intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đa dạng hóa hoạt động luyện tập trong dạy học thơ ca kháng chiến ở chương trình Ngữ văn 12

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:56

12
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm tạo hứng thú và kích thích sự đam mê trong dạy học môn Ngữ văn; Dạy học gắn với việc vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các vấn đề đặt ra; Thực hiện yêu cầu của đổi mới kiểm tra, đánh giá theo định hướng năng lực học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đa dạng hóa hoạt động luyện tập trong dạy học thơ ca kháng chiến ở chương trình Ngữ văn 12

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN  SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: ĐA DẠNG HÓA HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP TRONG DẠY HỌC THƠ CA KHÁNG CHIẾN Ở CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 12 LĨNH VỰC: NGỮ VĂN Nghệ An, tháng 4 năm 2023
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU III  SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: ĐA DẠNG HÓA HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP TRONG DẠY HỌC THƠ CA KHÁNG CHIẾN Ở CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 12 LĨNH VỰC: NGỮ VĂN Tác giả: Nguyễn Thị Kim Thanh Tổ chuyên môn:Ngữ Văn Năm thực hiện: 2022-2023 Số điện thoại: 0379.392.456 Email: kimthanhnguyen232@gmail.com Nghệ An, tháng 4 năm 2023
  3. MỤC LỤC  Tên đề mục Trang PHẦN 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1 Lí do chọn đề tài 1 2 Mục đích nghiên cứu 1 3 Nhiệm vụ nghiên cứu 2 4 Đối tượng nghiên cứu 2 5 Phương pháp nghiên cứu 2 6 Tính mới của đề tài 2 7 Cấu trúc của đề tài 3 PHẦN 2 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 3 CHƯƠNG I CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 3 1 Cơ sở lí luận 3 2 Cơ sở thực tiễn 4 CHƯƠNG II MỘT SỐ HÌNH THỨC TỔ CHỨC NHẰM ĐA 7 DẠNG HÓA HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP TRONG DẠY HỌC CÁC VĂN BẢN THƠ CA KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM Ở CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12 1 Mục đích của hoạt động luyện tập 7 2 Các hình thức tổ chức nhằm đa dạng hóa hoạt động luyện 8 tập trong dạy học môn Ngữ văn 3 Thiết kế hoạt động luyện tập vào dạy học một số văn bản 12 thơ kháng chiến Việt Nam ở chương trình Ngữ Văn 12 CHƯƠNG III THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 23 1 Mục đích thực nghiệm 23 2 Tiến trình thực nghiệm 23 3 Kết quả đạt được 24
  4. 4 Phạm vi ứng dụng 33 PHẦN 3 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 33 3.1 Kết luận 33 3.2 Ý nghĩa của đề tài 33 3.3 Kiến nghị 34 PHẦN 4 PHỤ LỤC 36 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT, KÍ HIỆU 1 GV-HS Giáo viên - Học sinh 2 THPT Trung học phổ thông 3 TN Thực nghiệm 4 ĐC Đối chứng 5 TNSP Thực nghiệm sư phạm 6 SKKN Sáng kiến kinh nghiệm 7 ∑ Tổng điểm 8 ̅ (X) 𝑋 Điểm trung bình
  6. PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài: 1.1.Trong xu thế hội nhập toàn cầu của thế kỉ XXI "đầy thách thức và thay đổi từng giờ"...cùng với đó là sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, giáo dục và đào tạo đã và đang đóng vai trò ngày càng quan trọng, trở thành kim chỉ nam cho sự phát triển bền vững của mọi quốc gia, dân tộc. Vì thế đòi hỏi con người cần có năng lực, kỹ năng đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Theo yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới 2018, giáo viên không chỉ là người truyền thụ tri thức qua các bài giảng mà còn là người truyền cảm hứng, giúp học sinh phát huy tính sáng tạo, khả năng tương tác để vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Vậy nên, mỗi giáo viên nên chủ động tự thay đổi mình, làm mới công việc của mình, bắt đầu đổi mới từ chính những giờ lên lớp, từ chính những trang giáo án, bài dạy. Mỗi thầy cô cần linh hoạt trong lựa chọn phương pháp, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức kiểm tra, đánh giá phù hợp để kích thích được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học trò như Wiliam A.Warrd đã từng nói: “Người thầy trung bình chỉ biết nói, người thầy giỏi biết giải thích, người thầy xuất chúng biết minh họa, người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”. 1.2. Trước yêu cầu đổi mới của dạy và học nói chung, đặc biệt là đổi mới dạy học Ngữ văn nói riêng, trong những năm học vừa qua chúng tôi cũng như các đồng nghiệp trong trường không ngừng nỗ lực, tìm tòi và áp dụng các phương pháp, các hình thức dạy học theo định hướng năng lực học sinh. Tiến trình dạy học theo định hướng năng lực gồm năm bước đã tạo ra những bước đột phá trong tiến trình tổ chức giờ dạy học môn Ngữ văn. Nếu như hoạt động khởi động là một trong những bước đầu tiên của tiến trình dạy học theo phương pháp mới nhằm tạo hứng thú cho học sinh thì hoạt động luyện tập là hoạt động cũng không thể bỏ qua, vì đây là bước học sinh gắn lí thuyết với thực tiễn, vận dụng kiến thức bài học để giải quyết các vấn đề đặt ra. Việc thiết kế hoạt động luyện tập khi dạy học bộ môn Ngữ văn phù hợp giúp cho tiết học diễn ra một cách sinh động, giúp cho việc lĩnh hội, tiếp thu kiến thức trở nên đơn giản, đem lại cho người học sự tò mò, tăng thêm lòng yêu thích bộ môn. Vì những lí do trên và kết hợp qua thực tế thực nghiệm cho thấy kết quả tích cực, tôi quyết định lựa chọn đề tài “Đa dạng hóa hoạt động luyện tập trong dạy học thơ ca kháng chiến ở chương trình Ngữ văn 12” . 2. Mục đích nghiên cứu: - Tạo hứng thú và kích thích sự đam mê trong dạy học môn Ngữ văn. - Dạy học gắn với việc vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các vấn đề đặt ra. - Thực hiện yêu cầu của đổi mới kiểm tra, đánh giá theo định hướng năng lực học sinh. 1
  7. - Thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy, đa dạng hóa hình thức dạy học đối với môn Ngữ văn trong giai đoạn hiện nay. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đa dạng hóa hoạt động luyện lập khi dạy các tác phẩm thơ ca kháng chiến ở chương trình Ngữ Văn lớp 12 tại trường THPT Quỳnh Lưu 3 và trường bạn trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An . 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu khảo sát của đề tài là đa dạng hóa hoạt động luyện lập cho học sinh khi dạy các tác phẩm thơ ca kháng chiến ở một số lớp 12 tại trường THPT Quỳnh Lưu 3 và trường bạn trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn về việc đa dạng hóa hoạt động luyện tập khi dạy phần thơ ca kháng chiến ở chương trình Ngữ Văn lớp 12 tại các trường THPT. - Đề xuất những phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động luyện tập cho học sinh khi dạy phần văn bản thơ ca kháng chiến trong chương trình Ngữ Văn 12- THPT. - Tiến hành thiết kế hoạt động luyện tập qua một số văn bản thơ ca cụ thể trong chương trình Ngữ 12. 5. Phương pháp nghiên cứu. - Nghiên cứu nội dung các văn bản thơ kháng chiến trong chương trình Ngữ văn 12. - Đọc những tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học. - Nghiên cứu các hình thức, phương pháp, kĩ thuật thiết kế hoạt động luyện tập trong dạy học. - Rút kinh nghiệm qua các tiết dạy; phỏng vấn đồng nghiệp về mức độ khả thi của đề tài. - Tiến hành khảo sát học sinh trước và sau khi áp dụng đề tài. 6.Tính mới của đề tài: - Về mặt lí luận: Đề tài góp phần tìm hiểu cơ sở lí luận của việc đa dạng hóa hoạt động luyện tập khi dạy học các văn bản thơ ca. -Về mặt thực tiễn: Đề tài bước đầu đề xuất một số nội dung, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động luyện lập khi dạy học các văn bản thơ ca kháng chiến ở chương trình Ngữ Văn 12 và đổi mới kiểm tra đánh giá đối với môn Ngữ văn trong giai đoạn hiện nay. 2
  8. 7. Cấu trúc của đề tài: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài có 3 chương: Chương I: Cơ sở khoa học của đề tài. Chương II: Một số hình thức tổ chức nhằm đa dạng hóa hoạt động luyện tập khi dạy các văn bản thơ ca kháng chiến Việt Nam ở chương trình Ngữ Văn 12- THPT. Chương III: Thực nghiệm sư phạm. PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI: 1. Cơ sở lí luận: 1.1. Yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay: Đảng và Nhà nước ta khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”; chọn khoa học và giáo dục làm khâu đột phá cho phát triển; chọn giáo dục làm tiền đề, làm xương sống của phát triển bền vững. Việc đổi mới toàn diện giáo dục trong giai đoạn hiện nay là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, các ngành, các nhà khoa học và của toàn xã hội. Trước yêu cầu của đổi mới giáo dục hiện nay, cùng với việc đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực người học, việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng năng lực là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của giáo dục. Vai trò của người dạy không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động của học sinh. Dạy học nhằm phát triển năng lực cho học sinh đòi hỏi phải tổ chức các hoạt động dạy học tích cực, tự lực và sáng tạo. Các hoạt động phải hướng đến rèn luyện phương pháp và hình thức tổ chức dạy học có thể giúp học sinh học tập với niềm say mê, hứng thú, khát khao, lĩnh hội tri thức, chủ động, sáng tạo, theo phương pháp khoa học…Vì vậy, tổ chức giờ học thông qua các hoạt động là bước đột phá của dạy học theo định hướng năng lực. 1.2. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo xác định: "Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất nămg lực của người học". Dạy học theo định hướng phát triển năng lực chú trọng việc cung cấp cho học sinh khả năng làm chủ và vận dụng hợp lý các kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, thái độ và hứng thú để hành động có hiệu quả trong các tình huống đa dạng của cuộc sống. 3
  9. Đối với môn Ngữ văn, thực hiện dạy học theo định hướng phát triển năng lực là giải pháp có tầm quan trọng lớn lao để thực hiện tốt nhiệm vụ môn học. Bên cạnh hình thành các năng lực chung (giải quyết vấn đề, tư duy sáng tạo, hợp tác, tự quản bản thân), môn Ngữ văn còn chú trọng hình thành cho học sinh các năng lực chuyên biệt, đặc thù (giao tiếp tiếng Việt, cảm thụ thẩm mỹ). Để tạo lập cho người học các năng lực trên, dạy học Ngữ văn hiện nay thực hiện sự đổi mới trong phương pháp dạy học với quan điểm phát huy mạnh mẽ tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, thực hiện "học đi đôi với hành", tăng cường các hoạt động học tập ở học sinh theo lý thuyết kiến tạo và thuyết đa trí thông minh. 1.3. Sự cần thiết phải đa dạng hóa hình thức tổ chức hoạt động luyện tập: Theo chương trình giáo dục phổ thông mới, việc xây dựng bài học môn Ngữ văn được cụ thể hóa thành năm hoạt động khi thực hiện tiến trình dạy học. Trong đó hoạt động luyện tập có vai trò nhằm củng cố và hệ thống hóa kiến thức, kiểm tra khả năng vận dụng kiến thức bài học vào giải quyết các bài tập cụ thể. Hoạt động luyện tập sẽ giúp học sinh vận dụng những kiến thức đã có ở hoạt động hình thành kiến thức để giải quyết các tình huống đặt ra, giúp học sinh vỡ ra được nhiều điều, khám phá ra chân lí của bài học, đem lại cảm giác thích thú và say mê, háo hức. Tuy nhiên trong thực tế, nhiều giáo viên chỉ chú trọng đầu tư vào hoạt động khởi động nên còn coi nhẹ hoạt động luyện tập, mở đầu rất hào hứng nhưng kết thúc thì sơ sài, gây tâm lí hụt hẫng cho người học, cảm thấy thiếu hụt kiến thức, thông tin để giải quyết; chưa thỏa mãn những điều mình đang muốn tìm hiểu. Vì vậy, hoạt động luyện tập nếu được đầu tư kĩ càng, sẽ đem lại hiệu quả cao cho người học và người dạy. Nên đối với giáo viên, thiết kế các hoạt động luyện tập không chỉ là mục đích, nhiệm vụ của việc soạn giảng mà còn là điều kiện cần thiết để học sinh học tập tích cực, chủ động và yêu thích bộ môn nhiều hơn. 2. Cơ sở thực tiễn: 2.1. Thực trạng tổ chức hoạt động luyện tập của giáo viên khi dạy môn Ngữ văn ở các trường THPT. Trước đây, do tâm lí coi nặng môn Văn là môn thuyết giảng nên nhiều giáo viên còn đề cao việc giảng cho trò chép sau đó củng cố lại bằng mục ghi nhớ về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn học, nếu có bài tập thì chủ yếu giao về nhà. Hoạt đông luyện tập đã có từ trước, trong dạy học Văn được cụ thể hóa là mục củng cố và ghi nhớ. Tuy nhiên, nhiều giáo viên do áp lực thời gian giảng dạy quá ngắn (chỉ 45 phút cho một tiết học) trong khi kiến thức lại nhiều nên chỉ chú trọng việc giảng dạy truyền đạt kiến thức cho học sinh, không dành thời gian cho hoạt động luyện tập, củng cố. Nhiều giáo viên xem đây là một hoạt động không cần thiết và tốn thời gian vì cho rằng học sinh đã lĩnh hội được kiến thức trong quá trình dạy học. Do đó, họ thường dùng thời gian của hoạt động luyện tập, củng cố cho việc giảng dạy, truyền đạt kiến thức. Một thực tế là do hoạt động luyện tập rơi vào cuối giờ, 4
  10. học sinh thường lơ là không chú ý đến học tập, khiến giáo viên không tổ chức hoạt động luyện tập củng cố cho các em. Trong thời gian vừa qua, cùng với việc đổi mới dạy học theo định hướng năng lực, giờ học văn đã thay đổi nhiều từ cách thức tổ chức đến sử dụng phương pháp tuy nhiên hầu hết chúng ta còn chú ý đến hoạt động khởi động mà chưa có sự thay đổi nhiều về hoạt động luyện tập để kích thích đam mê cho học sinh. Trong khi đó, luyện tập là một hoạt động đặc biệt quan trọng trong việc phát triển năng lực tư duy cho học sinh không chỉ đối với môn tự nhiên mà còn cả môn Ngữ văn. Khi tham gia vào hoạt động luyện tập, học sinh được đặt vào các tình huống có vấn đề, yêu cầu sử dụng các kĩ năng phân tích, tổng hợp, khái quát, so sánh.. để giải quyết nhiệm vụ, bài tập. Tiến trình thực hiện hoạt động luyện tập được tiến hành như sau: • Mục đích • Phương pháp/ kĩ thuật dạy học • Phương tiện • Thời gian • Tiến trình thực hiện Trong tiến trình thực hiện hoạt động này, việc tổ chức các hoạt động học của giáo viên và thực hiện của học sinh gồm các bước cơ bản gồm: - Chuyển giao nhiệm vụ học tập: Giáo viên chuyển giao nhiệm vụ; học sinh nhận biết vấn đề cần giải quyết như yêu cầu, câu hỏi do giáo viên đưa ra; tiếp nhận nhiệm vụ học tập. - Thực hiện nhiệm vụ học tập: Học sinh học cá nhân (suy nghĩ, quan sát… có thể trao đổi với bạn bên cạnh khi gặp khó khăn), hoặc học nhóm để giải quyết vấn đề, ghi kết quả ra giấy riêng. - Báo cáo kết quả và thảo luận: cá nhân học sinh hoặc nhóm học sinh báo cáo trước lớp, các bạn trong lớp nhận xét, góp ý bổ sung để cùng nhau hoàn thiện. - Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập: Học sinh trao đổi kết quả với nhau hoặc với giáo viên để nhận xét, đánh giá kết quả của mình. Học sinh hoàn thiện sản phẩm học.Việc xây dựng các hoạt động luyện tập cần căn cứ vào mục đích, nội dung học tập: + Mục đích: tạo tình huống/vấn đề học tập nhằm huy động kiến thức, kĩ năng của học sinh liên quan đến tình huống/vấn đề học tập. + Nội dung: Nhiệm vụ học tập trong hoạt động "Luyện tập" cần đảm bảo rằng học sinh cần vận dụng kiến thức, kĩ năng cũ và mới học để giải quyết bài tập đặt ra. Trong quá trình tổ chức hoạt động dạy học, việc xây dựng tình huống xuất phát cần phải đảm bảo một số yêu cầu sau đây: + Tình huống phải gần gũi với đời sống, bài học mà học sinh dễ cảm nhận. 5
  11. + Việc xây dựng tình huống cần phải đảm bảo tính phân hóa, chú ý tạo điều kiện cho học sinh có thể huy động được kiến thức từ thấp đến cao để giải quyết, qua đó hình thành kiến thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Đặc biệt giáo viên phải luôn có ý thức đây là hoạt động không thể thiếu trong tiết học, và cần phải được đầu tư một cách công phu, kĩ lưỡng để đem lại sự hứng thú, kích thích tinh thần học tập của học sinh trong từng tiết học nói riêng và yêu thích học tập bộ môn. Về phía học sinh, yêu cầu các em cũng phải là những người học nắm được những kiến thức, có khả năng vận dụng linh hoạt vào giải quyết các tình huống, bài tập, tích cực chủ động trong quá trình học, mạnh dạn bày tỏ các suy nghĩ của bản thân. Kết hợp được những vấn đề nêu ở trên, hoạt động luyện tập sẽ rất hiệu quả và lôi cuốn, học sinh cũng sẽ tập trung vào bài học, từ đó hiệu quả giảng dạy sẽ được nâng cao. 2.2.Những ảnh hưởng của việc thiếu đa dạng hóa trong hoạt động luyện tập môn Ngữ văn. Với việc dạy học như trước đây, khi đến phần luyện tập, củng cố giáo viên thường giao bài tập về nhà hoặc yêu cầu học sinh đọc mục ghi nhớ trong sách giáo khoa khiến cho giờ học kết thúc với một không khí nặng nề, mệt mỏi, học sinh chỉ muốn cho nhanh xong bài. Vì vậy, giáo viên không kích thích được hứng thú học tập của học sinh, chưa mang lại không khí sôi nổi cho giờ học. Một hạn chế nữa đó là khiến cho môn Văn bị gán cho cách hiểu sai lệch như trước đây, là môn thiên về lí thuyết mà không thiên về thực hành. Đây cũng là một trong những điều ảnh hưởng đến tâm lí người học và coi thường, xem nhẹ môn Văn của học sinh. Trong khi đó, bản chất của môn Văn là môn chú trọng về rèn kĩ năng và năng lực thực hành nghe- nói-đọc-viết. Thiếu hoạt động luyện tập trong tiến trình tổ chức dạy học môn Văn, học sinh không có cơ hội để thể hiện bản thân, khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng vào các tình huống trong học tập bị hạn chế. Điều này khiến cho giáo viên khó đánh giá được khả năng vận dụng kiến thức kĩ năng của học sinh cũng như chưa đánh giá được mục tiêu đạt được của bài học, sự thành công của tiết dạy. 2.3. Nguyên nhân của việc thiếu đa dạng hóa hình thức hoạt động luyện tập trong dạy học môn Ngữ văn. - Về phía giáo viên: Chưa có sự tìm tòi, sáng tạo và đổi mới trong quá trình dạy học. Còn thụ động trong soạn giảng, chưa vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức đa dạng trong giờ dạy; ngại sử dụng công nghệ thông tin và đồ dùng dạy học, ngại đầu tư vì mất nhiều thời gian và công sức soạn bài… - Về phía học sinh: Tâm lí ỉ lại, thụ động, chây lười, làm bài tập đối phó, thường dựa vào những sách hướng dẫn hoặc lên mạng sao chép lại. Đặc biệt sự ăn sâu của suy nghĩ coi thường môn Văn không cần luyện nhiều như các môn tự nhiên, không cần luyện tập… 2.4. Khảo sát một số văn bản thơ kháng chiến Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 12: 6
  12. TT Tên bài Tác giả Ghi chú 1 Tây Tiến Quang Dũng 2 Việt Bắc(trích) Tố Hữu 3 Đất nước Nguyễn Đình Thi Đọc thêm 4 Đất nước(trích”Mặt đường khát vọng”) Nguyễn Khoa Điềm 5 Sóng Xuân Quỳnh Đây là những tác phẩm vừa có giá trị văn chương vừa có giá trị lịch sử. Vì vậy, để tạo được hứng thú cho học sinh khi học môn Văn nói chung và phần văn học kháng chiến nói riêng, thiết nghĩ giáo viên nên chủ động đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Bên cạnh tổ chức các hoạt động khởi động hấp dẫn thì việc đa dạng hóa hoạt động luyện tập sẽ giúp tạo hứng thú cho học sinh. Đa dạng hóa hình thức luyện tập giúp học sinh phát huy được năng lực khi học các tác phẩm thơ kháng chiến. Việc kết nối lí thuyết với hoạt động thực hành qua hoạt động luyện tập sẽ mở ra cánh cửa đưa ngôn ngữ và văn chương trở về với thực tiễn đời sống- cội nguồn sáng tạo của nó; nhờ vậy học sinh sẽ tránh được tình trạng hàn lâm, xa rời thực tiễn, khiên cưỡng trong hoạt động cảm thụ văn học. Trong quá trình tham gia giải quyết các nhiệm vụ, học sinh được rèn luyện rất nhiều kỹ năng: làm việc nhóm, xây dựng kế hoạch, giao tiếp, thuyết trình…Từ đó rèn luyện được tinh thần trách nhiệm, ý thức gắn bó với tập thể của từng cá nhân. CHƯƠNG II: MỘT SỐ HÌNH THỨC TỔ CHỨC NHẰM ĐA DẠNG HÓA HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP KHI DẠY CÁC VĂN BẢN THƠ CA KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM Ở CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12. 1.Mục đích của hoạt động luyện tập. Theo mô hình của mẫu giáo án phát triển năng lực trong chương trình phổ thông mới, tiến trình dạy học trên lớp gồm 5 bước với 5 hoạt động: khởi động, hình thành kiến thức, luyện tập, vận dụng và tìm tòi mở rộng. Mỗi hoạt động đóng vai trò riêng trong tiến trình tổ chức, trong đó hoạt động luyện tập là yêu cầu học sinh phải vận dụng những kiến thức vừa học được ở hoạt động hình thành kiến thức mới để giải quyết những nhiệm vụ của bài học đặt ra. Thông qua các bài tập, nhiệm vụ yêu cầu, giáo viên củng cố các tri thức vừa học và rèn luyện các kĩ năng liên quan, kiểm tra mức độ nắm kiến thức bài học của học sinh. Mục đích của hoạt động này yêu cầu học sinh phải vận dụng những kiến thức vừa tiếp thu được ở bước 2 để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể, qua đó giáo viên xem học sinh đã nắm được kiến thức hay chưa và nắm được ở mức độ nào. Đây là những hoạt động như trình bày, luyện tập, bài thực hành… giúp cho các em thực hiện tất cả những hiểu biết ở trên lớp và biến những kiến thức thành kĩ năng. Hoạt động luyện tập có thể thực hiện qua hoạt động cá nhân rồi đến hoạt động nhóm để các em học tập lẫn nhau, tự sửa lỗi cho nhau, giúp cho quá trình học tập hiệu quả hơn. 7
  13. 2. Các hình thức tổ chức nhằm đa dạng hóa hoạt động luyện tập trong dạy học môn Ngữ văn. 2.1.Các phương pháp và kĩ thuật: 2.1.1.Sử dụng câu hỏi/bài tập trong hoạt động luyện tập. Các câu hỏi phần luyện tập khác với phần hình thành kiến thức mới, nhằm củng cố kiến thức hoặc rèn kĩ năng đã học và áp dụng trực tiếp kiến thức, kĩ năng đã biết để giải quyết các tình huống, vấn đề trong bài học đặt ra. Khi xây dựng câu hỏi giáo viên phải xác định được những kiến thức trọng tâm cần củng cố hay những kỹ năng quan trọng cần được rèn luyện cho học sinh qua tiết học, bài học. Có hai dạng câu hỏi thường được sử dụng là câu hỏi trắc nghiệm và câu hỏi trả lời điền khuyết. Bằng các câu hỏi, giáo viên giúp học sinh tự thể hiện mức độ tiếp thu bài học, khả năng vận dụng kiến thức để xử lý tình huống. Theo hướng này thì sản phẩm hoạt động luyện tập phải là những câu hỏi có liên quan đến nội dung đã học, mục tiêu đặt ra của bài học. + Chuẩn bị của giáo viên: - Nghiên cứu mục tiêu bài học, nội dung bài học trong sách giáo khoa và sách giáo viên, hình dung ra kịch bản bài học trên lớp - Cụ thể hóa mục tiêu bài học thành những yêu cầu cụ thể của hoạt động học. - Tìm hiểu để biết học sinh đã có những kiến thức, kinh nghiệm gì từ thực tiễn, có những kiến thức cũ gì từ những nội dung đã học…. liên quan đến nội dung học tập trong bài mới để gợi ý cho học sinh nhớ lại và liên hệ với bài học. - Từ đó hình dung ra cụ thể hoạt động luyện tập ở trên lớp và thiết kế câu hỏi phù hợp, kích thích tính tò mò và hứng thú vào giải quyết bài tập/câu hỏi. - Dự kiến hoạt động của học sinh, tức là học sinh sẽ làm gì, trả lời câu hỏi như thế nào, sẽ giải quyết đến đâu? + Thực hiện trên lớp Yêu cầu học sinh thực hiện các câu hỏi theo sách giáo khoa hoặc theo thiết kế mới của giáo viên, nếu cần thì giáo viên hướng dẫn thêm nhằm làm cho học sinh ý thức rõ nhiệm vụ cần phải thực hiện. Ngoài những nhiệm vụ, câu hỏi trong sách giáo khoa, giáo viên cần dự kiến thêm những câu hỏi gợi lại các kiến thức học sinh đã có liên quan đến những bài học trước. Giáo viên cần có những câu hỏi có độ khó cho các học sinh giỏi để phát triển vấn đề, tìm hiểu ở mức cao; những câu hỏi để cụ thể, chia nhỏ, làm rõ những vấn đề với những học sinh còn chưa rõ. Giáo viên dùng các câu hỏi “mở” để khuyến khích học sinh có các ý trả lời hay giải pháp khác nhau để phong phú thêm kiến thức bài học. 2.1.2.Sử dụng trò chơi trong hoạt động luyện tập. Trò chơi học tập được giáo viên sử dụng khá phổ biến trong phần luyện tập, với rất nhiều trò chơi như: Trò chơi ô chữ, trò chơi mảnh ghép, chiếc hộp bí mật, ai là triệu phú, chiếc nón kì diệu…Sử dụng trò chơi trong luyện tập vừa giúp học sinh 8
  14. củng cố và luyện tập lại bài vừa học vừa tạo một sân chơi trí tuệ bổ ích, xoá tan sự mệt mỏi sau một giờ học căng thẳng. Trong quá trình dạy học, giáo viên tùy vào nội dung của bài học để có thể sử dụng nhiều trò chơi khác nhau. Song dù sử dụng trò chơi học tập nào thì giáo viên cũng phải tiến hành theo đúng các bước sau: Bước 1: Giáo viên giới thiệu tên, mục đích của trò chơi. Bước 2: Hướng dẫn chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau: + Tổ chức người tham gia trò chơi (số người tham gia, số đội tham gia, quản trò, trọng tài,...). Các dụng cụ dùng để chơi. + Cách chơi: Từng việc làm cụ thể của người chơi hoặc đội chơi, thời gian chơi, những điều người chơi không được làm… + Cách xác nhận kết quả và cách tính điểm chơi, cách giải của cuộc chơi (nếu có) Bước 3: Làm mẫu Bước 4: Thực hiện trò chơi Bước 5: Đánh giá: Giáo viên hoặc trọng tài là học sinh nhận xét về thái độ tham gia trò chơi của từng đội, những việc làm chưa tốt của các đội để rút kinh nghiệm và công bố kết quả. 2.1.3.Tổ chức cuộc thi. Hình thức luyện tập thông qua cuộc thi sẽ tạo được hứng thú cho học sinh. Thông qua hình thức này, học sinh có cơ hội được bộc lộ hết khả năng, sự nhanh nhẹn và đặc biệt tạo được không khí sôi nổi và thoải mái sau tiết học. Tùy vào nội dung bài học, giáo viên có thể lựa chọn tổ chức các cuộc thi khác: Rung chuông vàng, đối mặt, đấu lưng, chung sức, vẽ sơ đồ tư duy… Bước 1: Giới thiệu cuộc thi Bước 2: Chọn các thành viên/đội dự thi Bước 3: Vào cuộc thi Bước 4. Kết thúc và trao giải 2.1.4.Phương pháp phỏng vấn chuyên gia/ đối thoại văn chương. Đây là một phương pháp không mới, nhưng nếu được vận dụng linh hoạt và phù hợp sẽ mang lại hiệu quả cao. Để sử dụng phương pháp này, giáo viên giao vấn đề (thuộc kiến thức trọng tâm của bài học), yêu cầu học sinh chuẩn bị kỹ lưỡng ở nhà. Giờ học trên lớp, giáo viên tổ chức thành một diễn đàn đối thoại, cử ra một học sinh làm phóng viên, một học sinh khác làm chuyên gia để phóng viên phỏng vấn chuyên gia về những vấn đề xoay quanh bài học. Những học sinh khác tham gia với tư cách là người đối thoại với chuyên gia. Qua đó, những vấn đề về bài học sẽ được 9
  15. thảo luận và tháo gỡ một cách dễ dàng, đặc biệt kích thích được khả năng sáng tạo của học sinh. Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên cần chú ý giao nhiệm vụ trước cho các nhóm chuẩn bị ở nhà, dự định được các vấn đề có thể xảy ra xoay quanh tình huống để học sinh có cơ hội thể hiện mình 2.1.5.Sử dụng hình ảnh trực quan. Việc dạy học theo phương pháp dạy học tích cực có sử dụng tư liệu trực quan như tranh ảnh, vi deo, bản đồ…. từ trong sách giáo khoa và các đồ dùng dạy học, sách tham khảo, internet… là vô cùng quan trọng. Việc khai thác từ các nguồn khác nhau, nhất là những hình ảnh mang tính thực tế của địa phương, những vấn đề thời sự mà sách giáo khoa, chương trình chưa cập nhật kịp thời…có tác dụng rất lớn trong việc tạo hứng thú học tập cho học sinh. + Chuẩn bị của giáo viên: - Dựa vào mục tiêu và nội dung bài học để tìm hiểu xem các tư liệu hiện liên quan. - Phân công chuẩn bị đồ dùng dạy học: giáo viên cần chuẩn bị những gì, học sinh chuẩn bị gì? - Tìm hiểu xem học sinh đã có những kiến thức, kinh nghiệm sống gì liên quan đến nội dung bài học để thiết kế các câu hỏi, gợi ý để hoạt động quan sát, trải nghiệm phù hợp và dự kiến các tình huống có thể xảy ra và cách xử lí. + Tiến hành dạy học trên lớp: - Giao nhiệm vụ quan sát: giáo viên hướng dẫn học sinh hoạt động quan sát theo hướng dẫn của sách giáo khoa và những hướng dẫn, gợi ý thêm của giáo viên. Thường thì giáo viên vẫn phải có câu hỏi gợi ý và hình thức tổ chức hoạt động cụ thể, có thể thiết kế các phiếu học tập khi giao việc, nhiệm vụ cho học sinh và để học sinh ghi các kết quả quan sát cá nhân, sử dụng theo nhóm trong quá trình học. Cần dành một khoảng thời gian phù hợp để học sinh ý thức rõ nhiệm vụ học tập. - Học sinh tiến hành quan sát: học sinh ghi các nhận xét, kết quả hoạt động vào vở hoặc phiếu học tập. Học sinh trao đổi trong nhóm theo cặp đôi hoặc theo nhóm để điều chỉnh, hoàn thiện kết quả học. - Báo cáo kết quả: cá nhân học sinh hoặc nhóm học sinh báo cáo trước lớp. Các bạn trong lớp nhận xét, góp ý bổ sung để cùng nhau hoàn thiện. - Giáo viên tổng kết, bổ sung, chính xác hóa kiến thức. 2.2. Các hình thức tổ chức hoạt động lyện tập. 2.2.1. Hoạt động cá nhân. - Loại hoạt động này yêu cầu học sinh thực hiện các bài tập/nhiệm vụ một cách độc lập nhằm tăng cường khả năng làm việc độc lập của học sinh. 10
  16. - Nó diễn ra khá phổ biến, đặc biệt là với các bài tập/nhiệm vụ có yêu cầu khám phá, sáng tạo hoặc rèn luyện đặc thù. - Giáo viên cần đặc biệt coi trọng hoạt động cá nhân vì nếu thiếu nó, nhận thức của học sinh sẽ không đạt tới mức độ sâu sắc và chắc chắn cần thiết, cũng như các kĩ năng sẽ không được rèn luyện một cách tập trung. 2.2.2. Hoạt động cặp đôi. - Loại hoạt động này nhằm giúp học sinh hoàn thiện cá nhân, phát triển năng lực hợp tác, tăng cường sự chia sẻ và tính cộng đồng. - Thông thường, hình thức hoạt động cặp đôi được sử dụng trong những trường hợp các bài tập/nhiệm vụ cần sự chia sẻ, hợp tác trong nhóm nhỏ gồm 2 em. Ví dụ: kể cho nhau nghe, nói với nhau một nội dung nào đó, đổi bài cho nhau để đánh giá chéo. 2.2.3. Hoạt động nhóm. Ý nghĩa quan trọng nhất của học nhóm là để giúp mỗi học sinh rèn luyện tư duy độc lập, kích thích sự năng động, sáng tạo; thống nhất ý kiến của cả nhóm, cả lớp, giúp học sinh hiểu được điều các em chưa hiểu hoặc khó hiểu nhờ sự giúp đỡ của các bạn. Qua đó cũng giúp học sinh phát triển các năng lực hợp tác, giao tiếp và trình bày, phát triển tình đoàn kết giữa các học sinh trong tập thể; học sinh được bạn hỗ trợ sẽ tiến bộ hơn do từ chỗ chưa hiểu bài đến hiểu bài, từ làm bài sai đến nhận ra chỗ sai và sửa lại cho đúng.Và khi các học sinh trong nhóm trao đổi, học sinh biết sẽ giúp cho những học sinh biết, học sinh biết nhiều sẽ giúp cho em biết ít; học sinh cố gắng để giúp bạn thì mình cũng nắm vững kiến thức, kĩ năng và phát triển năng lực hơn. Học nhóm giúp cho tất cả học sinh đều nắm chắc, nhớ và vận dụng kiến thức tốt vì kiến thức được hình thành vừa là sản phẩm của riêng từng cá nhân, lại được hoàn thiện chính xác nhờ tập thể. Hình thức học nhóm phù hợp nhất với những câu hỏi, những nội dung trong bài học có độ khó phù hợp với khả năng nhận thức của nhiều học sinh trong lớp nhưng đòi hỏi có nhiều thời gian và nhiều người tham gia thảo luận, tranh cãi mới “vỡ lẽ” ra vấn đề; đó cũng có thể là một nội dung “mở”, có nhiều cách giải quyết hoặc có khi nhiều đáp án đúng. 2.2.4. Hoạt động cả lớp. - Hình thức hoạt động này phù hợp với số đông học sinh, nhằm tăng cường tính cộng đồng, giáo dục tinh thần đoàn kết, sự chia sẻ. - Hoạt động chung cả lớp thường vận dụng trong các tình huống: nghe giáo viên hướng dẫn chung; nghe giáo viên nhắc nhở, chốt kiến thức; học sinh luyện tập trình bày miệng trước tập thể lớp… - Khi tổ chức hoạt động này, giáo viên tránh biến giờ học thành giờ nghe thuyết giảng hoặc vấn đáp vì như vậy sẽ làm giảm hiệu quả và sai mục đích của hình thức hoạt động này. 11
  17. 3. Thiết kế hoạt động luyện tập vào dạy học một số văn bản thơ kháng chiến Việt Nam ở chương trình Ngữ Văn 12. 3.1.Vận dụng trò chơi giải ô chữ khi dạy bài “Tây Tiến” của Quang Dũng. B1: GV chia lớp thành 4 đội, phổ biến luật chơi: Luật chơi: + 7 ô chữ hàng ngang + 1 ô chữ hàng dọc. + Sau khi nghe câu hỏi gợi ý, đội nào có tín hiệu nhanh được quyền trả lời. Mỗi câu trả lời đúng được 10 điểm. Từ ô hàng ngang thứ 3 đội nào có tín hiệu sẽ có quyền trả lời ô hàng dọc, nếu trả lời đúng được 40 điểm, trả lời sai mất quyền được chơi tiếp. B2: Các nhóm thảo luận thống nhất đáp án. B3: Nhóm có đáp án nhanh nhất cử đại diện trình bày. B4: GV nhận xét chốt đúng/ sai, cho điểm hoặc gọi nhóm khác. * Gợi ý về ô chữ hàng dọc: (có 7 chữ cái) Từ diễn tả Vẻ đẹp nổi bật của hình tượng người lính Tây Tiến cũng như cảm hứng sáng tác của Quang Dũng trong bài thơ. * Gợi ý về ô chữ hàng ngang: – Ô chữ số 1 (có 6 chữ cái): Tên địa bàn in dấu những chặng đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến – Ô chữ số 2: (có 5 chữ cái) Nét riêng của thiên nhiên nơi người lính Tây Tiến hành quân, được thể hiện qua những câu thơ: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống – Ô chữ số 3: (có 6 chữ cái) Vẻ đẹp độc đáo của người lính Tây Tiến được thể hiện qua những câu thơ: Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm – Ô chữ số 4: (có 7 chữ cái) Những câu thơ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Thể hiện nét đẹp nào nữa của thiên nhiên nơi đơn vị Tây Tiến hành quân qua. – Ô chữ số 5: (có 8 chữ cái) Địa danh xuất hiện trong câu thơ: 12
  18. ………..hoa về trong đêm hơi. – Ô chữ số 6: (có 6 chữ cái): Hai câu thơ: Anh bạn dãi dầu không bước nữa Rải rác biên cương mồ viễn xứ Nói lên hiện thực gì? – Ô chữ số 7: (7 chữ cái) Vẻ đẹp tinh thần của người lính thể hiện qua câu thơ: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Trò chơi giải ô chữ khi dạy bài “Tây Tiến” ở lớp 12A3-THPT Quỳnh Lưu 3 13
  19. 3.2.Sử dụng trò chơi “lật mảnh ghép-đoán hình nền” khi dạy bài “Việt Bắc” của Tố Hữu. - Mục tiêu: Củng cố kiến thức, thực hành áp dụng kiến thức vừa học để giải quyết vấn đề. - Phương pháp/kĩ thuật: chơi trò chơi, động não, trình bày một phút, dạy học nêu vấn đề. - Phương tiện: máy chiếu/tivi, bức tranh liên quan đến nội dung bài học - Thời gian: dự kiến 5-7 phút. - Tổ chức hoạt động. + Bước 1: Giáo viên chuyển giao nhiệm vụ: giới thiệu trò chơi: Có một hình nền liên quan đến nội dung bài học được che bởi 4 mảnh ghép được đánh số thứ tự từ 1 đến 4, mỗi mảnh ghép sẽ có 1 câu hỏi tương ứng liên quan đến nội dung bài học, trả lời đúng mảnh ghép sẽ được lật ra. Sau khi lật hết các mảnh ghép, hình nền sẽ được mở, học sinh có thể giới thiệu về hình nền này. + Bước 2: Chọn học sinh lần lượt tham gia chơi lật mảnh ghép đoán hình nền. + Bước 3: Giáo viên nhận xét, biểu dương, động viên tinh thần và tổng kết điểm cho các HS tham gia. Các câu hỏi tương ứng với các mảnh ghép là: Câu 1: "Mình về mình có nhớ ta/mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng"…Thời gian "Mười lăm năm ấy" trong câu thơ trên nên hiểu như thế nào? A. Chỉ là một cách nói thời gian tượng trưng, không có tính xác định. B. Là thời gian tính từ thời kháng Nhật đến kháng chiến chống Pháp thắng lợi. 14
  20. C.Là thời gian tính từ sau Cách Mạng tháng Tám đến khi miền Bắc bước vào xây dựng xã hội chủ nghĩa. D. Là sự vận dụng sáng tạo từ câu thơ trong "Truyện Kiều". Câu 2: Trong số các hình ảnh sau đây trong bài thơ “Việt Bắc” hình ảnh nào chưa gợi rõ nét riêng của con người Việt Bắc? A. Dân công đỏ đuốc. B. Người mẹ đưa con lên rẫy. C. Cô gái hái măng một mình. D. Con người trên đèo cao với dao cài thắt lưng Câu 3: Dòng nào sau đây chưa đúng với bài thơ "Việt Bắc"? A. Bài thơ sử dụng lối kết cấu quen thuộc của ca dao dân ca – theo lối đối đáp của mình – ta. B.Hình thức là đối thoại, nhưng là sự phân thân của cái "tôi" trữ tình để bộc lộ tâm trạng đầy đủ sâu sắc. C. Giọng thơ có nét gần với hát ru – ngọt ngào, nhịp nhàng, thấm đựơm nghĩa tình. D.Các hình ảnh thơ đầy tính sáng tạo, mới lạ và đậm chất triết lý. Câu 4 : Câu thơ nào sau đây diễn tả cảm giác trống vắng, gợi nhớ quá khứ sâu nặng. Tác giả mượn cái thừa để nói cái thiếu? A.“ Mình đi, có nhớ những ngày / Mây nguồn suối lũ, những mây cùng mù" B. “Mình về, có nhớ chiến khu / Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?” C. “Mình về, rừng núi nhớ ai / Trám bùi để rụng, măng mai để già” D. “Mình đi, có nhớ những nhà / Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2