Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao kĩ năng nói qua giờ đọc văn cho học sinh lớp 10 ở Trường THPT
lượt xem 2
download
Mục đích nghiên cứu đề tài là tìm hiểu tình hình khó khăn của học sinh liên quan trực tiếp đến kỹ năng nói trong quá trình học tập môn văn lớp 10 ở trường THPT. Xây dựng cơ sở lí luận và thực tiễn của giải pháp nâng cao kỹ năng nói cho học sinh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao kĩ năng nói qua giờ đọc văn cho học sinh lớp 10 ở Trường THPT
- RƯỜNG THPT BẮC YÊN THÀNH SÁ K ẾN KINH M ĐỀ TÀI: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH LỚP 10 Ở TRƯỜNG THPT LĨNH VỰC: NGỮ VĂN gười thực hiện: Nguyễn Thị Thủy Tổ bộ môn: Văn – Ngoại Ngữ Thời gian thực hiện: ăm học: 2020 - 2021 Số điện thoại: 0976.910.398 ăm học: 2020 - 2021
- SÁ KẾ K M ĐỀ TÀI: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH LỚP 10 Ở TRƯỜNG THPT LĨNH VỰC: NGỮ VĂN ăm học: 2020 - 2021
- M CL C Trang PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1 1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1 2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 2 3. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 2 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 2 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 2 6. Tính mới của đề tài ..................................................................................... 2 PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 4 I. Cơ sở khoa học............................................................................................ 4 1. Cơ sở lí luận ............................................................................................... 4 1.1. Ngôn ngữ nói ........................................................................................... 4 1.2. Kỹ năng nói ............................................................................................ 4 1.3. Sự cần thiết của rèn luyện kỹ năng nói ................................................... 5 2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................... 6 II. Một số giải pháp nâng cao kỹ năng nói ............................................................... 8 1. Nguyên tắc chung trong việc đưa ra các giải pháp...............................8 2. Lựa chọn nội dung rèn luyện kỹ năng nói.................................................. 8 3. Một số giải pháp.................................................................................. .......9 3.1. Đưa học sinh vào tình huống có vấn đề .................................................. 9 3.2. Sử dụng phương pháp đóng vai.......................................................13 3.3. Tổ chức cho học sinh tranh luận......................................................19 3.4. Sử dụng hệ thống câu hỏi đàm thoại, gợi mở ........................................ 23 3.5. Tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm ................................................... 24 3.6. Tổ chức cho học sinh thuyết trình .......................................................... 28 3.7.Sử dụng kỹ thuật trình bày 1 phút ..................................................30 III. Giáo án thể nghiệm ................................................................................. 31 IV. Hiệu quả thực nghiệm ............................................................................. 40 1. Về phía giáo viên....................................................................................... 40
- 2. Về phía học sinh ........................................................................................ 41 PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................... 45 1. Kết luận ..................................................................................................... 45 1.1. Tính khoa học ......................................................................................... 45 1.2. Ý nghĩa của đề tài ................................................................................... 45 2. Đề xuất, kiến nghị ..................................................................................... 46 PHẦN PHỤ LỤC .......................................................................................... 47 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 50
- PHẦN M ẦU 1. Lí do chọn đề tài Ông cha ta đã từng dạy “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Không phải ngẫu nhiên mà “học nói” được xếp vào vị trí thứ hai. Nhà giáo dục người Nga - Xukhômlinxki đã viết: “Từ ngữ tác động mạnh mẽ nhất đến trái tim, nó có thể trở nên mềm mại như bông hoa đang nở và nước thần, truyền từ niềm tin và sự đôn hậu. Một từ thông minh hiền hòa tạo ra niềm vui, một từ ngu xuẩn tàn ác, không suy nghĩ, không lịch sự đem lại tai họa, từ đó có thể giết chết niềm tin và làm giảm sức mạnh của tâm hồn. Do đó, việc lựa chọn các từ ngữ văn hóa và có giáo dục là rất quan trọng trong giao tiếp”. Điều đó chứng tỏ kỹ năng nói là một kỹ năng rất quan trọng trong giao tiếp hàng ngày. Đặc biệt, trong thời kì đổi mới đất nước, hội nhập với thế giới, cả dân tộc đang bừng bừng khí thế trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì kỹ năng nói trở thành một kỹ năng không thể thiếu trong giao tiếp hàng ngày cũng như trong công việc. Điều này cũng phù hợp với mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 là góp phần hình thành và phát triển con người toàn diện. Trong đó, môn Ngữ văn đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành, phát triển năng lực giao tiếp với trục xuyên suốt là 4 kỹ năng: Nghe, Nói, Đọc, Viết. Học sinh biết xác định mục đích giao tiếp, lựa chọn nội dung và các phương tiện giao tiếp phù hợp ngữ cảnh và đối tượng giao tiếp, biết tiếp nhận các kiểu văn bản đa dạng; chủ động, tự tin và biết kiểm soát cảm xúc, thái độ trong giao tiếp giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ: Rèn các kỹ năng đọc, viết, nói, nghe. Tuy nhiên, hiện nay là cả người soạn sách giáo khoa THPT và người dạy còn chú trọng vào việc dạy, cung cấp các tri thức văn bản, Tiếng Việt, Làm văn hay đọc diễn cảm, đọc hiểu, luyện viết mà bỏ qua hay ít chú ý đến kỹ năng nói... Vì thế khi ra đời, nhiều học sinh không nói rõ nghĩa, không biết nói ra những điều mình nghĩ, không truyền đạt chính xác thông tin, cảm xúc bản thân... Các em chưa tự tin, chủ động, hoạt bát trình bày quan điểm, tình cảm, ý kiến quan điểm bản thân. Mặt khác, một thực tế dễ nhận thấy là các em học sinh lớp 10 mới bước chân vào trường THPT, làm quen với môi trường mới, thầy cô mới, bạn bè mới... nên các em còn khá bỡ ngỡ, rụt rè. Trong khi đó, bậc THPT là một cấp học có vị trí quan trọng trong việc hoàn thiện các kỹ năng, năng lực, phẩm chất... trở thành “bệ phóng”, là hành trang để các em có thể trở thành một công dân tự chủ khi bước vào đời. Vì vậy, nếu giáo viên không chú trọng nâng cao kĩ năng giao tiếp cho học sinh thì các em sẽ không dám bộc lộ cá tính, quan điểm, ý kiến của riêng mình, dần dần các em tự thu mình vào trong tập thể, trong “vỏ ốc” của chính mình. Do đó, việc nâng cao kỹ năng nói cho học sinh là rất quan trọng, giúp các em tự tin, mạnh dạn thể hiện quan điểm, ý kiến của mình. 1
- Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn, tôi nhận thấy việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh qua giờ học Ngữ văn 10 là việc làm thiết thực vừa góp phần nâng cao chất lượng môn Ngữ văn, vừa hình thành phong cách cho học sinh, giúp các em tự tin trước tập thể, có kỹ năng giao tiếp trong cuộc sống. Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp nâng cao kĩ năng nói qua giờ đọc văn cho học sinh lớp 10 ở Trường THPT”. 2. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu tình hình khó khăn của học sinh liên quan trực tiếp đến kỹ năng nói trong quá trình học tập môn văn lớp 10 ở trường THPT. - Xây dựng cơ sở lí luận và thực tiễn của giải pháp nâng cao kỹ năng nói cho học sinh. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lí luận về kỹ năng nói và vai trò của kỹ năng nói - Nghiên cứu thực trạng kỹ năng nói của học sinh lớp 10 ở trường THPT. - Nghiên cứu các giải pháp hình thành kỹ năng nói cho học sinh lớp 10 ở Trường THPT. - Đánh giá kết quả nghiên cứu dựa trên kết quả học tập của học sinh. 4. ối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Kỹ năng nói của học sinh trong các tiết đọc văn - Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 10 Trường THPT. 5. Phương pháp nghiên cứu 5. 1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết - Nghiên cứu các tài liệu có liên quan kỹ năng nói; các tài liệu liên quan đến dạy học văn bản, các biện pháp và hình thức dạy học theo hướng phát triển kỹ năng nói cho học sinh. 5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp điều tra, khảo sát: Xây dựng phiếu điều tra lấy ý kiến của giáo viên, học sinh về thực trạng rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh lớp 10 trong giờ đọc văn. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Xây dựng các biện pháp nâng cao kỹ năng nói cho học sinh trong giờ đọc văn lớp 10, tiến hành dạy thực nghiệm và rút ra kết luận kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài. - Phương pháp thu thập và xử lí số liệu. 6. Tính mới của đề tài Đề tài hướng đến việc xác định tầm quan trọng của việc phát triển và nâng cao kỹ năng nói cho học sinh trong dạy học Ngữ văn. Trong những năm gần đây, giáo viên đã chú trọng tổ chức một số biện pháp dạy học hướng đến phát triển kỹ năng nói cho học sinh nhưng đa số đều áp dụng ở một số tiết Làm văn, Tiếng Việt 2
- đặc thù luyện nói như Trình bày một vấn đề, Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn... Mặt khác, các biện pháp được áp dụng vào các tiết đọc văn còn mang tính riêng lẻ, chưa có sự kết nối hệ thống nên khả năng phát triển kỹ năng nói cho học sinh chưa cao và kết quả chưa rõ ràng. Từ thực tế đó, đề tài lần đầu tiên đã đưa ra được một số biện pháp cụ thể góp phần nâng cao kỹ năng nói cho học sinh lớp 10 trong các giờ đọc văn. Ở đề tài này, tôi đã cụ thể hoá bằng những giải pháp dựa trên thực tiễn của quá trình dạy học có minh họa cụ thể, dễ áp dụng. Từ đó góp phần nâng cao kỹ năng giao tiếp của học sinh, đảm bảo mục tiêu giáo dục đề ra, đáp ứng nhu cầu của thời đại. 3
