Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học Địa lí 11 THPT theo định hướng phát triển năng lực
lượt xem 6
download
Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học Địa lí 11 THPT theo định hướng phát triển năng lực" nhằm vận dụng lí luận và thực tiễn của dạy học trải nghiệm môn Địa lí, thiết kế một số hoạt động trải nghiệm trong dạy học trên lớp môn Địa lí lớp 11 THPT theo định hướng phát triển năng lực nhằm phát triển và hoàn thiện kiến thức, kĩ năng, thái độ cho học sinh đáp ứng đổi mới giáo dục và thực tiễn cuộc sống trong thời kì hội nhập thế giới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học Địa lí 11 THPT theo định hướng phát triển năng lực
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐC Đối chứng SGK Sách giáo khoa GV Giáo viên HS Học sinh HĐTN Hoạt động trải nghiệm KH XH Khoa học xã hội KVH Khu vực hóa TCH Toàn cầu hóa THPT Trung học phổ thông TN Thực nghiệm NCKH Nghiên cứu khoa học KN Kĩ năng GQVĐ Giải quyết vấn đề TN Trải nghiệm
- PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Phát triển năng lực của học sinh là một trong những mục tiêu quan trọng mà nền giáo dục đang đặt ra. Để đạt được mục tiêu đó, cần đổi mới phương pháp giảng dạy, từ giảng dạy theo phương pháp truyền thống đến những phương pháp mới nhằm nâng cao vai trò của người học, phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh. Thực tế giáo dục của nhiều nước đã chứng minh giáo dục muốn phát triển tốt năng lực người học thì giáo dục cần coi trọng xây dựng và thực hiện các hoạt động trải nghiệm đa dạng cho đối tượng người học. HĐTN được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như hoạt động câu lạc bộ, tổ chức trò chơi, diễn đàn, sân khấu tương tác, tham quan dã ngoại, các hội thi, hoạt động giao lưu, hoạt động nhân đạo, hoạt động tình nguyện, hoạt động cộng đồng, sinh hoạt tập thể, lao động công ích, sân khấu hóa (kịch, thơ, hát, múa rối, tiểu phẩm, kịch tham gia,...), thể dục thể thao, tổ chức các ngày hội,... Mỗi hình thức hoạt động trên đều mang ý nghĩa giáo dục nhất định. Đặc biệt qua các hoạt động trải nghiệm học sinh có cơ hội thể hiện bản thân, phát huy các năng lực vốn có và hình thành phát triển các năng lực mới. Hơn thế HĐTN đưa học sinh đến những miền tri thức mới mà ở đó học sinh là chủ thể của các kiến thức, học sinh không chỉ hiểu mà còn biết vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống bằng chính các năng lực của bản thân và năng lực tập thể, năng lực nhóm khi các em có điều kiện hợp tác với nhau. Thế giới thật rộng lớn và ngày càng đa dạng. Nhưng nếu người học chỉ đọc, nghe và nói thì mới chỉ đang nhìn ngắm thế giới mà chưa phải là một phần của thế giới. Trải nghiệm bằng nhiều giác quan, ở nhiều góc độ, bằng cách hóa thân, bằng cách sống thử trong các phần khác nhau của thế giới dù chỉ là trong không gian tạo dựng thì vẫn mang lại cho người học những cảm xúc thực và lắng đọng. Mỗi môn học trong nhà trường phổ thông đều có nhiều cơ hội khác nhau cho HS trải nghiệm. Địa lý là một môn học về các vùng đất mà ở đó yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa hòa quyện với nhau tạo nên các đặc trưng và sức hấp dẫn riêng của môn học. Đặc biệt chương trình địa lí 11 với đặc trưng là những nội dung và kiến thức về địa lí tự nhiên và kinh tế xã hội thế giới và khu vực, sẽ rất thuận lợi trong việc áp dụng các hoạt động trải nghiệm. Những tiết học địa lí giàu tính trải nghiệm thì đều lấy được nhiều ấn tượng, nhiều xúc cảm của người học, từ đó hình hành ở người học mong muốn tìm tòi, khám phá và thấy yêu nhiều hơn các vùng đất trên thế giới. Thế giới quan, nhân sinh quan, kĩ năng sống, năng lực và phẩm chất của người học theo đó mà hoàn thiện hơn. Lứa tuổi học sinh lớp 11, là lứa tuổi rất mong được tìm tòi, khám phá, trải nghiệm các vùng đất trên thế giới. Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, học sinh được lực chọn môn học. Đây thực sự là một thách thức cho các thầy cô dạy Địa lí khi mà học sinh
- sẽ cân nhắc môn học tự chọn có hay không môn Địa lí. Vì vậy để tạo nên sức hút cho bộ môn thì mỗi thầy cô dạy Địa lí đều cần ý thức được phải đổi mới phương pháp dạy học, hình thức dạy học như một nhiệm vụ sống còn. Theo cách đó xây dựng và thiết kế các HĐTN trong nhiều tiết học là một đổi mới bắt buộc và tất yếu để môn địa lí thực sự được HS lựa chọn học nhiều hơn. Tuy vậy do HĐTN ngoài thực địa khó thực hiện thường xuyên vì nhiều nguyên nhân nên cơ hội TN của HS ít. TN ngay trong các tiết học trong không gian trường học là giải pháp tăng cơ hội TN cho học sinh, đồng thời TN trên lớp cũng khiến cho môn học gần gũi với thực tiễn hơn, khiến cho các giờ học hấp dẫn, thu hút hơn. Vì vậy, từ thực tiễn hiệu quả của phương pháp này, tôi đã mạnh dạn đề xuất sáng kiến: “ Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học địa lí 11 THPT theo định hướng phát triển năng lực”. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Trên cơ sở vận dụng lí luận và thực tiễn của dạy học trải nghiệm môn Địa lí, thiết kế một số hoạt động trải nghiệm trong dạy học trên lớp môn Địa lí lớp 11 THPT theo định hướng phát triển năng lực nhằm phát triển và hoàn thiện kiến thức, kĩ năng, thái độ cho học sinh đáp ứng đổi mới giáo dục và thực tiễn cuộc sống trong thời kì hội nhập thế giới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Tổ chức dạy học trải nghiệm môn Địa lí lớp 11. Phạm vi nghiên cứu: + Nội dung: Nghiên cứu Tổ chức dạy học trải nghiệm môn Địa lí lớp 11. + Thời gian: đề tài được thực hiện từ tháng 9 năm 2021 tháng 3 năm 2022. Không gian nghiên cứu: 3 trường THPT trên địa bàn thành phố Vinh – tỉnh Nghệ An: trường THPT chuyên Phan Bội Châu, trường THPT Lê Viết Thuật, trường THPT Herman Gmeiner. 4. Tính mới và ưu điểm nổi bật của đề tài Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về dạy học trải nghiệm môn Địa lí lớp 11 THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Đề xuất quy trình thiết kế hoạt động trải nghiệm Địa lí. Thiết kế một số hoạt động trải nghiệm Địa lí lớp 11 THPT. Thực nghiệm sư phạm và đánh giá kết quả thực nghiệm. 5. Đóng góp của đề tài: Kế thừa và làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn về việc đổi mới giáo dục và phương pháp giảng dạy, trong đó có hoạt động trải nghiệm.
- Làm sáng tỏ cơ sở thực tiễn của dạy học hoạt động sáng tạo môn Địa lí nói chung và Địa lí lớp 11 nói riêng. Đề xuất một số hoạt động trải nghiệm trong dạy học trên lớp môn Địa lí lớp 11 nhằm phát triển tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh. 6. Cấu trúc đề tài Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung đề tài được chia thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc tổ chức một số hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học địa lí lớp 11 THPT theo định hướng phát triển năng lực. Chương 2: Thiết kế và tổ chức một số hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học môn địa lí lớp theo định hướng phát triển năng. Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
- PHẦN 2: NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ LỚP 11 THPT THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC 1.1. Cơ sở lí luận của việc tổ chức hoạt động trải nghiệm theo định hướng phát triển năng lực 1.1.1. Một số khái niệm Dạy học: Các nhà nghiên cứu giáo dục cho rằng: “Dạy học là toàn bộ các thao tác có mục đích nhằm chuyển các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được hoặc cộng đồng đã đạt được vào bên trong một con người”, một số khác dựa trên quan điểm phát triển, nhất là phát triển về khoa học và công nghệ cho rằng “Dạy học là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức và có định hướng giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết được các bài toán thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi người học”. Trải nghiệm: Theo quan điểm của triết học, sự trải nghiệm được hiểu là kết quả của sự tương tác giữa con người với thế giới khách quan. Sự tương tác này bao gồm cả hình thức và kết quả các hoạt động thực tiễn trong xã hội, bao gồm cả kỹ thuật và kỹ năng, cả những nguyên tắc hoạt động và phát triển thế giới khách quan. Nhà triết học vĩ đại người Nga Solovyev V.S. quan niệm rằng trải nghiệm là kiến thức kinh nghiệm thực tế; là thể thống nhất bao gồm kiến thức và kỹ năng. Trải nghiệm là kết quả của sự tương tác giữa con người và thế giới, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hoạt động giáo dục trải nghiệm: là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình. Muốn vậy thì người dạy cần sử dụng nhiều phương pháp trong đó người dạy khuyến khích người học tham gia trải nghiệm thực tế, sau đó phản ánh, tổng kết lại để tăng cường hiểu biết, phát triển kỹ năng, định hình các giá trị sống và phát triển tiềm năng bản thân, tiến tới đóng góp tích cực cho cộng đồng và xã hội. Năng lực: là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó” như năng lực tư duy, năng lực tài chính hoặc là
- “phẩm chất tâm sinh lý và trình độ chuyên môn tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao như năng lực chuyên môn, năng lực lãnh đạo.Theo cách hiểu khác, Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả tốt. Năng lực vừa là tiền đề, vừa là kết quả của hoạt động. Năng lực vừa là điều kiện cho hoạt động đạt kết quả nhưng đồng thời năng lực cũng phát triển ngay trong chính hoạt động ấy (kinh nghiệm, trải nghiệm). Theo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (Bộ giáo dục và đào tạo ngày 27/07/2017), Năng lực là thuộc tính độc đáo của cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể. Như vậy có thể hiểu: Năng lực của học sinh là khả năng làm chủ kiến thức, kĩ năng, thái độ phù hợp với lứa tuổi và vận hành chúng một cách hợp lí vào việc thực hiện thành công nhiệm vụ học tập, giải quyết hiệu quả các vấn đề đặt ra cho chính các em trong cuộc sống. 1.1.2. Đặc trưng của học qua hoạt động trải nghiệm trong trường học Nội dung học trong hoạt động trải nghiệm rất đa dạng và tổng hợp kiến thức, kĩ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực học tập và giáo dục như: giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục kĩ năng sống, giáo dục giá trị sống, giáo dục thẩm mĩ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động, giáo dục an toàn giao thông, giáo dục môi trường, giáo dục phòng chồng ma túy, giáo dục phòng chống HIV/AIDS và tệ nạn xã hội, giáo dục các phẩm chất người lao động, nhà nghiên cứu... Điều này giúp cho các nội dung giáo dục thiết thực hơn, gần gũi hơn với cuộc sống, đáp ứng được nhu cầu hoạt động của HS, giúp các em vận dụng vào trong thực tiên cuộc sông một cách dễ dàng, thuận lợi hơn. Hình thức học qua hoạt động trải nghiệm rất đa dạng: hoạt động trải nghiệm được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như trò chơi, hội thi, diễn đàn, giao lưu, du lịch, sân khấu hóa (kịch, thơ, hát, tiểu phẩm, kịch tham gia...), thể dục thể thao. câu lạc bộ, tổ chức các ngày hội, các công trình nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Mỗi một hình thức hoạt động trên đều tiềm tàng trong nó những khả năng giáo dục nhất định. Nhờ các hình thức tổ chức đa dạng, phong phú mà việc giáo dục học sinh được thực hiện một cách tự nhiên, sinh động, nhẹ nhàng, hấp dẫn, không gò bó và khô cứng, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý cũng như nhu cầu, nguyện vọng của học sinh. Trong quá trình thiết kế, tổ chức, đánh giá các hoạt động trải nghiệm, cả giáo viên lần học sinh đều có cơ hội thể hiện sự sáng tạo của mình làm tăng thêm tính hấp dẫn, độc đáo của các hình thức tổ chức hoạt động. Học qua trải nghiệm là quá trình học tập tích cực và hiệu quả: hoạt động trải nghiệm tạo cơ hội cho học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác và
- sáng tạo của bản thân học sinh. Nó có khả năng huy động sự tham gia tích cực của học sinh vào tất cả các khâu của quá trình hoạt động: từ thiết kế hoạt động đến chuẩn bị, thực hiện và đánh giá kết quả hoạt động phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và khả năng của bản thân; tạo cơ cho các em được trải nghiệm, được bày tỏ quan điểm, ý tưởng; được đánh giá và lựa chọn ý tưởng hoạt động, được thể hiện, tự khẳng định bản thân, được tự đánh giá và đánh giá kết quả hoạt động của bản thân. của nhóm mình và của bạn bè... Từ đó hình thành và phát triển cho các em những giá trị sống và các năng lực cần thiết. 1.1.3. Vai trò của giáo viên dạy Học tập qua trải nghiệm Vai trò của người dạy Học tập qua trải nghiệm là một quá trình hàm chứa nhiều mối liên hệ phức tạp, gồm sự cân bằng chú ý của người học đối với vấn đề chuyên môn, vừa cân bằng được khả năng phản tỉnh về ý nghĩa sâu xa của các quan niệm với kỹ năng áp dụng chúng. Angela Passarelli và Garima Sharma, trường đại học Case Western Reserve University đã nghiên cứu ra một mô hình 4 chức năng mà một nhà giáo dục cần thực hiện, đó là: Người hỗ trợ, Chuyên gia môn học, Người thiết lập và đánh giá tiêu chuẩn, Người huấn luyện viên. Vai trò người hỗ trợ: Người dạy giúp người học bám sát kinh nghiệm cá nhân của họ và tự phản tỉnh. Họ sử dụng một phong cách quyết đoán nhưng thân thiện, ấm áp để lôi cuốn sự yêu thích của người học, động lực bên trong và kiến thức bản thân bằng hội thoại nhóm nhỏ, tạo ra mối quan hệ cá nhân với học sinh.Vai trò chuyên gia bộ môn: Trong vai trò này, người dạy giúp người học tổ chức và kết nối những phản ánh của họ về kiến thức dựa trên các vấn đề của môn học. Phong cách của người dạy ở đây là có thẩm quyền, phản ánh. Người dạy dạy bằng ví dụ, làm mẫu và khuyến khích người học tư duy phản biện khi họ tổ chức và phân tích một cách hệ thống kiến thức môn học. Các kiến thức này được truyền thông qua bài giảng và sách giáo khoa. Vai trò Thiết lập và đánh giá tiêu chuẩn: người dạy đóng vai trò là người thiết lập và đánh giá tiêu chuẩn nên người dạy giúp người học nắm vững được kiến thức và kỹ năng để đáp ứng các yêu cầu học. Họ sử dụng một phong cách định hướng kết quả mục tiêu, tạo ra các hoạt động cho người học để đánh giá việc học. Vai trò Huấn luyện viên: Trong vai trò là huấn luyện viên, người dạy giúp người học áp dụng kiến thức để đạt được các mục tiêu của mình. Họ sử dụng phong cách khuyến khích, hợp tác, thường làm việc 11 với từng cá nhân để giúp họ học từ những trải nghiệm trong ngữ cảnh đời sống. Họ hỗ trợ người học trong việc lập ra các kế hoạch phát triển cá nhân và cung cấp các cách thức nhận phải hồi từ phần vừa thực hiện. Vì vậy trong dạy học qua trải nghiệm cần có sự thay đổi của giáo viên. bản thân mỗi giáo viên phải thường xuyên học tập, nâng cao trình độ, có vốn hiểu biết và kỹ năng giải quyết các thắc mắc của học sinh này sinh trong quá trình học tập thực tế. 1.1.4.Hệ thống các năng lực có thể hình thành và phát triển cho HS qua tổ
- chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học Địa lí 11 Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể chính thức vừa được Ban Chỉ đạo đổi mới chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông thông qua ngày 28/7. Những năng lực chung được tất cả các môn học và hoạt động giáo dục góp phần hình thành, phát triển: Năng lực tự chủ và tự học: Tự lực; Tự khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu chính đáng; Tự kiểm soát tình cảm, thái độ, hành vi của mình; Tự định hướng; Tự học, tự hoàn thiện. Năng lực giao tiếp và hợp tác: Xác định mục đích, nội dung, phương tiện và thái độ giao tiếp; Thiết lập, phát triển các quan hệ xã hội, điều chỉnh và hóa giải các mâu thuẫn; Xác định mục đích và phương thức hợp tác; Xác định trách nhiệm và hoạt động của bản thân; Xác định nhu cầu và khả năng của người hợp tác; Tổ chức và thuyết phục người khác; Đánh giá hoạt động hợp tác; Hội nhập quốc tế. Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo: Nhận ra ý tưởng mới; Phát hiện và làm rõ vấn đề; Hình thành và triển khai ý tưởng mới; Đề xuất, lựa chọn giải pháp; Thực hiện và đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề; Tư duy độc lập. Những năng lực chuyên môn được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học, hoạt động giáo dục nhất định. Đó là: Năng lực ngôn ngữ: Sử dụng Tiếng Việt; Sử dụng ngoại ngữ. Năng lực tính toán: Hiểu biết kiến thức toán học phổ thông cơ bản; Biết cách vận dụng các thao tác tư duy, suy luận, tính toán, ước lượng, sử dụng các công cụ tính toán và dụng cụ đo,…; đọc hiểu, diễn giải, phân tích, đánh giá tình huống có ý nghĩa toán học. Năng lực tìm hiểu tự nhiên: Hiểu biết kiến thức khoa học; Tìm tòi và khám phá thế giới tự nhiên; Vận dụng kiến thức vào thực tiễn, ứng xử với tự nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Năng lực tìm hiểu xã hội: Nắm được những tri thức cơ bản về đối tượng của các khoa học xã hội; Hiểu và vận dụng được những cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu cơ bản của khoa học xã hội; Nắm được những tri thức cơ bản về xã hội loài người; Vận dụng được những tri thức về xã hội và văn hóa vào cuộc sống. Năng lực Công nghệ: Thiết kế; Sử dụng; Giao tiếp; Đánh giá. Năng lực Tin học: Sử dụng và quản lý các phương tiện, công cụ, các hệ thống tự động hóa của công nghệ thông tin và truyền thông; Hiểu biết và ứng xử phù hợp chuẩn mực đạo đức, văn hóa và pháp luật trong xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức; Nhận biết và giải quyết vấn đề trong môi trường xã hội
- và nền kinh tế tri thức; Học tập, tự học với sự hỗ trợ của các hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông; Giao tiếp, hòa nhập, hợp tác phù hợp với thời đại xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức. Năng lực thẩm mỹ: Nhận biết các yếu tố thẩm mỹ (cái đẹp, cái bi, cái hài, cái chân, cái thiện, cái cao cả); Phân tích, đánh giá các yếu tố thẩm mỹ; Tái hiện, sáng tạo và ứng dụng các yếu tố thẩm mỹ. Năng lực thể chất: Sống thích ứng và hài hòa với môi trường; Nhận biết và có các kỹ năng vận động cơ bản trong cuộc sống; Nhận biết và hình thành các tố chất thể lực cơ bản trong cuộc sống; Nhận biết và tham gia hoạt động thể dục thể thao; Đánh giá hoạt động vận động. Những năng lực đặc thù của bộ môn Địa lí cần chú ý trong quá trình thiết kế các HĐTN gồm: Năng lực nhận thức khoa học Địa lí: Nhận thức thế giới theo quan điểm không gian và giải thích các hiện tượng, quá trình Địa lí. Năng lực tìm hiểu Địa Lí: Sử dụng công cụ Địa Lí; Tổ chức học tập ở thực địa; Khai thác internet. Vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học: Cập nhật thông tin và liên hệ thực tế; Thực hiện chủ đề học tập; Vận dụng tri thức để giải quyết các vấn đề ngoài thực tế. Vì vậy hoạt động trải nghiệm trong dạy học ở các trường phổ thông được xây dựng nhằm đáp ứng sự hình thành hệ thống các năng lực cốt lõi trên cho học sinh. 1.1.5. Một số hình thức, phương pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học ở nhà trường phổ thông Hoạt động trải nghiệm sáng tạo được tổ chức dưới nhiều khác nhau như hoạt động câu lạc bộ, tổ chức trò chơi, diễn đàn, sân khấu tương tác, tham quan dã ngoại, các hội thi, các hoạt động giao lưu, hoạt động nhân đạo, hoạt động tình nguyện, hoạt động cộng đồng, sinh hoạt tập thể, lao động công ích, sân khấu hóa như: Kịch, thơ, hát, múa rối, tiểu phẩm, kịch tham gia,… thể dục thể thao, tổ chức các ngày hội… Sau đây là một số hình thức tổ chức có điều kiện triển khai và phù hợp với dạy học Địa lí trong không gian lớp học: Trò chơi là là hình thức tổ chức các hoạt động vui chơi với nội dung kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có tác dụng giáo dục "chơi mà học, học mà chơi". Trò chơi còn là một loại hình hoạt động giải trí, thư giãn; là món ăn tinh thần nhiều bổ ích và không thể thiếu được trong cuộc sống con người nói chung, đối với học sinh nói riêng. Trò chơi có thể được sử dụng trong nhiều tình huống khác nhau của HĐTN như làm quen, khởi động, dẫn nhập vào nội dung học tập, cung cấp
- và tiếp nhận tri thức; đánh giá kết quả, rèn luyện các kĩ năng và củng cố những tri thức đã được tiếp nhận,... Trò chơi giúp phát huy tính sáng tạo, hấp dẫn và gây hứng thú cho học sinh; giúp học sinh dễ tiếp thu kiến thức mới; giúp chuyển tải nhiều tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau; tạo được bầu không khí thân thiện; tạo cho các em tác phong nhanh nhẹn... Sân khấu tương tác (hay sân khấu diễn đàn) là một hình thức nghệ thuật tương tác dựa trên hoạt động diễn kịch, trong đó vở kịch chỉ có phần mở đầu đưa ra tình huống, phần còn lại được sáng tạo bởi những người tham gia. Phần trình diễn chính là một cuộc chia sẻ, thảo luận giữa những người thực hiện và khán giả, trong đó đề cao tính tương tác hay sự tham gia của khán giả. Mục đích của hoạt động này là nhằm tăng cường nhận thức, thúc đẩy để học sinh đưa ra quan điểm, suy nghĩ và cách xử lý tình huống thực tế gặp phải trong bất kì nội dung nào của cuộc sống. Thông qua sân khấu tương tác, sự tham gia của học sinh được tăng cường và thúc đẩy, tạo cơ hội cho học sinh rèn luyện những kĩ năng như: kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, kĩ năng phát hiện vấn đề, kĩ năng phân tích vấn đề, khả năng sáng tạo khi giải quyết tình huống và khả năng ứng phó với những thay đổi của cuộc sống,... Diễn đàn là một hình thức tổ chức hoạt động được sử dụng để thúc đẩy sự tham gia của học sinh thông qua việc các em trực tiếp, chủ động bày tỏ ý kiến của mình với thầy cô giáo, cha mẹ, đông đảo bạn bè, nhà trường, và những người lớn khác có liên quan.Thông qua diễn đàn, học sinh có cơ hội bày tỏ suy nghĩ, ý kiến, quan niệm hay những câu hỏi, đề xuất của mình về một vấn đề nào đó có liên quan đến nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng của các em. Đây cũng là dịp để các em biết lắng nghe ý kiến, học tập lẫn nhau. Vì vậy, diễn đàn là một trong những hình thức tổ chức mang lại hiệu quả giáo dục thiết thực như một sân chơi tạo điều kiện để học sinh được biểu đạt ý kiến của mình một cách trực tiếp với đông đảo bạn bè và những người khác. Diễn đàn thường được tổ chức rất linh hoạt với những hình thức hoạt động cụ thể, phù hợp với từng lứa tuổi học sinh. Mục đích của việc tổ chức diễn đàn là để tạo môi trường, cơ hội cho học sinh được bày tỏ ý kiến về những vấn đề các em quan tâm, giúp các đưa ra những suy nghĩ và hành vi tích cực để khẳng định vai trò và tiếng nói của mình. Hội thi/cuộc thi là một trong những hình thức tổ chức hoạt động lôi cuốn, hấp dẫn học sinh và đạt hiệu quả cao trong việc tập hợp, giáo dục, rèn luyện và định hướng giá trị cho tuổi trẻ. Hội thi mang tính chất thi đua tích cực để vươn lên đạt được mục tiêu mong muốn thông qua việc tìm ra người/đội thắng cuộc. Mục đích tổ chức hội thi/cuộc thi nhằm lôi cuốn học sinh tham gia một cách chủ động, tích cực vào các hoạt động giáo dục của nhà trường; đáp ứng nhu cầu về vui chơi giải trí cho học sinh; thu hút tài năng và sự sáng tạo của học sinh; phát triển khả năng hoạt động tích cực và tương tác của học sinh, góp phần bồi dưỡng cho các em động cơ học tập tích cực, kích thích hứng thú trong
- quá trình nhận thức. Hội thi/cuộc thi có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: Thi vẽ, thi tiểu phẩm, thi thời trang, thi kể chuyện, thi chụp ảnh, thi viết, thi tìm hiểu, thi đố vui, thi giải ô chữ,, thi kể chuyện theo tranh, thi sáng tác bài hát, hội thi học tập, hội thi thời trang, hội thi h ọc sinh thanh lịch,... có nội dung giáo dục về một chủ đề nào đó. Chính vì vậy, tổ chức hội thi cho học sinh là một yêu cầu quan trọng, cần thiết của nhà trường, của giáo viên trong quá trình tổ chức HĐTN Nội dung của hội thi rất phong phú, bất cứ nội dung giáo dục nào cũng có thể được tổ chức dưới hình thức hội thi/cuộc thi. Điều quan trọng khi tổ chức hội thi là phải linh hoạt, sáng tạo khi tổ chức thực hiện, tránh máy móc thì cuộc thi mới hấp dẫn. Phương pháp tổ chức hoạt động sáng tạo trong dạy học phổ thông có nhiều phương pháp phù hợp để thiết kế các HĐTN ngay trong không gian lớp học. Trong đó có một số phương pháp phù hợp với mục tiêu và đối tượng của HĐTN trong môn Địa lí như: Phương pháp giải quyết vấn đề (GQVĐ): GQVĐ là một phương pháp giáo dục nhằm phát triển năng lực tư duy, sáng tạo trong việc GQVĐ của HS. Các em được đặt trong tình huống có vấn đề, thông qua việc GQVĐ giúp các em lĩnh hội tri thức, kĩ năng và phương pháp. Trong tổ chức HĐTN, phương pháp GQVĐ thường được vận dụng khi HS phân tích, xem xét và đề xuất những giải pháp trước một hiện tượng, sự việc nảy sinh trong quá trình hoạt động. Phương pháp GQVĐ có ý nghĩa quan trọng, phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS, giúp các em có cách nhìn toàn diện hơn trước các hiện tượng, sự việc nảy sinh trong hoạt động, cuộc sống hàng ngày. Để phương pháp này thành công thì vấn đề đưa ra phải sát với mục tiêu hoạt động, kích thích HS tích cực tìm tòi cách giải quyết. Đối với tập thể lớp, khi GQVĐ GV phải coi trọng nguyên tắc tôn trọng, bình đẳng, tránh gây ra căng thẳng không có lợi khi giáo dục HS. Sắm vai là phương pháp giáo dục giúp HS thực hành kĩ năng ứng xử, bày tỏ thái độ trong những tình huống tạo dựng, giả định hoặc trên cơ sở óc tưởng tượng và ý nghĩ sáng tạo của các em. Sắm vai thường không có kịch bản cho trước mà HS hoặc GV tự xây dựng trong quá trình hoạt động. Đây là phương pháp giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào cách ứng xử cụ thể mà các em quan sát được. Việc "diễn" không phải là phần quan trọng nhất của phương pháp này mà là xử lí tình huống khi diễn và thảo luận sau phần diễn đó. Mục đích của phương pháp trên không phải chỉ ra cái cần làm mà bắt đầu cho một cuộc thảo luận. Để bắt đầu cho một cuộc thảo luận thú vị người sắm vai nên làm một cái gì đó sai, hoặc phải thực hiện nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Nếu người sắm vai làm đúng mọi chuyện thì chẳng có gì để thảo luận. Sắm vai có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành và phát triển các KN giao tiếp cho HS. Thông qua sắm vai, HS được rèn luyện, thực hành những KN ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn, tạo điều kiện phát triển óc sáng tạo của các em, khích lệ thay đổi thái
- độ và hành vi theo hướng tích cực trước một vấn đề hay đối tượng nào đó về mặt tâm lý học, thông qua các hành vi, cá nhân nhận thức và giải quyết tốt hơn vấn đề của bản thân, vai trò lĩnh hội được trong quá trình sắm vai cho phép HS thích ứng với cuộc sống tốt hơn. Trong trò chơi cũng như trong cuộc sống, các em mong muốn có được một vai yêu thích, khi sắm một vai HS bước ra từ chính bản thân mình. Điều này trở thành phương tiện để thể hiện nỗi băn khoăn, mong muốn được chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, mối quan tâm,, sự do dự, ngập ngừng,... của chính các em. Thông qua các vai được sắm trong trò chơi, HS thể hiện các khía cạnh khác nhau trong tính cách của bản thân như: sự ưa thích, tình cảm, sự hiểu biết về nhân vật mà các em đang sắm vai đó và những người bạn đang chơi cùng với hành động của chúng là điều đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa nhiều mặt đối với HS. Trò chơi là tổ chức cho HS tìm hiểu một vấn đề hay thực hiện những hành động, việc làm hoặc hình thành thái độ thông qua một trò chơi nào đó. Đặc thù của trò chơi: Trò chơi không phải là thật mà là giả vờ như làm một cái gì đó nhưng mang tính chân thật (nhập các vai chơi một cách chân thật, thể hiện động tác, hành vi phù hợp…). Hơn nữa, đây là một hoạt động tự do, tự nguyện không thể gò ép hoặc bắt buộc chơi khi các em không thích, không đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của chúng. Trò chơi được giới hạn bởi không gian và thời gian, có qui tắc tổ chức (luật chơi do nội dung chơi quy định). Đặc thù này sẽ quy định quy mô, số lượng người chơi, điều kiện, vật chất, cũng như xác định tính chất, phương pháp hành động, tổ chức và điều khiển hành vi cũng như những mối quan hệ lẫn nhau của người chơi. Trò chơi là một hoạt động mang tính sáng tạo cao, thể hiện ở việc lựa chọn chủ đề chơi, phân vai tạo ra tình huống, hoàn cảnh chơi, sử dụng phương tiện thay thế trong các trò chơi sáng tạo, lựa chọn các phương thức hành động và phân chia tình huống chơi để giải quyết nhiệm vụ chơi trong những trò chơi có luật. Trò chơi là phương tiện giáo dục và phát triển toàn diện HS, giúp các em nâng cao hiểu biết về thế giới hiện thực xung quanh, kích thích lòng ham hiểu biết, trí thông minh, học cách giải quyết nhiệm vụ. Ngoài ra, trò chơi là phương tiện giáo dục phẩm chất nhân cách cho HS. Các phẩm chất nhân cách được hình thành thông qua chơi như tính hợp tác, tính kỷ luật, tự chủ, tích cực, độc lập, sáng tạo tính đồng đội, tính tập thể, sự quan tâm lo lắng đến người khác, thật thà, dũng cảm, kiên nhẫn,… Trò chơi còn là phương tiện giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể lực cho HS, hình thành các KN giao tiếp, KN xã hội... Trò chơi là một phương thức giải trí tích cực, hiệu quả, mang lại sự hồn nhiên, yêu đời, niềm vui, sự hứng khởi cho HS để các em tiếp tục học tập và rèn luyện tốt hơn. Về mặt tâm lý học, trong quá trình diễn ra trò chơi tất cả các thành viên của nhóm đều tham gia hết mình và từ đó các em sẽ được trải nghiệm, bởi vì mỗi cá nhân cũng như cả nhóm đang sống trong một tình huống khác với những gì các em đã sống trong cuộc sống thực.
- Làm việc theo nhóm nhỏ là phương pháp tổ chức dạy học giáo dục, trong đó, GV bố trí hoặc sắp xếp HS thành những nhóm nhỏ theo hướng tạo ra sự tương tác trực tiếp giữa các thành viên, từ đó HS trong nhóm trao đổi, giúp đỡ và cùng nhau phối hợp làm việc để hoàn thành nhiệm vụ chung của nhóm do GV giao cho. Làm việc nhóm có ý nghĩa rất lớn trong việc: Phát huy cao độ vai trò chủ thể, tính tự giác, tích cực, sáng tạo, năng động, tinh thần trách nhiệm của HS, tạo cơ hội cho các em tự thể hiện, tự khẳng định khả năng của mình và thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao. Giúp HS hình thành các KN xã hội và phẩm chất nhân cách cần thiết như: KN GQVĐ, tổ chức, quản lí, hợp tác, có trách nhiệm cao, tinh thần đồng đội, sự ủng hộ cá nhân và khuyến khích tinh thần học hỏi lẫn nhau, sự quan tâm và mối quan hệ khăng khít, xác định giá trị của sự đa dạng và tính gắn kết. Thể hiện mối quan hệ bình đẳng, dân chủ và nhân văn: tạo điều kiện và cơ hội bình đẳng cho mỗi cá nhân người học được khẳng định và phát triển. Nhóm làm việc sẽ khuyến khích HS giao tiếp với nhau và như vậy sẽ giúp cho những em ngại ngùng, thiếu tự tin có nhiều cơ hội hòa nhập với lớp học,... Để phương pháp làm việc nhóm thực sự phát huy hiệu quả, GV cần lưu ý một số vấn đề sau: 1) Thiết kế các nhiệm vụ đòi hỏi sự phụ thuộc lẫn nhau 2) Tạo ra những nhiệm vụ phù hợp với KN và khả năng làm việc nhóm của HS 3) Phân công nhiệm vụ công bằng giữa các nhóm và các thành viên. 4) Đảm bảo trách nhiệm của cá nhân 5) Sử dụng nhiều cách sắp xếp nhóm làm việc khác nhau 6) Hướng dẫn HS phương pháp, KN làm việc nhóm (KNLVN) Tùy theo tính chất và mục đích của từng hoạt động cụ thể cũng như điều kiện, khả năng của các em mà GV có thể lựa chọn một hay nhiều phương pháp phù hợp. Điều quan trọng là phương pháp được lựa chọn cần phát huy cao độ tích cực, sáng tạo, vai trò chủ động, của HS và khai thác tối đa kinh nghiệm và kiến thức các em đã có. Hoạt động TN hướng đến những phẩm chất và năng lực chung như đã được đưa ra trong Dự thảo Chương trình mới, ngoài ra HĐTN còn có ưu thế trong việc thúc đẩy hình thành ở người học các năng lực đặc thù sau: + Năng lực hoạt động và tổ chức hoạt động; + Năng lực tổ chức và quản lý cuộc sống; + Năng lực tự nhận thức và tích cực hóa bản thân; + Năng lực định hướng nghề nghiệp;
- + Năng lực khám phá và sáng tạo. Chính vì vậy các hoạt động TN khá đa dạng và khó xác định mức độ chung, nhất là khi nó lại luôn gắn với cảm xúc lĩnh vực mang tính chủ quan cao, cũng là cơ sở quan trọng của sự hình thành sáng tạo và phân hóa. Hoạt động trải nghiệm là hoạt động giữ vai trò rất quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông mới. Hoạt động này giúp cho học sinh có nhiều cơ hội trải nghiệm để vận dụng những kiến thức học được vào thực tiễn, vào các tình huống trong cuộc sống, từ đó hình thành năng lực thực tiễn cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của bản thân. 1.2 Cơ sở thực tiễn của việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm trong dạy học Địa lí 11 THPT 1.2.1 Đặc điểm tâm sinh lí và năng lực hoạt động của học sinh THPT Học sinh THPT còn gọi là tuổi thanh niên, là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Tuổi thanh niên được tính từ 15 đến 25 tuổi, được chia làm 2 thời kì: Thời kì từ 1518 tuổi: gọi là tuổi đầu thanh niên; Thời kì từ 1825 tuổi: giai đoạn hai của tuổi thanh niên (thanh niên sinh viên). Yếu tố ảnh hưởng tới tâm sinh lí và năng lực hoạt động của HS THPT như sự phát triển thể chất, trí tuệ và tác động của hoàn cảnh sống. Hoạt động trí tuệ của các em có thể phát triển tới mức cao. Khả năng hưng phấn và ức chế ở vỏ não tăng lên rõ rệt có thể hình thành mối liên hệ thần kinh tạm thời phức tạp hơn. Những phẩm chất ý chí, tư duy ngôn ngữ có điều kiện phát triển mạnh. Ở tuổi này, các em có thể tham gia tích cực, chủ động, sáng tạo vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ: Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển trí tuệ. Do cơ thể các em đã được hoàn thiện, đặc biệt là hệ thần kinh đã phát triển mạnh tạo thuận lợi cho sự phát triển các năng lực trí tuệ. Tri giác và cảm giác của các em đã đạt tới mức độ của người lớn. Quá trình quan sát gắn liền với tư duy và ngôn ngữ. Khi thiết kế các hoạt động trải nghiệm GV cần tính đến đặc điểm này của HS để tạo nên các tình hướng kích thích sự tư duy, sáng tạo của HS. Tuy nhiên, sự quan sát ở các em thường chưa tập trung cao vào một nhiệm vụ nhất định, trong khi quan sát một đối tượng vẫn còn mang tính đại khái, phiến diện và do vậy các em thường đưa ra kết luận vội vàng không có cơ sở thực tế. Do đó GV cần luôn giám sát học sinh khi thực hiện các nhiệm vụ trải nghiệm để định hướng, uốn nắn kịp thời. Trí nhớ của học sinh THPT cũng phát triển rõ rệt. Trí nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ. Các em đã biết sắp xếp lại tài liệu học tập theo một trật tự mới, có biện pháp ghi nhớ một cách khoa học. Các em đã có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu
- tượng một cách độc lập và sáng tạo hơn. Hoạt động tư duy của học sinh THPT phát triển mạnh.. Năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa phát triển cao giúp cho các em có thể lĩnh hội mọi khái niệm phức tạp và trừu tượng. Các em thích tìm hiểu, thích khái quát, những quy luật và nguyên tắc chung của các hiện tượng hàng ngày, của những tri thức phải tiếp thu… Các tình huống, các nhiệm vụ trải nghiệm cần tạo cơ hội để học sinh hát huy được các khả năng này. Năng lực tư duy phát triển đã góp phần nảy sinh hiện tượng tâm lý mới đó là tính hoài nghi khoa học. Trước một vấn đề các em thường đặt những câu hỏi nghi vấn hay dùng lối phản đề để nhận thức chân lý một cách sâu sắc hơn. HS rất hứng thú nếu các nghiệm vụ trải nghiệm cho học sinh các cơ hội đưa ra nhiều hương án giải quyết khác nhau. Từ đó phát triển tư duy phản biện, tranh luận để tìm ra chân lý. Nhìn chung tư duy của học sinh THPT phát triển mạnh, hoạt động trí tuệ linh hoạt và nhạy bén hơn. Các em có khả năng phán đoán và giải quyết vấn đề một cách rất nhanh. Tuy nhiên, ở một số học sinh vẫn còn nhược điểm là chưa phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng theo cảm tính. Vì vậy giáo viên cần hướng dẫn, giúp đỡ các em tư duy một cách tích cực độc lập để phân tích đánh giá sự việc và tự rút ra kết luận cuối cùng. Việc phát triển khả năng nhận thức của học sinh trong dạy học cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên. Điều kiện sống và hoạt động: Trong gia đình, các em đã có nhiều quyền lợi và trách nhiệm như người lớn. Các em cũng thấy được quyền hạn và trách nhiệm của bản thân đối với gia đình. Các em bắt đầu quan tâm chú ý đến lối sống sinh hoạt, nề nếp và điều kiện kinh tế của gia đình. Có thể nói rằng cuộc sống của các em trong độ tuổi này là vừa học tập vừa lao động; Ở nhà trường, học tập vẫn là hoạt động chính nhưng tính chất và mức độ thì phức tạp hơn hẳn so với tuổi thiếu niên. Đòi hỏi các em phải tự giác, tích cực độc lập hơn, biết cách vận dụng tri thức một cách sáng tạo. Nhà trường lúc này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nội dung học tập không chỉ nhằm trang bị, hoàn chỉnh tri thức mà còn có tác dụng hình thành thế giới quan và nhân sinh quan cho các em. Với các thay đổi trong điều kiện sống như trên, học sinh THPT có nhiều điều kiện và thuận lợi để làm chủ trong các hoạt động học, mong muốn được trải nghiệm trở thành nhu cầu tất yếu để khẳng định bản thân. Vì vậy tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho học sinh THPT sẽ tạo động lực học tập tốt và phát huy được sức sáng tạo trong các hoạt động học. Tuy nhiên GV cần lưu ý sự hưng phấn và nóng vội có thể dẫn đến những hạn chế trong kết quả của các hoạt động học. Hoạt động học tập vẫn là hoạt động chủ đạo đối với học sinh THPT nhưng yêu cầu cao hơn nhiều đối với tính tích cực và độc lập trí tuệ của các em. Muốn lĩnh hội được sâu sắc các môn học, các em phải có một trình độ tư duy khái niệm, tư duy khái quát phát triển đủ cao. Những khó khăn trở ngại mà các em gặp thường gắn với sự thiếu kĩ năng học tập trong những điều kiện mới chứ không phải với sự không muốn học như nhiều người nghĩ. Hứng thú học
- tập của các em ở lứa tuổi này gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp nên hứng thú mang tính đa dạng, sâu sắc và bền vững hơn.Thái độ của các em đối với việc học tập cũng có những chuyển biến rõ rệt. Học sinh đã lớn, kinh nghiệm của các em đã được khái quát, các em ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời tự lập. Thái độ có ý thức đối với việc học tập của các em được tăng lên mạnh mẽ. Học tập mang ý nghĩa sống còn trực tiếp vì các em đã ý thức rõ ràng được rằng: cái vốn những tri thức, kĩ năng và kĩ xảo hiện có, kĩ năng độc lập tiếp thu tri thức được hình thành trong nhà trường phổ thông là điều kiện cần thiết để tham gia có hiệu quả vào cuộc sống lao động của xã hội. Điều này đã làm cho học sinh THPT bắt đầu đánh giá hoạt động chủ yếu theo quan điểm tương lai của mình. Vì vậy các hoạt động học trang bị được nhiều kĩ năng sống cho học sinh và hơn hết tạo điều kiện cho học sinh hoàn thiện các kĩ năng làm việc và kĩ năng sống sẽ lôi cuốn các em tham gia thực sự. Tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học rất hù hợp để tiế cận và hát triển các kĩ năng cơ bản cho tương lai nghề nghiệp của HS. Ngoài việc nắm vững các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực hoạt động của HS THPT thì GV cần nắm rõ các đặc điểm nhân cách chủ yếu của các em để thiết kế, tổ chức HĐTN sao cho có hiệu quả tốt. Đặc điểm nhân cách của HS THPT bao gồm: Sự tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của học sinh THPT, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của lứa tuổi này. Biểu hiện của sự tự ý thức là nhu cầu tìm hiểu và tự đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình theo chuẩn mực đạo đức của xã hội, theo quan điểm về mục đích cuộc sống… Điều đó khiến các em quan tâm sâu sắc tới những phẩm chất nhân cách, đời sống tâm lý và năng lực riêng. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi hiện tại của mình mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội tương lai. Các em không chỉ chú ý đến vẻ bên ngoài mà còn đặc biệt chú trọng tới phẩm chất bên trong. Các em có khuynh hướng phân tích và đánh giá bản thân mình một cách độc lập dù có thể chưa chính xác khi đánh giá. Ý thức làm người lớn khiến các em có nhu cầu muốn thể hiện cá tính của mình một cách độc đáo, khẳng định bản thân, muốn người khác quan tâm, chú ý đến mình. Nhìn chung thanh niên mới lớn có thể tự đánh giá bản thân một cách sâu sắc nhưng đôi khi vẫn chưa đúng đắn nên các em vẫn cần sự giúp đỡ thêm của các thầy cô . Một mặt, thầy cô phải lắng nghe ý kiến của em các, mặt khác phải giúp các em hình thành được biểu tượng khách quan về nhân cách của mình nhằm giúp cho sự tự đánh giá của các em được đúng đắn hơn, tránh những lệch lạc, phiến diện trong tự đánh giá. Cần tổ chức hoạt động của tập thể cho các em có sự giúp đỡ, kiểm tra lẫn nhau để hoàn thiện nhân cách của bản thân. Sự hình thành thế giới quan là nét chủ yếu trong tâm lý thanh niên vì các em sắp bước vào cuộc sống xã hội, các em có nhu cầu tìm hiểu, khám phá để có quan điểm và cách nhìn về tự nhiên, xã hội, về các nguyên tắc và quy tắc ứng
- xử, những định hướng giá trị về con người. Các em quan tâm đến nhiều vấn đề về thế giới quan như: thói quen đạo đức, cái xấu cái đẹp, cái đúng cái sai, quan hệ giữa cá nhân với tập thể, giữa cống hiến với hưởng thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ trách nhiệm… Tuy nhiên vẫn có em chưa được giáo dục đầy đủ về thế giới quan, chịu ảnh hưởng của tư tưởng cũ như: ý thức tổ chức kỉ luật kém, thích có cuộc sống xa hoa, hưởng thụ hoặc sống thụ động, coi khinh lao động chân tay,… Nhìn chung, ở tuổi này các em đã có ý thức xây dựng lý tưởng sống cho mình, biết xây dựng hình ảnh con người lý tưởng gần với thực tế sinh hoạt hàng ngày. Các em có thể hiểu sâu sắc và tinh tế những khái niệm, biết xử sự một cách đúng đắn trong những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau nhưng có khi các em lại thiếu tin tưởng vào những hành vi đó. Vì vậy, giáo viên phải khéo léo, tế nhị khi lồng ghép giáo dục thế giới quan thông qua các HĐTN. Xu hướng nghề nghiệp: Thanh niên đã xuất hiện nhu cầu lựa chọn vị trí xã hội trong tương lai cho bản thân và các phương thức đạt tới vị trí xã hội ấy. Xu hướng nghề nghiệp có tác dụng thúc đẩy các mặt hoạt động và điều chỉnh hoạt động của các em. Càng cuối cấp học thì xu hướng nghề nghiệp càng được thể hiện rõ rệt và mang tính ổn định hơn. Nhiều em biết nhìn nhận mối quan hệ giữa những đặc điểm riêng về thể chất, về tâm lý và khả năng của mình với yêu cầu của nghề nghiệp. Tuy vậy, sự hiểu biết về yêu cầu nghề nghiệp của các em còn phiến diện, chưa đầy đủ, vì cậy công tác hướng nghiệp cho học sinh thông qua HĐTN rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Qua đó giúp cho học sinh lựa chọn nghề nghiệp sao cho phù hợp với hứng thú, năng lực và phù hợp với yêu cầu của xã hội. Hoạt động giao tiếp: Các em khao khát muốn có những quan hệ bình đẳng trong cuộc sống và có nhu cầu sống cuộc sống tự lập. Tính tự lập của các em thể hiện ở ba mặt: tự lập về hành vi, tự lập về đạo đức, giá trị tự lập và về tình cảm. Nhu cầu giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi trong tập thể phát triển mạnh. Trong tập thể, các em thấy được vị trí, trách nhiệm của mình và các em cũng cảm thấy mình cần cho tập thể, cho cộng đồng. Nhìn chung thanh niên mới lớn là thời kỳ đặc biệt quan trọng đối với cuộc đời con người. Đây là thời kì lứa tuổi phát triển một cách hài hòa, cân đối, là thời kì có sự biến đổi lớn về chất trong toàn bộ nhân cách để các em sẵn sàng bước vào cuộc sống tự lập. Do đó, giáo viên chúng ta phải nhận thức đầy đủ vị trí của lứa tuổi này để có nội dung, phương pháp giáo dục thích hợp nhằm đem lại hiệu quả tối ưu trong tổ chức các hoạt động sư phạm nói chung và trải nghiệm nói riêng. 12.2. Đặc điểm môn Địa lí 11, căn cứ để tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học trên lớp Hoạt động trải nghiệm dược thiết kế và tổ chức ngoài sự phù hợp với đối
- tượng người học và nội dung, hình thức tổ chức cần lấy căn cứ từ chương trình SGK địa lí 11 trên cơ sở GV nghiên cứu yêu cầu về mục tiêu và phương pháp của chương trình theo hướng dẫn của Bộ. * Mục tiêu: Học xong chương trình Địa lí 11 (chương trình chuẩn) học sinh đạt được: Về kiến thức: Hiểu và trình bày được một số đặc điểm của nền kinh tế thế giới đương đại và một số vấn đề đang được nhân loại quan tâm; Đặc điểm tự nhiên, dân cư, kinh tế xã hội của một số khu vực, quốc gia trên thế giới. Về kĩ năng: Củng cố và phát triển các kỹ năng nhận xét, phân tích, tổng hợp, so sánh các sự vật, hiện tượng địa lí, xây dựng biểu đồ, sử dụng và khai thác bản đồ, số liệu thống kê liên quan đến địa lí kinh tế xã hội thế giới, khu vực và một số quốc gia tiêu biểu; Thu thập, trình bày các thông tin địa lí về một số khu cực hay quốc gia tiêu biểu trên thế giới; Vận dụng kiến thức ở mức độ nhất định để giải thích các sự vật, hiện tượng địa lí đang diễn ra trên thế giới. Về thái độ, hành vi: Có ý chí vươn lên để đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội đất nước; Có thái độ đúng đắn trước hiện tượng kinh tế xã hội của một số quốc gia, khu vực; Quan tâm đến những vấn đề liên quan đến Địa lí như dân số, môi trường. * Cấu trúc chương trình SGK địa lí 11: Gồm 2 phần: phần 1 Khái quát chung về nền kinh tế xã hội thế giới; Phần 2 Địa lí khu vực và quốc gia.Trong phần 1 có 4 chủ đề: Sự tương phản về trình độ phát triển kinh tế xã hội của các nhóm nước; xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá; một số vấn đề mang tính toàn cầu một số vấn đề của châu lục và khu vực. Đây đều là các nội dung mang tính thời sự thu hút được sự chú ý của HS và kích thích được tư duy phản biện và kĩ năng đánh giá của HS về các vấn đề quốc tế. Phần 2 nội dung về tự nhiên, KT XH của một số nước tiêu biểu như Hoa Kỳ, EU, Nga, Nhật, Trung Quốc và Đông Nam Á. HS rất thích thú khi học phần này vì các em có điều kiện khám phá các vẻ đẹp thiên nhiên, con người, văn hóa và các đặc trưng về kinh tế của các nước và khu vực này. Tuy nhiên do đặc thù nội dung học liên quan đến các vùng đất xa xôi trên thế giới nên Hs có thể sưu tầm thông tin trên mạng nhưng không có điều kiện trải nghiệm thực tế. Điều này gây khó khan nhất định đến hình thức tổ chức các HĐTN cho HS. * Yêu cầu đối với GV khi thiết kế, tổ chức các hoạt động trải nghiệm cần: Bám sát Chuẩn kiến thức, kĩ năng để thiết kế bài giảng, với mục tiêu là đạt được các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ năng, dạy không quá tải và không quá lệ thuộc hoàn toàn vào SGK. Việc khai thác sâu kiến thức, kĩ năng phải phù hợp với khả năng tiếp thu của HS.
- Thiết kế, tổ chức, hướng dẫn HS thực hiện các hoạt động học tập với các hình thức đa dạng, phong phú, có sức hấp dẫn phù hợp với đặc trưng bài học, với đặc điểm và trình độ HS, với điều kiện cụ thể của lớp, trường và địa phương. Động viên, khuyến khích, tạo cơ hội và điều kiện cho HS được tham gia một cách tích cực, chủ động, sáng tạo vào quá trình khám phá, phát hiện, đề xuất và lĩnh hội kiến thức; chú ý khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng đã có của HS; tạo niềm vui, hứng khởi, nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập cho HS; giúp HS phát triển tối đa năng lực, tiềm năng của bản thân. Thiết kế và hướng dẫn HS thực hiện các dạng câu hỏi, bài tập phát triển tư duy và rèn luyện kĩ năng; hướng dẫn sử dụng các thiết bị dạy học; tổ chức có hiệu quả các giờ thực hành; hướng dẫn HS có thói quen vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lí, hiệu quả, linh hoạt, phù hợp với đặc trưng của cấp học, môn học; nội dung, tính chất của bài học; đặc điểm và trình độ HS; thời lượng dạy học và các điều kiện dạy học cụ thể của trường, địa phương. 1.2.3 Thực trạng tổ chức hoạt động trải nghiệm cho HS ở một số trường THPT tỉnh Nghệ An Việc tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học ngoài giờ môn Địa lí cho học sinh lớp 11 là rất cần thiết, phù hợp với chương trình giáo dục và được nhiều GV quan tâm. Về phía GV, các thầy cô đều cố gắng để tổ chức một số HĐTN ở từng phần của một số bài học địa lí 11 cho học sinh với các hình thức như cho HS đóng vai hướng dẫn viên du lịch, tổ chức diễn đàn, đóng hoạt cảnh về nét văn hóa một số nước, trình bày và thuyết trình một số sản phẩm học tập như làm Brochure, poster, clip, tập san về tự nhiên, kinh tế xã hội của thế giới và một số nước, khu vực... Một số trường đã tổ chức cho HS tham gia hưởng ứng phong trào thu gom rác trên bờ vịnh. Các em rất vui và tích cực với các hoạt động này. Qua đó HS được trải nghiệm thực trạng ô nhiễm môi trường biển và thể hiện hành động cụ thể để bảo vệ môi trường biển nơi mình đang sống. Tuy nhiên GV đều gặp khó khăn về khâu kinh phí cho các phương tiện, dụng cụ học tập cho một số hoạt động TN. Về phía học sinh, các hoạt động đều thu hút được sự tham gia nhiệt tình của HS và HS rất hào hứng, tích cực hưởng ứng các tình huống trải nghiệm. Tuy nhiên thời gian chuẩn bị cho các HĐTN chưa thực sự nhiều vì cùng lúc các em phải hoàn thành yêu cầu của nhiều môn học. Ở một số HĐTN chưa huy động được sự tham gia của số đông HS, nhiệm vụ học tập chỉ do một nhóm học
- sinh đầu tư để hoàn thành. Qua phiếu điều tra có thể khẳng định mong muốn được học thông qua trải nghiệm của HS là rất lớn. Các em rất muốn TN ngay trong các giờ học trên lớp ngoài các trải nghiệm ở thực tế. Do vậy nhiệm vụ biên soạn và thiết kế các giờ học địa lí theo hướng trải nghiệm của GV bước đầu đã tiếp cận được mong muốn đổi mới trong học tập của HS nhằm tạo nên không khí học tập mới, tích cực hơn và hiệu quả hơn. Như vậy ở địa bàn các trường phổ thông trên địa bàn tỉnh, nhiều trường đã sớm tiếp cận đổi mới giảng dạy và học tập qua HĐTN trong và ngoài không gian lớp học. GV viên các trường đã có điều kiện trao đổi, học tập kinh nghiệm thiết kế tổ chức các HĐTN với nhau. Tuy nhiên đối với chương trình địa lí 11 GV đang gặp khó khăn trong việc thiết kế, thực thi các HĐTN do đây là chương trình dạy học về thế giới nên nguồn tài liệu cũng như các kênh thông tin có độ tin cậy cao về thế giới và các nước có phần hạn chế. Việc xây dựng các HĐTN tiếp cận các đặc điểm của các nước cũng rất khó cho GV và nhiệm vụ thực thi các HĐTN với HS cũng không dễ dàng. Dẫn đến các HĐTN cho HS khi học địa lí 11 còn hạn chế so với các khối học khác. Đặc biệt với một số trường điều kiện còn khó khăn, HS cũng chưa có nhiều cơ hội để trải nghiệm đa dạng trong các giờ học địa lí 11, chủ yếu mới chỉ được TN qua kênh nhìn: xem tranh ảnh, video. CHƯƠNG 2 THIẾT KẾ MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM TRONG DẠY HỌC TRÊN LỚP THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH MÔN ĐỊA LÍ LỚP 11 THPT 2.1 Nguyên tắc của thiết kế hoạt động trải nghiệm môn địa lí Nguyên tắc 1: Gắn với các tình huống từ thực tiễn đời sống Học tập trải nghiệm sáng tạo mang ý nghĩa rộng là các tình huống hay bối cảnh có ý nghĩa vận dụng kiến thức vào giải quyết và nó mang ý nghĩa một hoạt động xã hội. Học tập trải nghiệm gắn với các tình huống từ thực tiễn cuộc sống đòi hỏi học sinh phải hòa mình vào thực tiễn để giải quyết vấn đề đó. Hơn nữa các nội dung học tập trải nghiệm phải mang tính xã hội có nghĩa là nói tới quy mô rộng lớn của học tập trải nghiệm hướng tới. Với mục tiêu đào tạo ra những con người mới, thế hệ mới làm chủ nhân tương lai đất nước thì việc đưa học sinh gần hơn tới thực tế cuộc sống, xã hội sẽ làm nâng cao vốn hiểu biết từ đó có được kĩ năng sống và vốn kiến thức cần thiết. Nguyên tắc 2: Gắn với những vấn đề đặc trưng và cần giải quyết ở Việt Nam và địa phương Cần đảm bảo chủ đề học tập trải nghiệm phải gắn với những vấn đề cần giải quyết ở địa phương nơi tập thể sinh sống và học tập, hoặc những điểm nổi
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh khi dạy học môn Toán lớp 10
44 p | 67 | 19
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p | 139 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học môn Vật lý ở trường phổ thông
39 p | 91 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phân loại các dạng bài tập trong chương 2 Hóa 10 - Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học và định luật tuần hoàn
32 p | 22 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học môn Sinh thông qua tổ chức các hoạt động nhóm tích cực tại trường THPT Lê Lợi
19 p | 54 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p | 31 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng toán tổ hợp xác suất trong việc giúp học sinh giải nhanh các bài tập di truyền phần sinh học phân tử và biến dị đột biến
17 p | 40 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức dạy học theo nhóm phần Vẽ kĩ thuật - Công nghệ 11
37 p | 15 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các biện pháp nâng cao hiệu quả làm bài phần Đọc - hiểu trong đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn THPT
36 p | 26 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Kinh nghiệm tổ chức dạy học trực tuyến tại trường THPT Trần Đại Nghĩa giai đoạn 2020-2022
23 p | 22 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập môn Lịch Sử theo định hướng 5 bước 1 vấn đề, đáp ứng yêu cầu mới của kỳ thi THPT Quốc gia
29 p | 35 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông Quốc gia chuyên đề Sinh thái học
39 p | 15 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p | 11 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức dạy học STEM chủ đề Cacbohidrat
35 p | 6 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức dạy học dự án chương Khúc xạ ánh sáng - Vật lý 11 góp phần bồi dưỡng năng lực sáng tạo cho học sinh THPT
63 p | 54 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học phần Sinh học Vi sinh vật, Sinh học 10
19 p | 46 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn