Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm về công tác phát triển Đảng trong học sinh tại trường THPT Phan Thúc Trực
lượt xem 8
download
Nội dung chính và cũng là đóng góp của sáng kiến là sự tổng hợp, hệ thống hóa những cách làm cụ thể, lộ trình chi tiết từ hình thành nhận thức đến công tác tạo nguồn, lộ trình bồi dưỡng cho đến các thủ tục, các quy định trong tiến trình kết nạp Đảng cho học sinh để mỗi Chi ủy, Chi bộ khi đọc được có thể làm theo, thực hiện được ở cơ sở Đảng của mình.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm về công tác phát triển Đảng trong học sinh tại trường THPT Phan Thúc Trực
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN SÁNG KIẾN MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG TRONG HỌC SINH TẠI TRƯỜNG THPT PHAN THÚC TRỰC (Lĩnh vực: Quản lý giáo dục) NĂM 2022
- SỞ GD&ĐT NGHỆ AN TRƯỜNG THPT PHAN THÚC TRỰC SÁNG KIẾN MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG TRONG HỌC SINH TẠI TRƯỜNG THPT PHAN THÚC TRỰC (Lĩnh vực: Quản lý giáo dục) TÁC GIẢ: NGUYỄN ĐÌNH PHÚC NGUYỄN TRỌNG GIÁP NGUYỄN BÁ VINH NĂM THỰC HIỆN: 2022 SỐ ĐIỆN THOẠI CÁ NHÂN: 0989765147
- MỤC LỤC Trang A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài ……………………………………………………………1 2. Tính lịch sử của sáng kiến …………………………………………………...2 3. Điểm mới và đóng góp của sáng kiến ……………………………………….2 4. Phương pháp nghiên cứu và phạm vi sáng kiến ……………………………..2 B. NỘI DUNG 1. Hiểu biết chung về công tác xây dựng Đảng ………………………………3 1.1. Hiểu biết chung …………………………………………………………….3 1.2. Thực trạng công tác phát triển Đảng trong học sinh phổ thông hiện nay …7 2. Phát triển Đảng trong học sinh trường THPT ………………………….. 2.1. Nhận thức của chi bộ Đảng …………………………………………… …10 2.2. Công tác xây dựng nguồn …………………………………………………12 2.3. Công tác giáo dục, bồi dưỡng ……………………………………………13 2.4. Công tác kiểm tra, đánh giá ………………………………………………17 2.5. Công tác hồ sơ, tiến trình phát triển Đảng ………………………………..19 3. Kết quả thực tiễn ………………………………………………………….. 3.1. Sự thay đổi nhận thức trong học sinh về công tác Đảng ………………….21 3.2. Sự chuyển biến trong hoạt động của tổ chức Đoàn Thanh niên…………..22 3.3. Sự trưởng thành của học sinh là đảng viên ở môi trường mới ……………24 4. Một số ý kiến tham vấn ……………………………………………………25 C. KẾT LUẬN ………………………………………………………………..25 D. PHỤ LỤC …………………………………………………………………27 E. TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………...29
- A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Công tác phát triển Đảng là một trong những nhiệm vụ quan trọng, then chốt của các cấp ủy Đảng, trong đó có các nhà trường. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nhấn mạnh: “Phát triển đảng viên theo đúng quy định, chú ý những người ưu tú trong công nhân, đội ngũ trí thức, đoàn viên thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh…”. Đặc biệt, Chỉ thị số 34- CT/TW ngày 30/5/1998 của Bộ Chính trị Khóa VIII về “Tăng cường công tác chính trị tư tưởng, củng cố tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng và công tác phát triển đảng viên trong trường học” đã đề ra nhiệm vụ cho các cấp ủy Đảng, các cấp, các ngành “ tích cực tạo nguồn, làm tốt công tác phát triển đảng viên trong cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên, nhất là ở những cơ sở hiện còn ít hoặc chưa có đảng viên”. Trong những năm gần đây, công tác phát triển Đảng ở các trường THPT trên địa bàn Nghệ An đã có nhiều chuyển biến tích cực. Các trường từ chỗ trong một năm học chỉ kết nạp được 2 đến 3 học sinh ưu tú vào Đảng, có trường nhiều năm không có học sinh nào thì nay đã có học sinh đứng vào hàng ngũ của Đảng. Tuy nhiên, số này không nhiều, số học sinh được kết nạp Đảng vẫn còn ít trong lúc nguồn lực cho công tác này rất dồi dào. Nguyên nhân: - Tác động của xã hội: đa số học sinh chủ yếu tập trung vào việc học, chưa chú ý nhiều đến hướng phát triển, phấn đấu vào Đảng. Số học sinh học lực giỏi, khá thì ưu tiên học tập để thi vào các trường Đại học, số học lực trung bình thì chỉ hy vọng đậu tốt nghiệp ra trường và đi vào lao động sản xuất để mưu sinh. - Quy định của điều lệ Đảng: Quyết định số 29-QĐ/TW ngày 25 tháng 7 năm 2016 về quy định thi hành Điều lệ Đảng; Quyết định số 24-QĐ/TW ngày 30 tháng 7 năm 2021 hướng dẫn thi hành Điều lệ Đảng, điều 1 khoản 2 quy định: tại thời điểm chi bộ xét kết nạp, người vào Đảng phải đủ từ 18 tuổi đến 60 tuổi (tính theo tháng). Như vậy, những học sinh lớp 12 sinh sau tháng 5 không đủ điều kiện bởi lúc này các em chuẩn bị thi tốt nghiệp, sắp ra trường, mặc dù có em có nguyện vọng, đủ điều kiện tiêu chuẩn để kết nạp Đảng. - Một số chi bộ Đảng chưa quan tâm đúng mức công tác phát triển Đảng trong học sinh, mới chỉ chú ý đến giáo viên, nhân viên, thiếu đi một lộ trình xây dựng kế hoạch; tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên chưa có kế hoạch rõ ràng để bồi dưỡng những đoàn viên ưu tú giới thiệu cho chi bộ Đảng. Trong công văn hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ lĩnh vực chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, an ninh an toàn trường học, pháp chế, khởi nghiệp, dân chủ cơ sở, dân vận chính quyền năm học 2021- 2022, ngày 15 tháng 9 năm 2021 của Sở GD&ĐT Nghệ An, phần nhiệm vụ, giải pháp cũng nhấn mạnh nội dung: “Thực hiện tốt công tác phát triển Đảng và bồi dưỡng nhận thức về Đảng trong học sinh theo tinh thần Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 30/5/1998 của Bộ Chính trị (Khoá VIII) về "Tăng cường công tác chính trị tư tưởng; củng cố tổ chức đảng, đoàn thể quần chúng và công tác phát triển đảng viên trong các trường học”. Chú trọng phát