- PHẦN NỘI DUNG I. Ơ KHOA HỌC 1. CƠ LÍ LUẬN 1.1. Ngôn ngữ nói Theo Phạm Minh Hạc và Nguyễn Quang Uẩn trong cuốn “Tâm lí học đại cương”: Ngôn ngữ là một quá trình mỗi cá nhân sử dụng một thứ ngữ ngôn để giao tiếp, truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội - lịch sử, hoặc để kế hoạch hóa hoạt động của mình. Ngôn ngữ của mỗi cá nhân phát triển cùng với năng lực nhận thức và mang dấu ấn của những đặc điểm tâm lí riêng của cá nhân đó. Song, ngôn ngữ của mỗi cá nhân không chỉ phản ánh nghĩa của các từ mà còn cả thái độ của bản thân với đối tượng của ngôn ngữ và với người đang giao tiếp. Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ hướng vào người khác là chủ yếu, biểu hiện bằng âm thanh và được tiếp thu bằng cơ quan phân tích thính giác. Chúng ta có thể “nói” có nghĩa là trò chuyện hoặc thể hiện suy nghĩ và cảm xúc của một người bằng ngôn ngữ nói. Để nói thường ngụ ý truyền đạt thông tin. Nó có thể từ một nhận xét không chính thức đến một bài trình bày học thuật đến một địa chỉ chính thức. Ngôn ngữ nói là hình thức cổ sơ nhất của lịch sử loài người. Trong sự phát sinh cá thể, ngôn ngữ nói cũng có trước. Ngôn ngữ nói có hai loại: - Ngôn ngữ đối thoại: Là loại ngôn ngữ giữa hai hay một số người với nhau. Loại ngôn ngữ này có những đặc điểm tâm lí riêng. Trong quá trình đối thoại có sự thay đổi vị trí và vai trò của mỗi bên. Chính sự thay đổi này có tác dụng hỗ trợ, giúp cho hai bên dễ hiểu nhau hơn. Ngoài tiếng nói ra còn có phương tiện hỗ trợ cho ngôn ngữ như: cử chỉ, điệu bộ, nét mặt... Do đó, người nói có thể trực tiếp thấy được phản ứng của người nghe, từ đó có thể điều chỉnh lời nói của mình cho phù hợp. - Ngôn ngữ độc thoại: Là loại ngôn ngữ mà trong đó, một người nói và những người khác nghe. Đó là loại ngôn ngữ liên tục, một chiều mà không có sự hỗ trợ ngược trở lại. Người nói cần có sự chuẩn bị trước về nội dung hình thức và kết cấu của những điều định nói, đôi khi phải tìm hiểu trước về đối tượng (đối tượng người nghe). Ngôn ngữ cần trong sáng, dễ hiểu, chính xác. Ngôn ngữ nói độc thoại có thể tạo những căng thẳng nhất định cho cả người nói và người nghe, vì người nói cần chuẩn bị trước, theo dõi ngôn ngữ của chính mình và phản ứng của người nghe, còn người nghe cần tập trung chú ý trong một thời gian dài. 1.2. Kỹ năng nói Hiện nay có nhiều quan điểm, khái niệm khác nhau về “kỹ năng” nhưng nhìn chung chúng đều có sự thống nhất ở một số đặc điểm sau: - Kỹ năng được biểu hiện trong hành động và hoạt động của cá nhân thông qua hệ thống các thao tác cụ thể. Dấu hiệu này thể hiện mặt bên ngoài của kỹ năng, đảm bảo cho kỹ năng mang tính kỷ thuật. 4
- - Để có được kỹ năng, con người cần vận dụng tri thức, kinh nghiệm vào trong hành động, hoạt động sao cho phù hợp với điều kiện của hoạt động ấy. Dấu hiệu này thể hiện mặt bên trong của kỹ năng, cho thấy kỹ năng không chỉ thuần túy là kỷ thuật hành động mà còn là sự hiểu biết: biết về đối tượng và biết cách vận dụng để tác động vào đối tượng. - Nếu cá nhân vận dụng những yếu tố trên một cách tùy tiện thì hành động/hoạt động hoặc không đạt kết quả, hoặc kết quả chỉ mang tính ngẫu nhiên. Do đó, việc vận dụng tri thức, kinh nghiệm của cá nhân cần đảm bảo đúng (với yêu cầu của hành động/hoạt động), thuần thục, linh hoạt và đem lại kết quả nhất định cho hành động/hoạt động ấy. Đây là dấu hiệu cho thấy, kỹ năng phản ánh năng lực của cá nhân vì nó được hình thành trong hoạt động, được đánh giá cũng bằng sản phẩm của hoạt động. Từ khái niệm “kỹ năng”, khái niệm “ngôn ngữ nói” tôi cho rằng: Kỹ năng ngôn ngữ nói (Gọi ngắn gọn là kỹ năng nói) là sự vận dụng những tri thức, kinh nghiệm hành động/hoạt động lời nói đã có của cá nhân vào thực hiện có kết quả hành động/hoạt động cụ thể trong các điều kiện, tình huống xác định. Yêu cầu cần đạt của kĩ năng nói: Nói rõ ràng, mạch lạc ý tưởng, thông tin, quan điểm, thái độ; biết bảo vệ quan điểm của cá nhân một cách thuyết phục, có tính đến quan điểm của người khác; tự tin khi nói trước nhiều người; có thái độ cầu thị và văn hóa thảo luận, tranh luận phù hợp; thể hiện được chủ kiến, cá tính trong thảo luận, tranh luận. Đánh giá hoạt động nói: Tập trung vào yêu cầu học sinh nói đúng chủ đề và mục tiêu; sự tự tin, năng động của người nói; biết chú ý đến người nghe; biết tranh luận và thuyết phục; có kĩ thuật nói thích hợp; biết sử dụng các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ và phương tiện công nghệ hỗ trợ. Kỹ năng nói là kỹ năng cho chúng ta khả năng giao tiếp hiệu quả. Những kỹ năng này cho phép người nói truyền tải thông điệp, hiểu biết lẫn nhau, biểu lộ tình cảm, nguyện vọng của mình một cách say mê, chu đáo và thuyết phục. Kỹ năng nói cũng giúp đảm bảo rằng người ta sẽ không bị hiểu lầm bởi những người đang lắng nghe. Rèn luyện kỹ năng nói tốt, giáo viên vừa giúp các em thể hiện mình, tự bày tỏ suy nghĩ cảm xúc những điều các em cảm thụ, vừa giúp các em phân tích, đánh giá một cách tự tin trước tập thể, đồng thời cũng là biện pháp khắc phục những khó khăn, thực trạng mà chúng ta đang quan tâm. Từ đó nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn. 1.3. Sự cần thiết của rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trong giờ học văn Hiện nay, các nước trên thế giới rất coi trọng dạy học theo quan điểm giao tiếp. Đây là một trong những tư tưởng quan trọng của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở trường phổ thông, lấy hoạt động giao tiếp là một trong những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết cho học sinh. 5
- Nếu như nghe, đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin, thì nói, viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường. Nếu người thầy đóng vai trò chủ đạo hướng dẫn học sinh chủ động khám phá chiếm lĩnh tác phẩm văn chương thì học sinh phải tự mình bộc lộ sự hiểu biết, phải biết phát triển tư duy thành lời ngôn bản. Muốn người nghe hiểu cho được thì người nói phải nói phải nói cho mạch lạc, logic, phải đảm bảo các quy tắc hội thoại, phải chú ý các cử chỉ, nét mặt, âm lượng... Ngữ văn là môn học có ưu thế trong việc hình thành và phát triển cho học sinh năng lực ngôn ngữ, tức là năng lực làm chủ tiếng Việt, biết sử dụng tiếng Việt một cách thuần thục để tạo lập văn bản (nói và viết) giúp cho việc diễn đạt, giao tiếp đạt hiệu quả. Có thể nói, năng lực ngôn ngữ là nền tảng để các em phát triển các năng lực khác như hợp tác, giải quyết vấn đề, tự học... Đặc biệt, giờ đọc văn đem lại cho học sinh những hứng khởi, đam mê, những thăng hoa trong tâm hồn đồng thời giúp các em hình thành đạo đức, bài học ứng xử phù hợp chuẩn mực xã hội. Để dẫn dắt học sinh cảm thụ tác phẩm văn học, dẫn dắt các em không ngừng lớn lên về tâm hồn trí tuệ phải cần đến kỹ năng đọc và nói. Cần phải đi từ khâu đọc bài văn bài thơ, đọc đoạn văn đoạn thơ, đọc câu văn câu thơ mà giáo viên và học sinh sẽ phân tích. Quá trình phân tích, tìm hiểu văn bản rất cần có sự trao đổi giữa giáo viên và học sinh, tức là cần phải nói. Ở khâu nói này, giáo viên làm tốt được về mặt ngôn từ, âm lượng... học sinh trả lời lưu loát, rõ ràng... sẽ đem lại hứng thú cho người học và hiệu quả bài dạy sẽ cao hơn. Rèn luyện kỹ năng nói trong tiết đọc văn có thế mạnh của một sinh hoạt giao tiếp tập thể, không như rèn luyện kỹ năng viết văn là một hoạt động tĩnh, cá nhân. Không khí làm việc miệng dễ kích thích hứng thú hoạt động của học sinh hơn, nếu giáo viên ý thức được vấn đề này. Về tâm lý, con người trong hoạt động tập thể bao giờ cũng năng động hơn. Thấy rõ đặc thù của hoạt động rèn luyện kỹ năng nói và đặc điểm tâm lý học sinh thì giáo viên mới tiến hành có hiệu quả giờ dạy học được. Rèn luyện kỹ năng nói là cơ hội tốt nhất để giáo viên hiểu về con người, tư tưởng tình cảm học sinh qua các nói năng, diễn đạt... Vì thế, rèn luyện kỹ năng nói là việc rất quan trọng trong quá trình dạy học văn, là biện pháp góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của giờ dạy học Ngữ văn. Rèn luyện kỹ năng nói tốt sẽ giúp người học có một công cụ giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống xã hội. 2. Ơ THỰC TIỄN: Như chúng ta đã biết, mỗi môn học có đặc trưng và thế mạnh riêng trong việc góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục nói chung. Môn Ngữ Văn là môn học công cụ, có ưu thế nổi bật trong việc phát triển ngôn ngữ: rèn luyện các kỹ năng đọc, viết, nói, nghe. Vì thế, trong những năm học qua, giáo viên bộ môn dần dần tiếp cận và nắm vững phương pháp dạy học mới. Người thầy không chỉ đóng vai trò chủ đạo hướng dẫn học sinh chủ động khám phá, chiếm lĩnh tác phẩm văn 6
- chương mà còn hình thành cho các em kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết (năng lực giao tiếp tiếng Việt), đặc biệt là kỹ năng nói. Để tìm hiểu sự quan tâm của giáo viên trong việc rèn luyện kỹ năng nói của học sinh qua giờ đọc văn 10, tôi đã tiến hành khảo sát 12 giáo viên ở đơn vị công tác thông qua trao đổi trực tiếp và dự giờ thăm lớp. Qua khảo sát điều tra, tôi nhận thấy tất cả giáo viên đã ý thức được kỹ năng nói có vai trò quan trọng đối với học sinh. Việc rèn luyện nâng cao kỹ năng nói cho học sinh trong giờ đọc văn là rất cần thiết phù hợp mục tiêu giáo dục phổ thông mới năm 2018. Nhận thức được vai trò và sứ mệnh quan trọng của mình nên trong quá trình giảng dạy phần đọc văn, nhiều giáo viên đã chú trọng tổ chức các hoạt động dạy học tích cực để rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh đồng thời nâng cao hiệu quả tiết dạy. Mặc dù có những nỗ lực cố gắng hết sức như vậy nhưng trên thực tế rất ít giáo viên thành công qua tiết dạy. Điều này được lí giải bởi kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh chưa nhiều so với rèn luyện kỹ năng viết, đọc, giáo viên vẫn còn lúng túng trong khâu soạn giảng cũng như quy trình các hoạt động lên lớp. Giáo viên chưa tích cực hóa các hoạt động học tập của học sinh, chưa tạo điều kiện cho học sinh hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi như không khí hào hứng của lớp học, thái độ hợp tác của những người cùng tham gia giao tiếp, sự động viên khuyến khích kịp thời của giáo viên, chưa tạo cho học sinh nhu cầu muốn nói, muốn được bộc lộ... Mặt khác, trong thời lượng 1 tiết dạy đọc văn (45 phút) có hạn, số lượng học sinh quá đông, giáo viên phải tổ chức các hoạt động để học sinh chiếm lĩnh tri thức trọng tâm của bài học (kỹ năng đọc) nên không có nhiều thời lượng để tạo điều kiện cho tất cả các em học sinh được nói (kỹ năng nói). Giáo viên đôi khi có tâm lí sợ mất nhiều thời gian, chú trọng vào việc dạy học các tri thức mà bỏ qua khâu luyện nói cho học sinh. Một khó khăn nữa của giáo viên THPT trong việc rèn luyện và nâng cao kỹ năng nói cho học sinh là hiện chưa có một tài liệu hướng dẫn cụ thể cho việc rèn luyện kỹ năng nói học sinh (Trong khi đó, các tài liệu hướng dẫn, tham khảo rèn luyện kỹ năng viết và kỹ năng đọc hiểu khá nhiều). Do đó, trong một tiết học, việc luyện kỹ năng nói mới chỉ tập trung ở một số em học sinh khá giỏi, chăm ngoan còn những học sinh yếu hơn, lười học thì bị thụ động, thiếu tự tin không phát huy được khả năng của mình. Dù có tổ chức hoạt động thảo luận nhóm thì những em này cũng ngồi im. Kết quả là các em chưa mạnh dạn, tự tin bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình hoặc có em mạnh dạn nhưng diễn đạt ý của mình lủng củng, vụng về. Từ những khó khăn của giáo viên dẫn đến sản phẩm giáo dục của chúng ta là các em chắc chắn bị ảnh hưởng. Qua thực tiễn giảng dạy và tiến hành thăm dò khảo sát ngẫu nhiên 100 học sinh khối lớp 10 (Bằng trao đổi trực tiếp lẫn thăm dò qua phiếu điều tra ở Phụ lục 1), tôi nhận thấy: Đa số học sinh chưa có kỹ năng nói trước tập thể, rất ngại nói, không tự tin nói trước đông người. Khi tham gia nói trong các tiết học, lời nói của học sinh không tự nhiên, học sinh thường nói lủng củng, ngập ngừng, không rõ ràng, có nhiều em có dự kiến trong đầu nhưng không diễn đạt được rõ thành câu có nghĩa. Trong khi nói, có em còn sử dụng từ địa phương, điều này ảnh hưởng đến hoạt động giao tiếp của các em trong cộng đồng xã hội sau này. Một thực trạng 7
- nữa trong các giờ học Ngữ văn là các em nói như đọc, không kết hợp được các yếu tố phi ngôn ngữ như: cử chỉ, nét mặt, âm lượng… làm cho quá trình nói của các em thiếu tự tin, thiếu tư thế, tác phong phù hợp. Đã có học sinh chân thành phát biểu rằng: “Rất ngại và sợ phải nói trong các giờ học Ngữ văn”. Điều đáng nói ở đây là đối với các em học sinh lớp 10, là học sinh lớp đầu cấp THPT, vừa rời cấp THCS. Phần lớn các em là con gia đình thuần nông thuộc các xã miền núi của huyện đồng bằng nên các em còn nhiều bỡ ngỡ với môi trường học tập mới, thầy cô mới, bạn bè mới, các em chưa tự tin trong việc tiếp cận các môn học, trong đó có môn Ngữ văn. Các em tiếp thu kiến thức còn thụ động, thiếu tích cực, thiếu chủ động, sáng tạo. Ngay cả trong việc tiếp xúc với giáo viên các em vẫn cảm thấy lo sợ khi phải nói, phải trình bày một vấn đề nào đó. Để tạo được động lực, niềm tin nhằm kích thích ý thức học tập bộ môn Ngữ văn của các em trước hết người giáo viên phải là người tìm ra được những biện pháp tối ưu, kích thích bản năng nói để học sinh nói ra được những điều mà mình tư duy, cảm thụ trong giờ văn. Đây cũng là kỹ năng vừa giúp các em thể hiện mình, tự bày tỏ cảm xúc những điều cảm thụ, phân tích, đánh giá một cách tự tin trước tập thể vừa là biện pháp có khả năng khắc phục được những khó khăn, thực trạng mà chúng ta đang quan tâm. Từ đó đặt ra vấn đề giáo viên phải tạo cho học sinh sự tự tin, mạnh dạn, tinh thần chủ động, bồi dưỡng thêm vốn từ, rèn luyện kỹ năng nói, hình thành cho học sinh chuẩn mực khi nói, góp phần nâng cao chất lượng môn học, đồng thời thực hiện thành công mục tiêu dạy học môn Ngữ văn. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KỸ Ă Ó ỌC SINH TRONG CÁC TIẾ Ọ VĂ LỚP 10 1. Nguyên tắc chung trong việc đưa ra các giải pháp: - Phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. - Phát huy thế mạnh của học sinh trong hoạt động nhóm/tổ. - Ưu tiên hàng đầu cho việc rèn luyện kỹ năng nói nhưng không tách rời với các kỹ năng khác trong bộ tứ giao tiếp: Nghe - Nói - Đọc - Viết. - Chú trọng cả ba đối tượng học sinh: Giỏi, khá - Trung bình - Yếu, Kém. - Tạo được không khí tự nhiên, thoải mái, nhẹ nhàng và lựa chọn nội dung hấp dẫn, dễ lôi cuốn các em vào hoạt động nói. - Thể hiện thái độ khích lệ, động viên, nâng đỡ để tránh cho các em cảm giác tự ti, xấu hổ. - Đầu tư thật kĩ cho khâu chuẩn bị ở nhà của học sinh. 2. Lựa chọn nội dung rèn luyện kỹ năng nói trong tiết đọc văn lớp 10: - Cần lựa chọn nội dung rèn luyện kỹ năng nói một cách linh hoạt, hiệu quả. - Vừa bám sát các hướng dẫn học bài sách giáo khoa vừa vận dụng linh hoạt tình hình, đặc điểm cụ thể, phù hợp đối tượng học sinh. 8
- 3. Một số giải pháp Trong quá trình rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh qua các giờ học Ngữ văn, các biện pháp không thể tiến hành riêng lẻ và cũng không phải chỉ ở một số tiết, một số giai đoạn. Nó phải có tính hệ thống kết hợp và liên tục. Bởi vậy, cũng không có một mô hình chính thức cho việc phát triển giáo dục kỹ năng này mà đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo trong mỗi giờ dạy. Các giải pháp tôi đưa ra đề tài này chỉ là những giải pháp trong từng tình huống cụ thể. 3.1. ưa học sinh vào tình huống có vấn đề Tình huống có vấn đề là hạt nhân của phương pháp dạy học nêu vấn đề. Đó là trạng thái tâm lí đặc biệt của học sinh khi gặp mâu thuẫn khách quan của nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm. Các em học sinh tự chấp nhận và có nhu cầu, có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó bằng tìm tòi tích cực, sáng tạo. Kết quả sau khi giải quyết tình huống có vấn đề là các em không chỉ nắm được kiến thức mà còn cả phương pháp giành kiến thức. Một tình huống được coi là có vấn đề khi thỏa mãn ba điều kiện sau: Tồn tại một vấn đề; Gợi nhu cầu nhận thức; Gợi niềm tin vào khả năng của bản thân. Trong các giờ học giáo viên luôn phải biết đưa học sinh vào những tình huống có vấn đề để các em thực sự suy nghĩ. Từ những kiến thức có sẵn, cộng với sự nỗ lực của bản thân, các em chiếm lĩnh vấn đề rồi có nhu cầu và khả năng bộc lộ suy nghĩ, ý kiến bản thân bằng tiếng nói của mình. Khi đảm nhiệm công việc dạy Ngữ văn 10 ở trường THPT, tôi luôn cố gắng xây dựng mối quan hệ giao tiếp trong giờ học đọc văn, trong đó học sinh là chủ thể giao tiếp với tác phẩm, giáo viên là trung gian hướng dẫn học sinh tiếp cận các tác phẩm trên phương diện cuộc sống của tác phẩm, nhân vật, các thế hệ độc giả, nhà văn và giáo viên. Trong các giờ học tôi đưa ra các tình huống giả định, khi phân tích tìm hiểu tác phẩm, tạo cho học sinh có cơ hội phát biểu ý kiến, cảm nghĩ. Bên cạnh đó tôi kết hợp với các phương tiện nghe, nhìn, có thể giúp học sinh hình tượng hóa nhân vật, bối cảnh, diễn biến để tạo sự kích thích gây ấn tượng với học sinh giúp các em trình bày ý kiến của mình. Giáo viên có thể đặt học sinh trước một sự lựa chọn rất khó khăn. Học sinh được chọn một giải pháp trước hai hay nhiều phương án giải quyết mà cái nào cũng có vẻ như có lí, có sức hấp dẫn. Tình huống này đòi hỏi học sinh phải bộc lộ quan điểm, thái độ của bản thân với mỗi vấn đề được nêu ra. Qua đây, phát huy được tính tích cực chủ động của mỗi học sinh và tăng hứng thú của các em trong mỗi giờ học. Ví dụ khi dạy học bài “Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy”, giáo viên xây dựng tình huống: Một truyền thuyết ở vùng Cổ Loa kể lại: Trọng Thủy không tự vẫn, khi ngó xuống giếng bị oan hồn của Mị Châu kéo xuống giếng và dìm chết. Theo anh/chị, kết cục này có hợp lí không? Anh/chị thích kết thúc Trọng Thủy tự vẫn hay là bị dìm chết?. Đây là tình huống lựa chọn. Qua tình huống này học sinh được bộc lộ suy nghĩ, quan điểm riêng của bản thân. Một số học sinh đồng tình với kết thúc theo 9
- truyền thuyết ở vùng Cổ Loa: Trọng Thủy bị oan hồn của Mị Châu kéo xuống giếng và dìm chết. Em Trần Thị Huệ (Lớp 10D1) đã đưa ra các lí giải của riêng mình: “Đó là do Trọng Thủy đã lợi dụng tình yêu, sự nhẹ dạ cả tin, ngây thơ của Mị Châu để đánh tráo nỏ thần, lại còn truy cùng đuổi tận để giết cha và vợ. Vì thế nên để Trọng Thủy bị dìm chết. Đó cũng là cách bộc lộ nỗi căm hận của Mị Châu nói riêng và của nhân dân ta nói chung với Trọng Thủy”. Tuy vậy, đại đa số các học sinh khác trong lớp lại không đồng tình với quan điểm Trọng Thủy bị dìm chết mà thích kết thúc Trọng Thủy tự tử. Lí giải cho ý kiến của mình, các em cho rằng, “Trọng Thủy lừa dối Mị Châu, truy sát cha và vợ xét đến cùng là do thực hiện trách nhiệm công dân đối với nước, bổn phận của người con. Trọng Thủy cũng chỉ là một nạn nhân trong âm mưu của Triệu Đà mà thôi” (ý kiến của em Võ Thị Phước – lớp 10D1). Bạn Thảo Vy (10D1) đưa thêm ý kiến bổ sung: “Để Trọng Thủy tự vẫn thì kẻ thù của dân tộc bị trừng phạt song vẫn cho thấy tình cảm bao dung, độ lượng và sự cảm thông của nhân dân ta đối với Trọng Thủy – nạn nhân âm mưu thâm độc của Triệu Đà”. Từ tình huống lựa chọn đó, các em thẳng thắn bộc lộ trao đổi ý kiến, đưa ra quan điểm của mình. Sau khi giải quyết xong tình huống, các em không chỉ nắm được ý tưởng nghệ thuật cũng như tình cảm nhân đạo của tác giả dân gian mà quan trọng hơn là khả năng lựa chọn ngôn từ, cách lập luận, diễn đạt được trau chuốt. Giáo viên cũng có thể đặt học sinh trong một tình huống nghịch lí. Đó là những tình huống trái khoáy, ngược đời, trái với lẽ thường. Tình huống này đòi hỏi học sinh phải huy động những kiến thức tổng hợp để lí giải những vấn đề khó khăn mà tác phẩm đặt ra. Giải quyết được vấn đề có nghĩa là học sinh đã tự nhiên chiếm lĩnh được tri thức. Ví dụ khi dạy bài “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi giáo viên có thể kết hợp hình ảnh minh họa với câu hỏi tình huống nghịch lí: Trong tác phẩm, khi thấy giặc Minh gây ra những tội ác tày trời đối với nhân dân ta, Lê Lợi đã vô cùng căm thù tới mức: “Căm giặc nước thề không cùng sống”. Vậy mà khi chiến thắng Lê Lợi và quân ta không những không giết chúng mà còn cấp quân lương cho chúng về nước. Việc làm của Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn liệu có phải là trước sau bất nhất, mâu thuẫn nhau không? Chúng ta nhận ra được gì qua cách xử sự trên của Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn? Đây là tình huống nghịch lí trái với quan niệm thông thường, học sinh sẽ phải tích hợp kiến thức bài học và kiến thức liên môn để giải quyết vấn đề. Khi đưa ra tình huống này trong quá trình dạy học, giáo viên nhận được rất nhiều ý kiến phát biểu của các em học sinh, tạo nên không khí sôi nổi, hào hứng. Đa số các em đều đồng tình về những tội ác giặc Minh gây ra cho dân tộc ta: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”. Tội ác của giặc đến trời đất cũng không thể dung tha. Tội ác ấy"Trúc Nam Sơn cũng không ghi hết tội /Nước Đông Hải không rửa sạch mùi". Chắc chắn ai cũng nghĩ rằng nếu một ngày ta chiến thắng, chúng ta sẽ trừng phạt chúng đau đớn hơn gấp vạn lần những gì chúng đã gây ra cho nhân dân ta. Nhưng thật bất ngờ chúng 10
- ta đã không ngần ngại dang rộng đôi tay để cứu vớt kẻ thất thế. Bắt được quân thù, ta không những không giết, mà còn cấp quân lương, thuyền bè đầy đủ, giúp họ trở về đất mẹ một cách an toàn. Điều đó đã nói lên tấm lòng khoan dung độ lượng của con người Việt Nam. Đặc biệt, có học sinh (em Phương Thảo, lớp 10A2) khi bám sát vào chi tiết trong văn bản nên có phát biểu rất sắc sảo bổ sung ý kiến của các bạn. “Những việc làm trên của Lê Lợi và quân ta đã nói lên tấm lòng khoan dung độ lượng – một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam bao đời nay. Tuy vậy, ông cha ta đã nhận ra rằng: “Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng Ta lấy toàn quân là hơn để nhân dân nghỉ sức” Nghĩa là ta chỉ khoan dung với kẻ thù khi chúng đã biết cúi đầu nhận lỗi, muốn sống hòa bình hòa hiếu. Và việc ta tha chết cho chúng cũng là ta đang nhân đạo với chính dân tộc ta bởi dù biết chúng ta sẽ thắng nhưng càng chiến tranh nghĩa là càng chết chóc. Tha cho chúng, kết thúc chiến tranh để nhân dân nghỉ sức là một hành động nhân đạo mà không phải vị tướng nào cũng làm được”. Hoặc khi dạy phần lời bình cuối tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” (Trích Truyền kì mạn lục) bản thân tôi đã đưa ra một tình huống có vấn đề: Theo anh, chị lời bình của Nguyễn Dữ có mâu thuẫn với quan điểm sau đây của Lão Tử: “Người ta sinh ra thì mềm mại, uyển chuyển như hài nhi, chết đi mới cứng đơ, bất động. Cây cỏ sống chết cũng như vậy. Nên cái cứng là chết, cái mềm là sống” không? Khi giáo viên nêu vấn đề có vẻ mâu thuẫn, nghịch lí các em học sinh rất hào hứng. Nhiều em đã giơ tay phát biểu, bộc lộ quan điểm, ý kiến cá nhân dựa trên vốn kiến thức đã học và hiểu biết bản thân. Em Mai Linh (Lớp 10D1) nêu ý kiến cá nhân của mình: “Theo em lời bình cuối truyện của Nguyễn Dữ không mâu thuẫn với quan điểm của Lão Tử. Vì lời bình cuối truyện của Nguyễn Dữ đề cao sự cứng cỏi, khảng khái, cương trực trong nhân cách của kẻ sĩ. Ngô Tử Văn là kẻ sĩ nước Việt đã luôn giữ cho mình sự cứng cỏi để vượt qua mọi thế lực phi nghĩa. Còn quan điểm của Lão Tử lại đề cao sự mềm mại, linh hoạt, uyển chuyển. Mà trong cuộc sống khá phức tạp, nhiều mối quan hệ thì nên dung hòa cả hai: vừa cứng cỏi, bản lĩnh vừa mềm mại, nhẹ nhàng”. Em Yến (Lớp 10D1) bổ sung thêm ý kiến bạn Linh “Quan điểm của Nguyễn Dữ về đề cao sự cứng cỏi trong nhân cách của kẻ sĩ là đúng nhưng chưa thật đầy đủ, trọn vẹn. Nếu kẻ sĩ lúc nào cũng cứng quá thì chắc chắn sẽ có lúc bị gãy. Cũng như vậy, quan điểm của Lão Tử không phải không đúng, nhưng mềm yếu quá sẽ có lúc nhu nhược, hèn yếu không làm được việc gì. Do đó, chúng ta cần phải biết mềm, biết cứng đúng lúc, đúng hoàn cảnh”. Rõ ràng, thông qua việc giải quyết một vấn đề có vẻ nghịch lí, trái xoáy, học sinh đã tích cực, chủ động, sáng tạo để chiếm lĩnh tri thức. Từ đó, giáo viên cần định hướng để học sinh có lòng khoan dung đúng đắn tránh hiện tượng dung túng cho cái ác, cái xấu hay biết kết hợp linh hoạt giữa sự cứng cỏi với mềm dẻo, linh hoạt trong giải quyết công việc... Việc giải quyết tình huống có vấn đề cũng là một 11
- phương pháp tích cực giúp các em rèn luyện kỹ năng nói, bày tỏ quan điểm ý kiến của mình trước tập thể lớp. Ngoài đặt học sinh vào tình huống lựa chọn, tình huống nghịch lí, giáo viên cũng có thể đặt học sinh vào tình huống nhân quả. Tình huống nhân quả là tình huống giáo viên yêu cầu học sinh đi tìm nguyên nhân của một kết quả, bản chất của một hiện tượng, nguồn gốc quy luật của một sự kiện, động cơ sâu xa của một hành vi nào đó. Qua tình huống, các em được thể hiện khả năng phán đoán, suy luận của mình trước những tình huống đặt ra. Từ đó, mỗi học sinh sẽ nắm được nội dung kiến thức cần đạt. Ví dụ khi dạy học văn bản “Chí khí anh hùng” (Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du) giáo viên đưa ra tình huống cho học sinh thảo luận: Giai thoại về Truyện Kiều kể Tự Đức (vua nhà Nguyễn) khi đọc đến đoạn Nguyễn Du viết về Từ Hải đã đòi phạt tác giả 300 roi. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” liệu có cho anh chị biết được phần nào lí do của việc đòi trị tội ấy không? Để giải quyết tình huống có vấn đề này giáo viên hướng dẫn học sinh đọc kĩ văn bản, có sự so sánh, đối chiếu nhân vật Từ Hải trong “Kim Vân Kiều truyện”, trong quan niệm chính thống của xã hội phong kiến... Học sinh Vương Hà Linh (Lớp 10A2) đã phát biểu ý kiến: “Nhân vật Từ Hải trong đoạn trích Chí khí anh hùng được Nguyễn Du coi là “trượng phu”, là “mặt phi thường”, là “lòng bốn phương”, là “cánh chim bằng” vượt gió: “Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”. Nguyễn Du đã miêu tả những hình ảnh đẹp nhất, hoành tráng nhất để ngợi ca, thể hiện cuộc lên đường thực hiện sự nghiệp của Từ Hải đầy chí khí, hoài bão và quyết tâm, đã tin tưởng, kì vọng vào cái thời hạn chóng chầy cũng chỉ một năm, con người với “thanh gươm yên ngựa” ấy có thể có trong tay “mười vạn tinh binh”, làm nên những sự kiện phi thường rung trời, chuyển đất. Từ Hải là bóng dáng của những người anh hùng nông dân khởi nghĩa trong thế kỉ sóng gió với bao phen “thay đổi sơn hà”, thay bậc đổi ngôi. Từ Hải là giấc mơ của Nguyễn Du về tự do, công lí. Chính sự tôn xưng, ngợi ca, khuynh hướng lí tưởng hóa khi viết về nhân vật này là lí do để có giai thoại về chuyện Tự Đức đòi phạt tội tác giả”. Đồng ý với quan điểm đó, bạn Hoài An (Lớp 10A2) còn bổ sung thêm ý kiến: “Không chỉ trong đoạn trích này mà ngay khi xuất hiện lần đầu tiên trong tác phẩm, Từ Hải đã được gọi là anh hùng “râu hùm hàm én mày ngài”, “trai anh hùng”... Trong khi đó, ở văn bản “Kim Vân Kiều Truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, Từ Hải chỉ là một tên có nét tướng cướp, từng thi trượt, đi buôn, thích kết giao với giang hồ hiệp khách – Một Từ Hải trần trụi, tầm thường”. Dựa trên các ý kiến trao đổi của học sinh, giáo viên khơi gợi cho học sinh tìm hiểu thêm nhân vật Từ Hải trong quan niệm chính thống của giai cấp phong kiến như thế nào? Các em dựa vào vốn hiểu biết của mình, đã có những phát biểu rất sâu sắc, đặc biệt có em còn đưa ra ví dụ tiêu biểu. “Trong quan niệm chính thống của giai cấp phong kiến, Từ Hải dám dấy binh khởi nghĩa chống lại triều đình, chống lại vua, dù đó là một triều đình thối nát thì theo cái nhìn của Tự Đức – người đại diện cho giai cấp phong kiến, Từ Hải 12
- chỉ có thể là giặc”. “Cao Bá Quát vốn làm quan, chỉ vì đau xót trước cảnh dân tình bị khốn khổ, điêu linh mà thủ xướng một cuộc khởi nghĩa nông dân, bị triều đình khép tội là giặc châu chấu; Nguyễn Huệ áo vải cờ đào làm nên sự nghiệp xiết bao anh hùng, thống nhất đất nước, đại thắng quân Thanh vẫn bị các sử gia phong kiến gọi là giặc... ”. (Ý kiến của em Mạnh, em Tiến – Lớp 10A2). Từ việc đưa học sinh vào tình huống trong các giờ đọc văn, học sinh đã đó suy nghĩ, liên tưởng, so sánh và bộc lộ hiểu biết của mình qua ngôn ngữ nói, giáo viên lắng nghe, đánh giá và uốn nắn nhằm đi đến một đáp án đúng nhất. Bằng cách làm đó giáo viên đã góp phần nào rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh qua giờ đọc văn mà vẫn đảm bảo thời gian và kiến thức trọng tâm của một giờ học. 3.2. Sử dụng phương pháp đóng vai Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình SGK lớp 10 THPT, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2006, có viết “Đóng vai là tổ chức cho người học thực hành, “làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định”. Thông qua phương pháp đóng vai, các em thể hiện quan điểm, thái độ, hành vi ứng xử trước các tình huống được giáo viên giao. Giáo viên nên tạo các tình huống “mở” để người học tự sáng tạo kịch bản, lời thoại phù hợp với nội dung bài học và kỹ năng của mình. Dạy học đóng kịch và đóng vai đều là diễn một vai khác mình trong một kịch bản có sẵn. Nếu trong dạy học đóng kịch, giáo viên cho trước kịch bản, học sinh “diễn” theo vai có ý đồ của người dạy thì dạy học đóng vai, người học chủ động tạo ra kịch bản để “diễn” và hơn nữa người học có thể vào rất nhiều “vai” khác nhau, không chỉ sáng tạo vai từ tác phẩm văn học mà có thể vào bất cứ một “vai diễn giả định” nào trong cuộc sống. Các bước tiến hành: Bước 1: Giáo viên lựa chọn tình huống và cung cấp thông tin về vai diễn: - Giáo viên xác định đề tài, lựa chọn tình huống và các vai - Chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm - Quy định rõ thời gian hoàn thành, yêu cầu cần đạt Bước 2: Học sinh làm quen và tập đóng vai: Các nhóm tiến hành nhiệm vụ được giao - Thảo luận nhóm: dự kiến kịch bản - Phân vai, đạo cụ, hóa trang, sân khấu... - Tiến hành tập luyện theo kịch bản Bước 3: Học sinh đóng vai: Học sinh diễn vai do mình đảm nhận và những học sinh khác quan sát. Bước 4: Giáo viên và học sinh thảo luận, đánh giá và rút ra kết luận: 13
- - Các nhóm nhận xét, đánh giá lẫn nhau; phản biện – giải trình (nếu có) - Giáo viên nhận xét, đánh giá, tổng kết lại kiến thức. Các giờ đọc văn có rất nhiều ưu thế trong việc tổ chức cho học sinh phương pháp đóng vai. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên thường cho các em đóng vai để kể chuyện tưởng tượng, sáng tạo (kể lại kết thúc khác cho câu chuyện, kể tiếp câu chuyện....) hoặc cho các em nhập vai vào nhân vật trong tác phẩm để bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân về một vấn đề xã hội, cuộc sống... Thông quan việc nhập vai, các em được tự do bày tỏ ý kiến, quan điểm cá nhân của mình từ việc thảo luận kịch bản, chọn vai diễn đến chuẩn bị đạo cụ... Cũng từ đó kỹ năng nói của học sinh ngày được rèn luyện và hoàn thiện. Ví dụ minh họa: Với kiểu đóng vai kể chuyện tưởng tượng, sáng tạo tôi đã cho các em tưởng tượng và đóng vai cảnh Trọng Thủy sau khi tự tử đã tìm gặp Mị Châu ở dưới thủy cung khi tổ chức dạy học Truyền thuyết Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy. Sau khi được giáo viên giao nhiệm vụ cho 4 nhóm, các nhóm rất hào hứng, thích thú. Các em sôi nổi thảo luận, bàn về kịch bản, thiết kế, chuẩn bị đạo cụ cũng như phân vai và tập luyện... Thông qua đóng vai, các em được tự tin, mạnh dạn bày tỏ quan điểm, ý kiến, cảm xúc cá nhân, từ đó, kỹ năng nói các em được cải thiện và nâng cao. (Xem video minh họa kèm theo hoặc vào https://www.youtube.com/watch?v=DsN4pczx7JI) (Hình ảnh các em thảo luận để thống nhất kịch bản và phân vai diễn, đạo cụ...) (Học sinh thảo luận kịch bản, phân công vai diễn, chuẩn bị đạo cụ...) 14
- (Học sinh các nhóm đóng vai kể chuyện trong tiết học - Ảnh cắt từ video) Hoặc khi dạy Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ, giáo viên cho học sinh tình huống đóng vai: Nếu được viết lại đoạn kết của truyện, em sẽ chọn kết thúc như thế nào?Hãy đóng vai và kể lại kết thúc đó. 15
- (Học sinh các nhóm đóng vai kể lại kết thúc khác cho tác phẩm) Với dạng đóng vai bày tỏ quan điểm, ý kiến bản thân: Khi dạy văn bản “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” của Thân Nhân Trung, tôi đã tổ chức cho các em đóng vai theo nhóm dưới dạng một cuộc gặp gỡ và trò chuyện giữa bạn đọc học sinh và tác giả Thân Nhân Trung trong bài kí. Nhóm 1,4: Vào vai tác giả để trả lời câu hỏi của bạn đọc học sinh: - Cháu chào ông Thân Nhân Trung - tác giả bài Hiền tài là nguyên khí của quốc gia! - Thưa tác giả, Xin ông có thể nói rõ cho cháu biết bài kí “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” được ra đời trong hoàn cảnh như thế nào và nhằm mục đích gì ạ? 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý phòng máy tính trong nhà trường
29 p | 274 | 62
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p | 190 | 28
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p | 175 | 25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giải nhanh bài tập dao động điều hòa của con lắc lò xo
24 p | 41 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p | 139 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p | 22 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p | 37 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p | 29 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một vài kinh nghiệm hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Địa lí lớp 12
20 p | 21 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số định hướng giải phương trình lượng giác - Phan Trọng Vĩ
29 p | 30 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của học sinh THPT Thừa Lưu
26 p | 33 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số bài toán thường gặp về viết phương trình tiếp tuyến của đồ thị hàm số
19 p | 42 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 15 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn bóng chuyền lớp 11
23 p | 71 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p | 11 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p | 24 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn