intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao ý thức tự giác, tích cực cho học sinh THPT trong công tác chủ nhiệm lớp

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:40

12
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục và hình thành cho học sinh THPT ý thức tự giác chấp hành nghiêm túc nề nếp trường lớp và tích cực trong học tập, rèn luyện cũng như chung tay với nhà trường giảm nhẹ tình trạng học sinh vi phạm nội quy, vi phạm pháp luật, đó chính là mục đích của đề tài.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao ý thức tự giác, tích cực cho học sinh THPT trong công tác chủ nhiệm lớp

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NÂNG CAO Ý THỨC TỰ GIÁC, TÍCH CỰC CHO HỌC SINH THPT TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP LĨNH VỰC: CHỦ NGHIỆM
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HÀ HUY TẬP SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NÂNG CAO Ý THỨC TỰ GIÁC, TÍCH CỰC CHO HỌC SINH THPT TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP LĨNH VỰC: CHỦ NGHIỆM Tác giả: ThS. Nguyễn Thị Hoài An - Tổ KHTN ThS. Nguyễn Thị Lệ Thủy - Tổ KHTN Phan Thị Thu Hương - Tổ Ngoại ngữ Số điện thoại : 0972181909 Năm học 2022 - 2023
  3. MỤC LỤC PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................ 1 1.1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1 1.2. Mục đích nghiên cứu. ............................................................................................... 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu. .............................................................................................. 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu. ......................................................................................... 2 1.5. Đóng góp mới của đề tài .......................................................................................... 3 1.6. Cấu trúc của đề tài .................................................................................................... 3 PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ........................................................................ 4 2.1. Cơ sở khoa học của đề tài ...................................................................................... 4 2.1.1. Cơ sở lí luận .......................................................................................................... 4 2.1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................... 6 2.2. Giải pháp ............................................................................................................... 11 2.2.1. Biện pháp 1: Tìm hiểu học sinh lớp chủ nhiệm - đối tượng trung tâm của mọi hoạt động giáo dục. ....................................................................................................... 12 2.2.2. Biện pháp 2: Giáo dục tính tự giác bằng việc xây dựng mô hình lớp học thân thiện, học sinh tích cực. ................................................................................................. 14 2.2.3. Biện pháp 3: Giáo dục tính tự giác bằng việc đổi mới hình thức tuyên dương và khen thưởng. .................................................................................................................. 19 2.2.4. Biện pháp 4: Giáo dục tính tự giác bằng cách nêu gương.................................. 24 2.2.5. Biện pháp thứ năm: Giáo dục tính tự giác bằng sự phối hợp hiệu quả giữa Giáo viên chủ nhiệm với giáo viên bộ môn, ban nề nếp và cha mẹ học sinh. ....................... 26 2.3. Kết quả .............................................................................................................................. 27 2.3.1. Thực nghiệm ....................................................................................................... 27 2.3.2. Đánh giá ý thức tự giác, tích cực học tập của lớp đối chứng và lớp thực nghiệm 2.3.3. Kết quả thi đua các mặt của lớp thực nghiệm. .................................................... 28 2.4. Khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất ............................. 29 2.4.1. Mục đích khảo sát ............................................................................................... 29 2.4.2. Nội dung và phương pháp khảo sát ..................................................................... 29 2.4.3. Kết quả khảo sát .................................................................................................. 30 PHẦN III. KẾT LUẬN ................................................................................................ 32 3.1. Kết luận .................................................................................................................. 32 3.1.1. Tính mới của đề tài .............................................................................................. 32 3.1.2. Tính khoa học ...................................................................................................... 32 3.1.3. Tính hiệu quả ....................................................................................................... 33 3.2. Kiến nghị ................................................................................................................ 33 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  4. PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Lý do chọn đề tài 1. Xu thế hội nhập toàn cầu và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ tạo ra nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều thách thức đối với mọi lĩnh vực đời sống, trong đó có giáo dục. Giáo dục Việt Nam nhiều năm qua đã đạt được những thành tựu đáng tự hào trong quá trình nỗ lực “đổi mới cơ bản và toàn diện”. Song, không thể phủ nhận toàn ngành đang có chung mối lo và trăn trở: một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên Việt Nam trước cơn lốc hội nhập đang có sự xuống cấp, lệch chuẩn đạo đức và thiếu hụt những kĩ năng sống căn bản; sự khủng hoảng niềm tin bản thân và cộng đồng; lối sống “thiếu nhân tính, xa rời quốc tính và nhạt nhòa cá tính”; thiếu ý thức bảo vệ môi sinh; tình trạng bạo lực, phạm pháp, sa vào các tệ nạn xã hội… Bởi vậy, làm tốt công tác chủ nhiệm có ý nghĩa rất lớn trong quá trình giáo dục học sinh, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi học sinh có thể tiếp cận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đang trở thành nhu cầu cấp thiết. 2. Giáo viên chủ nhiệm là một trong những giáo viên đang giảng dạy ở lớp có đủ các tiêu chuẩn và điều kiện đứng ra làm chủ nhiệm lớp trong một năm học hoặc trong tất cả các năm tiếp theo của cấp học. Giáo viên chủ nhiệm lớp thực hiện nhiệm vụ quản lí lớp học và là nhân vật chủ chốt, là linh hồn của lớp, người tập hợp, dìu dắt giáo dục học sinh phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi, bạn tốt, công dân tốt và xây dựng một tập thể học sinh vững mạnh. Ngoài việc dạy học giúp học sinh lĩnh hội kiến thức khoa học từ các môn học, giáo viên còn là người giáo dục học sinh ở tất cả các mặt nhằm giúp học sinh phát triển tốt nhất cả về nhận thức lẫn đạo đức. Sản phẩm cuối cùng của nghề giáo viên là cho ra những thế hệ học sinh có đủ đức và tài giúp sức vào việc phát triển xã hội trong tương lai. Với tầm quan trọng đó mà nghề giáo được xem là nghề cao quí nhất và cũng mang trọng trách nặng nề nhất. Một trong 5 nhiệm vụ quan trọng của giáo viên chủ nhiệm lớp là tổ chức các hoạt động đa dạng cho học sinh. Để làm tốt nhiệm vụ này cần có sự phối hợp tốt giữa giáo viên và học sinh, trong đó tính tự giác của học sinh là rất quan trọng. Trong thực tế qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp tôi nhận thấy tinh thần tự giác của học sinh chưa cao dẫn đến việc điều hành, quản lí và tổ chức các hoạt động của lớp gặp nhiều khó khăn. Giáo viên chủ nhiệm rất vất vả vì luôn phải theo sát đôn đốc học sinh, nếu không thì kế hoạch sẽ khó hoàn thành, nhiệm vụ chủ nhiệm lớp càng ngày càng nặng nề hơn khi học sinh không có tính tự giác. Việc tạo cho học sinh tinh thần tự giác, tích cực trong các hoạt động của lớp không những giúp cho giáo viên chủ nhiệm nhẹ nhàng hơn trong công tác chủ nhiệm của mình mà còn giúp các em tự giác hơn trong học tập và tu dưỡng nhân cách trở thành công dân có ích cho xã hội. 1
  5. 3. Trước yêu cầu và thực tiễn dạy học đó, chúng tôi trăn trở, tìm tòi, nghiên cứu biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho HS một cách tối ưu và mới mẻ trong phạm vi hoạt động quản lí và giáo dục HS của người GVCN. Đề tài nghiên cứu nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục kĩ năng sống và mục tiêu giáo dục phổ thông, góp phần đổi mới dạy học phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội của đất nước và xu thế giáo dục hiện đại. Trên tinh thần đó, chúng tôi đã tiến hành lựa chọn và áp dụng sáng kiến: “Nâng cao ý thức tự giác, tích cực cho học sinh THPT trong công tác chủ nhiệm lớp”. 1.2. Mục đích nghiên cứu Công tác chủ nhiệm trong các trường THPT nói chung và trường THPT Hà Huy Tập Tp Vinh Nghệ An nói riêng hiện nay luôn là một vấn đề trăn trở bởi lẽ, các em học sinh phát triển quá sớm về thể chất nhưng nhận thức chưa trưởng thành, đứng trước rất nhiều những cám dỗ của cuộc sống hiện đại khiến các em trở nên quá non nớt và cần lắm sự yêu thương dìu dắt của các thầy cô. Việc hình thành nhân cách chuẩn mực đạo đức cho các em không phải một sớm một chiều có thể làm được mà đòi hỏi chúng ta phải kiên trì, tìm tòi những cách thức mới sao cho thuyết phục được các em tự giác noi theo. Nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục và hình thành cho học sinh THPT ý thức tự giác chấp hành nghiêm túc nề nếp trường lớp và tích cực trong học tập, rèn luyện cũng như chung tay với nhà trường giảm nhẹ tình trạng học sinh vi phạm nội quy, vi phạm pháp luật, đó chính là mục đích của đề tài. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp giáo dục ý thức tự giác, tích cực cho HS của GVCN ở trường THPT trên địa bàn. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là học sinh lớp T2K47 THPT Hà Huy Tập trong 2 năm học 2021 - 2022 và 2022 - 2023, nhằm đánh giá kết quả thực hiện và duy trì nề nếp học tập của các em qua các năm học có chuyển biến tích cực như thế nào kể từ khi tôi ứng dụng biện pháp nâng cao ý thức tự giác, tích cực trong công tác chủ nhiệm lớp. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi đã kết hợp một số phương pháp nghiên cứu sau: 1. Phương pháp nghiên cứu lí luận 2. Phương pháp khảo sát thực tiễn 3. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu 4. Phương pháp so sánh đối chiếu 5. Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu 6. Phương pháp phỏng vấn 2
  6. 7. Phương pháp quan sát sư phạm 8. Phương pháp thực nghiệm sư phạm 9. Phương pháp kiểm tra sư phạm. 1.5. Đóng góp mới của đề tài - Đề tài đã đưa ra được những giải pháp có tính mới và sáng tạo về biện pháp giáo dục ý thức tự giác, tích cực cho học sinh của giáo viên chủ nhiệm ở trường THPT. - Đề tài đáp ứng được quan điểm, yêu cầu, tình hình đổi mới giáo dục kĩ năng sống theo yêu cầu phát triển năng lực và phẩm chất cho HS của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Vận dụng đề tài vào thực tiễn giáo dục trong nhà trường sẽ mang lại hiệu quả cao hơn trên cơ sở những tài liệu cũ, cách làm cũ. - Kết quả của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh trong công tác chủ nhiệm ở các trường trung học phổ thông. 1.6. Cấu trúc của đề tài Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ Phần II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Phần III: KẾT LUẬN 3
  7. PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 2.1.1. Cơ sở lí luận a. Tính tự giác Tự giác là một đức tính tốt của con người từ xưa đến nay. Tự giác là làm việc gì cũng tự mình hiểu mà làm, không cần người khác nhắc nhở, đốc thúc. Người tự giác là người hiểu rõ trách nhiệm, vai trò vị trí và quyền lợi của mình trong gia đình, tổ chức hay cộng đồng xã hội. Tự giác không phải là kỹ năng bẩm sinh tự nhiên, mà nó đòi hỏi phải có quá trình giáo dục, học tập, rèn luyện. Như vậy, tự giác là sự kết hợp từ phía bản thân và phía bên ngoài, nó biểu hiện ở nhiều góc độ, trong ý nghĩ, hành động, trong ứng xử với chính mình và với người xung quanh. Tự giác phải trải qua một quá trình giáo dục lâu dài, liên tục, đây là một hình thức rèn luyện bản thân có chọn lọc, tạo nên những thói quen trở thành ý thức trong cách nghĩ và hành vi của con người, phù hợp với yêu cầu chung, nhằm mục đích nâng cao giá trị của bản thân và hướng đến xây dựng xã hội tiến bộ, văn minh. Trong trường học, nơi tập trung học sinh (HS) nhiều nguồn, việc rèn luyện tính tự giác vô cùng quan trọng. Các em sẽ được hình thành, được uốn nắn, động viên và có cả phê bình, khiển trách để càng ngày càng hoàn thiện tính tự giác của mình… Tự giác trong học tập sẽ mang lại cho mình một tâm thế thoải mái, vui vẻ vì nó trở thành nhu cầu của bản thân. Với HS có tính tự giác, không phải ngày mai có kiểm tra bài tập mới làm để đối phó với giáo viên! Ngược lại, những bài tập, bài soạn luôn được những HS này hoàn thành trước cả tuần… Như vậy việc học hành mới tấn tới vì người tự giác luôn nghĩ là mình học cho mình, cho tương lai… Tự giác có thể học tập được, nó được hình thành từ trong gia đình, rồi đến nhà trường, cộng đồng xã hội. Một đứa trẻ từ trẻ từ khi con nhỏ đã được ông bà, cha mẹ, anh chị dạy dỗ việc ăn, ngủ, học hành, vệ sinh, lễ phép, giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn… biết làm những việc có ích cho gia đình và xã hội phù hợp với lứa tuổi, lớn lên được nhà trường, xã hội, cơ quan, đoàn thể tiếp tục dạy những điều đó, thì chắc chắn sẽ hình thành một công dân có ý thức tự giác, biết yêu thương gia đình, có trách nhiệm với Tổ quốc. b. Tính tích cực. Theo quan điểm triết học, tính tích cực nhận thức thể hiện thái độ cải tạo của chủ thể nhận thức đối với đối tượng nhận thức, nghĩa là con người không chỉ hiểu được các qui luật của tự nhiên, xã hội mà còn nghiên cứu cải tạo chúng phục vụ lợi ích của con người. Tác giả Bùi Hiển coi tính tích cực là nét tính cách rất quan trọng của nhân cách, thuộc mục tiêu lâu dài, bao quát các hoạt động của con người. Tiến sĩ I.F. Khalamốp thì coi nó là trạng thái hoạt động của các chủ thể, nghĩa là của người hành động chỉ đề cập trong quá trình nhận thức, thuộc mục đích trước mắt. Như vậy, khi vận dụng vào phương pháp dạy học thì quan niệm của I.F. Khalamốp là 4
  8. phù hợp hơn. Như vậy, tích cực là một trạng thái của hành động trí óc hoặc chân tay của người có mong muốn hoàn thành tốt một công việc nào đó. Tính tích cực học tập là một phẩm chất, nhân cách của người học, được thể hiện ở tình cảm, ý chí quyết tâm giải quyết các vấn đề mà tình huống học tập đặt ra để có tri thức mới, kĩ năng mới. Giáo sư Trần Bá Hoành cũng quan niệm, "Tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động của HS, đặc trưng bởi khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức. Nói cách khác, là thái độ cải tạo của chủ thể đối với khách thể thông qua sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lí nhằm giải quyết những vấn đề học tập - nhận thức". Tính tích cực của học sinh có mặt tự phát và mặt tự giác. Mặt tự phát của tính tích cực nhận thức là những yếu tố tiềm ẩn, bẩm sinh thể hiện ở tính tò mò, hiếu kì, hiếu động linh hoạt và sôi nổi trong hành vi mà ở trẻ đều có trong các mức độ khác nhau. Mặt tự giác của tính tích cực là trạng thái tâm lí mà tính tích cực có mục đích và đối tượng rõ rệt. Do đó có hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng đó, thể hiện ở óc quan sát, tính phê phán trong tư duy, trí tò mò khoa học. Tính tích cực thể hiện ở chỗ: - Hưởng ứng và thấy rõ bổn phận thực hiện những yêu cầu đặt ra trong tình huống học tập - Chịu khó suy nghĩ trả lời câu hỏi, chăm chỉ, tự giác thực hiện các hoạt động để có được các tri thức mới, nhận thức mới, kĩ năng mới - Quyết tâm hoàn thành công việc của mình, khi có điều kiện thì tương trợ giúp đỡ người khác hoàn thành công việc Ngoài những biểu hiện nói trên mà giáo viên dễ nhận thấy còn có những biểu về mặt xúc cảm, khó nhận thấy hơn, như thờ ơ hay hào hứng, phớt lờ hay ngạc nhiên, hoan hỉ hay buồn chán trước một nội dung nào đó của bài học hoặc khi tìm ra lời giải hay cho một bài tập khó… Những dấu hiệu này khó biểu hiện và khác nhau ở từng cá thể học sinh, bộc lộ rõ ở học sinh các lớp dưới, kín đáo ở học sinh các lớp trên. Tính tích cực, tự giác học tập của học sinh thể hiện ở sự tập trung chú ý vào các vấn đề đang học, ở sự tự nguyện tham gia xây dựng bài, trả lời các câu hỏi và yêu cầu hoạt động cả thầy, hăng hái tham gia thảo luận tranh luận, đóng góp với thầy, với bạn những suy nghĩ về các vấn đề. Tính tích cực còn được thể hiện ở sự kiên trì không nản chí trước những tình huống khó khăn trong cuộc sống. Học sinh không có tính tích cực thì gặp tình huống mới, vấn đề mới, chưa suy nghĩ được bao nhiêu đã vội hỏi ý kiến người khác. 5
  9. c. Ý nghĩa của học tập tự giác, tích cực Biểu hiện của học tập tự giác, tích cực có mục đích và động cơ học tập đúng đắn. Một người biết tự giác học tập chắc chắn sẽ luôn chủ động, tích cực trong mọi nhiệm vụ. Chủ động vượt qua khó khăn, đạt kết quả học tập tốt và luôn tràn đầy niềm tin tưởng. Bởi khi tự giác trong học tập ta sẽ chủ động tiếp cận và lựa chọn những tri thức cần thiết và phù hợp với bản thân. Việc tiếp nhận tri thức ấy cũng trở nên dễ dàng hơn. Càng có nhiều tri thức, con người càng tự tin và mạnh mẽ. Học sinh có ý thức tự giác trong học tập sẽ luôn không ngừng tiến bộ. Giống như đại dương luôn được tiếp nước từ trăm nghìn dòng sông không bao giờ vơi cạn. Ngược lại nếu quá trình đó dừng lại, con người sẽ lạc hậu và bị phủ nhận trong cuộc sống này. Người có ý thức tự giác sẽ luôn được những người xung quanh (thầy cô, bạn bè) ngưỡng mộ. Họ trở thành tấm gương sáng để cho mọi người noi theo. 2.1.2. Cơ sở thực tiễn a. Thực trạng * Đánh giá ý thức học tập của HS Để đánh giá tính tự giác, tích cực của HS trong giờ học, chúng tôi phỏng vấn 13 giáo viên của lớp đánh giá 45 HS (với 5 mức: Rất tự giác: 5 điểm, Tự giác: 4 điểm, Bình thường: 3 điểm, Không tự giác: 2 điểm và Rất không tự giác: 1 điểm) trên 10 tiêu chí là biểu hiện của tính tự giác, tích cực học tập. Kết quả phỏng vấn được trình bày ở bảng 1; (Tổng số 45 x 13 = 585 lượt HS được đánh giá): Bảng 1. Kết quả điều tra ý thức tự giác của HS trong giờ học TT Nội dung Kết quả đánh giá đánh giá 5 4 3 2 1 Biểu hiện ở xúc cảm học tập: 1 Thái độ 70 135 147 176 57 của HS (12%) (23,1%) (25,13%) (30%) (9,77%) đối với môn học Biểu hiện chú ý: 2 Chuyên 131 74 180 141 59 tâm lắng (23,1%) (12%) (30%) (25,13%) (9,77%) nghe lời giảng của giáo viên Biểu hiện sự nỗ lực ý chí: 6
  10. 3 Cố gắng 72 140 140 183 50 hoàn thành (12,31%) (23,93%) (23,93%) (31,28%) (8,55%) bài tập giáo viên giao ở trên lớp 4 Cố gắng 60 110 126 176 113 hoàn thành (10,25%) (18,8%) (21,53%) (30,08%) (19,34%) bài tập về nhà Biểu hiện bằng hành vi: 5 Không bỏ 254 135 154 36 giờ học (43,41%) (23,07%) (26,32%) (7,2%) 6 Đến lớp 198 211 147 19 10 đúng giờ (33,84%) (36,06%) (25,13%) (3,24%) (1,73%) 7 Chủ động 10 135 147 236 57 trực nhật (1,73%) (23,1%) (25,13%) (40,27%) (9,77%) trên lớp 8 Sốt sắng 30 140 147 176 92 khi được (5,12%) (23,93%) (25,13%) (30,08%) (15,17%) giao nhiệm vụ 9 Chịu khó 10 135 147 236 57 hỏi han (1,73%) (23,1%) (25,13%) (40,27%) (9,77%) giáo viên về bài học 10 Nhiệt tình 30 140 147 176 92 giúp đỡ (5,12%) (23,93%) (25,13%) (30,08%) (15,17%) bạn bè trong giờ học Trung bình 86,5 114,4 148,2 155,5 80,4 (14,78%) (19,55%) (25,33%) (26,58%) (13,76%) Kết quả bảng 1 cho thấy: có đến 40,34% học sinh thiếu sự nỗ lực, ý chí trong học tập, các em không tự giác học tập, không chủ động hoàn thành bài tập trước khi đến lớp cũng như hỏi bài giáo viên. Và hầu như rất ít HS chủ động trực nhật hay giúp đỡ bạn trong học tập. 7
  11. Biểu đồ đánh giá ý thức tự giác, tích cực học tập của HS Series1, Rất không Series1, Rất tự tự giác, 13.760%, 14.780%, giác, 14% 15% Rất tự giác Series1, Không tự Series1, Tự giác, giác, 26.580%, 19.550%, 19% Tự giác 27% Bình thường Series1, Bình Không tự giác thường, 25.330%, 25% Rất không tự giác * Thực trạng tính tự giác, tích cực về biểu hiện bằng hành vi trong cuộc sống Để tìm hiểu biểu hiện tự giác tích cực thông qua hành vi của HS, chúng tôi tiến hành phỏng vấn dựa trên 6 tiêu chí là biểu hiện của ý thức tự giác thông qua các hành vi: Bảng 2. Kết quả điều tra ý thức tự giác của HS trong cuộc sống Nội dung Trước tác động 1. Theo em cần có tính tự giác trong hoạt động nào Trong học tập 20 (43,5%) Khi tham gia giao thông 17 (37%) Trong cuộc sống hằng ngày 9 (19,5%) 2. Gần vào lớp, vì lí do nào đó bạn được phân công trực nhật chưa đến em sẽ Không làm gì cả, đấy là nhiệm vụ của bạn 25 HS (54,3%) Trực nhật hộ bạn 7 (15%) Bảo cán bộ lớp tìm người làm thay 14 (30,7%) 3. Khi thấy giỏ rác trong lớp đầy, em sẽ Đưa giỏ rác đi đổ 3 (6,5%) Bảo tổ trực nhật đi đổ rác 20 (43,5%) Không để ý 23 (50%) 4. Khi ra về, ở cổng trường em sẽ Đi chậm, nhường đường cho xe ô tô 20 (43,5%) Đi nhanh để tránh tắc đường 10 (21,8%) 8
  12. Xuống dắt xe qua cổng trường 16 (34,7%) 5. Nếu lớp có các phong trào thi đua của lớp chúng ta em có muốn mình tham gia không Có tham gia 16 (34,7%) Không tham gia vì bận học 20 (43,5%) Không quan tâm 10 (21,8%) 6. Em thường sử dụng điện thoại trong thời gian nào Ở nhà vào thời gian rỗi 15 học sinh (32,6%) Ở nhà 7 (15%) Ở trường trong giờ ra chơi 24. (52,4%) Kết quả bảng 2 cũng phản ánh thực trạng về tính thiếu tự giác của học sinh trong các hoạt động hằng ngày, trung bình - có đến 36,9% bày tỏ ý kiến không quan tâm, không để ý, không làm gì cả; - 34,8% làm việc theo thói quen, ít tự giác làm các công việc của tập thể. - 28,3% tự giác học tập, chấp hành ATGT, tham gia các cuộc thi và ít sử dụng điện thoại di động. Ý thức tự giác trong cuộc sống Series1, Không Series1, Tự giác, tự giác, 28.300%, 28% 36.900%, 37% Tự giác ít tự giác Series1, ít tự Không tự giác giác, 34.800%, 35% b. Nguyên nhân * Về phía giáo viên chủ nhiệm Đại đa số các giáo viên thường vấp phải tình trạng khó khăn chung như: học sinh không tự giác chấp hành nề nếp: đi học muộn, nghỉ học vô lý do, trốn tiết, thiếu dụng cụ học tập, lười học bài cũ, không phát biểu xây dựng bài, chống đối giáo viên, chưa tự giác trong hoạt động tập thể, còn ỷ lại hay thiếu tự tin trước đám 9
  13. đông, thụ động làm các công việc được giao như đến trực nhật muộn, đi lao động thì thiếu dụng cụ…. Vì vậy, để lớp thực hiện tốt nề nếp đảm bảo công tác thi đua trong nhà trường, nhiều giáo viên đều siết chặt nề nếp bằng cách trách phạt thật nghiêm khắc, nặng nề hơn là đề nghị hội đồng nhà trường kỉ luật những học sinh ương bướng, thậm chí nhiều giáo viên khắt khe hơn tìm mọi cách để động viên các em tự nguyện chuyển sang học nghề. Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý các em cũng như ảnh hưởng đến việc duy trì sĩ số nhà trường, nhiều em bị đẩy ra xã hội quá sớm khiến các em dễ dàng bị sa ngã rồi rơi vào con đường nghiện ngập và phạm tội. Vô hình dung chúng ta đánh mất đi bản chất tốt đẹp của nghề trồng người, khiến các em mất đi niềm tin vào bản chất giáo dục mà chúng ta đang theo đuổi. * Về phía học sinh, gia đình và xã hội Trong thời gian gần đây chúng ta thấy đạo đức học sinh có những biểu hiện xuống cấp nhanh. Học sinh được cha mẹ bảo bọc, làm thay hầu hết các việc cá nhân trong gia đình; bên cạnh đó học sinh dù nhỏ cũng đã được ba mẹ trang bị cho điện thoại di động, các em có điều kiện xem những thông tin không lành mạnh đã làm cho một bộ phận không nhỏ học sinh đã bị tác động bởi chúng. Cùng với việc biến đổi tâm sinh lí của tuổi mới lớn làm cho các em có xu hướng nổi loạn, đối đầu với bất kì ai, bất kì lí do gì. Các em dễ dàng kéo bè kéo phái, gây mâu thuẫn chỉ với những lí do đơn giản như: bạn không nghe theo lời của mình sai bảo, bạn không cho chép bài … hay nhiều lí do khác mà không hề nghĩ đến hậu quả. Điều này càng cho thấy tác hại ghê gớm của thời đại công nghệ thông tin đối với bộ phận học sinh của chúng ta. Trong khi đó phần lớn phụ huynh lại không lường trước được hậu quả của việc cho con sử dụng điện thoại quá sớm hay chỉ vì chiều theo ý con, họ có suy nghĩ: cho con điện thoại để dễ liên lạc; để con có cái nghe nhạc như các bạn khác; khi có điện thoại chơi game sẽ không mất thời gian đi vào các quán game… Trong một lớp học hầu hết em nào cũng có điện thoại di động, có thể nói đây cũng là một trong những lí do góp phần vào tình trạng xuống cấp như hiện nay. Hơn nữa chúng ta thấy được học sinh hiện nay dành phần nhiều thời gian của mình để tiếp xúc với điện thoại nên gần như mất liên kết với thế giới thực tế bên ngoài với bố mẹ, thầy cô và bạn bè. Hầu như các em chỉ chơi với nhau qua điện thoại kể cả khi các em đang ở trên trường. Học sinh đã mất hẳn những trò chơi có tính tập thể như trước kia, mỗi em đều phải cố gắng và phối hợp với nhau chặt chẽ thì mới mong thắng được đội bạn... Việc mất dần thói quen chơi trò chơi dân gian dần cũng làm các em mất dần tinh thần tập thể, tinh thần đồng đội, không có nhu cầu chia sẻ nữa. Dần dần sẽ hình thành tính ích kỉ trong học sinh: một lớp có cả 43 - 47 học sinh nhưng vẫn chỉ ngồi nhìn một cái bảng chưa được lau; cả hơn 40 học sinh nhưng vẫn chấp nhận ngồi học trong một lớp học đầy rác và đất mà không em nào cảm thấy cần phải dọn dẹp nó. Và quan trọng hơn nữa là mất dần 10
  14. tính tự giác học tập, các em chỉ học, chỉ làm bài tập khi giáo viên kiểm tra, khi có bài kiểm tra, trong khi đó việc học cần sự liên tục và thường xuyên. Vậy thì tại sao? Câu hỏi này không phải chỉ làm đau đầu các giáo viên chủ nhiệm lớp mà còn gây khó chịu cho những giáo viên bộ môn. Họ không nghĩ ra là vì đâu? Vì cái gì mà mất đi tính tự giác của học sinh, mất đi sự chia sẽ giúp đỡ nhau của học sinh. Mỗi lần lên lớp giáo viên luôn phải nhắc nhở đích thân các em mới làm. Tình trạng này không chỉ gặp ở một vài em hay một vài lớp mà nó đang là tình trạng chung cho các lớp. Chỉ vì nạnh tị nhau không muốn làm giúp bạn hay việc ai người ấy làm, ai không làm thì chịu trách nhiệm chứ không liên quan gì tới mình. Chính vì vậy, mặc dù vào tiết học các em vẫn cứ ung dung ngồi trong một lớp đầy rác hay ngồi nhìn cái bảng đầy chữ viết nếu bạn trực nhật không làm hay không đi học v.v... Sự mất dần tinh thần trách nhiệm, tinh thần tập thể của những học sinh nói chung và học sinh cấp THPT nói riêng cho ta thấy được điều gì sẽ xảy ra trong thời gian tới nếu tình trạng này không được cải thiện. 2.2. Giải pháp Mục tiêu quan trọng của giáo viên chủ nhiệm là tạo cho học sinh tinh thần tự giác chia sẻ, tích cực giúp đỡ lẫn nhau trong những công việc nhỏ của bản thân cũng như của trường của lớp. Các em cần phải đối xử với nhau có tình người, tình yêu thương gắn bó. Từ đây có thể giúp các em thoát khỏi những tác động xấu từ xã hội, từ các trò chơi ảo và các văn hóa đen. Như vậy chúng ta sẽ tạo được cho học sinh một tâm hồn trong sáng theo đúng nghĩa của nó. Học sinh ở lứa tuổi này sự chuyển biến tâm lí rất mạnh, các em cũng dễ nghe theo các thầy cô nhưng cũng rất nhạy cảm với những tác động không tốt từ bên ngoài. Vì vậy đòi hỏi mỗi thầy cô giáo phải có một tình thương “yêu nghề, yêu trẻ”, có trách nhiệm lớn đối với học sinh của mình. Mỗi thầy cô giáo không chỉ là người cha người mẹ, người anh, người chị mà còn là người bạn thân thích của các em, có như vậy các em mới có thể tâm sự chia sẻ cởi mở với mình tạo điều kiện cho việc tiếp cận tìm hiểu nhiều hơn về các em. Một khi mỗi thầy cô đã tạo được sự tin tưởng của học sinh thì việc chúng ta dùng lời nói của mình để giáo dục đạo đức của các em sẽ dễ dàng hơn. Khi các em đã có tư tưởng tình cảm đúng đắn, biết yêu thương chia sẻ với mọi người thì các em cũng đã có được sự miễn dịch cần thiết đối với những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Như vậy có thể nói công tác giáo dục của giáo viên đã thành công. 2.2.1. Biện pháp 1: Tìm hiểu học sinh lớp chủ nhiệm - đối tượng trung tâm của mọi hoạt động giáo dục. Mỗi giáo viên chủ nhiệm muốn hoàn thành tốt công tác chủ nhiệm của mình, muốn đề ra biện pháp giáo dục hiệu quả thì trước hết giáo viên đó phải hiểu học sinh, phải nắm bắt được đầy đủ thông tin cần thiết từng học sinh. 11
  15. * Mục tiêu của biện pháp: GVCN nắm được thông tin cần thiết về hoàn cảnh gia đình, điều kiện sống, các vấn đề tâm lý, sở thích, phong cách học tập, năng lực của từng HS, sở trưởng sở đoản, mục tiêu của 3 năm học THPT của các em … Đó sẽ là công cụ để giáo viên có thể tiến hành phân hóa trong quá trình giáo dục và giảng dạy. * Các bước thực hiện biện pháp: + Bước 1: Ngay từ buổi đầu tiên nhận lớp, tôi tiến hành ngay công tác điều tra qua phiếu mẫu sau đây và phát cho các em điền đầy đủ thông tin mà tôi yêu cầu. GIỚI THIỆU BẢN THÂN Họ và tên: …………………………………………………………………………………. Ngày tháng năm sinh…………………………………………... Dân tộc:…………….. Là con thứ …………………. trong gia đình. Họ tên bố: …………………………………… Nghề nghiệp …………………………… Họ tên mẹ: …………………………………… Nghề nghiệp …………………………... Hoàn cảnh gia đình: (khá giả, đủ ăn, nghèo, nghèo đặc biệt) ……………………... Kết quả học tập năm học trước: ……………………………………………………….. Môn học yêu thích: ………………………………………………………………………. Môn học cảm thấy khó ………………………………………………………………….. Sở thích:. ………………………………………………………………………………….. Sở trường, Sở đoản………………………………………………………………………. Những người bạn thân nhất: …………………………………………………………… Ước mơ khi ra trường: ………………………………………………………………….. Địa chỉ gia đình ………………………………………………………………………….. Số điện thoại của gia đình: ……………………………………………………………... + Bước 2: Tập hợp thông tin. Qua mẫu phiếu này, tôi có thể nắm bắt một cách đầy đủ nhất thông tin về các em để ghi vào sổ điểm cũng như sổ chủ nhiệm. Quan trọng hơn cả tôi đã có nguồn tư liệu sinh động về từng đối tượng học sinh để bước đầu hiểu phần nào đó về tâm sinh lý của các em, và tìm ra được các cá nhân điển hình - điều này sẽ rất có lợi cho tôi trong quá trình giảng dạy, dẫn dắt, quản lý và giáo dục các em. + Bước 3: Mở cánh cửa giao tiếp với phụ huynh. Phụ huynh học sinh là một nguồn thông tin tuyệt vời mà giáo viên cần phải nắm bắt. Hãy tìm mọi cách để thiết lập kênh liên hệ với phụ huynh ngay từ đầu năm học. Hãy tìm hiểu những thông tin cần thiết về học sinh thông qua phụ huynh như: hoàn cảnh gia đình, các vấn đề về tâm sinh lý, những khó khăn về nhận thức hay quan hệ xã hội,… bằng phiếu hỏi hoặc google form… * Kết quả áp dụng biện pháp: 12
  16. Bảng 3. Kết quả điều tra hoàn cảnh gia đình và tâm sinh lí HS qua phụ huynh Nội dung Hoàn cảnh Các lưu ý Kết quả năm học 2021 - 2022 gia đình đặc biệt về HS Giỏi HS tiên Còn lại tâm sinh lí tiến Con 25(54,34%) 20(43,48%) 4(8,7%) 0 CBCNV Lao động tự 13(28,26%) 5(10,87%) 6(13,04%) 2(4,35%) do Buôn bán 8(17,4%) 2(4,35%) 4(8,7%) 2(4,35%) Học sinh 1(0,02%) 1(0,02%) hòa nhập Học sinh 0 0 khuyết tật Các vấn đề 5(10,87%) 2(4,35%) 3(6,52%) khác - Lớp T2K47 có 46 HS, 36 nam và 10 nữ. 42 HS có hộ khẩu Tp Vinh, 2 HS Thanh chương, 3 HS Hưng nguyên; 2 HS là lớp trưởng từ cấp 2, 1 HS là liên đội trưởng; 3 HS có khả năng đàn hát; 1 HS có năng khiếu mĩ thuật. Đây là đội ngũ hùng hậu cho nguồn cán bộ lớp cũng như thủ lĩnh lĩnh xướng hoạt động của tập thể. - Bên cạnh đó lớp T2K46 hiện nay có em Nguyễn Ph. Tr. xã Nghi Kim, gia đình có bố mất sớm, mẹ là giáo viên tiểu học nhưng em thường xuyên đi học muộn hoặc nghỉ học vô lý do, đến lớp là ngủ. Tôi phải tìm tới tận nhà để động viên em đi học hằng ngày, thậm chí mỗi sáng tôi tình nguyện làm chiếc đồng hồ báo thức gọi điện thoại cho em vào lúc 6 giờ sáng nhắc nhở em dậy. Đôi khi tôi lại bắt chuyện với em để tìm hiểu về tâm sinh lý của em nhằm tạo cho em cơ hội chia sẻ mong muốn, nguyện vọng của mình, tạo mối thân tình giúp em tin vào bản thân sẽ thay đổi. Sau một thời gian kiên trì, đến học kì II, tình trạng đi học muộn và nghỉ học của em đã cải thiện rõ rệt. * Lưu ý khi thực hiện biện pháp: Hãy quan tâm đến những sở thích của học sinh. Bảng 4. Tổng hợp sở thích HS 11T2K47 HHT Mĩ thuật MC Không có sở Sở thích Thể thao Âm nhạc Hội họa truyền thông thích nào Số lượng 17 5 3 5 16 Điều này thực sự có thể giúp giáo viên trong việc tạo động lực tự giác học tập cho học sinh. Hãy nhớ rằng việc sử dụng những sở thích của học sinh không phải là để “lấy lòng” hay “chiều chuộng” mà đó là cách khơi dậy những động lực 13
  17. học tập từ bên trong. Ví dụ, nếu bạn biết một số học sinh của mình thực sự yêu thích bóng đá, bạn có thể đặt cho họ một nhiệm vụ liên quan đến việc viết một bài báo để đưa tin về một trận bóng trong tạp chí bóng đá hoặc trong bản tin của nhà trường. Bên cạnh đó, bằng các hoạt động tập thể của các phong trào này, GVCN có thể khơi gợi được các tiềm năng năng khiếu ẩn sâu trong mỗi học sinh, giúp các em phát huy được các lợi thế mà các em chưa tự khám phá được. 2.2.2. Biện pháp 2: Giáo dục tính tự giác bằng việc xây dựng mô hình lớp học thân thiện, học sinh tích cực. Năm học 2018 – 2009, Bộ giáo dục và đào tạo phát động phong trào thi đua xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực” nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt hình thành nhân cách, kĩ năng sống cho học sinh. Phong trào này đã được nhân rộng trong nhiều trường học. * Mục tiêu: giúp các em hình thành ý thức tự giác trong phong trào xây dựng tập thể đoàn kết vững mạnh bằng việc thiết lập được mối quan hệ thầy – trò, bạn bè trong lớp. * Cách thức thực hiện biện pháp: a, Tạo dựng mối quan hệ thầy – trò. Trước đây, quan hệ thầy, trò là quan hệ chịu ơn - ban ơn; bề trên- kẻ dưới; giảng giải- ghi nhớ. Ngày nay, quan hệ này được thay bằng quan hệ phân công- hợp tác. Thầy thiết kế- trò thi công. Thầy làm mẫu, giao việc- trò làm theo mẫu của thầy. - Khi có học sinh mắc sai lầm, thiếu sót, tôi luôn cố gắng kiềm chế và tôn trọng học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ các em sửa chữa. Giáo viên không nên có những lời nói, cử chỉ xúc phạm các em. Ở tuổi này, lòng tự trọng của các em rất cao, chỉ một lời nói xúc phạm sẽ làm mất đi hình tượng mẫu mực đáng tôn thờ của các em. Thậm chí có em sẽ oán hận, căm ghét thầy cô, bỏ học và không bao giờ trở lại lớp học nữa cho dù có nhiều người đến nhà vận động. Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi biết rằng có những em học yếu hoặc có hôm không học bài, làm bài nhưng lỗi không phải hoàn toàn là do các em. Có em ham chơi nên quên học bài, có em do bị mất căn bản từ các lớp dưới. Nhưng cũng có em học yếu, hoặc không học bài làm bài là do những điều kiện khách quan. Gia đình của các em đâu phải lúc nào cũng đầm ấm, hạnh phúc; đâu phải em nào cũng may mắn được bố mẹ, ông bà động viên trong mỗi bước học tập. Và có biết bao nhiêu bố mẹ phải lo làm thuê, làm mướn kiếm sống hoặc vì ăn chơi cờ bạc hay ốm đau bệnh hoạn,...nên không ngó ngàng gì đến việc học của con cái, thậm chí các em còn bị mắng chửi, bị đánh đập ... Những sóng gió đó đã tác động đến tâm lí hành vi, cản trở việc học tập của các em. Nếu như giáo viên không biết 14
  18. được những nguyên nhân đó thì rất dễ nổi giận đùng đùng, rồi la mắng, trừng phạt các em. Điều đó rất bất lợi cho quan hệ thầy- trò sau này. Vì vậy, đứng trước một học sinh quậy phá, hay lơ đãng không học bài, làm bài, tôi không kết án trừng phạt ngay mà bình tĩnh chờ đến hết buổi học gặp riêng các em để hỏi cho rõ nguyên nhân. Lần đầu các em vi phạm, tôi nhẹ nhàng nhắc nhở. Nếu lần thứ hai, các em vẫn tái phạm, tôi phải đến nhà tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ, giáo dục các em. - Hàng ngày, tôi luôn khích lệ và biểu dương các em kịp thời, ca ngợi những ưu điểm của các em nhiều hơn là phê bình khuyết điểm. Tôi cố tìm ra những ưu điểm nhỏ nhất để khen ngợi động viên các em. Nhưng trong khi khen, tôi cũng không quên chỉ ra những thiếu sót để các em khắc phục và ngày càng hoàn thiện hơn. - Khi nói chuyện, khi giảng, cũng như khi nghiêm khắc phê bình lỗi lầm của học sinh, tôi luôn thể hiện cho các em thấy tình cảm yêu thương của một người thầy đối với học trò. Theo qui luật phản hồi của tâm lí, tình cảm của thầy trước sau cũng sẽ được đáp lại bằng tình cảm của học trò. Lòng nhân ái, bao dung, đức vị tha của người thầy luôn có sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa học sinh. “Lớp học thân thiện” chỉ có được khi người thầy có tấm lòng nhân hậu, bao dung, hết lòng vì học sinh thân yêu của mình. Có một người thầy như vậy thì chắc chắn học sinh sẽ chăm ngoan, tích cực và ham học, thích đi học. b, Thiết lập mối quan hệ bạn bè. Trong cuộc sống của mỗi con người, ngoài những người thân trong gia đình ra, ai cũng cần có bạn bè để chia sẻ. Nếu các em có nhiều bạn bè thân thiết trong lớp thì các em sẽ hợp tác vui vẻ với nhau và sẽ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Em học giỏi sẽ giúp những em học yếu; ngược lại, em học yếu cũng dễ dàng nhờ bạn giúp đỡ mình học tập mà không phải e ngại, xấu hổ (Học thầy không tày học bạn). Nhưng trong thực tế, một lớp học thường xuất hiện nhiều nhóm học trò, đặc biệt là những lớp cuối cấp. Các em chia bè phải, phân biệt giàu nghèo, hay nói xấu hoặc châm chọc nhau. Những em nữ thì hay dỗi hay hờn giận. Còn các em nam thì hăm he đánh nhau, trả thù nhau. Tuy các em chưa gây ra chuyện gì nghiêm trọng nhưng nó vẫn ảnh hưởng xấu đến tình cảm bạn bè và chất lượng học tập của lớp. Là một giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn quan tâm đến vấn đề này. Xây dựng được mối quan hệ bạn bè đoàn kết, gắn bó thì tôi sẽ xây dựng được nề nếp lớp học, tiến tới xây dựng môi trường học tập thân thiện. Từ môi trường học tập thân thiện đó, chất lượng học tập của lớp chắc chắn sẽ được nâng cao. Để xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, đoàn kết, gắn bó, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong học tập, tôi luôn tạo ra các hoạt động, các vấn đề đòi hỏi sự hợp tác của nhiều học sinh. 15
  19. Cách làm cụ thể như sau: - Trước hết việc phân chia chỗ ngồi cho các em phải đảm bảo tính khách quan, qua tìm hiểu thông tin từ các em qua bản sơ yếu lý lịch, tôi chia đều các em có học lực khá, giỏi về các tổ để kèm các bạn yếu hơn. Đồng thời chia đều học sinh các xã, chia đều số lượng học sinh nam trong lớp để đảm bảo tính cân đối và tránh trường hợp các bạn chia bè phái cục bộ. Ngoài ra, tôi cắt cử những học sinh thật sự gương mẫu có trách nhiệm kèm cặp những học sinh chưa ngoan để nhắc nhở động viên các em cùng cố gắng. Bằng cách này tôi đã hạn chế được rất nhiều các lỗi vi phạm nhỏ của các em. - Tôi khuyến khích phong trào “điều em muốn nói” để học sinh tự viết ra những điều em chưa đồng ý về việc làm, cách cư xử của cô giáo, lớp trưởng, lớp phó hoặc của một bạn nào đó trong lớp chứ không nói xấu, không xa lánh bạn. Căn cứ vào những điều các em viết ra, nếu là những điều tốt thì tôi đọc cho cả lớp nghe rồi tuyên dương ngay trước lớp. Còn những điều các em phê bình thì tôi phải điều tra nắm rõ đúng hay sai. Sau đó mới góp ý riêng với những học sinh bị bạn phê bình, yêu cầu các em phải xin lỗi bạn và phải sửa chữa. - Khi có chuyện xích mích giữa em này với em kia, tôi kịp thời can thiệp không để mâu thuẫn kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến tình bạn. Tôi gặp gỡ trao đổi riêng với từng học sinh hoặc nhóm học sinh để biết rõ đầu đuôi. Sau đó phân tích rõ ai đúng, ai sai. Ai sai thì phải nhận lỗi và xin lỗi bạn. Sau đó giảng hòa và bắt tay nhau vui vẻ trở lại. - Để tạo dựng cho các em một tình bạn bền đẹp với những kỉ niệm sâu sắc của tuổi học trò, tôi tổ chức sinh nhật tháng cho học sinh có ngày sinh nhật trong tháng đó ngay tại lớp học trong giờ sinh hoạt cuối tuần của tuần cuối trong mỗi tháng. Hình thức tổ chức do các em trong ban cán sự quyết định. Nhưng chủ yếu chỉ là múa hát, là những lời chúc mừng và một món quà nhỏ khoảng vài chục ngàn đồng do cả lớp đóng góp. Lớp có nhiều em gia đình thuần nông, gia cảnh nghèo khó nên nhiều em chưa bao giờ được cha mẹ tổ chức sinh nhật, chưa bao giờ được nhận một món quà mang ý nghĩa sâu sắc. Vì vậy, khi được cả lớp tổ chức sinh nhật, nhiều em rất xúc động. 16
  20. Du lịch Đà Nẵng Tổ chức ngày đàn ông Sinh nhật tháng 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2