- hiện và bồi dưỡng những học sinh tiêu biểu, xuất sắc thông qua các phong trào thi đua yêu nước, hoạt động học tập, rèn luyện, Đoàn - Hội để tạo nguồn kết nạp đảng. Triển khai xây dựng và nhân rộng các mô hình công tác tạo nguồn, phát triển đảng viên trong trường học”. Chính từ sự chỉ đạo của Sở GD&ĐT Nghệ An và vì từ những hạn chế trong công tác phát triển Đảng tại các cơ sở Đảng trường học nên chúng tôi đúc kết từ kinh nghiệm của chi bộ mình, viết “Một số kinh nghiệm về công tác phát triển Đảng trong học sinh tại trường THPT Phan Thúc Trực” như một sự sẻ chia cùng đồng chí, đồng nghiệp. 2. Tính lịch sử của sáng kiến Công tác phát triển Đảng trong học sinh- sinh viên được đề cập đến nhiều trên các tạp chí xây dựng Đảng, các báo của các cấp ủy Đảng, trong các văn kiện Đại hội Đảng các nhà trường. Các bài viết đó đã tập trung đi sâu phân tích ý nghĩa, kết quả đạt được của công tác xây dựng Đảng. Tuy nhiên, chúng tôi thấy, các bài viết phần nhiều chú ý đến báo cáo số lượng học sinh được kết nạp vào Đảng, biểu dương kết quả hoặc một số bài viết có đề cập đến thực trạng phát triển Đảng trong học sinh ở các nhà trường nhưng còn chung chung. Cái mà các chi bộ Đảng trường học cần là cách thức, lộ trình làm thế nào để làm thay đổi nhận thức của học sinh trong việc phấn đấu được đứng vào hàng ngũ của Đảng, làm thế nào để đến cuối năm lớp 12, các chi bộ Đảng có đủ điều kiện để kết nạp được nhiều học sinh ưu tú, có nguyện vọng vào tổ chức Đảng thì chưa nhiều. Khoảng trống đó chính là cơ sở để chúng tôi viết bản sáng kiến này chia sẻ với các đơn vị bạn. 3. Điểm mới và đóng góp của sáng kiến Bản sáng kiến này ít đề cập đến những lý thuyết chung chung về công tác xây dựng Đảng, bởi điều này đồng nghiệp ở các cơ sở Đảng có thể tìm thấy ở nhiều nguồn thông tin khác, nếu có, cũng chỉ là một số hiểu biết chung về công tác này để có cái nhìn toàn cục. Nội dung chính và cũng là đóng góp của sáng kiến là sự tổng hợp, hệ thống hóa những cách làm cụ thể, lộ trình chi tiết từ hình thành nhận thức đến công tác tạo nguồn, lộ trình bồi dưỡng cho đến các thủ tục, các quy định trong tiến trình kết nạp Đảng cho học sinh để mỗi Chi ủy, Chi bộ khi đọc được có thể làm theo, thực hiện được ở cơ sở Đảng của mình. 4. Phương pháp nghiên cứu và phạm vi của sáng kiến Bản sáng kiến này chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp các giải pháp thực hiện bồi dưỡng một đoàn viên ưu tú cho đến khi kết nạp vào hàng ngũ của Đảng. Những kinh nghiệm được nêu ra tại bản sáng kiến này đều có thể áp dụng tại các cơ sở Đảng nhà trường THPT.
- B. NỘI DUNG 1. Hiểu biết chung về công tác xây dựng Đảng 1.1. Hiểu biết chung: Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, xây dựng Đảng là một chuyên ngành nghiên cứu thuộc bộ môn khoa học chính trị hay Chính trị học, tập trung nghiên cứu về lĩnh vực xây dựng hệ thống, cơ chế, hoạt động của một đảng chính trị. Công tác xây dựng Đảng là một trong những việc làm thiết yếu quan trọng nhất ảnh hưởng đến tính sống còn của một Đảng chính trị cầm quyền. Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng đã xác định như sau: - Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam: là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc. - Mục đích của Đảng: là xây dựng nước Việt Nam hoà bình, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. - Nền tảng tư tưởng: Đảng lấy chủ nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Công tác xây dựng Đảng chủ yếu tập trung vào các nội dung sau: a) Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận. Để đạt mục tiêu cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải dựa vào lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin. Khi huấn luyện cho cán bộ cách mạng từ năm 1925 đến năm 1927, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”; “chủ nghĩa” ấy là chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ Chí Minh đã ví chủ nghĩa Mác – Lênin như trí khôn của con người, như bàn chỉ nam định hướng cho con tàu đi, điều đó nói lên vai trò cực kỳ quan trọng của lý luận ấy trong tất cả các thời kỳ cách mạng. Với ý nghĩa đó, theo Người, chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành “cốt”, trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong việc tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ Chí Minh lưu ý những điểm sau đây: Một là, việc học tập nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin phải luôn phù hợp với từng đối tượng. Hai là việc vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin phải luôn luôn phù hợp với từng hoàn cảnh. Theo Hồ Chí Minh, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin phải tránh giáo điều, đồng thời chống lại việc xa rời các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Điều này hoàn toàn đúng với lời căn dặn của C.Mác. Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đối
- với những người cộng sản trên thế giới khi các ông cho rằng: những quan điểm của các ông chỉ là phương pháp chỉ dẫn hành động trong thực tế. Ba là, trong quá trình hoạt động, Đảng ta phải chú ý học tập, kế thừa những kinh nghiệm tốt của các Đảng cộng sản khác, đồng thời Đảng ta phải tổng kết kinh nghiệm của mình để bổ sung vào chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết nêu lên những vấn đề cơ bản nhất, trên cơ sở đó, mỗi Đảng vận dụng vào hoàn cảnh, điều kiện riêng của mình. Trong quá trình vận dụng, mỗi đảng lại giải quyết thành công những vấn đề mới, tổng kết thành những vấn đề lý luận bổ sung và làm giàu thêm nội dung lý luận Mác – Lênin. Đây là thái độ và trách nhiệm thường xuyên của Đảng ta. Bốn là, Đảng ta phải tăng cường đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chú ý chống giáo điều, cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác – Lênin; chống lại những luận điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin. b) Xây dựng Đảng về chính trị. Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng về chính trị có nhiều nội dung, bao gồm: xây dựng đường lối, chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị… Trong đó, theo Hồ Chí Minh, đường lối chính trị là một vấn đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. Hoạch định đường lối chính trị trở thành một trong những vấn đề cực kỳ quan trọng trong xây dựng Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền có vai trò định hướng phát triển cho toàn xã hội. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo chính trị của mình chủ yếu bằng việc đề ra cương lĩnh, đường lối chiến lược, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội cũng như sách lược và quy định những mục tiêu phát triển của xã hội theo hướng lâu dài cũng như từng giai đoạn. Đảng muốn xây dựng đường lối chính trị đúng đắn cần phải coi trọng những vấn đề: đường lối chính trị phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng nó vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta trong từng thời kỳ; trong xây dựng đường lối chính trị. Phải học tập kinh nghiệm của các đảng cầm quyền ở các nước, nhưng phải tính đến những điều kiện cụ thể của đất nước và của thời đại trong từng giai đoạn hoặc cả thời kỳ dài: để có đường lối chính trị đúng, Đảng phải thực sự là đội tiên phong dũng cảm, là bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, và của cả dân tộc. Hồ Chí Minh lưu ý cần phải giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, thông tin thời sự cho cán bộ, đảng viên để họ luôn luôn kiên định lập trường, giữ vững bản lĩnh chính trị trong mọi hoàn cảnh. Đồng thời Người cũng cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với vận mệnh của Tổ quốc, sinh mệnh chính trị của hàng triệu đảng viên cũng như của hàng triệu nhân dân lao động. c) Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ. Về hệ thống tổ chức của Đảng, lãnh tụ Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức, một tổ chức tiên phong chiến đấu của giai cấp công
- nhân. Hệ thống tổ chức của Đảng từ trung ương đến cơ sở phải chặt chẽ, có tính kỷ luật cao. Mỗi cấp độ tổ chức có chức năng, nhiệm vụ riêng. Trong hệ thống tổ chức Đảng, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của chi bộ. Bởi lẽ, đối với bản thân Đảng, chi bộ là tổ chức hạt nhân, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng; là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi giám sát đảng viên: chi bộ có vai trò quan trọng trong việc gắn kết giữa Đảng và quần chúng nhân dân. Các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng: + Tập trung dân chủ. Đây là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng. Giữa “tập trung” và”dân chủ” có mối quan hệ khăng khít với nhau, đó là hai vế của một nguyên tắc. Hồ Chí Minh viết về mối quan hệ đó như sau: Tập trung trên nền tảng của dân chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, hoặc Người viết “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý”. + Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Hồ Chí Minh giải thích về tập thể lãnh đạo như sau: “Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo? Vì một người dù khôn ngoan, tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người, nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm”. Về cá nhân phụ trách, Hồ Chí Minh cho rằng: “việc ai đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy. Nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong”’ Thực hiện nguyên tắc này trong công tác xây dựng Đảng phải chú ý khắc phục tệ độc đoán chuyên quyền, đồng thời phải chống lại cả tình trạng dựa dẫm tập thể, không dám quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm. + Tự phê bình và phê bình. Mục đích của tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi tổ chức tốt lên, phần xấu bị mất dần đi, tức là nói đến sự vươn tới chân, thiện, mỹ. Mục đích này được quy định bởi tính tất yếu trong quá trình hoạt động của Đảng ta. Bởi vì, Đảng là một thực thể của xã hội. Đảng bao gồm các tầng lớp xã hội. đội ngũ của Đảng bao gồm những người ưu tú, những trong Đảng cũng không tránh khỏi những khuyết điểm, không phải mọi người đều tốt, mọi việc đều hay, mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở
- trong lòng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, thang thuốc tốt nhất là tự phê bình và phê bình. Thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình được Hồ Chí Minh nêu rõ ở những điểm như: phải tiến hành thường xuyên như người ta rửa mặt hằng ngày: phải thẳng thắn, chân thành, trung thực, không nể nang, không giấu giếm mà cũng không thêm bớt khuyết điểm; “phải có tình thương yêu lẫn nhau”. + Kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đòi hỏi tất cả mọi tổ chức đảng, tất cả mọi đảng viên đều phải bình đẳng trước Điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng. Đồng thời Đảng ta là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cho nên tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức Đảng và đảng viên. Tính nghiêm minh, tự giác đòi hỏi đảng viên phải gương mẫu trong cuộc sống, công tác. Uy tín của Đảng bắt nguồn từ sự gương mẫu của mỗi đảng viên trong việc tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, của Nhà nước, của đoàn thể nhân dân. + Đoàn kết thống nhất trong Đảng Sự đoàn kết thống nhất của Đảng phải dựa trên cơ sở lý luận của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin: cương lĩnh, điều lệ Đảng; đường lối, quan điểm của Đảng; nghị quyết của tổ chức đảng các cấp, đồng thời, muốn đoàn kết thống nhất trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi ở trong Đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác, phải “sống với nhau có tình, có nghĩa”, có đoàn kết tốt thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhất ý chí và hành động, làm cho “Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ như là một người”. Về cán bộ, công tác cán bộ của Đảng Hồ Chí Minh đề ra một hệ thống các quan điểm về cán bộ và công tác cán bộ. Người nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy, là một khâu trung gian nối liền giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Muốn việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém. Người cán bộ phải có đủ đức và tài, phẩm chất và năng lực, trong đó, đức, phẩm chất là gốc. Hồ Chí Minh cho rằng, công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng. Nội dung của nó bao hàm các nội dung liên hoàn, có quan hệ chặt chẽ với nhau: tuyển chọn cán bộ, đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ; đánh giá đúng cán bộ, tuyển dụng, sắp xếp, bố trí cán bộ; thực hiện các chính sách đối với cán bộ. d) Xây dựng Đảng về đạo đức Lãnh tụ Hồ Chí Minh khẳng định: Một Đảng chân chính cách mạng phải có đạo đức. Đạo đức tạo nên uy tín, sức mạnh của Đảng, giúp Đảng đủ tư cách lãnh đạo, hướng dẫn quần chúng nhân dân.
