intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Góp phần giúp học sinh học tốt hình học không gian qua khai thác một số bài toán cơ bản

Chia sẻ: Behodethuonglam | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:38

29
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài “Góp phần giúp học sinh học tốt hình học không gian qua khai thác một số bài toán cơ bản” nhằm nêu ra kinh nghiệm của bản thân về việc giảng dạy cho học sinh học tập môn toán THPT, giúp học sinh được tiếp thu các kiến thức toán một cách chủ động, tích cực, tạo sự hứng thú trong học toán qua đó góp phần phát triển một số thành tố năng lực cho người học. Đề tài có thể áp dụng để giảng dạy tất cả các đối tượng học sinh THPT sau khi học xong kiến thức góc, khoảng cách, thể tích khối đa diện. Đề tài cũng giúp học sinh 12 ôn tập một số kiến thức quan trọng phục vụ cho kì thi THPTQG.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Góp phần giúp học sinh học tốt hình học không gian qua khai thác một số bài toán cơ bản

  1. I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài. Trong công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà,   đổi mới nội dung, chương trình dạy học và đi kèm theo đó là đổi mới phương  pháp dạy học là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Chương trình  dạy học mới được xây dựng theo quan điểm tiếp cận năng lực người học, kết  hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề  nghiệp; góp phần chuyển nền   giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện   cả về phẩm chất và năng lực, hài hoà đức, trí, thể, mĩ và phát huy tốt nhất tiềm   năng của mỗi học sinh.  Để  giải được một bài toán thì điều quan trọng nhất là chúng ta phải lựa  chọn được phương pháp phù hợp để  giải bài toán đó. Các bài toán, đặc biệt là  các bài toán về  liên quan đến góc, khoảng cách…rất đa dạng và phong phú vì  thế đòi hỏi người dạy cần luyện cho học sinh khả năng suy luận có lí, biết quy   lạ  về  quen đển giải quyết các bài toán. Đối với học sinh THPT rất nhiều học  sinh ngại khi gặp các bài toán liên quan đến góc và khoảng cách. Đối với việc  hướng dẫn giải một số  bài toán liên quan đến góc, khoảng cách trong sách giáo  khoa  ở  một lớp có nhiều đối tượng học sinh, một mặt làm giảm đi việc "sợ"   hình không gian  ở nhiều học sinh, mặt khác không làm nhàm chán học sinh khá  giỏi khi giải dạng toán này, người giáo viên nên hướng dẫn học sinh  tìm ra các  cách giải khác nhau, xây dựng thành các chuỗi bài tập có hệ thống.   Trong quá trình giảng dạy toán cần thường xuyên rèn luyện cho học sinh   các phẩm chất trí tuệ  có ý nghĩa lớn lao đối với việc học tập, rèn luyện và tu   dưỡng đạo đức trong cuộc sống của học sinh. Đối với học sinh yếu kém cần   tạo nên cho các em có hứng thứ học tập môn Toán, còn đối với  các học sinh khá  giỏi cần rèn luyện cho các em tính linh hoạt, tính độc lập, tính sáng tạo, tính phê   phán của trí tuệ là những điều kiện cần thiết  trong việc học toán. Chính vì vậy  việc dạy học Toán không đơn thuần chỉ  cung cấp cho các em một số  vốn kiến   thức thông qua việc làm bài tập càng nhiều càng tốt, càng khó càng hay mà phải  cần thiết rèn luyện khả năng tư duy, suy luận có lí để giải bài toán. Để  có một bài giảng thu hút được học trò, giúp học trò phát triển tư  duy  về  môn toán và dẫn dắt học trò tới niềm say mê tìm tòi sáng tạo, tôi cũng như  bao giáo viên yêu nghề và yêu toán khác thường trăn trở với những khó khăn của  học trò trong quá trình tiếp cận từng bài toán. Nếu dạy toán chỉ  đơn thuần là  dạy cho học sinh các kiến thức có sẵn ở sách giáo khoa thì chắc chắn môn toán  sẽ  là môn học nhàm chán, khó khơi dậy  ở  học sinh sự  tìm tòi, tự  học, tự  sáng   tạo. Xuất phát từ những lí do đó tôi chọn đề tài “Góp phần giúp học sinh học  tốt hình học không gian qua khai thác một số bài toán cơ bản” 2. Đối tượng nghiên cứu Trang 1
  2. Các bài toán hình học không gian liên quan đến góc, khoảng cách, thể tích. Khó khăn thường gặp của học sinh trong quá trình học tập nói chung và  học toán nói riêng. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu các nội dung trong sách giáo khoa, sách giáo viên toán THPT; các tài  liệu liên quan đến việc dạy học theo chương trình mới 2018; các tài liệu tham  khảo; các đề thi tuyển sinh đại học, đề thi THPT Quốc gia; thực tiễn giảng dạy   của giáo viên và học sinh; thực tiễn giảng dạy của bản thân để  hệ  thống hóa,  phân dạng và đưa ra cách phân tích bài toán cùng với các kỹ thuật tương ứng để  giải quyết tốt các bài toán liên quan đến góc và khoảng cách.  4. Mục đích nghiên cứu Đề tài “Góp phần giúp học sinh học tốt hình học không gian qua khai   thác một số bài toán cơ bản” nhằm nêu ra kinh nghiệm của bản thân về việc  giảng dạy cho học sinh học tập môn toán THPT, giúp học sinh được tiếp thu các  kiến thức toán một cách chủ động, tích cực, tạo sự hứng thú trong học toán qua   đó góp phần phát triển một số thành tố năng lực cho người học. Đề tài có thể áp   dụng để giảng dạy tất cả các đối tượng học sinh THPT sau khi học xong kiến   thức góc, khoảng cách, thể  tích khối đa diện. Đề  tài cũng giúp học sinh 12 ôn  tập một số kiến thức quan trọng phục vụ cho kì thi THPTQG. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp chính ­ Phương pháp nghiên cứu lí luận: tham khảo tài liệu, sách giáo khoa.  ­ Phương pháp điều tra thực tiễn: quan sát, khảo sát để tìm hiểu sự hứng thú  trong học toán của học sinh cũng như  trong việc giải các bài toán hình học   không gian. ­  Phương pháp thực nghiệm sư  phạm:  thực hành thông qua quá trình giảng  dạy. 5.2. Phương pháp bổ trợ Phương pháp thống kê: Kiểm tra kết quả  học tập của học sinh, điểm số  của   học sinh qua các kì kiểm tra thực nghiệm, kì thi THPT quốc gia, từ đó thấy được  mức độ và hiệu quả đạt được  của việc áp dụng đề tài.  ­­­­­­­­­­­­­­­***­­­­­­­­­­­­­ Trang 2
  3. II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Khái niệm năng lực       Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm năng  lực  được hiểu theo nhiều cách khác nhau, theo (W.Westera, 2001), năng lực  thường được liên tưởng với tay nghề cao và có mối liên hệ  trực tiếp trong lĩnh  vực giáo dục giữa năng lực nghề  nghiệp của giáo viên và thực hiện của học  sinh. Có hai nghĩa khác biệt của từ “năng lực” trong giáo dục.      Theo quan điểm lí thuyết, năng lực được hiểu là một cấu trúc nhận thức mà  làm cho dễ dàng các hành vi được định rõ. Theo quan điểm hoạt động, năng lực  dường như  bao hàm một hàm vi rộng lớn các kĩ năng và hành vi bậc cao mà   chúng tiêu biểu cho khả  năng giải quyết các tình huống phức tạp, không thể  đoán trước. Định nghĩa về  mặt thực hành này bao gồm kiến thức, kĩ năng, thái   độ, siêu nhận thức và tư duy chiến lược, và phỏng đoán việc ra quyết định một   cách có ý thức và chủ tâm. Hiện nay, quan điểm thứ hai về năng lực ở trên được   dùng phổ biến trong giáo dục. Trong bài viết này tôi quan tâm sử  dụng nội hàm  này dưới góc độ: Năng lực là sự  kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng và mong  muốn.      Giáo dục định hướng phát triển năng lực (NL) nhằm mục tiêu phát triển NL   người học, đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu  phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng NL vận dụng tri thức  trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị  cho con người năng lực giải  quyết các tình huống của cuộc sống và nghề  nghiệp. Như  vậy, ngay trong quá  trình học tập  ở  nhà trường phổ  thông, HS cần được hình thành và phát triển   năng lực vận dụng kiến thức.      Như  vậy, có thể  nhìn nhận một cách tổng quát, NL luôn gắn với khả  năng  thực hiện, nghĩa là phải biết làm chứ  không dừng lại ở  hiểu. Hành động “làm”   ở  đây lại gắn với những yêu cầu cụ  thể  về  kiến thức, kĩ năng, thái độ  để  đạt  được kết quả. 1.1 Các loại năng lực       Hiện nay, người ta thường chia năng lực thành năng lực chung, cốt lõi và  năng lực chuyên biệt, trong đó năng lực chung, cốt lõi là năng lực cơ  bản cần  thiết làm nền tảng để phát triển năng lực chuyên biệt. 1.1.1 Năng lực chung ­  Năng lực chung NL chung là những NL cơ  bản, thiết yếu hoặc cốt lõi  làm nền tảng cho mọi hoạt động của con người trong cuộc sống và lao động  nghề  nghiệp như: NL trí tuệ, NL về  ngôn ngữ  và tính toán, NL giao tiếp, NL   Trang 3
  4. vận động. Các NL này được hình thành và phát triển dựa trên bản năng di truyền   của con người, quá trình giáo dục và trải nghiệm trong cuộc sống; đáp ứng yêu  cầu của nhiều loại hình hoạt động khác nhau. Tùy thuộc vào phương pháp thiết   kế chương trình, các nhà nghiên cứu có 2 cách tiếp cận phát triển chương trình  giáo dục phổ thông, đó là: ­ Tiếp cận dựa vào nội dung nghĩa là tập trung chủ  yếu vào các chi tiết  của môn học, có tính chỉ đạo cao, cố  định cả  về  cấu trúc và phân bổ  thời gian.   Việc học tập của HS nhấn mạnh vào ghi nhớ và tái tạo kiến thức đã có.  ­  Tiếp cận dựa vào kết quả  đầu ra nghĩa là xác định học sinh cần đạt  đƣợc hệ  thống những nhóm NL chung  ở  từng môn học vào cuối giai đoạn cụ  thể. Chương trình tiếp cận NL thực chất vẫn là cách tiếp cận kết quả  đầu ra.   Tuy nhiên đầu ra ở đây tập trung vào hệ thống NL của ngƣời học, chú ý đầu ra   cần đạt, các NL cần cho cuộc sống, học tập và tham gia có hiệu quả trong xã hội.   Cụ thể là những nhóm NL sau: + Nhóm NL làm chủ và phát triển bản thân: NL tự học, NL giải quyết vấn   đề, NL tư duy, NL quản lí. + Nhóm NL về quan hệ xã hội: NL giao tiếp, NL hợp tác. + Nhóm NL công cụ: NL sử  dụng công nghệ  thông tin và truyền thông  (ICT), NL sử dụng ngôn ngữ, NL tính toán. Cách tiếp cận đầu ra trả lời cho câu  hỏi: chúng ta muốn học sinh biết những gì và có thể làm được những gì 1.1.2 Năng lực chuyên biệt Năng lực chuyên biệt là những NL được hình thành và phát triển trên cơ  sở các NL chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt trong các loại hình hoạt  động, công việc hoặc tình huống, môi trƣờng đặc thù, cần thiết cho những hoạt   động chuyên biệt, đáp  ứng yêu cầu hẹp hơn của một hoạt động như  toán học,  âm nhạc, mĩ thuật, thể thao… Như  vậy, NL chuyên biệt là sản phẩm của một môn học cụ  thể, được  hình thành và phát triển do một lĩnh vực hoặc một môn học nào đó. Trong (Trần Kiều, 2015) cho rằng: một số năng lực chủ yếu cần được hình   thành và phát triển cho học sinh phổ  thông nước ta khi học toán trong mối quan  hệ chặt chẽ với những năng lực chung và phản ánh đặc thù của môn Toán, những   năng lực đó là: ­ Năng lực tư duy với các thao tác chủ yếu như: phân tích và tổng hợp, so   sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa…; đặc biệt lưu ý đến năng lực tư duy logic   trong suy diễn, lập luận đồng thời coi trọng tư duy phê phán, sáng tạo, cũng như  các yếu tố dự đoán, tìm tòi, trực giác toán học, tưởng tượng không gian. Trang 4
  5. ­  Năng lực giải quyết vấn đề  đây là mọt trong những năng lực mà môn  Toán có nhiều thuận lợi để  phát triển cho người học qua việc tiếp nhận khái  niệm, chứng minh các mệnh đề toán học và đặc biệt là qua giải toán. ­ Năng lực mô hình hóa toán học từ các tình huống thực tiễn giả định hoặc   tình huống thực trong cuộc sống. Đây là năng lực cần phải được quan tâmnhiều  hơn nữa trong các trường phổ thông ở nước ta. Năng lực giao tiếp (qua nói và viết) liên quan tới việc sử  dụng có hiệu  quả  ngôn ngữ  toán học (chữ, kí hiệu, biểu đồ, đồ  thị, các liên kết logic,..) kết  hợp với ngôn ngữ thông thường. Năng lực này được thể hiện qua việc hiểu các   văn bản toán học, đặt câu hỏi, trả lời câu hỏi, lập luận khi chứng minh sự đúng  đắn của các mệnh đề, khi giải toán. Năng lực sử dụng các công cụ, phương tiện học toán: bao gồm các phương  tiện thông thường, đặc biệt là phương tiện gắn chặt với việc sử dụng công nghệ  thông tin. Năng lực tự học toán: với phương pháp phù hợp, đồng thời hợp tác được  với người khác một cách hiệu quả trong quá trình học tập toán. 2. Đổi mới phương pháp dạy học với việc phát năng lực của học sinh Tổng quát về  đổi mới phương pháp dạy học các môn học thuộc chương   trình giáo dục định hướng phát triển năng lực là: Phải phát huy tính tích cực, tự  giác, chủ  động của người học , hình   thành và phát triển năng lực tự  học (sử  dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép,  tìm kiếm thông tin), trên cơ  sở  đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập,   sáng tạo của tư  duy. Có  thể  chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp  chung và phương pháp đặc thù của môn học để thực hiện. Tuy nhiên dù sử dụng   bất kỳ  phương pháp nào cũng phải đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh tự  mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với sự tổ chức, hướng dẫn của giao viên”. ́ Việc sử  dụng phương pháp dạy học gắn chặt với các hình thức tổ  chức  dạy học. Tuy theo m ̀ ục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ  thể  mà có  những hình thức tổ  chức thích hợp như  học cá nhân, học nhóm; học trong lớp,  học ở ngoài lớp. Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, chú ý cho học sinh   thực hành, vận dụng kiến thức vào tình huống có tính phức hợp, tìm tòi, khám  phá, nghiên cứu, thực hiện các dự án học tập, thảo luận, thuyết minh, nâng cao  hứng thú cho người học. 3. Một số kiến thức cơ bản được sử dụng trong đề tài. 3.1. Góc giữa hai đường thẳng trong không gian Định nghĩa 1 Góc giữa hai đường thẳng  và  trong không gian là góc giữa hai đường thẳng   và  cùng đi qua một điểm và lần lượt song song với  và . Trang 5
  6. Nhận xét: Góc giữa hai đường thẳng  và  luôn không tù nên  3.2. Góc giữa đường thẳng và mặt phẳng Định nghĩa 2 Cho đường thẳng  và mặt phẳng . Trường hợp đường thẳng  vuông góc với mặt phẳng  thì ta nói rằng góc giữa   đường thẳng  và mặt phẳng  bằng . Trường hợp đường thẳng  không vuông góc với mặt phẳng  thì góc giữa  và hình   chiếu  của nó trên  gọi là góc giữa đường thẳng  và mặt phẳng . Nhận xét:  3.3. Góc giữa hai mặt phẳng Định nghĩa 3 Góc giữa hai mặt phẳng là góc giữa hai đường thẳng lần lượt vuông góc với   hai mặt phẳng đó.  3.4. Khoảng cách từ một điểm đến một đường thẳng Cho điểm  và đường thẳng . Trong mặt phẳng  gọi  là hình chiếu vuông góc của  trên . Khi đó khoảng cách giữa hai điểm  và  được gọi là khoảng cách từ  điểm   đến đường thẳng  và được kí hiệu là . 3.5. Khoảng cách từ một điểm đến một mặt phẳng Cho điểm  và mặt phẳng . Gọi  là hình chiếu vuông góc của  lên mặt phẳng .  Khi đó khoảng cách giữa hai điểm  và  được gọi là khoảng cách từ điểm  đến  mặt phẳng  và được kí hiệu . 4. Một số tính chất bổ trợ được sử để giải quyết các bài toán trong đề tài Trang 6
  7. 4.1. Tính chất 1: Cho hình chóp  có , đáy  là tam  giác vuông tại . Gọi  lần lượt là hình chiếu vuông   góc của  lên các cạnh . Ta có các kết quả sau  i. . ii. . iii. . Chứng minh i. Từ giả thiết ta có . ii. Từ kết chứng minh trên ta có  mà  , kết hợp với giả thiết  ta suy ra . iii. Do , kết hợp giả thiết  suy ra . 4.2. Tính chất 2: Thể tích tứ diện  được tính theo công thức  Chứng minh:  Gọi  là hình chiếu vuông góc của  lên mặt phẳng ,  ta có  . Đây là kết quả cần chứng minh. 5. Một số kí hiệu được sử dụng trong đề tài TT KÍ HIỆU NỘI DUNG KÍ HIỆU 1 Góc giữa hai đường thẳng  và  2 Góc giữa đường thẳng  và mặt phẳng  3 Góc giữa hai mặt phẳng  và  4 Diện tích tam giác  5 Thể tích khối chóp  Trang 7
  8. Chương II: THỰC TRẠNG  TRONG DẠY HỌC MÔN TOÁN VÀ MỘT SỐ  KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA ĐỀ TÀI 1. Về cấu trúc SGK và cấu trúc đề thi THPTQG. 1.1 Về chương trình và sách giáo khoa ­ Các kiến thức hình học không gian liên quan đến thể  tích, góc, khoảng   cách   ở   sách   giáo   khoa   được   trình   bày   ở   chương   cuối   sách   Hình   học   11   và   Chương đầu sách Hình học 12.. ­ Các hệ  thống các bài tập được đưa ra  ở  sách giáo khoa nhiều nhưng   chưa đủ đáp ứng cho học sinh luyện tập thi THPTQG 1.2. Về đề thi THPTQG trong những năm qua. Đề thi THPT quốc gia trong mấy năm qua bài toán hình học liên quan đến   thể tích, góc, khoảng cách thường xuyên xuất hiện trong đề thi THPTQG ở đầy  đủ các mức độ NB, TH, VD, VDC. 2. Thực trạng của học sinh.  ­ Đa số học sinh chưa có thói quen tư duy khi gặp các bài toán hình học mà  thường chỉ biết lặp lại những kiến thức của giáo viên truyền thụ nên không giải   được.  Trong thực tế, nhiều học sinh chưa hứng thú với môn hình học không  gian, học sinh thường ngại khi gặp các bài toán liên quan đến góc, khoảng cách   bởi các lí do:  ­ Học sinh không nắm vững lí thuyết cơ bản, chưa chịu khó khai thác sâu   hơn các bài toán cơ bản để thấy được mối liên hệ  lô­gic giữa các bài toán, xâu   chuỗi các kiến thức với nhau. ­ Trong quá trình giảng dạy giáo viên chưa thực sự  đầu tư  để  luyện tập   cho học sinh biết suy luận có lí. * Bảng số  liệu khảo sát 3 lớp học sinh khối 12 năm học 2020 ­2021 của   trường tôi với câu hỏi: Em có hứng thú khi gặp các bài toán hình học không gian   không?  Tổng số HS  Số HS Số HS Số HS Số HS khảo sát hứng thú ít hứng thú không hứng thú không có ý kiến 115 8 37 68 2 Bảng khảo sát cho thấy thực trạng các em không hứng thú khi gặp các bài   hình học không gian cho thấy việc dạy học và luyện giải các bài toán hình học   không gian chưa thực sự  được chú trọng hoặc chưa tìm ra cách dạy học phù  hợp. 3. Thực trạng của giáo viên Trang 8
  9. ­ Lâu nay, nhiều giáo viên dạy học làm các bài toán thuần túy mà chưa chú  trọng hướng dẫn học sinh  cách suy luận có lí. Việc giảng dạy chỉ  thuần túy  truyền thụ  kiến thức một chiều  mà chưa cho học sinh tìm tòi, mở  rộng, phát  triển bài toán.  Mặt khác, do áp lực khối lượng kiến thức môn học quá nhiều,   thời lượng ngắn nên việc rèn luyện kĩ  năng giải toán cho học sinh là không  nhiều. ­ Chưa chú trọng việc dạy cho học sinh cách tư  duy mà mới chỉ  dạy học   truyền thụ một chiều. ­ Một số giáo viên chưa chịu khó đầu tư về chuyên môn, mới chỉ dừng lại  ở việc góp nhặt các bài toán để ra cho học sinh giải chứ chưa có định hướng để  giúp học sinh tìm tòi, mở rộng 4. Tổng quan về đề tài và một số kết quả đạt được. ­ Hiện nay theo cá nhân tôi được biết có rất nhiều đề  tài SKKN đề  cập   đến chủ đề góc, khoảng cách. Các đề tài mà tôi được tìm hiểu chưa đề cập đến   quá trình thiết kế các hoạt động dạy học xây dựng cho học sinh tìm tòi, mở rộng   các bài toán một cách hoàn toàn tự nhiên để  tạo sự  hứng thú, gây kích thích tìm   tòi học tập cho học sinh;  ­ Trong đề tài này tôi xin được đề cập đến những vấn đề sau: + Đề tài đã xây dựng mới được hệ thống các bài tập xuất phát từ  những  bài tập cơ bản. + Đề  tài đã định hướng cho học sinh khai  thác hiệu quả  một số  các tính  chất được xây dựng sau khi giải các bài toán cơ bản và vận dụng các tính chất  đó giải các bài toán khó +   Đề  tài đã xây dựng được một số  kỹ  thuật giải các bài toán liên quan  đến thể tích, góc, khoảng cách. + Đề  tài cũng đưa ra một số  hướng dẫn giúp giáo viên định hướng quá  trình tìm tòi sáng tạo cho học sinh thông qua xây dựng các bài toán mới từ những  bài toán cơ bản. ­­­­­­­­­­­­­­­***­­­­­­­­­­­­­­­ Trang 9
  10. Chương III. KHAI THÁC MỘT SỐ BÀI TOÁN CƠ BẢN NHẰM PHÁT TRIỂN CHO NGƯỜI HỌC KHẢ NĂNG SUY LUẬN CÓ LÍ. 1. Khai thác bài toán tìm góc giữa hai mặt phẳng bằng phương pháp sử  dụng định nghĩa. Xuất phát từ bài toán sau Bài toán 1. Cho hình chóp  có , . Đáy  là tam giác vuông cân tại , . Gọi  lần lượt   là hình chiếu vuông góc của  lên các cạnh . Tính góc giữa hai mặt phẳng  và . Giải. Dễ chứng minh được  suy ra  do đó  Theo giả thiết  nên  (1) Lại có  nên kết hợp với (1) ta suy ra góc giữa hai mặt phẳng  và  là góc giữa hai   đường thẳng  và . Từ giả thiết ta có  nên tam giác  vuông cân, suy ra  Vậy góc giữa hai mặt phẳng  và  bằng . Nhận xét:  ­ Đây là bài toán không quá khó, nhưng với rất nhiều học sinh sẽ gặp khó khăn  do lựa chọn phương pháp giải không phù hợp. ­  Ở  bài toán trên ta đã sử  dụng định nghĩa để  tìm góc giữa hai mặt phẳng. Từ  cách giải quyết bài toán trên ta có kết quả sau: Tính chất 3: Cho hình chóp  có , đáy  là tam giác vuông tại . Gọi  lần lượt là hình  chiếu vuông góc của  lên các cạnh .  Lúc đó  Trang 10
  11. ­ ­ Kết quả của bài toán trên tạo ý tưởng cho ta xây dựng một số bài toán hay như  sau Bài toán 2: Cho hình chóp  có , đáy  là tam giác vuông cân tại , . Gọi  lần lượt là  hình chiếu vuông góc của  lên các cạnh . Tính thể tích khối chóp  biết góc giữa   hai mặt phẳng  và  là . Giải:  Từ giả thiết suy ra . Sử dụng kết quả trên ta có  suy ra  Diện tích tam giác  là  Vậy thể tích khối chóp  là  Bài toán 3: Cho hình chóp  có , đáy  là hình thang cân, . Gọi  lần lượt là hình  chiếu vuông góc của  lên các cạnh . Tính thể  tích khối chóp  biết góc giữa hai  mặt phẳng  và  là . Phân tích bài toán:  Ở bài toán này giáo viên cần định hướng (thông qua phân tích yếu tố ở đáy hình  chóp) để  học sinh nhận thấy các hình chóp   có các đặc điểm giống với hình  Trang 11
  12. chóp ở Bài toán 1, từ đó giúp học sinh thấy được góc giữa hai mặt phẳng  và  là  góc . Giải: Gọi  là trung điểm cạnh , dễ thấy  suy ra tứ giác  là một nửa hình lục giác đều   nội tiếp đường trong đường kính , suy ra . Áp dụng kết quả ở tính chất 3 ta suy ra   Do đó . Diện tích đáy  là  Thể tích khối chóp  là . Nhận xét:  ­ Ở bài toán trên nếu trong quá trình dạy học giáo viên không có các hoạt động   giúp học sinh nắm được Tính chất 1, không khai thác các yếu tố ở Bài toán 1 thì  học sinh sẽ gặp khó khăn trong việc khai thác giả thiết góc giữa hai mặt phẳng  và  dẫn đến khó khăn trong việc tìm ra lời giải bài toán. ­ Việc tìm ra góc giữa hai mặt phẳng  và  ở bài toán trên tuy có tạo khó cho học  sinh nhưng vẫn chưa thực sự “kín”. Nếu ta thay giả thiết  lần lượt là hình chiếu   vuông góc của  lên các cạnh  bởi giả thiết  lần lượt là hình chiếu vuông góc của  lên các cạnh  thì bài toán sẽ trở nên “hấp dẫn” hơn. Ta có bài toán sau Bài toán 4. Cho hình chóp  có , , đáy  là hình thang cân, . Gọi  lần lượt là hình   chiếu vuông góc của  lên các cạnh . Tính góc giữa hai mặt phẳng  và . Phân tích bài toán: ­ Ở bài này ta thấy hình chóp  chưa có tính chất như hình chóp ở Bài toán 1, do  đó ta chưa xác định được ngay góc giữa hai mặt phẳng  và . ­ Ta tìm mối liên hệ giữa Bài toán 4 và Bài toán 3 bằng cách xác định điểm  là  hình chiếu vuông góc của điêm  lên cạnh . Dự đoán  sẽ nằm trong mặt phẳng . Giải Trang 12
  13. Gọi  là hình chiếu vuông góc của điểm  lên cạnh , từ kết quả Bài toán 3 và các   kết quả ở Tính chất 1 ta suy ra  nên  và do đó  . Trong tam giác vuông  có  Vậy  Nhận xét: Từ các kết quả trên ta thấy mấu chốt của vấn đề là ta cần tạo ra mô  hình tứ diện  ở Bài toán 1, bản chất là tạo ra tứ diện có một cạnh đáy là đường   kính của đường tròn ngoại tiếp đa giác đáy. Từ đó ta tạo ra bài toán sau đây. Bài toán 5: Cho hình chóp  có , đáy  là tam giác đều cạnh . Gọi  lần lượt là hình   chiếu vuông góc của  lên các cạnh . Tính thể  tích khối chóp  biết góc giữa hai  mặt phẳng  và  là . Giải  Gọi  là tâm đường tròn ngoại tiếp tam giác ,  là điểm đối xứng với  qua . (Lúc   này dễ thấy ) Gọi  là hình chiếu vuông góc của  lên đường thẳng , theo các kết quả của Tính  chất 1 ta có  do đó theo Tính chất 3 ta có. Trong tam giác vuông  ta có   và do đó . Nhận xét: Ở bài toán trên, việc xác định góc giữa hai mặt phẳng  và  có chút khó  khăn do học sinh chưa tìm được ngay  đường thẳng nào vuông góc với mặt  phẳng . Nhưng nếu trong quá trình dạy học giáo viên biết tổ chức cho học sinh   nghiên cứu, khai thác sâu bản chất bài toán 1 và kỹ thuật giải của bài toán đó thì  ở  Bài toán 5 học sinh sẽ  biết cách dựng thêm điểm   để  quy về  bài toán quen   thuộc. Bài toán 5 cho đáy là tam giác đặc biệt nên việc tìm ra các kết quả  tính  Trang 13
  14. toán là không khó. Tiếp theo ta thay giả thiết đáy là tam giác thường thì sẽ có bài   toán sau. Bài toán 6: Cho hình chóp  có , , . Gọi  lần lượt là hình chiếu vuông góc của  lên  các cạnh . Tính cosin của góc giữa hai mặt phẳng  và . Nhận xét:  ­ Ở bài toán này ta cũng sẽ “học tập” cách giải ở Bài toán 5 là tạo ra điểm  để  xác định được góc giữa mặt phẳng  và mặt phẳng , tuy nhiên trong trường hợp  này học sinh sẽ gặp đôi chút khó khăn khi tìm độ dài .  ­ Để tìm  học sinh cần vận dụng kết hợp các hệ thức lượng trong tam giác Giải: Áp dụng định lí cosin cho tam giác  ta có  Gọi  là tâm đường tròn ngoại tiếp tam giác ,  là điểm đối xứng với  qua . (Lúc   này dễ thấy ) Gọi  là hình chiếu vuông góc của  lên đường thẳng , theo các kết quả của Tính  chất 1 ta có  do đó theo Tính chất 3 ta có. Trong tam giác vuông  ta có  (1) . Ta cần tính  Do  là đường kính đường tròn ngoại tiếp tam giác  nên áp dụng định lí sin cho   tam giác  ta có  Suy ra . Thay vào (1) ta được Vậy  Nhận xét: Trang 14
  15. ­ Qua các bài toán trên ta thấy việc khai thác các tính chất của 1 dạng tứ diện  đặc biệt (đã nêu ở Tính chất 1) giúp học sinh nắm vững hơn phương pháp dùng  định nghĩa để giải quyết bài toán liên quan đến góc giữa hai mặt phẳng qua đó  sẽ có cách nhìn sâu sắc hơn đối với các bài toán hình học không gian.  ­ Từ ý tưởng trên ta có thể tiếp tục tạo ra nhiều bài toán hay nữa bằng cách  “lồng ghép” các yếu tố trên vào khối lăng trụ. Bài toán sau đây là một ví dụ. Bài toán 7. Cho hình lập phương  cạnh bằng . Gọi  lần lượt là trung điểm các  đoạn thẳng . Tính góc giữa hai mặt phẳng  và . Giải: Ta có . Từ kết quả của các bài toán trên ta suy ra ngay  Nhận xét:  ­ Đây là bài toán không khó (học sinh có thể  giải theo nhiều cách khác nhau  nhưng cách nhìn nhận ở trên là đơn giản hơn), tuy nhiên nếu không có quá trình  phân tích, định hướng một cách hợp lí thì học sinh sẽ  khó nhìn nhận ra vấn đề  hoặc giải được nhưng mất nhiều thời gian. Việc định hướng khai thác các bài  toán cơ bản để xây dựng các bài toán mới sẽ giúp học sinh nắm bản chất và sâu  sắc hơn các tính chất hình học, qua đó giúp học sinh giải quyết nhanh hơn các  bài toán khó. (đặc biệt trong kỳ thi THPT QG như hiện nay đòi hỏi học sinh cần   giải nhanh các bài toán để đảm bảo yêu cầu về mặt thời gian) ­ Bài toán trên không quá khó do tính chất đặc biệt của hình lập phương, giáo  viên tiếp tục thay đổi giả thiết để tạo ra bài toán sau đây. Bài toán 8.  Cho hình hộp   có hình chiếu đỉnh   lên đáy   là trọng tâm   của tam  giác , đáy  là hình thoi có . Gọi  lần lượt là hình chiếu vuông góc của  lên các  cạnh . Tính thể tích của hình hộp  biết góc giữa hai mặt phẳng  và  là . Giải. Gọi  ta có , mà  suy ra  là tâm đường tròn ngoại tiếp tam giác . Trang 15
  16. Gọi  là điểm đối xứng với  qua điểm  ta có  nên theo kết quả  các bài toán trên  suy ra  do đó  Diện tích đáy  là  suy ra thể tích khối hộp  là . Đáp số:  Nhận xét. ­ Rõ ràng bài toán trên có mức độ khó hơn bởi các yếu tố quen thuộc được dấu   kín hơn, thực tế tôi đã kiểm chứng khi cho học sinh trực tiếp giải bài toán trên  khi chưa có các định hướng thông qua hệ  thống bài tập trên thì đa số  học sinh   gặp khó khăn và không tìm ra kết quả, nhưng sau khi có các hoạt động thông qua   phân tích và luyện tập các bài toán đã nêu ở phần trước thì các học sinh đã tìm ra   hướng giải quyết Bài toán 8 một cách nhanh chóng. ­ Ở Bài toán 8 có cảm giác “may mắn” khi tìm ra tâm đường tròn ngoại tiếp là   giao điểm hai đường chéo, tuy nhiên giáo viên có thể thay đổi giả thiết của các  yếu tố đáy để mục đích tìm ra được bán kính đường tròn ngoại tiếp tam giác . ­ Tiếp tục ý tưởng trên ta còn có thể tạo ra nhiều bài toán hay khác nữa nhưng   trong khuôn khổ  đề  tài tôi xin trình bày sang ý tưởng khai thác bài toán cơ  bản  khác, 2. Khai thác bài toán tìm góc giữa hai mặt phẳng bằng phương pháp sử  dụng Tính chất 2. Bài toán 1: Cho hình chóp đều  có tất cả  các cạnh bằng . Tính cosin của góc   giữa hai mặt phẳng  và . * Bài toán này học sinh có thể giải theo một số cách giải khác nhau như sau: Cách 1:  Trang 16
  17. Gọi  là trung điểm cạnh  suy ra  do đó góc giữa hai mặt phẳng  và  bằng góc  giữa hai đường thẳng  và . Xét tam giác   có ,  nên . Vậy . Cách 2:  Gọi  lần lượt là trung điểm các cạnh ;  Gọi  lần lượt là hình chiếu vuông góc của  lên các cạnh  (với  là tâm đáy ). Dễ  thấy  suy ra góc giữa hai mặt phẳng  và  bằng góc giữa hai đường thẳng  và . Cách 3: Phương pháp vectơ hoặc gắn hệ trục tọa độ và dùng phương pháp tọa  độ để giải. Cách 4: Sử dụng Tính chất 2 đã nêu ở phần đầu đề tài. Trang 17
  18. Dễ tìm được thể tích tứ diện  là  Mặt khác, theo Tính chất 2:  . Vậy . Nhận xét: ­ Đây là hình chóp đặc biệt nên ta có thể  sử  dụng được các cách 1, 2, 3. Nếu   thay đổi giả  thiết để  hình chóp trên không đặc biệt nữa thì các cách giải đó sẽ  khó áp dụng được.  ­ Nếu người dạy chỉ  dừng lại  ở  đây thì học sinh sẽ  không có cái nhìn sâu sắc   hơn về  dạng toán này. Trong quá trình giảng dạy tôi thấy khai thác tính chất 2  để  áp dụng cho các bài toán liên quan đến góc giữa hai mặt phẳng (ở  dạng  không cơ bản) nhiều khi rất hiệu quả, học sinh nắm được sâu sắc kiến thức và  vận dụng linh hoạt để giải toán. ­ Giáo viên cần chú ý cho học sinh dấu hiệu để  có thể  sử  dụng Tính chất 2 là  trong bài toán có 4 điểm tào thành một tứ diện dễ tìm được thể  tích, 2 mặt của  tứ diện đó có thể tính được diện tích đồng thời cạnh chung của hai mặt đó tính  được độ dài thì ta sẽ tìm được góc giữa hai mặt phẳng chứa hai mặt tứ diện đó.   Ngược lại nếu cho góc giữa hai mặt phẳng chứa 2 mặt bên của tứ  diện, tìm  được độ dài cạnh chung của hai mặt và diện tích hai mặt đó thì ta tính được thể  tích tứ diện đó. Trang 18
  19. ­ Trong quá trình giảng dạy, tôi đã tạo ra một số bài toán để giúp học sinh nắm   vững tính chất, sau đó lấy một số ví dụ trong các đề thi thử của một số trường   trên cả  nước để  giúp học sinh thấy được hiệu quả  của phương pháp. Sau đây  tôi xin trình bày một số bài toán mà tôi tạo ra trong quá trình dạy học  cũng như  một số ví dụ  ở  các đề  thi nhằm minh họa tính hiệu quả  của phương pháp một   cách khách quan. ­ Tính chất 2 không chỉ cung cấp cho ta công cụ tính góc giữa hai mặt phẳng mà   còn được áp dụng để  tính thể  tích các khối đa diện trong một số  bài toán “dấu  đường cao” sẽ được trình bày trong sau ­ Từ Bài toán 1, tôi thay đổi một số giả thiết để có bài toán sau Bài toán 2. Cho khối chóp  có đáy  là tam giác  vuông tại , . Hình chiếu vuông  góc của  lên mặt phẳng  trùng với trung điểm  của cạnh . Tính góc giữa hai mặt   phẳng  và  biết . Phân tích:  Bài toán này ta không nên sử dụng Cách 1 ở Bài toán 1 do hai tam giác và  không   bằng nhau Trang 19
  20. Ta hoàn toàn có thể sử dụng phương phương pháp dùng định nghĩa góc giữa hai  mặt phẳng để giải bài toán này nhưng sẽ mất nhiều thời gian cho tính toán Ở bài này, diện tích các tam giác và  dễ dàng tìm được do biết được độ  dài các  cạnh nên áp dụng Tính chất 2 để giải sẽ là hợp lí. Giải:  Thể tích khối chóp  là . Từ giả thiết ta có  do đó ,   Theo Tính chất 2 ta có:  Suy ra  Vậy . * Tiếp tục ý tưởng đó ta tạo ra bài toán sau. Bài toán 3: Cho hình chóp  có đáy là hình thoi cạnh . Các tam giác  đều và nằm   trong hai mặt phẳng tạo với nhau góc . Tính thể tích khối chóp . Nhận xét.  ­ Đây là bài toán chưa xác định được đường cao của chóp nên sẽ  gây khó khăn  cho học sinh trong quá trình giải. ­ Do tứ diện  có hai mặt tìm được diện tích, số đo góc giữa hai mặt phẳng chứa   hai mặt đó và độ dài cạnh chung  đã biết nên học sinh nắm vững Tính chất 2 thì   sẽ nhanh chóng tìm ra hướng giải quyết. Giải: Áp dụng công thức ở Tính chất 2 ta có:  Thể tích tứ diện  là   suy ra   Vậy thể tích khối chóp cần tìm là . * Từ ý tưởng của Tính chất 2, giáo viên có thể lồng yếu tố tứ diện vào các hình  chóp, hình lăng trụ…ta sẽ  có các bài toán hay khác, sau đây là một ví dụ  tôi đã  lồng yếu tố tứ diện vào hình hộp. Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0