Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy tích hợp liên môn để gây hứng thú học tập lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 ở trường trung học phổ thông
lượt xem 3
download
Thực tế dạy học lịch sử ở trường phổ thông trước đây cũng như từ khi triển khai chương trình giảm tải, nhiều giáo viên vẫn chưa hiểu hết tầm quan trọng của kiến thức liên môn và tìm phương pháp sử dụng thích hợp để góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây để nắm nội dung của sáng kiến kinh nghiệm!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy tích hợp liên môn để gây hứng thú học tập lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 ở trường trung học phổ thông
- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Có thể khẳng định, đổi mới cơ bản, toàn diện nền giáo dục hiện nay là nhu cầu bức thiết, là mệnh lệnh của xã hội. Đảng ta nhấn mạnh: “Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Coi trọng hơn nữa các môn về khoa học xã hội và nhân văn, nhất là Tiếng Việt, Lịch sử dân tộc, Địa lý, Văn hóa Việt Nam “Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo , coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp”. Chính vì lẽ đó, những năm gần đây chương trình, sách giáo khoa các môn học ở trường phổ thông đã được đổi mới. Điều này đặt ra sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học, trong đó cần “...coi trọng năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội ” . Đây là yêu cầu quan trọng nhất, là chìa khóa giúp nâng cao chất lượng dạy và học. Lịch sử là một trong những môn học có ưu thế đặc biệt trong việc phát triển con người toàn diện: “...giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ...có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính”. Đây là hành trang cần thiết để hình thành nhân cách con người và văn hóa Việt Nam, giúp thế hệ trẻ vươn lên trong cuộc sống và hội nhập với thế giới. Hiện nay chương trình, sách giáo khoa lịch sử ở trường phổ thông nói chung, lớp 12 nói riêng đã có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp biên soạn. Tuy nhiên vẫn còn hạn chế: nhiều nội dung trùng lặp ở lớp dưới và lớp trên, của nhiều môn học khác nhau. Do vậy, từ năm học 2011 2012 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa Chuẩn kiến thức, kĩ năng và Hướng dẫn thực hiện điều chỉnh nội dung dạy học môn lịch sử để đảm tính lôgic, tính thống nhất giữa các bộ môn, tránh những nội dung trùng lặp, góp phần 1
- khắc phục tình trạng quá tải trong giảng dạy, học tập. Đồng thời tạo điều kiện để giáo viên và học sinh thực hiện tốt yêu cầu đổi mới phương pháp dạy và học, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng giáo dục trung học. Chương trình lịch sử lớp 12 có 24/27 bài được điều chỉnh, trong đó có nội dung không dạy hoặc đọc thêm. Những sự thay đổi cơ bản này đặt ra một vấn đề quan trọng trong phương pháp dạy học của giáo viên là phải có kiến thức liên môn sâu rộng, tổ chức cho học sinh có khả năng sử dụng kiến thức của các môn học có liên quan vào học tập lịch sử để tránh sự trùng lặp, mất thời gian, giúp học sinh lĩnh hội kiến thức nhẹ nhàng, sinh động mà vững chắc. Thực tế dạy học lịch sử ở trường phổ thông trước đây cũng như từ khi triển khai chương trình giảm tải, nhiều giáo viên vẫn chưa hiểu hết tầm quan trọng của kiến thức liên môn và tìm phương pháp sử dụng thích hợp để góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Xuất phát từ những lí do trên tôi đã chọn vấn đề; “Dạy tích hợp liên môn để gây hứng thú học tập lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 1945 ở trường trung học phổ thông” 2. Tên sáng kiến kinh nghiệm: “Dạy tích hợp liên môn để gây hứng thú học tập lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 1945 ở trường trung học phổ thông” 3. Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Mai Hiên Tổ bộ môn: Văn Sử Địa – Ngoại Ngữ GDCD trường THPT DTNT Tỉnh Vĩnh Phúc Mã môn: 57 Điện thoại 0976030247. Email: hnmaihiendtnt@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Mai Hiên 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: áp dụng trong giảng dạy Lịch sử cho học sinh khối 12 ở trường Trung học phổ thông. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Ngày 18/11/2019 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 2
- 7.1. VẤN ĐỀ SỬ DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN ĐỂ GÂY HỨNG THÚ HỌC TẬP LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 7.1.1.Cơ sở lý luận của việc sử dụng kiến thức liên môn để gây hứng thú học tập lịch sử ở trường trung học phổ thông (nội dung lý luận có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm) 7.1.1.1. Một số khái niệm. Khái niệm về kiến thức lịch sử Kiến thức của bộ môn lịch sử ở trường phổ thông là những hiểu biết của học sinh về lịch sử phát triển của xã hội loài người, được khoa học lịch sử xác nhận và ghi chép trong các cuốn sách giáo khoa lịch sử mới nhất. Kiến thức lịch sử ở trường phổ thông gồm có nhiều yếu tố: sự kiện, nhân vật, địa điểm, thời gian, khái niệm... phản ánh sự hiểu biết về những lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa. [7, tr. 7 8]. Như vậy, kiến thức lịch sử phản ánh mọi mặt của đời sống xã hội, là kết quả của việc nghiên cứu khoa học lịch sử, được sử dụng vào nhận thức và hoạt động xã hội giúp cho con người hiểu một cách đầy đủ về quá trình phát triển của lịch sử loài người. Khái niệm về kiến thức liên môn Kiến thức liên môn là mối liên hệ kiến thức giữa các môn học. Sử dụng kiến thức liên môn bằng con đường tích hợp những nội dung kiến thức từ một số môn học để làm rõ kiến thức của một số môn học nào đó. Như vậy, kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử là kiến thức giữa các môn học có cùng tư tưởng, quan điểm. Nắm được mối liên hệ giữa kiến thức của niệm các môn có liên quan, tính hệ thống của tri thức lịch sử sẽ giúp cho học sinh có khả năng phân tích các sự kiện, tìm ra bản chất, quy luật chi phối sự phát triển của lịch sử. Khái về hứng thú học tập lịch sử 3
- Hứng thú học tập lịch sử là một thành phần nhân cách. Đó là một thái độ say mê, tự giác, tích cực đặc biệt của cá nhân đối với nội dung lịch sử cụ thể. Trước hết, hứng thú học tập lịch sử được biểu hiện ở sự tập trung của học sinh vào đối tượng. Có hứng thú các em mới tập trung vào các cơ quan thính giác, thị giác vào đối tượng mà mình cần nhận thức. Thị giác các em sẽ tập trung quan sát và thính giác thì tiếp nhận các thông tin về đối tượng để từ đó dần dần hình thành được biểu tượng, làm cho quá trình tư duy diễn ra nhanh hơn và hấp dẫn hơn. Nói cách khác, trong quá trình dạy học lịch sử, biểu tượng lịch sử góp phần vào phát triển hứng thú và ngược lại hứng thú sẽ góp phần vào tạo biểu tượng lịch sử, giúp quá trình tư duy nhận thức lịch sử diễn ra nhanh hơn, đầy đủ hơn. *Mục tiêu, nhiệm vụ của bộ môn lịch sử ở trường phổ thông Lịch sử là hồn phách của dân tộc. Mục tiêu bộ môn lịch sử ở trường trung học phổ thông được xây dựng trên cơ sở mục tiêu giáo dục, mục tiêu cấp học, quan điểm, đường lối của Đảng về sử học và giáo dục. Mục tiêu của bộ môn lịch sử trường phổ thông nhằm giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng năng lực tư duy, hành đông, thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội. Mục tiêu của việc dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông thể hiện qua ba nhiệm vụ cơ bản: giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. + Giáo dưỡng: Nhiệm vụ giáo dưỡng trong mục tiêu của môn lịch sử ở trường trung học phổ thông là cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, bao gồm: sự kiện lịch sử cơ bản, nhân vật tiêu biểu, thời gian, không gian, các khái niệm, thuật ngữ, những hiểu biết về quan điểm lí luận sơ giản, những vấn đề về phương pháp nghiên cứu và học tập, phù hợp với yêu cầu và trình độ học sinh. 4
- + Giáo dục: Trên cơ sở nội dung kiến thức cụ thể giáo dục cho học sinh có những quan điểm tư tưởng, lập trường, phẩm chất đạo đức, nhân cách, tình cảm đúng đắn, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa góp phần đào tạo con người cách mạng toàn diện, có tinh thần yêu tổ quốc, trung thành với lí tưởng xã hội chủ nghĩa. Từ đó dần hình thành trong các em lòng yêu quê hương đất nước, tinh thần đoàn kết quốc tế, tình hữu nghị với các dân tộc đấu tranh cho độc lập, tự do, văn minh, tiến bộ xã hội, hòa bình, dân chủ. Trên cơ sở nhận thức đúng sự phát triển khách quan, giúp các em có niềm tin vào sự phát triển hợp quy luật của xã hội loài người và dân tộc, có ý thức nghĩa vụ công dân, sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ quốc tế và có những phẩm chất cần thiết trong cuộc sống. + Phát triển toàn diện: Rèn luyện cho học sinh các năng lực nhận thức, trong đó quan trọng nhất là năng lực tư duy và thực hành. Cụ thể là rèn tư duy biện chứng trong nhận thức và hành động. Rèn kĩ năng học tập và thực hành bộ môn: tự làm việc với sách giáo khoa và các tài liệu khác có liên quan. Bên cạnh đó cần nâng cao năng lực trình bày nói và viết, làm và sử dụng đồ dùng trực quan, ứng dụng thành tựu công nghệ thông tin vào học tập. Rèn luyện cho các em biết vận dụng kiến thức liên môn trong học tập để hiểu sâu sắc nội dung bài học và biết vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống hiện nay. *Đặc trưng của bộ môn lịch sử Đặc trưng của việc học tập lịch sử ở trường phổ thông là những sự kiện, hiện tượng mang tính quá khứ, không tái diễn trở lại nhưng rất cụ thể và mang tính hệ thống. Kiến thức lịch sử có hai yếu tố sử và luận, giữa hai yếu tố này có quan hệ thống nhất với nhau. Nội dung kiến thức lịch sử rất phong phú và mang tính toàn diện, đề cập đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Kiến thức lịch sử có nhiều loại: kiến thức về kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, giáo dục... Điều này đòi hỏi giáo viên lịch sử phải có kiến thức liên môn sâu rộng, phải biết liên hệ, vận dụng kiến thức giữa các môn học để cung cấp 5
- cho học sinh những tri thức lịch sử mang tính hệ thống và hoàn chỉnh. Giáo viên làm được điều này sẽ giúp học sinh thấy được vai trò quan trọng của bộ môn lịch sử, tránh khuynh hướng quan niệm “môn chính ”, “môn phụ Như vậy, qua tìm hiểu đặc trưng bộ môn lịch sử đã giúp chúng ta hiểu được rằng chỉ có thể tạo biểu tượng lịch sử, hình thành tri thức lịch sử mới khắc phục được những khó khăn riêng của bộ môn trong dạy học. Một trong những biện pháp đó là sử dụng kiến thức liên môn để giúp học sinh có kiến thức toàn diện và gây được hứng thú học tập lịch sử. Sử dụng kiến thức của các môn học sẽ làm sáng tỏ sự kiện, hiện tượng lịch sử, trên cơ sở đó hình thành khái niệm, rút ra bài học lịch sử. 7.1.1.2. Mối quan hệ mật thiết giữa lịch sử với các bộ môn khác Mối quan hệ giữa kiến thức Văn học với Lịch sử Các tác phẩm văn học từ xưa đến nay, trong lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới, có vai trò to lớn đối với việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Giữa văn học và khoa học nói chung, sử học nói riêng có mối liên hệ chặt chẽ. Khi sáng tác một tiểu thuyết, nhà văn phải nghiên cứu các tài liệu lịch sử. Khi tìm hiểu nội dung một tác phẩm văn học phải tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác, bối cảnh lịch sử của nó. Ví dụ: như “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo, “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh... Vì vậy, vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử giúp học sinh hiểu biết đầy đủ hơn về sự kiện lịch sử. Mối quan hệ giữa kiến thức Địa lí với Lịch sử Tục ngữ có câu “Người là hoa của đất”, đó là một chân lí khoa học sâu sắc, có ý nghĩa cả về mặt không gian cũng như về thời gian của toàn bộ lịch sử nhân loại. Khoa học địa lí có mối liên hệ đặc biệt với khoa học lịch sử, vì nghiên cứu lịch sử phải xuất phát từ những sự kiện lịch sử cụ thể, diễn ra trong một bối cảnh nhất định diễn ra trong một thời gian và không gian nhất định vì vậy thời gian là rất quan trọng cho việc nghiên cứu lịch sử và địa điểm xảy ra sự kiện cũng rất quan trọng. 6
- Mối quan hệ giữa Chính trị Giáo dục công dân và Lịch sử Sử học là nền tảng của tri thức công dân, lịch sử rất gần với chính trị, văn hóa và đạo đức. Sử học phục vụ chính trị. Học lịch sử quá khứ giúp cho học sinh nhận thức đúng, nhận thức rõ đường lối chủ trương của Đảng. Song không vì thế mà giảng dạy lịch sử như tuyên truyền đường lối, chính sách, như giải thích chính trị chung chung, nông cạn. Giáo dục lí tưởng trong học tập lịch sử, trước hết phải làm cho học sinh nhận thức rõ và đúng quá khứ, thấy được khuynh hướng tất yếu của sự phát triển xã hội loài người. Trên cơ sở ấy tiến hành giáo dục lí tưởng, hướng học sinh đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, việc giáo dục trí tuệ, tư tưởng chính trị, tình cảm, đạo đức phẩm chất trong dạy học lịch sử bao gồm ba yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau: Trình bày đúng sự kiện lịch sử (chân lí). Rút ra kết luận khoa học về sự kiện khách quan. Sử dụng tri thức lịch sử để chứng minh, giải thích lí tưởng, giáo dục tư tưởng, tình cảm... Lịch sử rất gần với chính trị. Chúng ta dạy học lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin. Vì vậy, những lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin được chứa đựng trong nội dung môn chính trị, là cơ sở vững chắc cho việc dạy học lịch sử. Giáo dục tư tưởng chính trị, truyền thống dân tộc, phẩm chất đạo đức cho học sinh qua dạy học lịch sử ở trường phổ thông là điều cần thiết, quan trọng. Với mối quan hệ đã nêu trên cho thấy kiến thức văn học, địa lí, chính trị không thể tách rời môn Lịch sử. Điều đó không những tiết kiệm được thời gian trong dạy học mà còn tránh sự lặp lại không cần thiết khi trình bày một sự kiện lịch sử cụ thể và toàn diện. 7.1.1.3. Vai trò và ý nghĩa của việc sử dụng kiến thức liên môn để gây hứng thú học tập cho học sinh trung học phổ thông trong dạy học lịch sử Vai trò: 7
- Sử dụng kiến thức liên môn là một nguyên tắc cần tuân thủ trong dạy học ở trường phổ thông nói chung và môn lịch sử nói riêng. Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông cung cấp cho học sinh những tri thức về nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, kiến thức lịch sử không chỉ liên quan đến tri thức về khoa học xã hội mà cả về khoa học tự nhiên. Về mặt giáo dưỡng: Sử dụng kiến thức liên môn đảm bảo được tính toàn vẹn của kiến thức trên cơ sở sử dụng kiến thức các môn học khác và ngược lại. Kiến thức liên môn còn giúp học sinh tránh được những lỗ hổng kiến thức khi học tách rời các môn học. Nhờ đó, các em hiểu được sâu sắc kiến thức lịch sử và gây được hứng thú học tập cho học sinh. Ví dụ khi dạy học mục 2, Các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1919 1925 bài 12: “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam 1919 1925”, giáo viên sử dụng một số câu thơ trong bài “Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan Viên: Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre. Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương... và đặt câu hỏi gợi mở: Qua các câu thơ trên em hãy cho biết xuất phát từ đâu mà Bác ra đi tìm con đường cứu nước ? Trả lời câu hỏi trên học sinh sẽ hiểu rõ lý do Bác ra đi tìm đường cứu nước mới là do yếu tố chủ quan: đó là xuất phát từ lòng yêu nước thương dân của Bác và trong bối cảnh đất nước đang chìm đắm trong vòng nô lệ. Về yếu tố khách quan: ở phương Tây có nhiều nước phát triển và có những khẩu hiệu hấp dẫn về “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Do đó Bác muốn sang phương Tây xem họ làm thế nào mà giành được độc lập tự do rồi trở về giúp đồng bào. Đích Bác đến là nước Pháp, muốn đánh Pháp phải hiểu Pháp vì với Bác: “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng ”. 8
- Về kĩ năng: Việc sử dụng kiến thức liên môn nhằm gây hứng thú cho học sinh trong dạy học lịch sử là một trong những biện pháp cơ bản thúc đẩy quá trình nhận thức của học sinh đạt kết quả cao. Để hiểu được nội dung lịch sử, học sinh cần chủ động tìm hiểu, vận dụng kết hợp với kiến thức của các môn có liên quan. Khi học sinh tích cực độc lập hoạt động nhận thức để làm rõ kiến thức cũng là lúc các em phát triển được các khả năng nhận thức trong học tập lịch sử. Nếu hiểu được kiến thức thì các em sẽ hình thành các kĩ năng như: phân tích, so sánh, nhận định, đánh giá và biết liên hệ kiến thức đã học vào cuộc sống. Ví dụ, khi dạy học bài 18 trong sách giáo khoa lịch sử lớp 12 chương trình chuẩn “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 1950)” giáo viên sử dụng lược đồ chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947 và chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950. Sau khi học xong hai chiến dịch, giáo viên treo hai lược để học sinh quan sát và nêu câu hỏi gợi mở: Dựa vào kiến thức đã học kết hợp với sử dụng lược đồ em hãy so sánh điểm khác nhau cơ bản giữa chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947 và chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950 ? Để làm sáng tỏ vấn đề trên các em sẽ phải sử dụng kiến thức địa lí, lịch sử để so sánh hai chiến dịch. Dựa vào nội dung kiến thức vừa học về phần diễn biến, kết quả của hai chiến dịch các em dễ dàng nhận ra rằng: Bằng cách sử dụng kiến thức về địa lí các em sẽ rút ra kết luận: trong chiến dịch Việt Bắc ta giành được thắng lợi về cơ bản còn chiến dịch Biên giới thì ta đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Về mặt giáo dục: Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông có ưu thế trong việc giáo dục con người phát triển toàn diện. Khi học các bài văn, bài thơ trong kháng chiến các em phải hiểu được hoàn cảnh sáng tác, hiểu được tình hình đất nước diễn ra như thế nào, thuận lợi hay khó khăn. Khi học lịch sử, các em hiểu sâu sắc sự kiện, hiện tượng lịch sử thì các em sẽ nảy sinh nhiều trạng thái xúc cảm: vui, buồn, lo lắng, hồi hộp, khâm phục hay 9
- căm ghét...Điều này sẽ tạo cơ sở để giáo dục tư tưởng tình cảm đạo đức một cách đúng đắn cho các em. Giáo viên sử dụng tốt kiến thức liên môn trong dạy học sẽ giúp học sinh định hướng tốt lập trường, tư tưởng chính trị, nhận thức được những vấn đề đúng, sai, tính chính nghĩa và phi nghĩa rõ ràng trước những vấn đề lịchsử quá khứ và hiện tại. Các em sẽ biết cân nhắc để ứng xử đúng đắn trong xã hội. Ví dụ: Khi dạy học bài 16: “Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng tám (1939 1945). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” (sách giáo khoa lớp 12 trung học phổ thông chương trình chuẩn). Thông qua kiến thức văn học và lịch sử để giáo dục tinh thần đạo đức cho học sinh, giáo viên yêu cầu học sinh sử dụng kiến thức văn học trong bài “Tức cảnh Pác Bó” và “Cảnh rừng Pác Bó” để hiểu hơn về tinh thần lạc quan của Bác. Giáo viên đặt câu hỏi gợi mở: Thông qua nội dung kiến thức đã học trong môn Văn học và Lịch sử em hãy cho biết: Khi về nước Bác chọn nơi nào để dừng chân ? Trong những ngày ở Pác Bó Bác sống ra sao ? (điều kiện cơ sở vật chất, thời tiết k hí hậu). Những việc làm của Bác gợi cho chúng ta suy nghĩ gì ? Khi tự mình làm rõ câu hỏi của giáo viên bằng cách sử dụng kiến thức văn học, địa lí và lịch sử học sinh sẽ hiểu sâu sắc rằng sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc về nước vào tháng 1 năm 1941. Người về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người chọn Cao Bằng làm nơi dừng chân và làm căn cứ chỉ đạo cách mạng vì nơi đây có địa hình hiểm trở, rất an toàn. 7.1.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu 7.1.2.1. Về phía giáo viên Thực trạng của việc dạy học lịch sử ở trườngtrung học phổ thông hiện nay Có nhiều giáo viên tâm huyết đã có những biện pháp đổi mới nhằm nâng cao chất lượng môn lịch sử. Tuy nhiên việc dạy và học môn lịch sử hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập. Công tác giảng dạy của giáo viên còn 10
- nặng về trình bày các sự kiện, ít liên hệ kiến thức lịch sử với thực tế đời sống xã hội. Xã hội chưa quan tâm và chưa đặt môn lịch sử đúng vị trí của nó nên một số giáo viên chưa toàn tâm, toàn lực cho sự nghiệp mình lựa chọn. Thực trạng của việc sử dụng kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử ở trườngtrung học phổ thông hiện nay Về phía giáo viên, chúng tôi điều tra theo những nội dung sau: Thứ nhất là: Có cần tạo hứng thú học tập lịch sử cho học sinh không ? Thứ hai là: Có cần phải sử dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy lịch sử không ? Thứ ba là: Quan niệm về kiến thức gần gũi với bộ môn Lịch sử là kiến thức về Văn học, Địa lí, Chính trị. Kết quả thu được như sau: có 100% số giáo viên được hỏi đều đồng ý với nội dung trên. Điều đó chứng tỏ 100% giáo viên đều quan tâm đến việc sử dụng kiến thức liên môn vào dạy học lịch sử. Có nhiều giáo viên quan tâm đến việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử trong đó có phương pháp sử dụng kiến thức liên môn. Tuy nhiên, trên thực tế việc giáo viên sử dụng kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử chưa đạt hiệu quả. Một số giáo viên có sử dụng kiến thức liên môn nhưng chưa có kế hoạch cụ thể và mới dừng lại ở mức nhắc lại hoặc gợi lại kiến thức ở các môn mà các em đã được học. Học sinh thì không biết vận dụng kiến thức của các môn vào học tập nên gây sự lúng túng đối với cả giáo viên và học sinh , hay yêu cầu học sinh nhớ, hoặc vận dụng kiến thức đã học ở các môn học khác vào học tập lịch sử. Tuy nhiên, có 22% giáo viên có nhận thức đầy đủ hơn thì cho rằng khi sử dụng kiến thức liên môn là yêu cầu học sinh nhớ và vận dụng kiến thức đã học vào học tập lịch sử. Giáo viên cần hiểu rõ vai trò của kiến thức liên môn mới có thể đầu tư thời gian, công sức cho việc tìm hiểu nội dung cũng như có biện pháp sử dụng để đạt hiệu quả cao. Kiến thức liên 11
- môn không chỉ là nguồn kiến thức tham khảo mà còn một yêu cầu không thể thiếu đối với bài giảng nhằm mục tiêu giáo dưỡng, giáo dục và phát triển học sinh. Đối với phương pháp sử dụng kiến thức liên môn thì có tới 88% giáo viên đã kết hợp các phương pháp vào giảng dạy lịch sử như phương pháp giải thích, phân tích, trao đổi đàm thoại. Điều đó chứng tỏ giáo viên đã rất quan tâm đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy lịch sử. 7.1.2.2. Về phía học sinh Tôi đã tiến hành điều tra học sinh theo những nội dung sau: Thứ nhất: Môn học yêu thích nhất của học sinh ? Thứ hai: Khối thi mà các em lựa chọn ? Thứ ba: Ý thức, tinh thần, thái độ của học sinh trong giờ học lịch sử. Kết quả thu được như sau: chỉ có 5% số học sinh thích học môn lịch sử nhất, có 19% số học sinh thi vào khối C và có 30% số học sinh có tinh thần hăng hái trong giờ học lịch sử. Điều này chứng tỏ các em không chú trọng vào các môn khoa học xã hội nói chung và môn lịch sử nói riêng. Có nhiều lí do về phía khách quan, do quan niệm của xã hội và do chính bản thân giáo viên chưa gây được hứng thú học tập lịch sử cho học sinh *Mức độ yêu thích môn lịch sử của học sinh Như vậy, có 66 % các em học sinh trả lời là thích học lịch sử trong đó chỉ có khoảng 19% học sinh có nguyện vọng thi vào khối C. Điều đó chứng tỏ các em vừa thích, vừa sợ học lịch sử. Thích vì được tìm hiểu quá khứ, cội nguồn của dân tộc để biết mình là ai, từ đâu đến, với những chặng đường lịch sử anh dũng của cha ông, nhưng đồng thời cũng sợ môn lịch sử vì có quá nhiều sự kiện và năm tháng. Bên cạnh đó vẫn còn 11 % số học sinh không thích học lịch sử. Các em có thái độ thờ ơ, lạnh lùng với lịch sử và cho rằng môn lịch sử buồn tẻ, 12
- toàn là những con số khô khốc với những chi tiết bề bộn vô hồn khó nhớ. Các em còn quan niệm rằng môn lịch sử không phải là khối thi vào đại học nên ít đầu tư cho việc học tập ở nhà: ôn bài cũ, chuẩn bị bài mới, tìm đọc các tài liệu tham khảo, các tài liệu có liên quan đến lịch sử. Các em chỉ học vẹt hoặc học ở hình thức đối phó. Có nhiều em nhận thức tốt, có tư duy lôgic trong học tập lịch sử. Tuy nhiên các em vẫn không dành thời gian học tập lịch sử như các môn học khác. Khi Bộ GD&ĐT công bố môn thi tốt nghiệp vào cuối tháng 3 có môn lịch sử thì lúc đó học sinh mới bắt đầu học và ôn thi một cách “nhồi nhét Còn đối với các em thi đại học thì kết quả bài thi môn lịch sử năm nào cũng rơi vào tình trạng buồn thê thảm. Hứng thú của học sinh đối với kiến thức liên môn trong học tập lịch sử Không phải học sinh hoàn toàn thờ ơ với môn lịch sử, hoặc có thái độ bình thường hay không thích học môn này. Khi được hỏi, trong giờ lịch sử nếu thầy (cô) sử dụng kiến thức văn học, địa lí, chính trị thì em sẽ cảm thấy thế nào ? Có 87% học sinh trả lời là hấp dẫn và dễ hiểu, trong đó có cả các em có thái độ thờ ơ, lạnh lùng với môn lịch sử. Chỉ có 13% học sinh cho là bình thường, bởi vì trong những giờ học đó giáo viên nhắc lại qua loa, thậm chí có khi còn bỏ qua. Điều đó chứng tỏ sử dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy lịch sử và có phương pháp sáng tạo để phát huy vai trò của chúng thật sự quan trọng. Các em luôn mong muốn được thầy (cô) hướng dẫn mình nhớ lại hoặc vận dụng kiến thức các môn học khác vào học tập lịch sử để làm sáng tỏ thêm kiến thức lịch sử và ngược lại. Vì kiến thức của nhiều môn học có liên quan đến lịch sử. Một vấn đề đặt ra ở đây là giáo viên chưa quan tâm nhiều tới việc hướng dẫn các em chuẩn bị bài mới bằng biện pháp tìm hiểu kiến thức các môn có liên quan đến lịch sử. Kết quả là các em đã được học nhưng chỉ nhớ mang máng nội dung và chưa có khả năng vận dụng kiến thức các môn liên quan vào để phân tích, liên hệ và làm sáng tỏ kiến thức môn lịch sử. Do vậy, các em chưa thực sự hứng thú với việc vận dụng kiến thức liên môn. Các em chưa thấy được vai trò, ý nghĩa và mối quan hệ giữa các môn học. 13
- 7.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN NHẰM GÂY HỨNG THÚ HỌC TẬP LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945 Ở LỚP 12 TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 7.2.1. Vị trí, mục đích, nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 ở trường trung học phổ thông 7.2.1.1. Vị trí, mục đích chương trình lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 ở trường trumg học phổ thông Vị trí Phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 rất quan trọng vì đây là giai đoạn lịch sử có Đảng lãnh đạo. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt lịch sử vĩ đại cho các mạng Việt Nam. Từ đây cách mạng Việt Nam chấm dứt thời kì khủng hoảng về đường lối lãnh đạo. Đảng ra đời đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các phong trào đấu tranh tiêu biểu như phong trào cách mạng 1930 1935, phong trào dân chủ 1936 1939 và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc 1939 1945 đưa cách mạng tháng Tám năm 1945 đến thắng lợi hoàn toàn. Cách mạng tháng Tám đã mở ra kỉ nguyên mới cho lịch sử dân tộc: kỉ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Mục đích Học tập giai đoạn lịch sử này yêu cầu học sinh đạt được: Về mặt giáo dưỡng: Yêu cầu học sinh biết và hiểu về hoàn cảnh thế giới giai đoạn này đã tác động đến cách mạng Việt Nam và 3 giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam: phong trào cách mạng 1930 1935, phong trào dân chủ 1936 1939, phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939 1945), nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Về mặt kĩ năng: Có kĩ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, liên hệ và đánh giá các sự kiện lịch sử, biết rút ra bài học kinh nghiệm cho cách mạng
- Việt Nam, kĩ năng làm việc với tài liệu lịch sử, sử dụng đồ dùng trực quan và sử dụng kiến thức liên môn. Về mặt giáo dục: Bồi dưỡng niềm tự hào về sự nghiệp đấu tranh của Đảng, của dân tộc, giáo dục cho các em lòng yêu nước, biết quý trọng độc lập, tự do, trân trọng, gìn giữ những thành quả mà Đảng ta đã giành được. Từ đó thấy được trách nhiệm của bản thân đối với quê hương, đất nước. 7.2.1.2. Nội dung kiến thức cơ bản * Nội dung kiến thức cơ bản của lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 Từ năm 1930 đến năm 1931: Dưới sự lãnh đạo của Đảng phong trào Cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, tiêu biểu là phong trào cách mạng 1930 1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ Tĩnh. Ở Nghệ An Hà Tĩnh, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, nhân dân đã đứng lên tự quản lí đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hôi ở địa phương, làm chức năng của chính quyền gọi là “Xô viết”. Chính quyền Xô viết Nghệ Tĩnh đã thi hành nhiều chính sách tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đem lại quyền lợi cho nhân dân. Trước tác động to lớn của phong trào, từ giữa năm 1931, thực dân Pháp khủng bố dã man làm cho phong trào cả nước dần lắng xuống. Trong những năm 1932 1935 diễn ra cuộc đấu tranh phục hồi phong trào cách mạng. Từ năm 1936 đến năm 1939: Tình hình thế giới thay đổi, các thế lực phát xít lên cầm quyền ở một số nước, chuẩn bị chiến tranh thế giới. Năm 1936 Chính phủ Mặt trận nhân dân lên cầm quyền ở Pháp đã cho thi hành một số chính sách tiến bộ ở thuộc địa. Trước tình hình đó, Đảng lãnh đạo nhân dân chuyển sang hình thức đấu tranh công khai đòi những mục tiêu trước mắt: đòi dân sinh, dân chủ, cơm áo hòa bình, tạm gác khẩu hiểu cách mạng ruộng đất. Trước sức mạnh đoàn kết của quần chúng, phong trào dân chủ 1936 1939 đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu
- sách trước mắt. Cuối năm 1939, chính phủ mặt trận nhân dân Pháp thiên sang hữu, các thế lực phản động lên nắm quyền, phong trào dân chủ ở Việt Nam dần dần lắng xuống và chấm dứt khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Từ năm 1939 đến năm 1945: Chiến tranh thế giới thứ hai đã tác động đến kinh tế, chính trị, xã hội nhiều nước. Ở Đông Dương, chính quyền thực dân mới thực hiện một loạt chính sách nhằm vơ vét sức người, sức của để dốc vào cuộc chiến tranh. Từ cuối tháng 9/1940 Nhật nhảy vào miền Bắc Việt Nam. Quân Pháp nhanh chóng đầu hàng. Phát xít Nhật giữ nguyên bộ máy thống trị của thực dân Pháp, dùng nó để vơ vét kinh tế phục vụ cho nhu cầu chiến tranh và đàn áp phong trào cách mạng. Trước sự thay đổi của tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta đã chuyển hướng chỉ đạo cách mạng Việt Nam qua Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939, đặc biệt là Hội nghị Trung ương lần thứ 8 tháng 5/1941: đề cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Đồng thời Đảng ta tích cực chuẩn bị về mọi mặt cho tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Bước sang năm 1945, trên chiến trường châu Âu, phát xít Đức bị thất bại nặng nề. Ở mặt trận châu Á Thái Bình Dương, quân Nhật liên tiếp thất bại. Ở Đông Dương, ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương. Ngày15/8/1945, Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Chớp thời cơ đó,Đảng lãnh đạo nhân dân cả nướcTổng khởi nghĩa giành chính quyền. Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được thành lập. Xác định nội dung kiến thức lịch sử cần thiết và có thể sử dụng kiến thức liên môn * Kiên thức về Văn học: Giáo viên yêu cầu học sinh hiểu được những nét cơ bản của tình hình nước ta trong giai đoạn 1930 1931, phong trào nổ ra trong phạm vi cả nước, mạnh mẽ nhất là ở Nghệ An Hà Tĩnh. Trước sự phát triển mạnh mẽ của
- phong trào, Pháp thi hành chính sách khủng bố dã man nhằm tiêu diệt Đảng Cộng sản và dập tắt phong trào cách mạng nước ta. Cùng với chính sách khủng bố, thực dân Pháp thi hành chính sách lừa bịp nhằm phân hóa, lôi kéo nhân dân, xoa dịu phong trào của quần chúng. Trước sự khủng bố tàn bạo của kẻ thù Đảng bị tổn thất nặng nề, nhưng sức sống của Đảng không bị tiêu diệt. Đảng tiếp tục lãnh đạo nhân dân đấu tranh . Cũng thời gian này, trong nhà tù của thực dân đế quốc, các nhà văn, nhà thơ cộng sản như: Trần Huy Liệu, Nguyễn Văn Tạo. đã sáng tác văn học, ca ngợi tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân, tinh thần lạc quan cách mạng, tin tưởng vào ngày mai tương sáng của dân tộc. Tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Bước đường cùng”, “Tinh thần thể dục” của Nguyễn Công Hoan, “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Giăng sáng”, “Đời thừa”... của Nam Cao, thơ ca trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân, bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu, “Tức cảnh Pắc Bó”, “Cảnh rừng Pắc Bó”, “Nhật kí trong tù ”, “ Diễn ca Mười chính sách của Việt Minh ” của Hồ Chí Minh. Khi bị địch bắt giam, các nhà thơ yêu nước có thời gian giành cho nghệ thuật nhiều hơn. Chính vì thế, những tác phẩm đặc sắc của họ lại thường là những bài thơ được sáng tác trong hoàn cảnh bị tù đày: Thơ của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Văn Can, Sóng Hồng, Trần Huy Liệu, Xuân Thủy...Hồ Chí Minh, Tố Hữu. * Kiến thức về Địa lí: Sử dụng lược đồ tự nhiên vùng Bắc Trung Bộ kết hợp với lược đồ phong trào trào Xô viết Nghệ Tĩnh để xác định địa điểm xảy ra các cuộc đấu tranh và lí giải điều kiện tự nhiên đã ảnh hưởng, tác động đến phong trào đấu tranh như thế nào.
- Lược đồ phong trào dân chủ 1936 1939 để tìm hiểu những nơi xảy ra các cuộc đấu tranh lớn. Lược đồ khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kì, binh biến Đô Lương, lược đồ khu giải phóng Việt Bắc, lược đồ Cách mạng tháng Tám năm 1945 để tìm hiểu nơi diễn ra các cuộc khởi nghĩa. * Kiến thức về Chính trị Giáo dục công dân:
- 7.2.2. Luận cương chính trị, Cương lĩnh chính trị, sách lược cách mạng, chiến lược cách mạng, thời cơ, vai trò của quần chúng, sự lãnh đạo của Đảng, lí luận Mác Lênin, Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, Mặt trận, Tuyên ngôn, Chương trình. Những yêu cầu khi sử dụng kiến thức liên môn để gây hứng thú học tập lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 ở lớp 12 trường trung học phổ thônh 7.2.2.1. Sử dụng kiến thức liên môn phải đáp ứng được mục tiêu môn học Mục tiêu là cái định hướng để đi tới, để hành động. Mục tiêu bài học chính là cái đích khi tiến hành dạy học mà thầy và trò phải đạt. Thầy phải đạt được mục tiêu kế hoạch dạy học, còn trò phải đạt được mục tiêu về kiến thức, tư tưởng, kỹ năng. Kiến thức liên môn là biện pháp hữu hiệu giúp giáo viên thực hiện được những mục tiêu dạy học đã đề ra đối với bài học lịch sử. Do vậy, phải xác định biện pháp sử dụng kiến thức liên môn trong giờ nội khóa hay hoạt động ngoại khóa phải căn cứ vào mục tiêu dạy học bộ môn. Để đáp ứng mục tiêu dạy học bộ môn, giáo viên cần xác định mục đích khi sử dụng kiến thức liên môn, xem xét các biện pháp sử dụng kiến thức liên môn có ý nghĩa như thế nào đối với học sinh về kiến thức, tư tưởng, kỹ năng.. .để việc sử dụng có hiệu quả. 7.2.2.2. Dạy tích hợp liên môn phải giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức cơ bản của bài học Kiến thức cơ bản là những kiến thức cần thiết cho việc hiểu biết của học sinh về lịch sử như: sự kiện, niên đại, khái niệm lịch sử...Giáo viên cần xác định kiến thức trọng tâm, nội dung cơ bản của bài kết hợp sử dụng kiến thức liên môn để làm nôi bật kiến thức cơ bản, giúp học sinh nắm vững kiến thức, khái niệm, rút ra bài học và quy luật lịch sử. Kiến thức liên môn được sử dụng trong dạy học lịch sử phải là những kiến thức có chọn lọc, điển hình để nhằm cụ thể hóa các sự kiện, hiện tượng đang học, hoặc chứng minh một luận điểm khoa học để hiểu sâu sắc hơn một
- sự kiện, một thời kì lịch sử. Kiến thức liên môn sử dụng phải hợp lý để học sinh nắm được sâu sắc nội dung bài học. Cần phải đảm bảo được trọng tâm kiến thức lịch sử, không sa đà vào kiến thức các môn khác và không làm loãng kiến thức lịch sử, không làm phân tán sự chú ý của học sinh. Đặc biệt giáo viên cần nắm chắc kiến thức liên môn để khi sử dụng phải đảm bảo tính chính xác nội dung lịch sử được phản ánh, tránh xuyên tạc sự thật lịch sử hoặc “gây sốc ” cho học sinh bằng những tình tiết giật gân, li kì không cần thiết. Đối với tài liệu văn học phải loại bỏ những loại truyện kiếm hiệp, tiểu thuyết võ hiệp xuyên tạc lịch sử, ảnh hưởng xấu đến việc hình thành tri thức lịch sử, giáo dục tư tưởng tình cảm cho học sinh. Dạy lịch sử phải giữ vững tính độc lập, dựa vào đặc trưng, nội dung của môn học, như vậy hiệu quả mới cao, không có sự trùng lặp, công thức, giáo điều. Kiến thức liên môn phải phù hợp với mục đích yêu cầu bài giảng và tính chất của từng sự kiện, hiện tượng lịch sử. 7.2.2.3. Dạy tích hợp liên môn để gây hứng thú học tập cho học sinh phải góp phần phát triển năng lực tư duy và kĩ năng thực hành bộ môn cho học sinh. Khi sử dụng kiến thức liên môn giáo viên cần dẫn dắt học sinh từ chỗ nhớ lại kiến thức đến chỗ biết sử dụng kiến thức của các môn có liên quan vào phân tích, đánh giá.. .để làm sáng tỏ kiến thức lịch sử. Việc sử dụng kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử có tác dụng trong việc phát triển nhận thức cho học sinh. Qua niềm say mê, hứng thú bộ môn giúp học sinh phát huy được tư duy độc lập, biết cách tổ chức các công việc mà thầy cô giao cho. Việc để các em tìm kiếm, sử dụng các tài liệu phục vụ cho bài học sẽ phát huy được năng lực nhận thức độc lập, rèn luyện kĩ năng thực hành bộ môn khiến các em không những chỉ hứng thú mà còn tự tin trong học tập, tránh được lối học thụ động. Trong các hoạt động xã hội, thực hành bộ môn còn bồi dưỡng kĩ năng, rèn luyện những phẩm chất tốt đẹp, những hành động yêu nước cho thế hệ trẻ.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp nâng cao thành tích môn nhảy xa kiểu ưỡn thân
13 p | 317 | 48
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số đề xuất nhằm gây hứng thú tập luyện Thể dục thể thao cho học sinh THPT
8 p | 181 | 22
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường sử dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy môn Toán THPT
37 p | 40 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM trong bài Cacbon của chương trình Hóa học lớp 11 THPT
19 p | 138 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng mô hình học tập Blended Learning trong dạy học chủ đề 9 Tin học 11 tại Trường THPT Lê Lợi nhằm nâng cao hiệu quả học tập
16 p | 22 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tích hợp một số phương pháp trong dạy học STEM Hóa học tại Trường THPT Nho Quan A - Ninh Bình
65 p | 21 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hệ thống bài tập Hóa học rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong chương trình Hóa học THPT
47 p | 15 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo mô hình STEM bài Sự điện li của nước. pH. Chất chỉ thị axit – bazơ và bài Ankan, Hoá học 11 ở trường THPT
56 p | 18 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp thực hiện một số công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trong dạy học môn Địa lí ở trườngTHPT Lạng Giang số 2
57 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Kinh nghiệm tổ chức dạy học trực tuyến tại trường THPT Trần Đại Nghĩa giai đoạn 2020-2022
23 p | 22 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo nhóm góp phần giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
10 p | 14 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn bài 13. lực ma sát – Vật Lí 10 cơ bản
36 p | 78 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép giáo dục ý thức chống rác thải nhựa qua dạy học môn GDCD 11 trường THPT Nông Sơn
33 p | 19 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học Hóa học và vấn đề phát triển kinh tế, xã hội, môi trường gắn với trải nghiệm sáng tạo nhằm phát huy giáo dục địa phương ở trường THPT Bình Minh
77 p | 22 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học STEM chủ đề Sự biến đổi chất - Sắc nến lung linh
34 p | 20 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p | 11 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học tích hợp liên môn Lịch sử - Ngoại ngữ - Giáo dục công dân
60 p | 34 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn