoạt động 1: Xác định vấn đề + Hoạt động 2: Nghiên cứu kiến thức nền và đề xuất giải pháp
  18. + Hoạt động 3: Trình bày cách tiến hành + Hoạt động 4: Tạo sản phẩm thử nghiệm và đánh giá + Hoạt động 5: Chia sẻ, thảo luận và điều chỉnh Bước 5: Thiết kế tiến trình dạy học Tiến trình tổ chức dạy học thực hiện theo các hoạt động/ nhiệm vụ đã được thiết kế ở bước 4. - Tiến trình bài học STEM tuân theo quy trình kĩ thuật nêu trên nhưng các "bước" trong quy trình không được thực hiện một cách tuyến tính (hết bước nọ mới sang bước kia) mà có những bước được thực hiện song hành, tương hỗ lẫn nhau. Việc "Nghiên cứu kiến thức nền" được thực hiện đồng thời với "Đề xuất giải pháp"; "Chế tạo mô hình" được thực hiện đồng thời với "Thử nghiệm và đánh giá", trong đó bước này vừa là mục tiêu vừa là điều kiện để thực hiện bước kia. - Tiến trình mỗi bài học STEM được thực hiện phỏng theo quy trình kĩ thuật, trong đó việc "Nghiên cứu kiến thức nền" trong tiến trình dạy học mỗi bài học STEM chính là việc học để chiếm lĩnh nội dung kiến thức trong chương trình giáo dục bậc trung học cơ sở tương ứng với vấn đề cần giải quyết trong bài học, trong đó học sinh là người chủ động nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu bổ trợ, tiến hành các thí nghiệm theo chương trình học (nếu có) dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Vận dụng kiến thức đã học để đề xuất, lựa chọn giải pháp giải quyết vấn đề. Thực hành thiết kế, chế tạo, thử nghiệm mẫu. Chia sẻ, thảo luận, điều chỉnh thiết kế. Thông qua quá trình học tập đó, học sinh được rèn luyện nhiều kĩ năng để phát triển phẩm chất, năng lực trong thời đại công nghệ 4.0. Xây dựng chủ đề minh họa theo hướng giáo dục stem Tổ chức nhóm học tập Bước 1: Đặt vấn đề, chuyển giao nhiệm vụ. GV tổ chức cho HS hoạt động theo nhóm dự án từ 10 HS. Mỗi nhóm bầu nhóm trưởng, thư kí. Đặt vấn đề – giao nhiệm vụ học tập Trong phần trình bày thông tin về an toàn cháy nổ, GV có thể chuẩn bị một số ví dụ điển hình của địa phương và các thông số thống kê để HS có thể nhận thấy rõ mối liên hệ của dự án học tập với thực tiễn cuộc sống. Ví dụ. Ở TP.HCM, Hà Nội Ninh Bình GV có thể dẫn một số thông tin nóng về vụ cháy nổ tháng 10/11 Tìm hiểu sơ lược về nguyên lí dập tắt đám cháy và nguyên lí hoạt động của bình chữa cháy Vấn đề cần tìm hiểu: (1) Liệt kê các nguyên tắc để dập tắt 1 đám cháy. (2) Trình bày nguyên lí hoạt động của bình chữa cháy thông dụng. – Trong phần nghiên cứu sơ lược về nguyên lí dập tắt đám cháy và nguyên lí hoạt động của bình chữa cháy, tùy theo điều kiện thực tiễn (thời gian, điều kiện cơ sở vật chất, năng lực HS…), GV có thể lựa chọn một số phương thức sau đây:
  19. (1) Nghiên cứu các thông số trên bình chữa cháy thật (2) Nghiên cứu nguyên lí hoạt động trên phim minh họa. Ví dụ. Làm thêm các thí nghiệm về tính chất không duy trì sự cháy của CO2 (4) Nghiên cứu cấu tạo cơ bản của bình chữa cháy thông qua bản vẽ cỡ lớn có chú thích các thông số. (5) Với đối tượng HS khá giỏi và lớp học có điều kiện kết nối internet, GV có thể nêu yêu cầu HS truy cập internet để tự tìm hiểu về nguyên lí dập tắt đám cháy và nguyên lí hoạt động của bình chữa cháy. Bước 2: - Học sinh trả lời các câu hỏi mà giáo viên đưa ra, quan sát các hình ảnh GV chiếu, tiếp nhận nhiệm vụ thiết kế và chế tạo bình chữa cháy mi ni từ nguồn nguyên liệu dễ kiếm, rẻ tiền. - HS thảo luận trong nhóm xác lập tiêu chí đánh giá sản phẩm. Bước 3: Các nhóm thảo luận để thống nhất tiêu chí đánh giá sản phẩm. Thống nhất tiêu chí đánh giá GV đặt vấn đề: Làm thế nào để đánh giá sản phẩm học tập là bình chữa cháy mini? GV nhấn mạnh cần phải có bản tiêu chí đánh giá để định hướng cũng như đánh giá công bằng. - GV và HS thống nhất các tiêu chí đánh giá và tỉ lệ điểm (phụ lục 1). - GV đặt vấn đề: Làm thế nào để đánh giá sản phẩm học tập là bình chữa cháy mini? GV nhấn mạnh cần phải có bản tiêu chí đánh giá để định hướng cũng như đánh giá công bằng. - GV và HS thống nhất các tiêu chí đánh giá và tỉ lệ điểm (phụ lục). Bước 4: GV chốt tiêu chí đánh giá sản phẩm theo phiếu đánh giá số 1( phần phụ lục trang 22) và thống nhất kế hoạch triển khai. GV tổng kết bổ sung, - GV giao nhiệm vụ cho học sinh thiết kế và chế tạo bình chữa cháy mi ni từ nguồn nguyên liệu dễ tìm, rẻ tiền, ít gây ô nhiễm môi trường. Giao học sinh xác lập tiêu chí đánh giá sản phẩm.
  20. Thống nhất tiến trình dự án GV thông báo tiến trình và hướng dẫn HS các công việc và phân phối thời gian trong dự án. Ghi chú TT Nội dung Thời gian Kế hoạch dự án, phân 1 Tiếp nhận nhiệm vụ 45 phút nhóm, bầu nhóm trưởng Tìm hiểu kiến thức, kĩ năng 2 3 ngày HS làm việc theo nhóm liên quan Báo cáo kiến thức, kĩ năng HS báo cáo tại lớp, 3 45 phút liên quan Powerpoint Lập phương án thiết kế, làm 4 thử và chốt phương án thiết 1 tuần HS làm việc theo nhóm kế 5 Trình bày phương án thiết kế 45 phút HS báo cáo tại lớp Làm sản phẩm theo phương 6 1 tuần HS làm việc theo nhóm án thiết kế 7 Báo cáo sản phẩm 45 phút HS báo cáo tại lớp 2. HOẠT ĐỘNG 2: NGHIÊN CỨU KIẾN THỨC NỀN, ĐỀ XUẤT PHƯƠNG ÁN THIẾT KẾ BÌNH CHỮA CHÁY MI NI (Hình thức: báo cáo 45 phút) a) Mục tiêu Sau hoạt động này, HS có khả năng 1. Trình bày những tính chất vật lí cơ bản của carbon và các hợp chất quan trọng của carbon. (Nguyên tố carbon có một số dạng thù hình là kim cương, than chì, fuleren,… Cấu trúc của tinh thể kim cương (a), tinh thể than chì (b) và fuleren (c) 1. Kim cương- Là chất tinh thể trong suốt, không màu, không dẫn điện, dẫn nhiệt kém. Có cấu trúc tinh thể nguyên tử và cứng nhất trong tất cả các chất. 2. Than chì – Là chất tinh thể màu xám đen. Tinh thể than chì có cấu trúc lớp nên mềm. Các loại than điều chế nhân tạo như than gỗ, than xương, than muội,… được gọi chung là carbon vô định hình, có cấu tạo xốp nên hấp phụ mạnh các chất khí và chất tan trong dung dịch. 2. Giải thích được tính chất hóa học cơ bản của carbon và các hợp chất, cho ví dụ minh họa.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2