intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm lớp thông qua hình thức phân quyền cho HS tự quản lí và thực hiện nhằm phát huy tính dân chủ trong trường học

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:67

14
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm xác định được vai trò và tầm quan trọng của việc hình thức phân quyền cho HS tự quản lí và thực hiện nhằm phát huy tính dân chủ trong trường học. Từ đó, xây dựng các biện pháp và cách thức thực hiện hình thức này có hiệu quả.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm lớp thông qua hình thức phân quyền cho HS tự quản lí và thực hiện nhằm phát huy tính dân chủ trong trường học

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN ---------------------------------- SÁNG KIẾN: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP THÔNG QUA HÌNH THỨC PHÂN QUYỀN CHO HỌC SINH TỰ QUẢN LÍ VÀ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ NHẰM PHÁT HUY TINH THẦN DÂN CHỦ TRONG TRƯỜNG HỌC LĨNH VỰC: CHỦ NHIỆM LỚP Năm thực hiện: 2022 - 2023
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HOÀNG MAI ---------------------------------- SÁNG KIẾN: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP THÔNG QUA HÌNH THỨC PHÂN QUYỀN CHO HỌC SINH TỰ QUẢN LÍ VÀ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ NHẰM PHÁT HUY TINH THẦN DÂN CHỦ TRONG TRƯỜNG HỌC LĨNH VỰC: CHỦ NHIỆM LỚP Nhóm tác giả: 1. Phan Thị Hoài Tổ: Toán- Tin SĐT:0359.826.003 2. Trần Thị Thương Tổ: Ngữ văn SĐT: 0912.955.348 Năm thực hiện: 2022- 2023
  3. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN Nội dung Viết tắt Trung học phổ thông THPT Trung học cơ sở THCS Giáo dục phổ thông GDPT Học sinh HS Giáo viên GV Giáo viên chủ nhiệm/chủ nhiệm GVCN/CN Giáo viên bộ môn GVBM Ban giám hiệu BGH Đoàn thanh niên ĐTN Giáo dục và Đào tạo GD-ĐT Uỷ ban Nhân dân UBND Công nghệ thông tin CNTT Ban cán sự/Ban chấp hành BCS/BCH Sáng kiến kinh nghiệm SKKN Phụ huynh PH
  4. MỤC LỤC NỘI DUNG Trang PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 2 4. Phương pháp nghiên cứu 3 5. Giả thuyết khoa học 3 6. Đóng góp của đề tài 3 7. Cấu trúc của SKKN 4 PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 5 Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 5 1.1.Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu 5 1.1.1. Căn cứ thực hiện đề tài 5 1.1.2. Một số giới thuyết liên quan đến đề tài nghiên cứu 6 1.1.3. Khái lược lịch sử nghiên cứu vấn đề 7 1.2. Cơ sở thực tiễn và thực trạng vấn đề nghiên cứu 8 1.2.1. Thực tiễn việc phát huy tính dân chủ của HS trong công tác chủ 8 nhiệm 1.2.2. Thực trạng việc phân quyền cho HS có khả năng quản lí, thực hiện 11 nhiệm vụ của GVCN Chương 2: KINH NGHIỆM THỰC HIỆN VIỆC PHÂN QUYỀN 13 CHO HS TỰ QUẢN LÍ VÀ THỰC HIỆN NHẰM PHÁT HUY TÍNH DÂN CHỦ TRONG TRƯỜNG HỌC TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP 2.1. Phân biệt rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ giữa đội ngũ ban cán sự lớp và các cá nhân có khả năng quản lí, phân công thực hiện nhiệm vụ trong 13 các nhóm/ đội của lớp 2.1.1. Đội ngũ ban cán sự lớp 13 2.1.2. Các cá nhân có khả năng quản lí, phân công thực hiện nhiệm vụ 14
  5. trong các nhóm/ đội của lớp 2.2. Phương pháp lựa chọn đội ngũ cán bộ có khả năng quản lí và 16 thực hiện nhiệm vụ 2.2.1. Thông qua tinh thần tự nguyện ứng cử 16 2.2.2. Từ nền tảng Trung học cơ sở, từ sự giới thiệu của các giáo viên bộ 17 môn, từ các cuộc họp phụ huynh định kì và học sinh trong lớp chủ nhiệm 2.2.3. Từ quan sát trực tiếp của giáo viên chủ nhiệm và phiếu khảo sát thông 20 tin 2.3. Kinh nghiệm phân quyền thực hiện cho HS qua việc xây dựng các ban, 21 đội nhóm phụ trách các lĩnh vực cụ thể 2.3.1. Thành lập các tiểu ban phụ trách các mảng theo yêu cầu nhiệm vụ 21 đặt ra 2.3.2. Quan tâm đến quy chế thực hiện nhiệm vụ trong các đội/nhóm 27 2.3.3. Lựa chọn thành viên phù hợp với năng lực, trình độ và sở trường cá 29 nhân 2.4. Thường xuyên nắm tình hình lớp học và công việc được giao bằng 31 nhiều kênh 2.4.1. Qua báo cáo thường xuyên theo tiến độ công việc của các tiểu ban 32 qua các nền tảng mạng xã hội 2.4.2. Trao đổi qua những giờ sinh hoạt lớp và qua trò chuyện với HS trong 33 lớp 2.4.3. GVCN tư vấn, góp ý, hỗ trợ khi cần thiết 35 2.5. Đảm bảo việc đánh giá, thi đua, khen thưởng khách quan, công bằng 36 bằng nhiều hình thức đa dạng 2.5.1. Đánh giá thi đua, khen thưởng kịp thời bằng kết quả của nhiệm vụ 36 được giao 2.5.2. Thi đua, khen thưởng tiến hành dân chủ, công khai 39 2.5.3. Khen thưởng bằng điểm thưởng, bằng hiện vật, giấy khen, bằng tiền 39 mặt
  6. Chương 3: KẾT QUẢ SAU KHI THỰC NGHIỆM CÁC GIẢI 42 PHÁP CỦA ĐỀ TÀI 3.1. Phạm vi áp dụng 42 3.2. Mức độ áp dụng 42 3.3. Hiệu quả 42 3.3.1. Đối với học sinh 42 3.3.2. Đối với bản thân và đồng nghiệp 47 3.3.3. Đối với nhà trường 48 3.4. Khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất 48 3.4.1. Mục đích khảo sát 48 3.4.2. Nội dung khảo sát và phương pháp khảo sát 48 3.4.3. Đối tượng khảo sát 49 3.4.4. Kết quả khảo nghiệm về sự cấp thiết và tính khả thi của các biện 50 pháp đã đề xuất PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 57 1. Kết luận 57 2. Kiến nghị, đề xuất 58 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  7. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài: Hiện nay, môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, đảm bảo công bằng dân chủ giữa người quản lí- người dạy- người học luôn là mối quan tâm hàng đầu của Nhà trường và là một trong những chủ trương đúng đắn của ngành giáo dục để hướng tới xây dựng những mô hình “trường học hạnh phúc”, “lớp học hạnh phúc”, “cá nhân hạnh phúc”. Cả lý luận và thực tiễn đều đã chứng minh, nếu môi trường giáo dục càng lành mạnh, thân thiện, người học được tôn trọng, đối xử công bằng, bình đẳng và nhân ái thì HS càng có điều kiện học tập tốt, chất lượng giáo dục được nâng cao, và ngược lại. Điều đó đồng nghĩa với việc, để làm nên thành công của sự nghiệp giáo dục, yếu tố tiên quyết là việc xây dựng môi trường. Để khát vọng xây dựng được không gian văn hóa học đường, môi trường giáo dục an toàn văn minh đạt được thành công như mong đợi, người làm công tác CN đóng một vai trò rất quan trọng. Quả không sai khi nói rằng, GVCN lớp là “nhà quản lý không có dấu đỏ” (PGS.TS Đặng Quốc Bảo), bởi GVCN là người góp phần không nhỏ hình thành và nuôi dưỡng nhân cách HS. Một người GVCN giỏi sẽ góp phần xây dựng nên một tập thể lớp giỏi, nhiều tập thể lớp giỏi sẽ xây dựng nên một nhà trường vững mạnh. Vai trò của những “người cha, người mẹ thứ hai” quan trọng là thế, nhưng không đồng nghĩa với đó, là việc GVCN nghiễm nhiên biến mình thành linh hồn lớp học, trung tâm của hoạt động giáo dục. Người làm công tác CN không thể tự cho phép mình toàn quyền chỉ đạo, điều hành quyết định hết tất cả mọi việc trong “ngôi nhà nhỏ”- lớp mình CN mà ít hoặc không quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng và ý kiến cá nhân HS- người đồng hành không thể thiếu cùng thầy cô trong sự nghiệp giáo dục. Điều đó càng trở nên thiếu hợp lí, khoa học khi hiện nay, chương trình GDPT đang ngày càng có sự đổi mới theo hướng “lấy HS làm trung tâm” của hoạt động dạy-học. Nếu nhận thức đúng đắn và sâu sắc về trách nhiệm của người làm giáo dục, GVCN chỉ nên coi mình như một nhà quản lý với các vai trò cơ bản như người làm công tác phát triển lớp học; người làm công tác tổ chức lớp học; người giúp hiệu trưởng bao quát lớp học; thực hiện việc kiểm tra sự tu dưỡng và rèn luyện của HS; người có trách nhiệm phản hồi tình hình lớp với Nhà trường và PH HS. Đồng thời, đặc biệt coi trọng quyền bình đẳng, dân chủ và tôn trọng khả năng của người học...Và chỉ khi GVCN nhận thức đúng vai trò của mình, HS mới thực sự có thể trở thành “trung tâm của lớp học”, chứ không chỉ dừng lại ở mức độ biển hiệu, hình thức. Trong chuyên môn, chúng ta đang sôi nổi thực hiện phương pháp giáo dục tích cực. Không lẽ trong công tác CN chúng ta lại để tồn tại mãi cách giáo dục thụ động, máy móc – thầy là trung tâm của tất cả. Mỗi thầy, cô giáo cần phải đổi mới 7
  8. cả trong công tác CN. Phải biến quá trình giáo dục thành tự giáo dục, tự ý thức, tự quản lấy chính tổ mình, lớp mình. Chỉ có như thế, HS mới được rèn luyện kỹ năng, nhân cách HS mới được xác lập bền vững, … chất lượng giáo dục mới được nâng cao, đáp ứng với xu thế chung của thời đại, của chương trình GDPT mới. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ CN của mình, bản thân chúng tôi nhận thấy, việc sử dụng hình thức phân quyền cho HS tự quản lí và thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến lớp học và các hoạt động phong trào đã giúp ích không nhỏ cho sự phát triển phẩm chất năng lực của các em, đồng thời qua đó cũng góp phần xây dựng môi trường học đường có văn hóa, lành mạnh, phát huy được tinh thần dân chủ, bắt kịp với yêu cầu của tình hình dạy học mới. Xác định được vai trò, giá trị của cách làm này trong công tác CN lớp, chúng tôi mạnh dạn đem những hiểu biết của mình xây dựng thành đề tài “Nâng cao chất lượng công tác CNlớp thông qua hình thức phân quyền cho HS tự quản lí và thực hiện nhằm phát huy tính dân chủ trong trường học”. Với hi vọng, những phương án mà đề tài đưa ra sẽ góp thêm tiếng nói chung trong nỗ lực nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện HS trong nhà trường. 2. Mục đích nghiên cứu - Xác định cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn về công tác CN lớp trong giai đoạn hiện nay. - Xác định được vai trò và tầm quan trọng của việc hình thức phân quyền cho HS tự quản lí và thực hiện nhằm phát huy tính dân chủ trong trường học. Từ đó, xây dựng các biện pháp và cách thức thực hiện hình thức này có hiệu quả - Hệ thống kết quả sau khi đã thực hiện áp dụng đề tài nghiên cứu 3. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Trong sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi thực hiện những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc thực hiện hình thức phân quyền cho HS tự quản lí và thực hiện các nhiệm vụ được giao trong lớp CN ở trường THPT. - Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của việc phát huy tinh thần dân chủ của HS ở các lớp học, thực tế năng lực quản lí và thực hiện nhiệm vụ của HS trong lớp CN nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục. - Đề xuất một số biện pháp, cách thức nhằm thực hiện tốt hình thức phân quyền cho HS tự quản lí và thực hiện các nhiệm vụ học tập và thi đua trong lớp CN nhằm phát triển năng lực và phẩm chất của HS theo chương trình GDPT 2018. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Nghiên cứu cách triển khai thực hiện hình thức phân quyền cho HS tự quản lí và thực hiện nhằm phát huy tính dân chủ trong trường học. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng công tác CN lớp 8
  9. - Về thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu từ năm 2018 đến nay (năm học 2022- 2023). - Địa bàn nghiên cứu và thực nghiệm đề tài ở trường THPT Hoàng Mai 4. Phương pháp nghiên cứu: Để làm đề tài này tôi đã lựa chọn một số phương pháp sau: 4.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận Thu thập và đọc các tài liệu lý luận, các văn bản pháp quy, các công trình nghiên cứu khoa học về công tác CN lớp. Từ đó phân tích và tổng hợp các vấn đề lý luận liên quan đến sáng kiến. 4.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp quan sát. - Phương pháp đàm thoại. - Phương pháp điều tra (Phiếu hỏi). - Phương pháp nghiên cứu sản phẩm. - Phương pháp tổng kết, đánh giá. 4.3. Nhóm các phương pháp nghiên cứu hỗ trợ - Thống kê toán học. - Bảng biểu. 5. Giả thuyết khoa học Nếu đề xuất và thực hiện đồng bộ các giải pháp có cơ sở khoa học, xuất phát từ thực tiễn thiết thực có tính khả thi cho HS trong lớp CN như đã được đề xuất trong SKKN thì có thể nâng cao được chất lượng công tác CN lớp, giúp HS phát huy khả năng tự quản lí và thực hiện nhiệm vụ. Từ đó, cũng có thể phát huy tính dân chủ trong trường học 6. Đóng góp mới của đề tài - Về mặt lí luận: Làm rõ hơn các nội dung liên quan đến tinh thần dân chủ, khả năng tự quản lí và thực hiện nhiệm vụ của HS ở trường THPT - Về mặt thực tiễn: Đề tài phân tích và chứng minh việc thực hiện tốt hình thức phân quyền cho HS tự quản lí và thực hiện các nhiệm vụ học tập và thi đua đã góp phần xây dựng, phát triển môi trường giáo dục dân chủ, bình đẳng, đảm bảo sự tôn trọng của người học trong Nhà trường hiện nay. Đặc biệt góp phần quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu cao nâng cao chất lượng giáo dục. Những giải pháp đưa ra trong đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng sáng tạo văn bản chỉ đạo của cấp trên phù hợp với tình hình thực tiễn của nhà trường 9
  10. và địa phương nên đã đem lại kết quả đáng kể góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở Trường THPT Hoàng Mai trong những năm qua. Những cách làm đã được trình bày ở đề tài là kết quả của quá trình nghiên cứu lâu dài, áp dụng qua nhiều năm làm công tác CN lớp và đảm bảo tính khả thi, có chất lượng hiệu quả. Nhưng trong thời gian qua chưa có đơn vị, cá nhân nào nghiên cứu hệ thống thành đề tài nghiên cứu khoa học để triển khai áp dụng và nhân rộng. 7. Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm Ngoài phần Đặt vấn đề, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, nội dung của sáng kiến được triển khai trong Phần II: Nội dung nghiên cứu bao gồm 3 chương: Chương 1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu Chương 2. Kinh nghiệm thực hiện việc phân quyền cho HS tự quản lí và thực hiện nhằm phát huy tính dân chủ trong trường học trong công tác CN lớp Chương 3. Kết quả sau khi thực nghiệm các giải pháp của đề tài (Trong đó bao gồm việc Khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất) 10
  11. Phần II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Một số căn cứ thực hiện đề tài Trước hết, để thực hiện đề tại này, chúng tôi đã căn cứ và vận dụng sáng tạo những văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Đảng, nhà nước, của Bộ GD-ĐT, Sở GD- ĐT tỉnh Nghệ An trong việc khẳng định vai trò to lớn của môi trường giáo dục phát huy tính dân chủ đối với chất lượng, hiệu quả giáo dục. Trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước, Bộ GD-ĐT đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo yêu cầu xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, đảm bảo phát huy tính công bằng, dân chủ, bình đẳng trong trường học như: Nghị định số 80/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017, quy định về môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng, chống bạo lực học đường; Quyết định số 1299/QĐ-TTg ngày 3/10/2018 về việc phê duyệt Đề án “Xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học giai đoạn 2018 - 2025”; Luật Giáo dục số 43/2019/QH14 ban hành ngày 14/06/2019; Chỉ thị số 31/CT-TTg ngày 04/12/2019 và một số văn bản khác nhằm xây dựng và bảo đảm môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng, chống bạo lực học đường theo tinh thần mới. Để cụ thể hóa những văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trong giáo dục, Bộ GD-ĐT cũng đã ban hành nhiều công văn định hướng nhiều hơn về vấn đề xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh thân thiện, dân chủ. Cụ thể, công văn số1741/BGDĐT-GDTrH của Bộ GD-ĐT ngày 05/03/2009 về việc hướng dẫn đánh giá kết quả phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, HS tích cực”; Điều lệ trường THCS, THPT và trường PT có nhiều cấp học, ban hành kèm theo; Thông tư số 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3 /2011 của Bộ trưởng Bộ Gd-ĐT quy định về quyền hạn, trách nhiệm cụ thể của các đơn vị, tổ chức, đoàn thể và cá nhân cụ thể trong trường học; Nghị định quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục Số: 127/2018/NĐ-CP ngày 21/09/2018 và một số đề án, văn bản chỉ đạo khác; Thông tư 06/2019/TT-BGDĐT ngày 12/4/2019 quy định về quy tắc ứng xử trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên; “Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường ban hành” kèm theo Quyết định số 04/2000/QĐ của Bộ trưởng Bộ GD- ĐT; Thông tư số 11/2020/ TT BGDĐT ngày 29/05/2020 hướng dẫn thực hiện dân chủ trong các hoạt động của có sở giáo dục công lập... Tại Nghệ An, trên cơ sở hướng dẫn của Chính phủ và Bộ GD-ĐT, UBND tỉnh và Sở GD-ĐT đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các nhà trường dựa trên yêu cầu nắm vững nguyên tắc chỉ đạo của cấp trên và xét trong tình hình thực tiễn của đơn vị, địa phương để cấp thiết triển khai xây dựng môi trường học an toàn, văn hóa dân chủ bằng nhiều hình thức trong mọi hoạt động giảng dạy và đưa dân chủ đến tất cả mọi đối tượng trong đơn vị giáo dục. Gần đây UBND tỉnh có Công văn số 1708/UBND ngày 20/3/2019 về việc tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị định 80 của Chính phủ; Kế hoạch số 520/KH-UBND ngày 26/8/2019 về việc thực hiện Đề án xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học trên địa bàn tỉnh 11
  12. giai đoạn 2019 - 2025 và nhiều văn bản khác. Nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng môi trường giáo dục thân thiện, đảm bảo nguyên tắc công bằng, dân chủ, khách quan là nền tảng để xây dựng trường học hạnh phúc, chất lượng giáo dục đào tạo được đảm bảo. Từ đó mới tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường. Làm công tác CN qua nhiều năm, bản thân chúng tôi đều coi đây là một yêu cầu trọng tâm có ý nghĩa đặc biệt to lớn. Vì vậy, khi đổi mới phương pháp giáo dục HS, chúng tôi đều đề cao yếu tố này. Từ đó, mạnh dạn thực hiện hình thức phân quyền cho HS quản lí và thực hiện nhiệm vụ để giúp các em ý thức hơn về trách nhiệm, khả năng cũng như quyền lợi của người học trong quá trình tham gia học tập. 1.1.2. Một số giới thuyết liên quan đến đề tài nghiên cứu Bên cạnh cơ sở lí luận là dựa trên việc vận dụng những văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Đảng, nhà nước, của Bộ GD- ĐT, Sở GD-ĐT tỉnh Nghệ An, đề tài còn được xây dựng dựa trên cơ sở các khái niệm có liên quan đến đề tài. Trong khuôn khổ thực hiện SKKN này, chúng tôi chỉ xin giới hạn các vấn đề có liên quan theo cách hiểu sau: Trước hết, ở khái niệm dân chủ. Đây là hình thức mọi người làm chủ công việc; Mọi người được viết được cùng tham gia; Mọi người góp ý kiến thực hiện kiểm tra giám sát. Dân chủ trong nhà trường là giáo viên và HS được làm chủ các hoạt động trong học tập của tập thể, trường lớp, giáo viên, HS phải được biết, được cùng tham gia bàn bạc, góp phần thực hiện, giám sát những hoạt động chung của trường lớp liên quan đến tập thể mọi người. Về khái niệm phân quyền, có nhiều nghiên cứu về thuật ngữ “phân quyền” “phân cấp” với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, từ thực tiễn ở Việt Nam, có thể hiểu khái niệm phân cấp quản lý nhà nước là sự phân định thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp chính quyền trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp giữa chức năng, nhiệm vụ với năng lực và điều kiện thực tế của từng cấp nhằm tăng cường chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của hoạt động quản lí nhà nước Từ đó có thể vận dụng sáng tạo trong dạy học nói riêng. Phân quyền trong Nhà trường, cụ thể hơn là trong các lớp học, lớp CN là việc phân quyền giữa GVCN và cá nhân, đội nhóm người học theo chiều dọc. Đó là việc GVCN chuyển giao một phần quyền hạn, nhiệm vụ, phương tiện, vật chất… cho một hay nhiều HS trong cùng một nhóm thực hiện. HS hoặc nhóm/ tổ/tiểu ban được giao nhiệm vụ được tự quyết một nào đó trên cơ sở quy chế của địa phương trên cơ sở pháp luật. GVCN chỉ là người đóng vai trò thực hiện kiểm tra hoạt động của đối tượng đã được giao nhiệm vụ, đánh giá kết quả, khen thưởng thông qua nội quy, quy chế lớp học đã được ban hành từ đầu năm học. Đồng thời, chúng tôi cũng dựa trên những nội dung cụ thể được quy định theo văn bản pháp luật tại Mục 3 “những việc người học được biết và tham gia ý kiến” quy định trong “Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường ban hành” kèm theo Quyết định số 04/2000/QĐ của Bộ trưởng Bộ GD- ĐT; Điều 35 “Quyền của HS ” theo Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT Điều lệ trường THCS và THPT; Điều 27 về Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học do Bộ GD-ĐT ban hành kèm theo Thông 12
  13. tư 32/2020/TT-BGDĐT có quy định về “nhiệm vụ của giáo viên CN trường trung học phổ thông”. Từ những cơ sở pháp lí vững chắc trên đây, chúng tôi nhận thấy việc thực hiện và áp dụng đề tài là đảm bảo tính khách quan, khả thi và đáp ứng đúng với xu thế phát triển của xã hội, của ngành giáo dục 1.1.3. Khái lược lịch sử nghiên cứu vấn đề Nâng cao chất lượng công tác CN lớp là một vấn đề không còn xa lạ, mới mẻ nhưng luôn được xem là yêu cầu đổi mới hàng đầu, cấp thiết nhằm đảm bảo phù hợp với sự phát triển chung của chương trình giáo dục phổ thông mới. Giáo viên CN có vai trò rất quan trọng đến sự phát triển nhân cách HS và các phong trào hoạt động của một tập thể lớp. Mỗi tập thể lớp có những thế mạnh, có những điểm yếu khác nhau nhưng phải vận hành đáp ứng mục tiêu giáo dục chung của nhà trường. Tập thể HS có vững mạnh hay không, HS đến trường có hạnh phúc, bình đẳng, cảm thấy được tôn trọng hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn nhất mà chúng ta không thể phủ nhận, là việc GVCN làm tốt công tác CN lớp của mình Có lẽ vì vậy, đã có không ít những đề tài nghiên cứu, những bài báo, tài liệu bàn về những vấn đề xoay quanh cách thức CN và nâng cao chất lượng của công tác này. Có thể kể ra đây những vấn đề chủ yếu như các biện pháp xây dựng môi trường văn hóa học đường; xây dựng tập thể lớp đoàn kết; nâng cao chất lượng đội ngũ ban cán sự lớp; giáo dục đạo đức HS qua các hoạt động trải nghiệm và ngoài giờ lên lớp; Ứng dụng CNTT vào công tác chủ nhiệm; Xây dựng trường học hạnh phúc… Những nghiên cứu ngày càng nhiều lên theo thời gian, cũng chứng minh sự tâm huyết và trách nhiệm của các thầy cô giáo CN khi đảm nhận trọng trách lớn lao và cũng không kém phần ý nghĩa này. Từ những cơ sở pháp lí vững chắc trên đây, chúng tôi nhận thấy việc thực hiện và áp dụng đề tài là đảm bảo tính khách quan, khả thi và đáp ứng đúng với xu thế phát triển của xã hội, của ngành giáo dục 1.1.3. Khái lược lịch sử nghiên cứu vấn đề Nâng cao chất lượng công tác CN lớp là một vấn đề không còn xa lạ, mới mẻ nhưng luôn được xem là yêu cầu đổi mới hàng đầu, cấp thiết nhằm đảm bảo phù hợp với sự phát triển chung của chương trình giáo dục phổ thông mới. Giáo viên CN có vai trò rất quan trọng đến sự phát triển nhân cách HS và các phong trào hoạt động của một tập thể lớp. Mỗi tập thể lớp có những thế mạnh, có những điểm yếu khác nhau nhưng phải vận hành đáp ứng mục tiêu giáo dục chung của nhà trường. Tập thể HS có vững mạnh hay không, HS đến trường có hạnh phúc, bình đẳng, cảm thấy được tôn trọng hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn nhất mà chúng ta không thể phủ nhận, là vai trò của GVCN. Có lẽ vì vậy, đã có không ít những đề tài nghiên cứu, những bài báo, tài liệu bàn về những vấn đề xoay quanh cách thức CN và nâng cao chất lượng của công tác này. Có thể kể ra đây những vấn đề chủ yếu như các biện pháp xây dựng môi trường văn hóa học đường; xây dựng tập thể lớp đoàn kết; nâng cao chất lượng 13
  14. đội ngũ ban cán sự lớp; giáo dục đạo đức HS qua các hoạt động trải nghiệm và ngoài giờ lên lớp; Ứng dụng CNTT vào công tác chủ nhiệm; Xây dựng trường học hạnh phúc… Những nghiên cứu ngày càng nhiều lên theo thời gian, cũng chứng minh sự tâm huyết và trách nhiệm của các thầy cô giáo CN khi đảm nhận trọng trách lớn lao và cũng không kém phần ý nghĩa này. Qua nghiên cứu, tìm hiểu và hệ thống hóa tài liệu, chúng tôi nhận thấy, đề tài mình đang theo đuổi cũng nằm chung trong mục tiêu xây dựng các giải pháp giúp công tác CN lớp đạt hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, khi thực hiện đề tài, việc triển khai hình thức phân quyền cho HS tự quản lí và thực hiện các nhiệm vụ, để hướng đến tới mục tiêu dân chủ hóa trong nhà trường và lớp học mang một tiếng nói và màu sắc riêng, có một lối đi riêng không trùng lặp với các nghiên cứu trước đó. Có thể mạnh dạn khẳng định rằng, đây là đề tài hoàn toàn mới, chưa có đơn vị, cá nhân nào đã nghiên cứu trước đó. Đề tài xuất phát từ tình hình thực tiễn của địa phương, đơn vị, đưa ra được những giải pháp có tính khả thi để các cấp quản lý giáo dục, các cơ sở giáo dục trên địa bàn huyện và tỉnh nghiên cứu, chỉ đạo, triển khai thực hiện và phối hợp triển khai thực hiện. 1.2. Cơ sở thực tiễn và thực trạng vấn đề nghiên cứu 1.2.1. Thực tiễn việc phát huy tính dân chủ của HS trong công tác CN Trong nhà trường, bên cạnh việc thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy- công tác hàng đầu của mỗi đơn vị, thì nhiệm vụ giáo dục đạo đức, nhân cách, khai thác tốt tiềm năng của các em để giúp HS phát triển về mọi mặt là một công việc không kém phần quan trọng, góp phần đào tạo ra những nguồn nhân lực “vừa hồng vừa chuyên” cho đất nước. Để làm nên thành công của hoạt động này, GVCN là người đóng vai trò trực tiếp và chủ đạo. Bởi họ, không chỉ là người giảng dạy bộ môn, đồng thời cũng là người có thời gian gần gũi, quan tâm, chia sẻ với HS của lớp mình quản lí nhiều nhất. Quả không sai khi các thế hệ học trò đều vì GVCN như người cha, người mẹ thứ hai của cuộc đời mình. Với tâm lí của những người cha, người mẹ thứ hai của các con, GVCN trên thực tế phải thực hiện rất nhiều công việc, vừa là giáo viên giảng dạy bộ môn vừa trực tiếp quản lí, giáo dục HS lớp mình chủ nhiệm. Vì vậy, hầu hết giáo viên cho rằng, công tác CN lớp là công việc bận rộn, khó khăn vất vả, chiếm nhiều thời gian, sức lực của mỗi giáo viên, nhất là nếu được phân công CN vào các lớp có HS được coi là chưa ngoan. Mặc dù mỗi tập thể lớp có số lượng HS khác nhau, đến từ nhiều vùng miền không giống nhau, sự phát triển tâm sinh lí của các cá nhân HS cũng có nhiều thay đổi không đồng nhất, nhưng một quy luật khách quan là lớp nào cũng phải vận hành theo quy định đã đề ra, đáp ứng mục tiêu giáo dục chung của nhà trường. Chính vì vậy, mỗi GV khi kiêm nhiệm chủ nhiệm, một phần bởi trách nhiệm nặng nề hơn với HS, phần khác do áp lực của kết quả thi đua, phấn đấu cuối năm 14
  15. nên có không ít GV dần hình thành một lối tư duy, một kiểu tâm lý: Bảo bọc, che chở, làm thay HS. Thầy, cô CN có nhiệm vụ chỉ đạo, điều khiển tổng thể và quyết định điều hành duy nhất trong lớp. HS, theo đó, chỉ cần “làm như hướng dẫn, như yêu cầu” của GVCN mà hiếm khi thấy các em tự chủ động giải quyết mỗi khi có vấn đề đặt ra, dù bản thân các em rất có năng lực, sở trường, hoàn toàn có thể xử lí những tình huống, những công việc “nằm trong tầm tay” mà không cần đến quá nhiều sự can thiệp của GVCN. Vô hình trung, người làm công tác CN đã biến mình thành trung tâm của hoạt động dạy học, giáo dục. Ngược lại, HS chỉ là những “đứa con” thụ động, mặc nhiên được nhận sự chăm sóc, bảo vệ và chỉ cần nghe theo, làm theo GVCN yêu cầu. Như vậy đã được đánh giá là “ngoan”, là “dễ bảo”. Trên thực tế, qua quá trình CN nhiều năm qua, cùng với sự gắn bó và trò chuyện với học trò của nhiều lớp khác trong trường, tôi còn nhận thấy một thực trạng: Nhiều khi, các em không đồng tình với cách làm, cách quyết định một chiều của GVCN trong một số trường hợp, nhưng cũng không dám đóng góp ý kiến. Các em chỉ tỏ thái độ bất bình hoặc không hài lòng, thậm chí có nhiều trường hợp tức giận với những cách làm của GVCN khi không có mặt các thầy cô. Nếu tình trạng này kéo dài, không chỉ khiến tình cảm của GVCN với tập thể lớp, với cá nhân của HS bị suy giảm, GVCN không còn thấu hiểu được HS, các em cũng không còn muốn đóng góp ý kiến, chuyện trò với thầy cô giáo. Đồng thời, lâu dần sẽ triệt tiêu tinh thần dân chủ trong lớp học, HS cảm thấy tiếng nói của mình không được tôn trọng, theo đó các em sẽ trở nên ít nói, ít có nhu cầu bộc lộ bản thân, dù mình biết và có sở trường về vấn đề nào đó. Dẫu biết rằng nếu GVCN “bảo bọc, làm thay” các em cũng chỉ vì muốn hiệu suất công việc cao hơn, tiết kiệm thời gian hơn, nhưng rõ ràng, cách làm này, trong thời đại mới, trong chương trình GDPT mới, tỏ ra không còn nhiều giá trị, nếu không muốn nói là chưa đi đúng hướng với tinh thần, với yêu cầu đổi mới trong giáo dục là lấy HS làm trung tâm. Nghiêm trọng hơn, cách CN này sẽ biến HS trở thành những “cỗ máy”, những “người thợ làm theo” mà không phát huy được phẩm chất và năng lực ở các em. Để có kết luận xác đáng về việc phát huy tính dân chủ của HS trong công tác CNở trường THPT, tôi đã tiến hành khảo sát bằng cách phát ra 270 phiếu điều tra cho HS các khối lớp trường THPT Hoàng Mai bao gồm: 10A1, 10A2, 11A10, 11A1, 11A3, 11A5, 12A1, 12A6, 12A9, mỗi lớp 30 em. Theo đường link khảo sát: https://docs.google.com/forms/d/e/1FAIpQLSdXthAJkMG0Dm4YhC3a28S0TR lYJFfxeeFVTV_SikrieBkzFA/viewform?fbclid=IwAR24AQQrBbm2oHDtsVV WyVFjyHYr5pWumfWmcw4ILHtD-PqSWr6GVfEF0Jk Riêng lớp 10A4 và 10A13 (2 lớp chúng tôi thực nghiệm, áp dụng các biện pháp đổi mới), mỗi lớp 45 phiếu. Phiếu khảo sát xoay xung quanh câu hỏi về việc HS đã được thể hiện quyền dân chủ trong lớp học của mình hay chưa. Kết quả 15
  16. điều tra thu được như sau: Bảng kết quả điều tra tâm lý trước khi áp dụng biện pháp (theo tỷ lệ %) HS/ tỷ lệ 10A4 10A13 STT Mức độ HS/ tỷ lệ HS/ tỷ lệ 270/% 45/% 45/% 1 Chưa bao giờ được 193/71,5 27/60 20/44,4 thể hiện tinh thần dân chủ, quyền của người học 2 Hiếm khi được thể 18/22,9 6/13,3 7/15,6 hiện tinh thần dân chủ, quyền của người học 3 Thường xuyên được 59/6,7 12/26,7 14/40,0 thể hiện tinh thần dân chủ, quyền của người học BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN KẾT QUẢ ĐIỀU TRA TÂM LÝ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG BIỆN 100% 90% 21.9 26.7 80% 35.6 6.7 70% 13.3 60% 15.5 50% 40% 71.4 30% 60 48.9 20% 10% 0% Tổng số học sinh khảo 10A4 10A13 sát Thường xuyên được thể hiện tinh thần dân chủ quyền của người học Hiếm khi được thể hiện tinh thần dân chủ, quyền của người học Chưa bao giờ được thể hiện tinh thần dân chủ, quyền của người học Từ thống kê trên cho thấy, số lượng HS được hỏi cho rằng bản thân chưa được thể hiện quyền dân chủ trong lớp học chiếm một số lượng tương đối lớn, đối tượng cho rằng mình đã được thể hiện quyền dân chủ thường xuyên chưa cao. Từ đó, ta hãy lắng nghe những ý kiến phản hồi của chính những HS của chúng ta để 16
  17. thấy rằng, vẫn còn rất nhiều lớp CN còn tồn tại tình trạng chưa thực hiện quyền dân chủ đúng mức cho HS trong lớp mình phụ trách. 1.2.2. Thực trạng việc phân quyền cho HS có khả năng quản lí, thực hiện nhiệm vụ của GVCN HS THPT là lứa tuổi đang dần hoàn thiện cả về trí tuệ và nhân cách. Ở lứa tuổi này, các em có nhiều ước mơ hoài bão, thích tìm tòi, khám phá. HS rất hăng hái nhiệt tình trong công việc. Đây cũng là giai đoạn tiếp thu cái mới nhanh, các em thông minh sáng tạo. Đặc biệt, các em luôn muốn khẳng định mình, muốn thể hiện cá tính, muốn đóng góp ý kiến cá nhân và mong muốn được thể hiện tài năng, sở trường của bản thân mình trên nhiều lĩnh vực khác nhau cả trong học tập và cuộc sống. Vì thế, các em rất cần sự cổ vũ, động viên cũng như sự ghi nhận đến từ phụ huynh, các thầy cô và đặc biệt là của GVCN. Nếu biết nắm bắt tâm lí này, người làm công tác CN sẽ có thể có thêm thật nhiều cộng sự, giảm bớt áp lực công việc khi san sẻ công việc của tập thể cho các em cùng thực hiện. GVCN sẽ là người luôn đồng hành và hỗ trợ. Đó mới chính là cách để cả GV và HS tìm thấy niềm vui trong “ngôi nhà nhỏ”- lớp học của chính mình mỗi ngày đến trường. Tuy nhiên, trong thực tế, qua những năm làm công tác CN lớp, chúng tôi nhận thấy rằng có không ít các thầy cô giáo CN chưa hiểu hết được đặc điểm sự phát triển tâm-sinh lí của các em HS THPT. Vì vậy, không ít thầy cô gần như lo hết các phần việc, hoạt động ở lớp mà đáng lẽ việc đó cần được phân công, giao việc cho HS, đặc biệt là ban cán sự lớp. Thực trạng trên có một số nguyên nhân như: GVCN chưa thực sự quan tâm sâu sát đến đặc điểm, tính cách, trình độ… của HS; chưa mạnh dạn trong việc giao nhiệm vụ cho cá nhân, thành viên ban cán sự lớp. Một số giáo viên CN“sợ” bị ảnh hưởng thi đua nên đề ra quá nhiều biện pháp xử lý nội quy khắt khe, từ đó làm giảm tính chủ động, sáng tạo của HS cũng như BCS, của các tổ chức đội/nhóm trong các hoạt động của lớp cả về học tập, phong trào và các hoạt động khác nữa. Một số GV CN chưa coi trọng việc xây dựng BCS lớp, chưa nhìn thấy “hạt nhân” trong các phong trào, hoạt động tập thể nên việc xây dựng đội ngũ này chỉ làm đối phó lấy lệ, thiếu sự tìm hiểu và nắm bắt đối tượng HS, một số giáo viên chỉ lựa chọn các chức vụ của lớp theo cảm tính trong khi việc tìm hiểu nắm bắt HS cần phải có rất nhiều thời gian quan sát và theo dõi. Những cá nhân được chọn giữ những vai trò chủ chốt rất thụ động trong mọi vấn đề liên quan đến lớp, các em không được phân công nhiệm vụ và bàn giao công việc một cách cụ thể, hoặc có phân công nhiệm vụ nhưng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ lại thiếu sự kiểm tra giám sát nên hiệu quả công việc chưa cao. BCS và những đội trưởng các đội/ nhóm không được định hướng, điều chỉnh dẫn đến nhiều tồn tại thiếu sót lặp đi lặp lại nên chán nản và thiếu nhiệt huyết trong công việc. Bên cạnh đó, một số trường THPT hiện nay hoạt động học tập quá chú trọng đến việc cung cấp kiến thức mà ít chú trọng rèn luyện các kỹ năng mềm cho HS, nhất là người làm công tác quản lí Đoàn-Hội của lớp. Điều này khiến cho công 17
  18. tác CN của một số giáo viên trở nên khó khăn, vất vả, tập thể lớp chưa có nhiều thành tích về mọi mặt. Hệ lụy của cách CN này làm một mặt không phát huy được vai trò của đội ngũ ban cán sự, của những HS có tiềm năng phát triển, đồng thời khiến việc rèn luyện kỹ năng cho HS gặp khó khăn. Tinh thần tự giác, tự quản của HS chưa hình thành, tinh thần ý thức trách nhiệm không cao. Vì vậy, GVCN mất rất nhiều thời gian, vất vả, luôn phải theo dõi đôn đốc HS, kể cả ban cán sự lớp và những em được chọn làm đội trưởng. Nếu không sẽ không đạt được kết quả giáo dục. Theo thống kê nhanh bằng cuộc phỏng vấn HS ở trường THPT Hoàng Mai (Link video: https://drive.google.com/drive/folders/1F2ld2WAlbPfgC8efHFoJXW_631o- MRm) với các câu hỏi: - Ở lớp, bạn giữ chức vụ gì trong ban cán sự hoặc ban chấp hành chi đoàn không? - Bạn có phụ trách hoặc tham gia đội/nhóm hoạt động trong lĩnh vực học tập hoặc các phong trào của lớp không? Nếu có thì hỏi là đội nhóm nào? - Nếu không thì hỏi vì sao? - Bạn có sở trường ở những lĩnh vực nào? - Thầy/ cô giáo CN của bạn có phát hiện ra sở trường này của bạn không? - Bạn có thường xuyên đóng góp ý kiến trong các công việc của lớp không? - Bạn có mong muốn được tham gia đóng góp ý kiến hoặc phụ trách một công việc/lĩnh vực nào đó của lớp mà mình có sở trường không? - Bạn kì vọng gì ở GVCN của mình? Nghĩ rằng trong lớp của mình, tinh thần dân chủ, công bằng đã được thực hiện thành công chưa? Rõ ràng, từ kết quả trên cho thấy, HS THPT rất có nhu cầu và nguyên vọng được cống hiến sức mình cho tập thể lớp qua các phòng trào và hoạt động. Các em cũng nhận thấy được vai trò của việc được phát biểu ý kiến cá nhân và mong muốn nhận được sự tín nhiệm, tin tưởng giao phó trách nhiệm của thầy cô. Tuy nhiên, điều đó chưa đạt được kết quả như mong đợi khi qua câu trả lời của không ít HS đều cho rằng, trong lớp học chủ yếu chỉ là hoạt động của BCS lớp hoặc khi có nhiệm vụ chỉ một vài cá nhân được giao phó, có rất ít đội/nhóm được thành lập để mình có thể tham gia. 18
  19. Chương 2: KINH NGHIỆM THỰC HIỆN VIỆC PHÂN QUYỀN CHO HS TỰ QUẢN LÍ VÀ THỰC HIỆN NHẰM PHÁT HUY TÍNH DÂN CHỦ TRONG TRƯỜNG HỌC TRONG CÔNG TÁC CNLỚP 2.1. Phân biệt rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ giữa đội ngũ ban cán sự lớp và các cá nhân có khả năng quản lí, phân công thực hiện nhiệm vụ trong các nhóm/ đội của lớp 2.1.1. Đội ngũ ban cán sự lớp Tại Điều 35. Quyền của HS, theo Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT Điều lệ trường THCS và THPT, điều 16 quy định rõ về cơ cấu tổ chức lớp: “HS được tổ chức theo lớp học. Mỗi lớp học có lớp trưởng và các lớp phó do HS ứng cử hoặc giáo viên CN giới thiệu, được HS trong lớp bầu chọn vào đầu mỗi năm học hoặc sau mỗi học kỳ. Mỗi lớp học được chia thành nhiều tổ HS; Mỗi tổ HS có tổ trưởng và tổ phó do HS ứng cử hoặc giáo viên CN giới thiệu, được HS trong tổ bầu chọn vào đầu mỗi năm học hoặc sau mỗi học kỳ”. Công tác tổ chức của lớp, lựa chọn đội ngũ ban cán sự lớp, chú ý nắm bắt HS có năng lực đặc biệt hoặc có biểu hiện chậm phát triển cần quan tâm trong lớp học là một công việc quan trọng, quyết định không nhỏ đến sự thành công của người làm chủ nhiệm. Đặc biệt trong đó, việc biết lựa chọn được những hạt nhân có năng lực và trách nhiệm cao bố trí vào các chức danh, các vị trí trưởng, phó của lớp sẽ là chỗ dựa vững chắc cho giáo viên CN trong các hoạt động giáo dục HS. Từ đó, việc GVCN phân quyền cho các em tự quản lí và thực hiện nhiệm vụ không còn là việc khó khăn. Nhận thức được vấn đề này, nên ngay sau khi lãnh đạo nhà trường phân công nhiệm vụ CN lớp nào (đặc biệt là lớp 9 lên 10), chúng tôi đã nghĩ ngay đến công tác tổ chức lớp học và lựa chọn cán bộ lớp. Như nhiều GVCN khác, khi lựa chọn ban cán sự lớp, chúng tôi thường chú ý đến những HS: Có học lực từ loại khá trở lên, có tư cách đạo đức tốt; Nhiệt tình, tích cực tham gia vào các hoạt động tập thể; Có năng khiếu văn nghệ, thể dục, thể thao...; Biết quản lí tập thể; Có tinh thần gương mẫu, được đa số HS bầu chọn. Ngoài ra, yếu tố về ngoại hình cũng là một điểm cộng đáng kể. Đặc biệt là đối với những vị trí như Lớp phó Văn- Thể- Mĩ, Bí thư Đoàn thanh niên…Đây không phải là yếu tố quyết định năng lực của các em nhưng lại là một ưu thế cho các hoạt động về văn hóa- văn nghệ- thể dục- thể thao. Đây không còn là cách làm mới trong công tác chủ nhiệm. Dưới sự quản lí, chỉ đạo và hướng dẫn của GVCN đã chủ động xây dựng kế hoạch hoạt động, điều hành quản lý toàn bộ các hoạt động của lớp và từng thành viên trong lớp, bám sát, theo dõi, đôn đốc việc chấp hành đầy đủ và nghiêm túc nội quy, quy chế về học tập và rèn luyện do nhà trường đề ra đồng thời sát sao chấn chỉnh những lệch lạc về đạo đức, nhân cách. Xây dựng nền nếp tự quản cho các thành viên lớp 19
  20. 2.1.2. Các cá nhân có khả năng quản lí, phân công thực hiện nhiệm vụ trong các nhóm/ đội//tiểu ban của lớp Trong SKKN này, chúng tôi còn đề xuất thêm phương án lựa chọn thêm những hạt nhân có khả năng quản lí các mảng công việc khác nhau, đứng đầu các hội/nhóm được thành lập theo yêu cầu công việc bám sát vào nhiệm vụ thường xuyên của năm học. Thoạt nhìn hình thức, hai lực lượng (BCS, BCH chi đoàn và cá nhân người đứng đầu nhóm/hội) trên có thể trùng lặp với nhau. Tuy nhiên, nếu chú ý sâu hơn, sẽ thấy được sự khác biệt giữa các bộ phận này. Cụ thể: Nếu việc chọn lựa đội ngũ BCS lớp được chọn dài hạn, khá ổn định trong suốt năm học với mục đích thay mặt GVCN phụ trách công tác chung của cả lớp được bầu và giao nhiệm vụ từ đầu năm. BCS lớp và BCH chi đoàn thường có nhiệm vụ chính là đối nội (quản lớp, quản tổ, quản các công việc của Đoàn thanh niên) và đối ngoại (thay mặt lớp làm việc với BCH Đoàn trường và tập hợp khi có công văn triệu tập hội họp) thì người đứng đầu nhóm/ hội được bầu nên trong một tổ chức nhỏ hơn, ít thành viên hơn, trong thời gian hữu hạn cho đến khi hoàn thành nội dung công việc được giao. Các tổ/đội/nhóm được tạo ra đáp ứng những nhiệm vụ năm học lớn của cấp trên ban hàng, các công tác Đoàn- Hội, các phong trào thi đua, các cuộc thi được Nhà trường phát động hưởng ứng những ngày lễ lớn, đều cần đến cá nhân có sở trường thực sự ở mảng/lĩnh vực đó, có sự chuyên nghiệp hơn để lãnh đạo một tập hợp những HS chung sở thích, chí hướng, mục đích, thực hiện, đáp ứng kịp thời nhiệm vụ đặt ra. Những hạt nhân đứng đầu những tiểu ban, đội nhóm có thể trùng hoặc không trùng lặp với đội ngũ BCS lớp, điều đó cần dựa trên yêu cầu của công việc thực hiện Ví dụ: Lớp phó Văn- thể của lớp có thể là đội trưởng đội văn nghệ hoặc không Tổ trưởng tổ 1 có thể là nhóm trưởng của nhóm hoặc không. Một HS có năng lực về công nghệ, có thể không tham gia BCS lớp nhưng có thể phụ trách nhóm CNTT của lớp Điều đó cần dựa trên yêu cầu của công việc được giao. Nói đúng hơn là nhìn việc để chọn người thì mới có thể chọn đúng và đạt được hiệu quả cao nhất. Những nhân sự được lựa chọn để đứng đầu các tổ/nhóm/ban, chịu trách nhiệm sau khi đã được GVCN phân quyền có thể không cần sự lựa chọn khắt khe như khi lựa chọn ban cán sự. Bởi những vị trí đứng đầu tổ/nhóm/ban có thể được GVCN chỉ định, phân công hoặc được các HS trong đội đó lựa chọn. Tiêu chí quan trọng nhất để chọn lựa nhân sự trưởng cho các nhóm/đội là: - Người được chọn làm lãnh đạo thường là người thân thiện, nhiệt tình, quan hệ hòa đồng với các thành viên trong nhóm/đội. - Cá nhân phải có năng lực thực sự, có sở trường về lĩnh vực đó. Ví dụ: phụ trách nhóm nhảy phải có kĩ năng nhảy múa, hình thành ý tưởng và khả năng đạo diễn 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2