- Xét về thực chất, đạo đức của Đảng ta là đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đạo đức đó mang bản chất của giai cấp công nhân, cũng là đạo đức Mác – Lênin, đạo đức cộng sản chủ nghĩa mà nội dung cốt lõi là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu. Vì thế, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Có đạo đức cách mạng trong sáng, Đảng ta mới lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Đó là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và cũng là tư cách số một của Đảng cầm quyền. Giáo dục đạo đức cách mạng là một nội dung quan trọng trong việc tu dưỡng rèn luyện của cán bộ, đảng viên. Nó gắn chặt với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức nhằm làm cho Đảng luôn luôn thật sự trong sạch. Đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức, gắn đạo đức với tư cách của một Đảng chân chính cách mạng, Hồ Chí Minh đã góp phần bổ sung, mở rộng, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về nội dung công tác xây dựng Đảng phù hợp với truyền thống văn hóa, lịch sử của các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. 1.2. Thực trạng công tác phát triển Đảng trong học sinh ở nhà trường phổ thông hiện nay: Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đặt ra mục tiêu “Phấn đấu đạt tỉ lệ ít nhất 70% đảng viên mới được kết nạp từ đoàn viên”. Phát triển Đảng trong học sinh là một trong những nhiệm vụ chính trị hàng đầu của các chi bộ, đảng bộ tại các trường học hiện nay. Kết nạp nhiều học sinh vào Đảng không chỉ là sự tăng lên thuần túy số lượng đảng viên, mà điều quan trọng nhất, đây còn là nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị vững vàng, có khát vọng tuổi trẻ, lập thân lập nghiệp, nhận thức đầy đủ trách nhiệm công dân, trách nhiệm cộng đồng, đáp ứng được yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để đáp ứng được những điều kiện bồi dưỡng rèn luyện, thử thách, xét duyệt kết nạp, những học sinh được xem xét lựa chọn trước hết phải thực hiện tốt nhiệm vụ của học sinh ; thực hiện tiên phong, gương mẫu các nội quy trường, lớp, đồng thời phải có kết quả quá trình học tập và rèn luyện thực sự tiêu biểu; tích cực tham gia các hoạt động chính trị – xã hội, văn hóa, văn nghệ, thể thao, phòng chống tệ nạn xã hội, công tác đoàn thể Đoàn…, có thành tích được cấp có thẩm quyền khen thưởng. Đặc biệt, người vào Đảng phải có động cơ đúng đắn, có giác ngộ chính trị, thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nhiệm vụ của một người đảng viên.
- Về phía học sinh, được đứng vào hàng ngũ của Đảng là một vinh dự và cũng là trách nhiệm; vinh dự vì năng lực, phẩm chất của mình được tổ chức công nhận, trách nhiệm là sự cống hiến, hy sinh vì lý tưởng mà mình tuyên thệ trung thành. Theo thống kê, số lượng học sinh THPT được kết nạp vào Đảng trong 2 năm 2020, 2021 trên địa bàn huyện Yên Thành như sau: TT Trường THPT Năm 2020 Năm 2021 1 THPT Phan Đăng Lưu 4 11 2 THPT Phan Thúc Trực 10 10 3 THPT Yên Thành 2 2 3 4 THPT Yên Thành 3 3 4 5 THPT Bắc Yên Thành 1 3 6 THPT Nam Yên Thành 3 3 7 THPT Lê Doãn Nhã 0 0 8 THPT Trần Đình Phong 0 0 Tổng 8 trường THPT 23 34 (Nguồn: Chi ủy các nhà trường) Nếu tính chung, các trường THPT Yên Thành mỗi năm có khoảng 3000 học sinh lớp 12 ra trường thì số lượng học sinh được kết nạp Đảng còn ít, năm 2020 là 0,7%, năm 2021 là 1,1%. Số lượng học sinh được kết nạp vào Đảng có tăng về số lượng trong 2 năm 2020, 2021 mặc dù có sự không đều giữa các nhà trường, riêng hệ thống các trường ngoài công lập thì nhiệm vụ này còn nhiều hạn chế. Điều này chứng tỏ, các chi bộ, đảng bộ trường học đã có sự quan tâm, chỉ đạo công tác phát triển Đảng trong học sinh. Sự khác nhau về số lượng đảng viên là học sinh cũng phản ánh thực trạng chung ở các chi bộ Đảng trường học. Thuận lợi, cơ hội để bồi dưỡng nhiều học sinh ưu tú vào Đảng là nhiều song khó khăn vẫn còn đó, mà xuất phát đầu tiên phải nhìn nhận là từ chính nhận thức, quan điểm của Chi ủy và sau đó là cả Chi bộ. Qua thực tiễn làm công tác Đảng trong những năm qua, và từ sự khảo sát ý kiến của Chi ủy các nhà trường THPT trên địa bàn huyện, chúng tôi nhận thấy một số thực trạng như sau: - Chi ủy, chi bộ có quan tâm đến công tác phát triển Đảng trong học sinh nhưng thiếu đi một quyết tâm, một lộ trình cụ thể và thiếu các giải pháp. Chi bộ có ra Nghị quyết trong nhiệm kỳ Đại hội hay Nghị quyết Hội nghị đầu năm học nhưng
- các giải pháp cụ thể gắn với trách nhiệm từng đảng viên lại thiếu hoặc không rõ ràng. Quy định việc thực hiện Điều lệ Đảng đã quy định thời gian theo dõi, bồi dưỡng đối tượng cảm tình Đảng đến tiến trình kết nạp vào Đảng, nếu trong sinh hoạt chi bộ định kỳ không rà soát, người được phân công theo dõi, bồi dưỡng không sâu sát thì có thể không đủ thời gian, hồ sơ trình cấp ủy Đảng cấp trên. Nhìn chung, thực trạng nguồn vào Đảng hiện nay, từ Chi ủy chi bộ đến các tổ chức như Công đoàn, Đoàn Thanh niên đang chú ý đến đội ngũ viên chức nhiều hơn là học sinh. - Đoàn Thanh niên ít chú ý đến phát triển đoàn viên của mình theo hướng phấn đấu vào Đảng mà phần lớn mới chú ý đến việc kết nạp thanh niên vào Đoàn, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, các phong trào thi đua, các hoạt động tình nguyện, thiện nguyện, vì cộng đồng…Hoạt động của Đoàn thanh niên như thế là đúng nhưng không đầy đủ, toàn diện, chưa trọng tâm. Mục tiêu chính trị của Đoàn là giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho đoàn viên thanh niên, giới thiệu cho Đảng các đoàn viên ưu tú thì lại chưa được chú ý, quan tâm đúng với tôn chỉ, mục đích của tổ chức. Ở một số nhà trường, Đoàn thanh niên có chú ý, xây dựng kế hoạch phát triển Đảng trong đoàn viên của mình nhưng lại bị động, chờ đợi Chi ủy chi bộ. Tổ chức Đoàn phải có những hoạt động thực tiễn, trải nghiệm, học sinh được giao nhiệm vụ, qua đó, học sinh mới bộc lộ những phẩm chất, năng lực để từ đó, tổ chức Đoàn nhìn nhận giới thiệu những em xứng đáng cho Đảng. - Về phía học sinh: các em chưa quan tâm đúng mức hướng phát triển này. Điều này cũng một phần do áp lực học tập và từ những tác động của xã hội. Các em từ THCS lên THPT, gần như những hiểu biết về Đảng cộng sản là rất hạn chế, nếu không có người, tổ chức bồi dưỡng, định hướng phát triển thì tổ chức Đảng sẽ không có nguồn kế cận. Phần lớn học sinh đang tập trung vào việc học, những em học khá trở lên thì mong muốn nỗ lực có điểm cao trong các kỳ thi để vào các các trường Đại học, những em học trung bình thì chỉ mong được tốt nghiệp để đi vào học nghề, tìm kiếm công việc mưu sinh. - Về phía gia đình học sinh: Gánh nặng mưu sinh hoặc những tác động của xã hội cũng làm cho phụ huynh nhận thức không đầy đủ về hướng phát triển của con em mình. Phần lớn tư duy của phụ huynh hướng tới là con em đậu tốt nghiệp, sau đó đi vào các trường học trong nước hoặc nước ngoài, học một trường nghề, sau đó ra trường tìm một công việc có thu nhập ổn định. Suy nghĩ của các bậc cha mẹ không có gì sai song nếu chỉ như thế thì cũng có phần thiệt thòi cho con em mình bởi các em nếu có đầy đủ điều kiện, tiêu chuẩn để phát triển hơn thế.
- - Một điểm khó nữa là quy định của Điều lệ Đảng. Quyết định số 24-QĐ/TW ngày 30 tháng 7 năm 2021 hướng dẫn thi hành Điều lệ Đảng, điều 1 khoản 2 quy định: tại thời điểm chi bộ xét kết nạp, người vào Đảng phải đủ từ 18 tuổi đến 60 tuổi (tính theo tháng). Như vậy, những học sinh lớp 12 sinh sau tháng 6 không đủ điều kiện bởi lúc này các em chuẩn bị thi tốt nghiệp, sắp ra trường, mặc dù có em có nguyện vọng, đủ điều kiện tiêu chuẩn để kết nạp Đảng. Tuy nhiên, đây không phải là rào cản nếu chi bộ có lộ trình, kế hoạch cụ thể để phát triển Đảng. Hồ sơ của các học sinh này sẽ chuyển về địa phương để tiếp tục theo dõi, khi đủ 18 tuổi thì chi bộ địa phương hay cơ sở Đảng nơi các em chuyển đến học tập, công tác có thể xem xét kết nạp. Do vậy, phát triển Đảng không máy móc, không chỉ quan niệm học sinh khi được theo dõi, bồi dưỡng, nếu đủ điều kiện thì phải kết nạp Đảng ở nhà trường. Nhiều học sinh có thành tích học tập tốt, có đầy đủ phẩm chất để đứng vào hàng ngũ của Đảng nhưng do chưa đủ tuổi nên mất đi cơ hội nếu tư duy cứng nhắc này. 2. Phát triển Đảng trong học sinh trường THPT 2.1. Nhận thức của chi bộ Đảng Quyết định 98-QĐ/TW ngày 22 tháng 3 năm 2004 của Ban Bí thư TW Đảng quy định về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở cơ quan, khoản 4 Điều 6 nêu rõ “Làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên, bảo đảm về tiêu chuẩn và quy trình, chú trọng đối tượng là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và những quần chúng ưu tú, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ”. Như vậy, một trong 6 nhiệm vụ của các chi bộ, đảng bộ cơ sở cơ quan về xây dựng Đảng nêu trong Điều 6 của Quyết định 98-QĐ/TW là công tác phát triển Đảng viên. Mặc dù nhiệm vụ chính trị của nhà trường phổ thông là tổ chức dạy và học để đạt các mục tiêu đề ra, thực hiện tôn chỉ, mục đích của mình nhưng chi bộ Đảng cũng phải nhận thức được, bồi dưỡng học sinh vào Đảng cũng đang là thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị. Thứ nhất, trong Nghị quyết nhiệm kỳ Đại hội hay Nghị quyết năm học, bên cạnh chỉ đạo nhà trường, các tổ chức đoàn thể phải phấn đấu đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ thì mục Xây dựng Đảng phải nêu rõ mục tiêu phát triển đảng viên toàn khóa và từng năm học, số lượng người được kết nạp vào Đảng, cá nhân đảng viên, tổ chức nào theo dõi, bồi dưỡng, giới thiệu. Phải đưa vào Nghị quyết để tạo sự thống nhất trong nhận thức của toàn chi bộ, đồng thời mỗi cá nhân đảng viên, các tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên cũng phải thấy được trách nhiệm của mình trong công tác xây dựng Đảng chứ không phải chỉ là nhiệm vụ xây dựng tổ chức mình hay thực hiện nhiệm vụ cá nhân hoàn thành là được. Trách nhiệm thuộc về toàn chi bộ song trước hết, Chi ủy phải có kế hoạch thật cụ thể, giao trách nhiệm rõ ràng cho cá nhân, tổ chức và cuối năm phải lấy tiêu chí này làm một căn cứ để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và xếp loại đảng viên.
- Thứ hai, trong sinh hoạt chi bộ định kỳ hàng tháng, bên cạnh công tác chỉ đạo các hoạt động chung của đơn vị thì Chi ủy chi bộ cũng cần có những thông tin về các quần chúng mình theo dõi qua việc yêu cầu các cá nhân, tổ chức được giao trách nhiệm báo cáo. Trước hết là để chi bộ biết các đối tượng mình theo dõi, bồi dưỡng có tiến bộ như thế nào trong học tập, rèn luyện, thứ nữa là để đảng viên chính thức được giao nhiệm vụ luôn thấy được trách nhiệm của mình, Công đoàn, Đoàn Thanh niên cũng có những thông tin về đoàn viên tổ chức mình, phối hợp với chi bộ trong bồi dưỡng, xây dựng nguồn cho Đảng. Việc cập nhật thông tin kịp thời là một cơ sở để đảng viên, tổ chức bồi dưỡng có những ý kiến, định hướng cho nguồn đối tượng kịp thời điều chỉnh bản thân, khắc phục những điểm yếu, phát huy lợi thế. H1. Lễ kết nạp đảng viên (là học sinh) năm 2020.
- 2.2. Công tác xây dựng nguồn Việc xây dựng nguồn để kết nạp Đảng là bước đi thứ hai trong cả quá trình phát triển một đảng viên, sau khi chi bộ đã thống nhất về chủ trương. Quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển đảng là coi trọng chất lượng. Người chỉ rõ “ Đảng không phải cần số lượng cho nhiều, tuy nhiều là tốt, nhưng phải có cái chất của người đảng viên”. Do vậy, xác định lựa chọn con người bồi dưỡng ngay từ đầu đã phải thận trọng để đảm bảo nguồn xây dựng có thể trưởng thành. Muốn phát triển được nhiều đảng viên từ đoàn viên ưu tú, tất yếu phải làm tốt công tác tạo nguồn. Trước hết phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức về Đảng cho đoàn viên thanh niên. Là đoàn viên thanh niên muốn phấn đấu vào Đảng cần phải hiểu rõ về Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là nhận thức về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, hiểu rõ ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc xác định động cơ đúng đắn trên cơ sở giác ngộ lý tưởng, tự giác phấn đấu, rèn luyện để được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Vì vậy, Chi ủy chi bộ phải chỉ đạo Đoàn thanh niên cần thường xuyên thực hiện công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đoàn viên thanh niên, thông qua các hình thức như: học tập các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham dự các lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng, thông qua các tấm gương đảng viên trẻ khóa trước để giáo dục, xây dựng hình ảnh cao đẹp một đảng viên cộng sản, nuôi dưỡng khát vọng cống hiến cho lý tưởng trong các em. Xây dựng một học sinh- đoàn viên trở thành đảng viên phải được theo dõi ngay từ khi bước chân vào nhà trường THPT, không phải đến lớp 12 mới xem xét học sinh nào đủ tuổi, có một số thành tích là được, quan trọng là theo dõi, xem xét nguyện vọng, động cơ vào Đảng như thế nào trên cơ sở tiêu chuẩn, điều kiện. Một tư duy xuyên suốt của Chi ủy trường trong những năm vừa qua là Chi bộ Đảng phải chủ động đi tìm, bồi dưỡng người tốt, người tài định hướng cho họ đứng vào hàng ngũ của mình chứ không phải ngồi chờ họ tìm đến Đảng. Chính vì thế, ngay từ khi tuyển sinh vào lớp 10, Chi bộ trường đã chú ý đến công tác này. Về nội dung này, cần quan tâm đến các học sinh có thông tin sau: - Các em có điểm thi tuyển sinh THPT cao. Đây là những học sinh có năng lực trong học tập, có thể bồi dưỡng, là yếu tố ban đầu có thể đảm bảo các em khi vào đảng sẽ là những người có chuyên môn, nghiệp vụ khá, giỏi, góp phần nâng cao chất lượng đảng viên, đúng như tinh thần Quyết định 98-QĐ/TW ngày 22 tháng 3 năm 2004 của Ban Bí thư TW Đảng. - Các em đậu học sinh giỏi văn hóa các cấp, học sinh đạt giải khi tham gia các cuộc thi do ngành giáo dục, ngành văn hóa thể thao, cuộc thi do Đoàn, Hội, Đội và cả những cuộc thi trực tuyến, các hoạt động trải nghiệm do các cấp có thẩm quyền quản lý tổ chức. Trong thông báo đăng ký nhập học, ban tuyển sinh trường có thông báo nội dung: những em được công nhận học sinh giỏi các cấp, chứng nhận tham gia các hoạt động cộng đồng, thiện nguyện… thì nạp giấy chứng nhận cho ban tuyển sinh khi đăng ký nhập học. Đây không chỉ là học sinh có năng lực học tập mà còn là những em có khả năng ở các lĩnh vực khác, cần chú ý để gây dựng, bồi dưỡng.
- - Các học sinh thuộc hai đối tượng trên có thời gian sinh từ tháng 6 trở về trước, tính đến năm học lớp 12 đủ 18 tuổi. Trường hợp sinh sau tháng 6 nhưng có thành tích tốt thì vẫn đưa vào danh sách theo dõi. Đến lớp 11, lớp 12, ngoài những em đã được đưa vào danh sách ngay từ lớp 10, xem xét khả năng phát triển thì cần chú ý thêm đối tượng học sinh là thành viên đội tuyển học sinh giỏi cấp tỉnh, đội ngũ cán bộ Đoàn, lớp, những em có thành tích hay thiên hướng hoạt động xã hội, cộng đồng… Đây là những nhân tố tốt, phẩm chất năng lực đã được kiểm chứng qua hoạt động thực tiễn. Như vậy, có thể nói, công tác xây dựng nguồn là việc làm thường xuyên, có bổ sung, lựa chọn, không cứng nhắc. Một danh sách được xây dựng từ khi các em mới vào lớp 10, sau đó, được bổ sung ở lớp 11,12 từ những hoạt động, thành tích trải nghiệm thực tiễn. Mặc dù đã đưa vào danh sách nhưng qua thực tiễn, những em có nền tảng nhưng thiếu ý chí phấn đấu, phẩm chất đạo đức lối sống chưa tiêu biểu, gương mẫu thì có thể đưa ra nguồn phát triển. Đến khi tổ chức Đoàn Thanh niên trình Chi ủy chi bộ danh sách đề nghị cho làm hồ sơ thì đó phải là những học sinh tiêu biểu nhất, ưu tú nhất trong số nguồn theo dõi đã được sàng lọc, lựa chọn qua thực tiễn. Xây dựng nguồn là công tác hết sức quan trọng, góp phần đảm bảo cho sự thành công của cả một tiến trình kết nạp đảng viên. Điều này không chỉ là ý chí của chi bộ mà đối với các em học sinh, khi được đưa vào nguồn theo dõi, bồi dưỡng thì sự phấn đấu, rèn luyện của các em cũng có định hướng rõ ràng, không phải là sự phát triển theo bản năng tự nhiên. 2.3. Công tác giáo dục, bồi dưỡng Theo dõi, bồi dưỡng một học sinh để được kết nạp vào Đảng, dĩ nhiên, trách nhiệm là của cả tổ chức Đảng và các tổ chức chính trị- xã hội khác, nhưng trực tiếp là một đảng viên chính thức và Ban chấp hành Đoàn thanh niên nhà trường. Quá trình này là liên tục, vấn đề không chỉ ở chỗ người được theo dõi, bồi dưỡng có được thành tích gì, điều này cũng rất tốt, nhưng quan trọng hơn hết, là sự trưởng thành trong nhận thức chính trị của họ, vào Đảng để làm gì, động cơ, mục đích, lý tưởng theo đuổi… Đối với học sinh vừa từ cấp THCS lên THPT, nhận thức về Đảng còn mơ hồ, những hiểu biết về Đảng còn rất ít ỏi, thậm chí có những em chưa quan tâm. Trong quá trình giáo dục, theo dõi bồi dưỡng, cần tổ chức một số giải pháp sau: Trước hết là tăng cường sự hiểu biết về Đảng trong học sinh, việc đầu tiên là tổ chức Đoàn thanh niên cần có những hoạt động tuyên truyền, gắn với các đợt sinh hoạt chuyên đề của Đoàn hoặc ngày lễ kỷ niệm thành lập Đảng. Những hoạt động trải nghiệm như chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ, di tích lịch sử hay các hoạt động cộng đồng khác rất có ý nghĩa trong giáo dục đoàn viên thanh niên nói chung và nguồn đối tượng Đảng nói riêng. Giáo dục thông qua di tích có tác dụng hơn mọi lời diễn văn, kêu gọi. Trong các buổi học tập cho đối tượng kết nạp Đoàn, Chi ủy cử một đồng chí trong chi ủy đến giảng bài về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó lan tỏa sự hiểu biết trong học sinh về vai trò của Đảng đối với lịch sử dân tộc,
- về vinh dự của một đoàn viên khi được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Phải ghi vào tư duy, nhận thức của các em, vào Đảng không phải để mưu cầu lợi ích gì mà đó là một môi trường, một vị thế để mình khẳng định bản chất chính trị của mình, để cống hiến cho một lý tưởng. Một phần ý nghĩa cuộc sống chính là sống có lý tưởng, có mục đích theo đuổi trong thời đại hiện nay, cống hiến đang dần trở thành một nhu cầu tự thân. Thứ hai, danh sách nguồn phải được công khai rộng rãi đến từng chi đoàn học sinh, một mặt để các em phải cố gắng nỗ lực để chứng minh giá trị của mình trong tập thể, thấy được trách nhiệm đối với tổ chức, mặt khác để các đoàn viên thanh niên khác theo dõi, đánh giá, đồng thời, cũng tạo động lực cho những người khác phấn đấu. Giải pháp này rất hay, bởi tự bản thân nó đã kích thích, tạo động lực cho học sinh khi được đánh giá, nhìn nhận theo chiều hướng phát triển. Các em phải thể hiện phẩm chất, năng lực của mình bởi điều này gắn với tự trọng, danh dự cá nhân, xứng đáng với niềm tin của tổ chức. Thông qua hoạt động thực tiễn, tổ chức, tập thể, cộng đồng sẽ đánh giá, nhìn nhận nguồn phát triển của Đảng và sẽ có cơ sở lựa chọn những người ưu tú, tiêu biểu nhất. Thứ ba, các giáo viên chủ nhiệm, giáo viên là đảng viên dạy ở các lớp có đối tượng theo dõi, bồi dưỡng phải quan tâm đến các em này, từ học tập đến phong cách, lối sống, bản lĩnh sống, thái độ chính trị đối với các hoạt động, phong trào thi đua. Gắn việc bồi dưỡng đối tượng Đảng với việc thực hiện nhiệm vụ của học sinh, xem xét chất lượng của nguồn đảng viên trên cơ sở sự trưởng thành về nhận thức chính trị, hiệu quả, thành tích học tập, sự đóng góp cho tập thể, cộng đồng và tính lan tỏa của những kết quả đó. Ngoài các phiên họp định kỳ của chi bộ đánh giá về công tác xây dựng Đảng thì cần có những thông tin thêm từ giáo viên về sự tiến bộ của học sinh, cuối mỗi học kỳ, mỗi phong trào thi đua, đảng viên được phân công theo dõi, bồi dưỡng, Ban chấp hành Đoàn thanh niên phải nhận xét được đối tượng phát triển của Đảng về hiệu quả công việc, về vai trò tiên phong gương mẫu và về sự ảnh hưởng trong tập thể, cộng đồng. Trong các phiên họp của Hội đồng thi đua nhà trường vào cuối mỗi kỳ, cuối năm học đều có danh mục vinh danh các học sinh tiêu biểu, có nhiều thành tích học tập và các phong trào thi đua. Phần nhiều đều là các em có tên trong danh sách theo dõi, bồi dưỡng của Chi bộ, điều này đã khích lệ, động viên tinh thần các em rất nhiều. Thứ tư, Đoàn thanh niên, giáo viên chủ nhiệm phải giao nhiệm vụ, bố trí vị trí để các đoàn viên có môi trường rèn luyện, thể hiện năng lực, phẩm chất, sở trường bản thân. Điều này trong những năm qua, Đoàn thanh niên, giáo viên chủ nhiệm đã làm rất tốt. Các vị trí như Ủy viên BCH Đoàn trường, lớp trưởng, Bí thư các chi đoàn, ủy viên Đội Cờ đỏ… đã được giao cho những trường hợp đoàn viên trong danh sách theo dõi, bồi dưỡng đối tượng phát triển Đảng. Hoạt động thực tiễn không chỉ rèn luyện kỹ năng sống cho các em mà qua đó, giá trị một học sinh- đoàn viên được thể hiện rõ nhất và được thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh. Mỗi một đợt phát động thi đua hay các hoạt động thường ngày của Ban chấp hành Đoàn trường, của Đội Cờ đỏ đều có dấu ấn của nguồn đối tượng. Các em đã tham gia một cách tự giác, tự nguyện, thể hiện tính tiên phong, bộc lộ nhiều ý tưởng sáng tạo, nhận được sự đánh giá cao của thầy cô giáo và các đoàn viên thanh niên khác.
- H2. BCH Đoàn trường và các em học sinh đối tượng cảm tình Đảng chăm sóc, dâng hương tại Khu di tích lịch sử quốc gia- nơi thực dân Pháp xử bắn 72 chiến sĩ Xô viết Nghệ Tĩnh ( xã Mỹ Thành, Yên Thành) trong phong trào cách mạng 1930- 1931.
- Thứ năm, cử các em tham gia các lớp bồi dưỡng chính trị cho đối tượng cảm tình Đảng do Trung tâm chính trị huyện mở. Theo hướng dẫn số 09- HD/BTCTW ngày 5 tháng 6 năm 2017 của Ban Tổ chức Trung ương về Hướng dẫn nghiệp vụ công tác đảng viên, nội dung II, mục 1.1- Quản lý hồ sơ đảng viên thì người vào Đảng phải có Giấy chứng nhận học lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng. Trung bình mỗi năm, Trung tâm chính trị huyện mở từ 2-3 đợt bồi dưỡng kiến thức chính trị cho lớp đối tượng Đảng, chi bộ nhà trường đã cử các em tham gia. Thời gian là vào kỳ nghỉ hè năm học lớp 11 để không ảnh hưởng đến việc học của các em. Năm 2020, chi bộ trường cử 23 em, năm 2021 là 17 em tham gia lớp học. Việc tham gia lớp bồi dưỡng, một mặt là để đảm bảo điều kiện kết nạp Đảng, đồng thời nâng cao nhận thức, hiểu biết của các em về Đảng cộng sản Việt Nam. Thứ sáu, là việc phối hợp với gia đình học sinh. Như phần thực trạng đã trình bày, đa phần cha mẹ học sinh đang định hướng con em mình học tập để vào các trường Đại học, các trường nghề để mưu sinh, lập nghiệp mà chưa quan tâm hết, đầy đủ đến con đường phát triển của các em. Phải làm cho cha mẹ các em cùng đồng thuận nhận thức với chi bộ nhà trường: học tập, mưu sinh lập nghiệp, đồng thời phát huy những phẩm chất của các em, bồi dưỡng các em phát triển toàn diện mà con đường phấn đấu vào Đảng là một định hướng đúng. Quá trình phối hợp này bằng cách: đảng viên được phân công theo dõi, bồi dưỡng, Ban chấp hành Đoàn trường, giáo viên chủ nhiệm trao đổi trực tiếp với cha mẹ các em, gặp gỡ trực tiếp, qua điện thoại, qua các mối quan hệ xã hội khác hay các công cụ mạng xã hội để tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, tâm tư nguyện vọng của gia đình trong việc định hướng tương lai của các em. Có được sự hậu thuẫn từ phía gia đình thì công tác giáo dục, bồi dưỡng sẽ thuận lợi hơn rất nhiều. H3. Lễ kết nạp đảng viên (là học sinh) năm 2021.
- 2.4. Công tác kiểm tra, đánh giá Kiểm tra, đánh giá là công việc thường xuyên. Thực chất, đây là quá trình sàng lọc, lựa chọn những nguồn cảm tình Đảng ưu tú nhất, tiêu biểu nhất để xây dựng danh sách chính thức trình chi bộ xem xét, quyết định. Lấy điểm xuất phát của nguồn đối tượng khi chi bộ chính thức phân công người theo dõi đến thời điểm chi bộ đồng ý cho làm hồ sơ Đảng để đánh giá sự tiến bộ, chiều hướng phát triển trên cơ sở tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của Đảng. Kiểm tra, đánh giá nguồn đối tượng trên những phương diện sau: - Về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống: Lấy điều kiện, tiêu chuẩn của đảng viên theo điều 1,2 Điều lệ Đảng để đánh giá quá trình phát triển: “ Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; …có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; … qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm”. Từ tiêu chuẩn chung đó, đối chiếu với đối tượng là học sinh thì đánh giá các em sự trưởng thành trong nhận thức chính trị, trước hết là nhận thức về Đảng, về các vấn đề chính trị xã hội của đất nước, quan điểm của các em về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Thông qua các hoạt động thực tiễn của nhà trường, nhất là các phong trào thi đua, hoạt động cộng đồng, qua lối sống, phong cách của các em trong các quan hệ đời sống xã hội để đánh giá. Lối sống, quan hệ của nguồn đối tượng không chỉ là thực hiện các nhiệm vụ của học sinh được quy định trong Điều lệ trường phổ thông, trong Nội quy của nhà trường mà phải là thực hiện gương mẫu, là tấm gương để các đoàn viên thanh niên khác noi theo, tạo hình ảnh tốt đẹp trong cộng đồng , đúng như tinh thần “ sống đẹp” mà Trung ương Đoàn phát động - Về thành tích trong học tập, rèn luyện: Nguồn đối tượng của Đảng không phải chỉ là các học sinh giỏi tỉnh bởi năng lực con người là khác nhau, nhất là các năng lực chuyên biệt, do vậy, thành tích các em phải nhìn nhận toàn diện nhiều lĩnh vực. Trong học tập, xem xét đánh giá sự tiến bộ của học sinh từ khi đưa vào danh sách theo dõi qua kết quả từng học kỳ, năm học, lấy chính sự tiến bộ của bản thân người đó để thấy được sự cố gắng trong học tập, đồng thời, khác với các đối tượng học sinh khác, nguồn đối tượng phải có thành tích nổi trội hơn so với các học sinh khác cùng hệ tham chiếu so sánh. Thành tích ít nhất phải là học sinh giỏi toàn diện, có hạnh kiểm tốt trong suốt cả quá trình theo dõi, bồi dưỡng. Quan tâm, ưu tiên đến đối tượng là học sinh giỏi văn hóa, văn nghệ, học sinh giỏi thể dục thể thao cấp tỉnh trở lên bởi đây là những nguồn đối tượng có chất lượng trí tuệ, có năng lực chuyên biệt nổi bật, nếu phát triển đưa vào Đảng sẽ góp phần nâng cao chất lượng đảng viên nói chung. Đội ngũ cán bộ Đoàn cũng là nhóm đối tượng quan tâm. Có thể không phải là học sinh giỏi nhưng đây là nhóm học sinh mà qua thực tiễn hoạt động phong trào Đoàn thanh niên đã bộc lộ được phẩm chất “ thủ lĩnh” của mình, có năng lực tổ chức, xây dựng phong trào thi đua; qua các hoạt động cộng đồng, các hoạt động văn hóa văn nghệ thể hiện rõ vai trò dẫn dắt, tính ảnh hưởng, lan tỏa được cộng đồng ghi nhận.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý phòng máy tính trong nhà trường
29 p | 276 | 62
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p | 190 | 28
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p | 177 | 25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giải nhanh bài tập dao động điều hòa của con lắc lò xo
24 p | 42 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p | 139 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p | 31 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p | 24 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p | 38 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một vài kinh nghiệm hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Địa lí lớp 12
20 p | 21 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số định hướng giải phương trình lượng giác - Phan Trọng Vĩ
29 p | 30 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của học sinh THPT Thừa Lưu
26 p | 35 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số bài toán thường gặp về viết phương trình tiếp tuyến của đồ thị hàm số
19 p | 42 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn bóng chuyền lớp 11
23 p | 71 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p | 11 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p | 24 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn