intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đa dạng hóa hoạt động luyện tập trong dạy học thơ ca cách mạng Việt Nam 1930-1945 (Ngữ văn 11 tập 2) nhằm bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:60

43
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Đa dạng hóa hoạt động luyện tập trong dạy học thơ ca cách mạng Việt Nam 1930-1945 (Ngữ văn 11 tập 2) nhằm bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh" nhằm biết xác định nhiệm vụ học tập, nhận nhiệm vụ để tiếp cận tri thức và củng cố, phát triển phẩm chất, năng lực của mình; Thiết kế nội dung hoạt động Luyện tập trong Kế hoạch bài dạy nhằm đáp ứng yêu cầu mới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đa dạng hóa hoạt động luyện tập trong dạy học thơ ca cách mạng Việt Nam 1930-1945 (Ngữ văn 11 tập 2) nhằm bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh

  1. A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Vào những thập niên cuối của thế kỉ 20 các nhà giáo dục tiến bộ trên thế giới họp bàn và đi đến thống nhất quan điểm thế kỉ 21 là thế kỉ học tập suốt đời. Để làm được điều đó họ đã xây dựng nên 4 trụ cột: Học để biết; Học để làm; Học để làm người và Học để chung sống. Nắm được xu hướng thế giới như vậy để theo kịp tinh thần đó Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện quan điểm đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục nước nhà. Đổi mới chứ không phải là thay đổi nghĩa là luôn có tính kế thừa, một trong những quan điểm đó chính là học để làm, học đi đôi với hành, quan điểm giáo dục học sinh sẽ vận dụng kiến thức kĩ năng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Để học tập suốt đời thì học sinh phải học được phương pháp tiếp cận do đó chúng ta đã thay đổi phương pháp dạy học. Trong kế hoạch dạy học hiện nay chúng ta đã xây dựng trên quan điểm 04 hoạt động trong 01 tiết học: thứ nhất là khởi động tạo tâm thế tiếp nhận, thứ hai hình thành kiến thức, thứ ba là luyện tập và thứ tư là vận dụng. Từ các hoạt động đó chúng tôi nhận thấy để tạo sự ghi nhớ cách làm thì khâu luyện tập đóng vai trò quan trọng, then chốt của vấn đề. Nắm được tầm quan trọng đó chúng ta cần xây dựng một hệ thống cách thức thực hiện đa dạng để tránh tình trạng nhàm chán máy móc ở một phương pháp dạy học. 2. Chương trình giáo dục phổ thông mới chuyển đổi mục tiêu dạy học từ chỗ dạy cho học sinh biết cái gì sang mục tiêu học sinh làm được gì sau khi đã học. Điều này có thể xem là một bước đột phá của việc đổi mới trong ngành giáo dục. Nếu như trước đây, quá trình dạy học, giáo viên chủ yếu tập trung trang bị cho học sinh của mình những kiến thức thông qua các bài học. Chủ yếu đó là những kiến thức lí thuyết, nghĩa là mới dừng lại ở chỗ học sinh biết cái gì. Có thể nói điều đó là không sai bởi kiến thức luôn đóng vai trò trọng tâm trong học tập nhưng khi xã hội phát triển thì giáo dục cần có sự chuyển hướng biến tri thức đó gắn liền thực tiễn cuộc sống. Học không chỉ để biết mà còn để làm và làm người, học không phải cho một cá nhân mà là để chung sống. 1
  2. 3. Để thực hiện tốt một giờ dạy học, giáo viên luôn xác định rõ mục tiêu bài học về kiến thưc, kĩ năng, thái độ cũng như năng lực cần hướng tới...Đồng thời xây dựng bài học qua hệ thống các hoạt động một cách cụ thể đầy đủ như: hoạt động khởi động, hoạt động hình thành kiến thức mới, hoạt động luyên tập, hoạt động vận dụng. Qua thực tiễn dạy học chúng tôi nhận thấy, trong bốn hoạt động đó, khi dạy học trên lớp, giáo viên thường dành phần nhiều thời gian cho hoạt động hình thành kiến thức mới, có thể xem đây là hoạt động trọng tâm, cần thiết, còn thời gian dành cho các hoạt động khác tương đối ít, đặc biệt là hoạt động luyện tập. Đây là một thực trạng trong dạy học Ngữ Văn nói chung và trong tiết dạy về thơ ca cách mạng 1930-1945 nói riêng. Vậy nên, hoạt động luyện tập nên tổ chức thực hiện như thế nào, cần lượng thời gian bao nhiêu, học sinh cần chuẩn bị những gì, hoạt động ra sao để tiết học mang lại hiệu quả cao trong việc đạt mục tiêu học sinh làm được gì sau khi học có rất nhiều vấn đề cần trăn trở, bàn bạc... Trên cơ sở đó, xây dựng đề tài này chúng tôi sẽ đi sâu bàn về việc tổ chức hoạt động luyện tập như thế nào trong giờ dạy học thơ ca cách mạng 1930-1945 để nâng cao chất lượng giờ học nhằm phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực cho học sinh Mặt khác thông qua đề tài này chúng tôi hi vọng sẽ mang đến cho đồng nghiệp những phương pháp dạy học tích cực, phù hợp khi dạy thơ ca cách mạng 1930-1945, đặc biệt là văn bản Từ ấy của Tố Hữu và Chiều tối của Hồ Chí Minh. Đồng thời thông qua diễn đàn này để có cơ hội trao đổi với đồng nghiệp từ đó rút ra cho bản thân những kinh nghiệm dạy học bổ ích nhằm mang lại hiệu quả cao cho mỗi giờ dạy. Trên đây là nhưng lí do để tôi lựa chon đề tài Đa dạng hóa hoạt động luyện tập trong dạy học thơ ca cách mạng Việt Nam 1930-1945 (Ngữ văn 11 tập 2) nhằm bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh. II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU, MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu 2
  3. Hoạt động Luyện tập trong dạy học Ngữ Văn nhằm phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh. Thực nghiệm qua 02 văn bản Từ ấy của Tố Hữu và Chiều Tối của Hồ Chí Minh 2. Mục đích nghiên cứu - Đối với học sinh: Biết xác định nhiệm vụ học tập, nhận nhiệm vụ để tiếp cận tri thức và củng cố, phát triển phẩm chất, năng lực của mình. - Đối với giáo viên: Thiết kế nội dung hoạt động Luyện tập trong Kế hoạch bài dạy nhằm đáp ứng yêu cầu mới. III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng các phương pháp sau đây: 1. Phương pháp khảo sát so sánh 2. Phương pháp thực nghiệm 3. Phương pháp phân tích, bình luận IV. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI Đề tài được thực hiện theo cấu trúc gồm có ba phần: + Phần đặt vấn đề: Thực hiện những nội dung mở đầu cho đề tài nghiên cứu. + Phần nội dung : Triển khai cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài + Phần kết luận: Thực hiện tóm tắt những nội dung đã làm và những đề xuất đối với giáo viên và học sinh. B. NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 3
  4. I. PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC 1. Khái niệm phẩm chất Phẩm chất được xem là những chuẩn mực hành vi làm nên giá trị của con người. Hay nói cụ thể hơn phẩm chất là những yếu tố đạo đức, hành vi ứng xử, những tình cảm cao quý, ý thức chấp hành thực hiện tốt các chuẩn mực của xã hội, của pháp luật được hình thành trong một quá trình rèn luyện, giáo dục lâu dài ở mỗi cá nhân. 2. Khái niệm năng lực Năng lực được xem là khả năng huy động tổng hợp các kiến thức (tri thức) kĩ năng, phẩm chất vào việc giải quyết các vấn đề diễn ra trong cuộc sống nhằm hướng đến sự thành công ở một lĩnh vực cụ thể nào đó. Năng lực biểu hiện cụ thể và đa dạng. Mỗi người thường có những năng lực - thế mạnh riêng. Chính vì vậy phát huy được thế mạnh là một trong những yếu tố góp phần tạo nên những giá trị cho cuộc sống của mỗi người Năng lực được phân làm hai nhóm, năng lực chung và năng lực đặc thù. Năng lực chung là năng lực cơ bản, cần thiết mà bất cứ người nào cũng có để sống, học tập, làm việc. Đó là những năng lực mà chúng ta cần vận dụng thường xuyên liên tục diễn ra hàng ngày trong cuộc sống. Còn năng lực riêng hay có thể gọi là năng lực đặc thù thường biểu hiện trên từng lĩnh vực khác nhau, năng lực này có khả năng hình thành nên sở trường, thế mạnh ở mỗi người. 3. Phương pháp dạy học nhằm bồi dưõng phẩm chất, năng lực cho học sinh Việc hình thành phẩm chất, năng lực cho học sinh có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình dạy học. Đó là một hành trình dài mà các em phải nỗ lực không ngừng để rèn luyện bản thân. Tuy nhiên để đạt được kết quả, một trong những yêu tố không thể thiếu đó chính là người dạy học phải luôn sáng tạo, vận dụng phương pháp dạy học tích cực, lập kế hoạch dạy học phù hợp với đối tượng học sinh từ đó phát huy tối đa những năng lực, phẩm chất của các em. Quan điểm giáo dục đổi mới luôn xác định phẩm chất và năng lực là hai thành tố chủ yếu, quan trọng cấu thành nhân cách con người. Bởi vì sự hình thành và phát triển 4
  5. nhân cách của mỗi cá nhân chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như di truyền, môi trường sống, giáo dục và hoạt động của cá nhân đó. Trong chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 đã định hướng phát triển năm phẩm chất chủ yếu và mười năng lực cốt lõi. Chính vì vậy ở mỗi trường học, cán bộ, giáo viên đã có những chuyển động trong việc đổi mới công tác quản lí cũng như đổi mới phương pháp dạy học được thực hiện một cách chủ động và sáng tạo qua từng môn học thể hiện rõ trong các hoạt động, hình thức giáo dục nhằm phát triển hài hòa, đầy đủ những phẩm chất, năng lực cho học sinh. Những phẩm chất, năng lực cần hướng tới đó là: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. Mười năng lực hướng tới bao gồm ba năng lực chung, năng lực tự chủ tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo và bảy năng lực chuyên môn, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực công nghệ, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất, năng lực tin học, năng lực tính toán và năng lực ngôn ngữ. Phương pháp dạy học nhằm bồi dưõng phẩm chất, năng lực cho học sinh Về nhận thức, mỗi cán bộ, giáo viên cần nhân thức sâu sắc đổi mới giáo dục là chủ trương hết sức đúng đắn, phù hợp với nền giáo dục nước ta hiện nay và phù hợp với xu thế phát triển của giáo dục trong khu vực và trên thế giới. Với tính chất đặc biệt quan trọng như thế, có thể xem việc đổi mới giáo dục là tất yếu để đưa ngành giáo dục nước ta có một bước tiến mới, góp phần vào việc đào tạo ra một nguồn nhân lực, những con người vừa hồng vừa chuyên có thể đảm đương được những nhiệm vụ của thời đại mới. Dạy học nhằm tập trung phát triển phẩm chất, năng lực là yêu cầu tiên quyết trong việc phát triển hoàn thiện nhân cách cho người học. Như chúng ta đã biết nhân cách là chủ thể thống nhất giữa hai mặt phẩm chất và năng lực chính vì vậy việc rèn luyện đạo đức, chuẩn hóa những hành vi ứng xử cũng như bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện kĩ năng sống tích cực sẽ là yếu tố hàng đầu mà người dạy học cần duy trì ngọn lửa thổi vào tâm hồn cũng như nhận thức của học sinh. Khơi dậy ở các em những phẩm chất đáng quý, những năng lực cần thiết giúp các em chủ động trong việc xử lí các tình huống diễn ra trong cuộc sống. 5
  6. Bên cạnh đó chúng ta cũng cần xác định dạy học phát triển phẩm chất, năng lực vừa là mục tiêu của giáo dục vừa là một nội dung giáo dục đồng thời cũng là phương pháp giáo dục. Cho nên dạy học nhằm phát triển phẩm chất, năng lực có một ưu thế vượt trội trong việc hình thành nhân cách, phát huy năng lực thông qua các hoạt động đặc biệt là những hoạt đông của cá nhân học sinh trong, ngoài giờ học, hoạt động giao tiếp, hoạt động trải nhgiệm… Để làm tăng thêm hiệu quả của việc dạy và học, phát huy tối đa phẩm chất năng lực ở học sinh, trong quá trình lập kế hoạch dạy học chúng ta cần giao nhiệm vụ phù hợp với đối tượng học sinh. Nghĩa là giáo viên phải nắm bắt đánh giá sát phẩm chất, năng lực của các em, thấy được điểm mạnh để phát huy, điểm yếu để giúp các em khắc phục. Trong các hoạt động, đặc biệt là hoạt động luyện tập, cần được quan tâm, chú trọng tổ chức thực hiện một cách khoa học, công phu, có điểm nhấn tạo điều kiện tối đa để học sinh vận dụng kiến thức vừa học để hoạt động nhằm tràu dồi phẩm chất, phát huy năng lực khi giải quyết các tình huống. Để làm tốt nhiệm vụ đó trong hoạt động này, giáo viên cần để học sinh thực hiện các nhiệm vụ hoạt động như: viết đoạn văn, phát biểu theo chủ đề, thuyết trình, đóng vai, điền thông tin, thảo luận giải quyết một tình huống phức tạp. II. HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP TRONG GIỜ ĐỌC – HIỂU THƠ 1. Khái niệm Luyện tập Theo từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, năm 2006 cho rằng Luyện Tập là “làm đi làm lại nhiều lần theo nội dung đã học để cho thành thạo” (tr 596). Đây là quá trình diễn ra lâu dài và liên tục. Đối với học sinh đó là khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng để thực hành giải quyết các tình huống đặt ra nhằm bồi dưỡng phẩm chất cũng như năng lực, giúp các em ngày càng trưởng thành, sẵn sàng đối mặt và giải quyết tốt các vấn đề xảy ra trong cuộc sống. 2. Một số yêu cầu của hoạt động Luyện tập 6
  7. Để đạt được hiệu quả cao trong việc tổ chức hoạt động luyện tập, khi xây dựng kế hoạch dạy học, giáo viên cần phải xác định rõ mục đích và những yêu cầu cụ thể. Ở mỗi bài học, tiết học thường có những mục đích và yêu cầu nhất định. Cho nên việc xác định và cụ thể hóa các mục đích và yêu cầu trong hoạt động này có ý nghĩa quan trọng để thực hiện những nội dung tiếp theo. Trong quá trình luyện tập chúng ta phải tiến hành theo một trình tự chặt chẽ. Việc đầu tiên là giáo viên cần cụ thể hóa các bước để tổ chức hoạt động. Có thể bước thứ nhất trao đổi mục đích của hoạt động luyện tập, bước thứ hai đưa ra các tình huống yêu cầu học sinh giải quyết, bước thứ ba nhận xét đánh giá kết quả quá trình hoạt động của học sinh và cuối cùng, trước khi kết thúc hoạt động luyện tập giáo viên cần nhấn mạnh những phẩm chất và năng lực mà học sinh cần tiếp tục rèn luyện, phát huy sau quá trình luyện tập. Một trong những yêu cầu hết sức cần thiết khi hoạt động luyện tập là học sinh phải nắm chắc lí thuyết rồi mới luyện tập và qua luyện tập để hiểu sâu hơn lí thuyết. Đó là khả năng vận dụng kiến thức vào thực hành, từ những hoạt động đó giúp ích cho các em rút ra cho mình những bài học bổ ích, hình thành nên những kĩ năng để có thể đương đầu và vượt qua nhưng khó khăn thử thách của cuộc sống. Khi đưa ra các phương án luyện tập, giáo viên xây dựng hoạt động này cần phải đảm bảo mức độ khó khăn vừa sức đối với những hoàn cảnh khác nhau theo đặc điểm của từng lớp học cụ thể. Có nghĩa là phương án luyện tập phải phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh, giúp tất cả các em thực hiện nhiệm vụ một cách tích cực vào quá trình hoạt động. Luyện tập phải được tiến hành thường xuyên. Thực ra đây là hoạt động không thể thiếu trong kế hoạch dạy học. Tuy nhiên để hình thành nên những phẩm chất, năng lực cho học sinh, giáo viên cần đặc biệt quan tâm đến các hình thức tổ chức luyện tập, sử dụng quỹ thời gian một cách hợp lí. Tùy từng bài học mà giáo viên đặt ra cụ thể các yêu cầu cần đạt, tạo cho các em luôn chủ động phát huy năng lực của bản thân, xem luyện tập như một phần không thể thiếu trong quá trình học tập. 7
  8. 3. Vai trò, vị trí hoạt động Luyện tập trong giờ đọc – hiểu thơ Khi tổ chức các hoạt động dạy học, chúng ta luôn xác định, luyện tập là thao tác sư phạm nhằm kiểm tra đánh giá, cũng là biện pháp để giáo viên thu nhận “tín hiệu phản hồi” từ kết quả tiếp nhận kiến thức của học sinh, đồng thời qua đó khắc sâu thêm kiến thức cho các em. Muốn làm tốt điều đó, giáo viên và học sinh cần phải thực hiện tốt và hoàn thành có hiệu quả các hoạt động khởi động, hoạt động hình thành kiến thức mới bởi đây là những hoạt động có ý nghĩa tạo nền tảng để học sinh phát huy năng lực học tập, tiếp thu kiến thức cũng như kỹ năng thực hiện các nhiệm vụ được giao. Luyện tập trong giờ đọc – hiểu thơ có thể xem là một sự trải nghiệm hết sức bổ ích và lí thú. Tham gia vào quá trình luyện tập học sinh không chỉ thể hiện được kiến thức, sự am hiểu về thơ ca mà cái chính là khi thực hiện những yêu cầu mà giáo viên đưa ra, các em có cơ hội để thể hiện chính mình, phát huy được những năng lực của bản thân, trau dồi những phẩm chất, tự hoàn thiện nhân cách tham gia tích cực vào các hoạt động thiết thực để xây dựng cuộc sống. Trong các giờ đọc - hiểu thơ, việc tổ chức một cách khoa học hoạt động luyện tập sẽ làm cho giờ học trở nên sinh động, gợi được hứng thú cho học sinh, khơi dậy ở các em những rung động thẩm mĩ, thấy được cái hay cái đẹp của thơ ca. Đặc biệt khi tham gia vào các hoạt động luyện tập mà giáo viên đã thiết kế trong kế hoạch dạy học, các em sẽ hình thành nên những kĩ năng, bồi dưỡng tâm hồn, biết lắng nghe, biết chia sẻ, có lối sống lành mạnh tích cực, năng động. Như chúng ta đã biết tất cả các phương pháp giáo dục cần phải tập trung phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động tư duy, sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên. Muốn đạt được điều đó, quan trọng và không thể thiếu được là, người giáo viên phải sử dụng các hình thức rèn kỹ năng luyện tập sáng tạo cho học sinh trong mỗi tiết học. Xem luyện tập là một hoạt động có tác động tích cực nhất trong việc phát huy phẩm chất, năng lực hiệu quả nhất đối với người học. 8
  9. Có thể khẳng định, hoạt động Luyện tập trong giờ đọc – hiểu thơ có vị trí và vai trò hết sức quan trọng. Chính vì vậy khi tổ chức hoạt động này, giáo viên cần nghiên cứu để đưa ra những hình thức phù hợp, khả thi dễ thực hiện. CHƯƠNG 2: MỘT SỐ SÁNG KIÊN THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP TRONG DẠY HỌC THƠ CÁCH MẠNG VIỆT NAM (1930-1945) I. THỰC TRẠNG DẠY HỌC THƠ CA CÁCH MẠNG I.1. Thơ ca cách mạng - Khái niệm thơ ca cách mạng Thơ ca cách mạng được hiểu là tiếng nói của những nhà yêu nước, của các chiến sỹ và quần chúng nhân dân tham gia phong trào cách mạng. Họ coi thơ văn trước hết là một thứ vũ khí sắc bén chiến đấu chống kẻ thù dân tộc, là phương tiện để truyền bá tư tưởng yêu nước và cách mạng, thể hiện tình cảm tình yêu đối với quê hương, đất nước. - Bối cảnh xã hội Từ đầu thế kỷ XX đến cách mạng tháng 8 năm 1945 là giai đoạn rối ren của xã hội Việt Nam. Biết bao biến cố đã xảy ra trên tất cả các phương diện về kinh tế, văn hóa, chính trị…Điều đó đã tác động mạnh mẽ đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân lúc bấy giờ. Có thể nói chính các thế lực thống trị đế quốc thực dân và phong kiến mâu thuẩn nhau cùng với nền kinh tế nước ta giai đoạn này rơi vào tình trạng kiệt quệ bới chế độ sưu thuế nặng nề, nạn đói hoành hành, người chết đói hàng loạt, bên cạnh đó việc thi hành chính sách ngu dân của thực dân Pháp khiến cho số người mù chữ trong nước lên đến 90%. Văn hóa phương Tây cũng ảnh hưởng sâu sắc đến nền văn hóa nước ta về lối sống, nếp nghĩ, tâm hồn và ý thức. Tuy nhiên trong 45 năm đầu thế kỉ này nhiều phong trào đấu tranh của nhân ta đã nổ ra, các tư tưởng mới mẻ xuất hiện, đặc biệt là sự ra đời của Đảng ngày 3 tháng 2 năm 1930 đã có những tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học, trong đó thơ ca cách mạng chịu ảnh hưởng một cách sâu sắc nhất. 9
  10. Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một kỉ nguyên mới. Từ đất nước bị mất chủ quyền, nhân dân nô lệ lầm than trở thành một đất nước độc lập tự do, nhân dân làm chủ. Thành quả đó là quá trình đấu tranh bền bỉ, cùng với việc phát huy sức mạnh của cả dân tộc, đặc biệt là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh. Bối cảnh lịch sử thay đổi đã tác động làm thay đổi cả đời sống văn học. Chính vì vậy, nếu như trước cách mạng văn học nước ta phát triển với nhiều trào lưu, nhiều bộ phận thì sau cách mạng tháng Tám nền văn học phát triển thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn học trở thành một bộ phận cách mạng, phục vụ cho sự nghiệp chung của cả nước. Thế nhưng trong một thời gian ngắn thực dân Pháp lại quay trở lại xâm lược nước ta, trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc, tháng 12 năm 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến, đất nước ta bước vào thời kì đấu tranh lâu dài đánh đuổi thức dân Pháp để bảo vệ nên độc lập, lật đổ chế độ Việt Nam cộng hòa, đánh đuổi đế quốc Mỹ giải phóng miền nam thống nhất đất nước. Trong bối cảnh mới này nền văn học cách mạng có bước phát triển mạnh mẽ trên tất cả các phương diện mà thơ ca là thể loại để lại nhiều dấu ấn nổi bật. + Thành tựu Trước cách mạng tháng Tám văn học nói chung, thơ ca nói riêng phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu to lớn. Nếu như ở bộ phận văn học công khai thành tựu trải đều trên các thể loại thì ở bộ phận văn học không công khai do phát triển trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, kẻ thù thường xuyên bắt bớ nên thơ ca là thể loại phát triển mạnh nhất. Trong thời gian này không ít những nhà thơ cách mạng bị địch bắt, phải chịu cảnh tù đày cho nên khi ở trong lao tù họ lại có nhiều thời gian dành cho nghệ thuật hơn. Chính vì thế khi tìm hiểu thơ ca cách mạng người đọc dễ dàng nhận ra, những tác phẩm hay nhất, đặc sắc nhất là những sáng tác của các chí sĩ cách mạng trong hoàn cảnh tù đày. Đó là nhà thơ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Sóng Hồng, Đặng Xuân Thiều, Xuân Thủy…và đặc biệt là hai nhà thơ lớn, hai ngôi sao sáng nhất của thơ ca cách mạng Hồ Chí Minh và Tố Hữu. 10
  11. Xét về phương diện nội dung tư tưởng thơ ca cách mạng thời kỳ này có những thành tựu nổi bật như thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền cách mạng một cách hiệu quả góp phần thúc đẩy các phong trào đấu tranh dành độc lập. Bên cạnh đó chủ nghĩa yêu nước cũng được thể hiện một cách sâu sắc vừa mang tính truyền thống vừa mới mẻ phù hợp với hoàn cảnh của xã hội và xu thế của thời đại. Những sáng tác thơ ca của Hồ Chí Minh, Tố Hữu và những nhà thơ cách mạng khác họ đã mang đến nội dung này một màu sắc mới đó là chủ nghĩa yêu nước gắn với lí tưởng xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản. Sau cách mạng tháng Tám đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nền thơ ca cách mạng Việt Nam nở rộ với những thành tựu xuất sắc. Trong thời kì này chúng ta có một đội ngũ sáng tác đông đảo với nhiều thế hệ nối tiếp nhau đã tạo nên một diện mạo riêng cho thơ ca. Sứ mệnh lịch sử của thơ ca cách mạng vẫn tiếp tục được phát huy, thành tựu nổi bật ở giai đoạn này đó là thể hiện nội dung yêu nước một cách sâu sắc và hết sức phong phú như ngợi ca chế độ xã hội chủ nghĩa, ca ngợi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Ngoài ra nội dung yêu nước còn thể hiện ở việc ngợi ca Đảng và Bác Hồ, ngợi ca con người Việt Nam, tình quân dân, tình đồng chí đồng đội, cảnh sắc thiên nhiên…Tiêu biểu là nhà thơ Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Chính Hữu, Quang Dũng, Phạm Tiến Duật, Trần Đăng Khoa…đã hình thành nên một kiểu nhà thơ đặc biệt, nhà thơ - chiến sĩ. Chính vì vậy có thể khẳng định văn học giai đoạn này thơ ca trở thành dòng chủ lưu thực hiện sứ mệnh lịch sử một cách xuất sắc. Về phương diện hình thức nghệ thuật, thơ ca cách mạng thời kì trước cách mạng tháng Tám cũng có những thành tựu nhất định. Nếu như các nhà thơ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng…sáng tác của những cây bút này, mặc dù đã có những đổi mới rõ nét về nội dung tư tưởng, nhưng thể loại, ngôn ngữ, văn tự và thi pháp, nói chung vẫn chịu ảnh hưởng nhiều của thi pháp văn học trung đại thì Tố Hữu 11
  12. lại sử dụng nhiều thể thơ, sử dụng ngôn ngữ bình dân giản dị để xây dựng hình tượng nghệ thuật, phát huy được vẻ đẹp giàu có của tiếng Việt. Đến sau cách mạng thắng Tám cụ thể từ năm 1945 đến năm 1975, các thể loại trong thơ được vận dụng phong phú, từ các thể thơ cách luật đến thể thơ tự do, thơ văn xuôi. Ngôn ngữ thơ trở nên giản dị trong sáng hơn, nhà thơ luôn bồi đắp những sắc thái riêng trong tiếng nói thơ ca của mình. Đây chính là yêu tố quan trọng làm nên phong cách thơ cho nhiều nhà thơ cách mạng lúc bấy giờ. Thành tựu mà thơ ca cách mạng để lại là hết sức lớn lao trên tất cả các phương diện cả về nội dung tư tưởng và về hình thức nghệ thuật. Trên chặng đường dài hình thành và phát triển đó, với hàng trăm nhà thơ, hàng nghìn tác phẩm, với những tên tuổi chói sáng, đội ngũ nhà thơ cách mạng đã xây dựng nên những tượng đài thơ ca sừng sững mà tác phẩm của họ đã in đậm trong lòng nhiều thế hệ độc giả. I.2. Vị trí, vai trò của thơ ca cách mạng trong Văn học Việt Nam Trong nền văn học Việt Nam, thơ ca cách mạng có một vị trí hết sức quan trọng góp phần làm cho nền văn học phát triển bề thế và phong phú hơn. Chính vì vậy, một điều mặc nhiên dễ dàng nhận ra là khi nói đến nền văn học Việt Nam là chúng ta nghĩ ngay đến nền văn học cách mạng. Đặc biệt là văn học Việt Nam sau cách mạng tháng 8 năm 1945. Thơ ca cách mạng chứa đựng nội dung tư tưởng lớn, góp phần định hình cho nền văn học cách mạng Việt Nam trong việc xây dựng hình tượng nghệ thuật phản chiếu hiện thực cuộc sống. Qua những sáng tác của Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Hoàng Trung Thông…người đọc cảm nhận được sức mạnh, tâm hồn của cả dân tộc trong những năm tháng bị thực dân Pháp đô hộ, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Đối với nền văn học cách mạng Việt Nam, thơ ca nói chung và thơ cách mạng nói riêng luôn phát huy vai trò sứ mệnh lịch sử của nó trong việc tuyên truyền lí tưởng 12
  13. cộng sản, lí tưởng cách mạng, đường lối của Đảng một cách hiệu quả. Cho nên nhà thơ Sóng Hồng đã viết: Dùng ngòi bút làm đòn xoay chế độ Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền Chính vì vậy, với sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó, chúng ta nhận thấy vai trò lớn lao của “những vần thơ thép”. Có thể xem đây là một bộ phận không thể thiếu của sự nghiệp cách mạng chung cả nước. I.3. Thực trạng dạy học thơ ca cách mạng 1930-1945 trong chương trình THPT hiện nay Thơ ca cách mạng 1930-1945 trong chương trình THPT hiện nay tập trung ở chương trình Ngữ Văn lớp 11, bao gồm các văn bản: Lưu biệt khi xuất dương (Xuất dương lưu biệt) của Phan Bội Châu; Mộ (Chiều tối), Lai tân của Hồ Chí Minh; Từ ấy, Nhớ đồng của Tố Hữu. Có thể khẳng định đây là những tác phẩm rất có giá trị, là sợi chỉ đỏ, là những mẫu mực về nội dung tư tưởng có vai trò rất lớn trong việc thể hiện những tư tưởng cách mạng lớn lao. Không dừng lại ở đó, mặc dù còn chịu ảnh hưởng của thi pháp văn học trung đại, nhưng những tác phẩm trên vẫn có giá trị lớn về hình thức nghệ thuật, cho nên việc đọc – hiểu thơ nói chung và thơ ca cách mạng nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong việc bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh. Thực trạng dạy học thơ ca cách mạng 1930-1945 trong chương trình THPT hiện nay Trong suốt thời gian dài hình thành và phát triển, thơ ca cách mạng đã có những thành tựu hết sức rực rỡ. Nếu như trước cách mạng tháng Tám, mặc dù tồn tại không công khai nhưng tầm ảnh hưởng của những tác phẩm thơ của các chí sĩ cách mạng, của Hồ Chí Minh, Tố Hữu đối với nhận thức, tư tưởng của nhân dân hết sức sâu rộng. Cho nên thơ ca cách mạng đã phát huy được tinh chiến đấu mạnh mẽ đối với bon thực dân 13
  14. với tay sai, thể hiện nguyện vọng của nhân dân về độc lập dân tộc, về tự do, dân chủ. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, các nhà hoạt động cách mạng đã sử dụng thơ ca là thứ vũ khí sắc bén để đấu tranh đối với kẻ thù xâm lược, góp phần làm nên những thắng lợi mà đỉnh cao là cách mạng tháng Tám. Được lựa chọn đưa vào chương trình Ngữ Văn THPT, mặc dù ra đời cách đây đã hàng chục năm, bối cánh xã hội đã khác trước nhưng có thể khẳng định những tác phẩm thơ cách mạng vẫn có vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng chương trình ngữ văn THPT. Thông qua nội dung tư tưởng, vẻ đẹp của nhân vật trữ tình cũng như những phẩm chất đáng quý, những tư tưởng tiến bộ của các nhà thơ, việc giáo dục học sinh tình yêu đất nước, yêu lí tưởng, có khát vọng đấu tranh, khát vọng cống hiến cho cộng đồng, xã hội sẽ trở nên thuận lợi rất nhiều. Bên cánh đó qua mỗi bài học chúng ta còn hình thành ở người học những tình cảm cao đẹp về sự sẻ chia, tình yêu thương, tinh thần đoàn kết, biết trân trọng những đóng góp lớn lao của bao thế hệ cha ông, ghi nhớ những trang sử vẻ vang của dân tộc. Để làm được điều đó mỗi giáo viên, trong quá trình dạy học cần nỗ lực không ngừng trong việc lập kế hoạch dạy học, sử dụng phù hợp các phương pháp, tổ chức các hoạt động một cách sáng tạo khoa học, vừa đảm bảo tính chủ động trong việc tiếp nhận tri thức, kĩ năng cho học sinh, vừa giáo dục, hình thành những năng lực, phẩm chất cho các em trong quá trình học tập. Thơ cách mạng là một thể loại văn học phản ánh và cổ vũ cuộc sống chiến đấu, lao động của dân tộc Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và sau năm 1975. Cho nên nó đã có ảnh hưởng rất sâu rộng đến đời sống xã hội trong suốt chiều dài lich sử. Trong chương trình Ngữ Văn THPT, thơ ca cách mạng chiếm một lượng lớn thời gian của kế hoạch dạy học trong năm học đặc biệt là lớp 11 và lớp 12. Việc dạy học nhiều tác phẩm thơ cách mạng đã hình thành nên ở giáo viên những tình cảm yêu quý, trân trọng, những nhận thức sâu sắc về vai trò của thơ ca cách mạng trong việc giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh. Tuy nhiên, trên thực tế để truyền tải hết những giá trị về nội dung tư tưởng và đặc sắc về nghệ thuật một cách hiệu 14
  15. quả nhất thì có không ít giáo viên chưa thể thực hiện một cách bài bản, hiệu quả, đặc biệt là những giáo viên có tuổi nghề còn ít, chưa có nhiều kinh nghiệm. Như chúng ta đã biết, dạy học thơ cách mạng có những đặc thù riêng. Giáo viên không chỉ dạy học bằng năng lực chuyên môn mà bằng cả tâm hồn và lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng cao đẹp. Thậm chí để thực hiện tốt một tiết dạy học thơ cách mạng có hiệu quả, khi lên lớp giáo viên cần huy động nhiều kiến thức, đặc biệt là kiến thức về lịch sử. Như vậy mới làm cho giờ dạy học trở nên sinh động, phát huy hết năng lực của các em. Thế nhưng trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có không ít giáo viên vẫn chưa hoàn thành tốt mục tiêu bài học, chưa dùy trì được hứng thú lâu dài cho học sinh. Đây là một thực trạng đã xảy ra mà chúng ta cần suy ngẫm. Một nguyên nhân nữa dẫn đến thực trạng đó là do các em chưa được trang bị một cách bài bản các kĩ năng học tập, chưa được bồi dưỡng nhiều về lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng, cũng như các tình cảm lớn cần nuôi dưỡng bồi đắp tâm hồn. Thực trạng này đã làm cho rất nhiều giáo viên trăn trở, suy ngẫm, tiềm kiếm giải pháp để nâng cao hiệu quả dạy học thơ ca cách mạng. II. HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP TRONG DẠY HỌC THƠ II.1. Thực trạng tổ chức hoạt động luyện tập trong dạy học thơ ca cách mạng Thời lượng, số tiết dành cho việc dạy học thơ ca cách mạng trong chương trình Ngữ Văn THPT tương đối nhiều. Cho nên hoạt động hình thành kiến thức cho học sinh trong quá trình dạy học mất khá nhiều thời gian. Việc khám phá nhưng tác phẩm có giá trị về nghệ thuật, có chiều sâu phong phú về nội dung tư tưởng trở nên hết sức cần thiết, vì vậy trong kế hoach dạy học, giáo viên và học sinh thường chú trọng thực hiện hoạt động khởi động và hình thành kiến thức, với mục đích cao nhất là trang bị kiến thức mà không sử dụng thời gian một cách hợp lí cho hoạt động luyện tập. Thậm chí có những giáo viên còn sử dụng quỹ thời gian luyện tập cho việc giảng dạy truyền thụ kiến thức 15
  16. điều đó dẫn đến việc phân bố thời gian cho giờ học thiếu khoa học, không thể hoàn thành được mục tiêu bài học. Việc tổ chức hoạt động luyện tập không bài bản cũng là một hạn chế trong quá trình dạy học thơ ca cách mạng. Thường thì thầy cô giáo khi hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập hay sử dụng các hướng dẫn luyện tập sau mỗi bài học ở sách giáo khoa. Đó là những câu hỏi chủ yếu kiểm tra, khắc sâu kiến thức cho học sinh, chưa sáng tạo, xây dựng một hình thức luyện tập phù hợp để giúp các em hình thành nên những kĩ năng để giải quyết các vấn đề diễn ra trong cuộc sống. Một thực trạng nữa là tổ chức hoạt động luyện tập chưa rạch ròi, còn nhập nhằng với các hoạt động khác, đặc biệt là chưa chú trọng đến hình thức và phương pháp luyện tập. Một số giáo viên còn kết hợp hoạt động hình thành kiến thức và hoạt động luyện tập trong quá trình dạy học, hình thức hoạt động thì đơn điệu, lặp lại ở các bài học, phương pháp cách thức tổ chức thiếu sáng tạo, chưa bài bản. Vấn đề này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành kĩ năng, bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cần thiết cho các em, gây sự nhàm chán, thiếu hứng thú trong quá trình học tập. Các nội dung đưa ra trong hoạt động luyện tập còn máy móc, chưa chú trọng nhiều đến hoạt động của học sinh. Giáo viên thường nêu câu hỏi, sau đó gọi học sinh trình bày rồi nhận xét, làm cho các em luôn bị động, chưa sẵn sàng chủ động, xem mình là chủ nhân trung tâm của hoạt động giải quyết các tình huống có vấn đề. Thậm chí nếu thiếu hoạt động luyện tập, học sinh sẽ không có cơ hội để thể hiện bản thân, không vận dụng được lí thuyết vào thực hành làm cho các em mất hứng thú học tập không có cơ hội để rèn luyện khắc sâu bồi dưỡng phẩm chất, năng lực. II.2 . Mục đích luyện tập Việc đánh giá một giờ dạy học có hiệu quả được dựa trên rất nhiều tiêu chí, yếu tố quan trong đầu tiên đó là việc xây dựng kế hoach và tổ chức các hoạt động dạy học một cách khoa học phù hợp với mục tiêu bài học cũng như đối tượng học sinh. Trong 16
  17. bốn hoạt động của một tiết học, nếu như hoạt động khởi động chú trong vào việc tạo hứng thú, lôi cuốn các em vào bài học, hoạt động hình thành kiến thức mới tập trung vào việc trang bị kiến thức thì hoạt động luyện tập là thực hiện một chức năng riêng đó là giúp các em vận dụng trí thức đã học vào việc thực hành để khắc sâu kiến thức, hình thành nên những kĩ năng sống, bồi dưỡng phấm chất, năng lực giúp các em trưởng thành hơn trong cuộc sống. Cho nên hoạt động luyện tập có một vai trò hết sức quan trọng. để làm được điều đó chúng ta cần xác định rõ mục đích của hoạt động luyện tập, từ đó lên kế hoạch, tổ chức hoạt động có hiệu quả. Đối với giáo viên, việc tổ chức hoạt động luyện tập nhằm để quan sát nhìn nhận đánh giá năng lực của học sinh. Từ hoạt động của các em mà thầy cô giáo có thể thấy được khả năng vận dụng kiến thức, khả năng tương tác hình thành kĩ năng của học sinh đang ở mức độ nào. Bên cạnh đó, qua quá trình luyện tập, giáo viên có thể rút ra cho bản thân những kinh nghiệm trong việc tổ chức hoạt động từ đó xây dựng các hoạt động trong một bài học hoàn chỉnh hơn. Đối với học sinh, khi thực hiện nhiệm vụ học tập này, các em có cơ hội để vận dung kiến thức vừa thực hiện ở hoạt động một và hai vào việc giải quyết các nhiệm vụ mà giáo viên đã đặt ra, giúp các em tự nhận xét đánh giá khả năng của bản thân, phát huy điểm mạnh, hạn chế những điểm yếu, nâng cao nhận thức, nỗ lực hết mình trong quá trình học tập. Quan điểm giáo dục hiện đại không chỉ tập trung vào việc trang bị kiến thức mà còn đặc biệt quan tâm đến khả năng vận dụng tri thức vào thực hành của học sinh. Cho nên sử dụng phương pháp phù hợp, tổ chức hoạt động khoa học, sáng tạo sẽ làm cho việc dạy và học đạt kết quả cao. Đối với môn Ngữ Văn, hoạt động luyên tập là hết sức cần thiết góp phần tích cực trong việc làm cho giờ học trở nên sinh động, người dạy và người học hứng thu hơn, say mê và quý trong môn học hơn. Cho nên hoạt động luyện 17
  18. tập có ý nghĩa quan trọng nhằm mục đích khơi dậy đam mê học tập, nâng cao vị thế của môn học. II.3. Phẩm chất, năng lực hướng đến trong hoạt động luyện tập Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã tạo bước đột phá về đổi mới giáo dục. Đây có thể xem là một nhiệm vụ chính trị xã hội quan trọng của cả nước đã tác động mạnh mẽ đến đội ngũ cán bộ, giáo viên, học sinh cũng như phụ huynh. Cho nên để thực hiên tốt nhiệm vụ quan trọng này giáo viên cần triển khai các kĩ thuật, phương pháp dạy học mới mẻ hiện đại để thay đổi tư duy cũ, phải tạo cho học sinh cảm hứng trong từng bài học, giúp các em có thời gian trải nghiệm nhiều hơn, không được phép truyền kiến thức một chiều. Chú trọng thực hiện dạy học phát triển năng lực, phẩm chất, đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá để có những nhận xét đúng đắn khách quan về kiến thức, kĩ năng của học sinh. Một trong những hoạt động mang lại hiệu quả trong việc bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho các em đó là tổ chức hoạt động luyện tập có chủ đích, chủ điểm, sáng tạo, được xây dựng trong kế hoạch dạy học một cách chuyên sâu, bài bản. Những phấm chất, năng lực mà giáo viên cần hướng tới trong quá trình dạy học đặc biệt là trong hoạt động luyện tập đó là: Về phẩm chất, thông qua hoạt động luyện tập, giáo viên cần hướng tới bồi dưỡng cho các em tinh thần yêu nước, lòng nhân ái, đức tính chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. Đây là năm phẩm chất quan trọng và hết sức cần thiết đối với mối học sinh trong thời hội nhập của đất nước. Tuy nhiên tùy vào mỗi bài học, tùy vào tiết đọc hiểu văn bản thơ cách mạng mà giáo viên có thể tập trung bồi dưỡng những phẩm chất cần thiết. Ví dụ khi dạy đọc hiểu văn bản Chiều Tối (Mộ) của Hồ Chi Minh hay Từ Ấy của Tố Hữu, giáo viên có thể tập trung hình thành ở các em phẩm chất yêu nước, nhân ái và trách nhiệm; về năng lực hướng tới trong quá trình dạy học mà giáo viên cần giúp các em đạt được bao gồm ba năng lực chung, năng lực tự chủ tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đây là những năng lực mà học sinh cần đạt được trong quá trình học tập ở bất cứ môn học 18
  19. nào. Ngoài ra có bảy năng lực chuyên môn mà giáo viên cũng cần chú ý bồi dưỡng cho học sinh khi tổ chức hoạt động luyện tập đó là: năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực công nghệ, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất, năng lực tin học, năng lực tính toán và năng lực ngôn ngữ. Với môn Ngữ Văn, chúng ta chủ yếu hướng đến nhiều hơn là năng lục thẩm mĩ và năng lực ngôn ngữ. Như vậy thông qua hoạt động luyên tập khi dạy đọc hiểu thơ ca cách mạng, giáo viên cần hướng đến bồi dưỡng năm phẩm chất và năng lực thẩm mĩ, năng lực ngôn ngữ cho học sinh. Đây có thể xem là những yếu tố chủ yếu quan trọng cấu thành nhân cách con người mà tư tưởng đổi mới giáo dục đã có những tác động tích cực đến cả người dạy và người học, đặc biệt là học sinh, giúp các em phát triển một cách hài hòa đầy đủ phẩm chất và năng lực. II.3. Đa dạng hoá hoạt động luyện tập II.3.1. Viết đoạn văn Viết đoạn văn là hình thức hoạt động luyện tập không mới những không thể thiếu trong hoạt động dạy học. Khi viết đoạn văn, các em sẽ có cơ hội để rèn luyện kĩ năng viết trên lớp cũng như năng lực ngôn ngữ. Biết căn chỉnh thời gian, xác định nội dung cần truyền đạt, biết đặt mình vào tình huống có áp lực để hoàn thành nhiệm vụ mà giáo viên giao cho. Các bước tiến hành tổ chức luyện tập: - Giáo viên nêu chủ đề viết đoạn văn (chủ đề phải đảm bảo yêu cầu sát với nội dung tiết học, phải gợi được hứng thú, góp phần bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cần thiết cho học sinh) và yêu cầu học sinh viết trong khoảng thời gian và dung lượng nhất định - Học sinh nhanh chóng hoạt động viết đoạn văn 19
  20. - Trong quá trình học sinh hoạt động, giáo viên quan sát, theo dõi thậm chí có khi trực tiếp giải quyết những tình huống có vấn đề, giúp các em hoàn thành mục tiêu đề ra. - Bước tiếp theo, giáo viên yêu cầu học sinh đọc đoạn văn mà mình vừa viết - Cuối cùng yêu cầu học sinh nhận xét đánh giá, giáo viên củng cố, nêu rõ yêu cầu cần đạt khi viết đoạn văn cũng như phẩm chất và năng lực mà các em cần quan tâm bồi dưỡng. Đó là phẩm chất chăm chỉ, trách nhiệm, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực ngôn ngữ. II.3.2. Phát biểu theo chủ đề Trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong quá trình học tập của học sinh thường nảy sinh nhiều vấn đề buộc các em phải suy nghĩ và đưa ra những ý kiến của mình, từ đó cùng với mọi người tìm ra một điểm chung, một cách giải quyết thoả đáng nhất. Với tầm quan trọng như vậy, khi xây dựng hoạt động luyện tập giáo viên có thể nêu ra một chủ đề nào đó liên quan đến bài học để các em xây dựng sau đó tham gia phát biểu ý kiến, trình bày quan điểm, tư tưởng của mình. Đây là hoạt động có ý nghĩa nhằm mạng đến cho các em sự tự tin trong quá trình giao tiếp. Khi tham gia phát biểu giáo viên sẽ hướng cho các em rèn luyện những phẩm chất như chăm chỉ, trách nhiệm, những năng lực như năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực ngôn ngữ. Để thực hiện hình thức luyện tập này có hiệu quả, giáo viên cần lựa chọn chủ đề phù hợp với mục tiêu bài học, phù hợp với thời gian tổ chức hoạt động và phù hợp với năng lực kiến thức, kĩ năng của học sinh. Mặt khác chúng ta cũng cần phải xác định việc học sinh phát biểu theo chủ đề trong hoạt động luyện tập chỉ dừng lại ở việc tổ chức cho các em làm quen dần với việc trình bày một vấn đề, thể hiện quan điểm tư tưởng trước tập thể chứ không phải yêu cầu ở mức độ cao trong việc tạo ra sản phẩm khi hoạt động luyện tập. Với học sinh khi thực hiện hình thức hoạt động này, các em cần phải chủ động tích cực, chuẩn bị nội dung phát biểu chu đáo, tự tin khi được mời đứng dậy phát biểu. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2