intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học Địa lí 11 THPT theo định hướng phát triển năng lực

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:72

9
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học Địa lí 11 THPT theo định hướng phát triển năng lực" nhằm vận dụng lí luận và thực tiễn của dạy học trải nghiệm môn Địa lí, thiết kế một số hoạt động trải nghiệm trong dạy học trên lớp môn Địa lí lớp 11 THPT theo định hướng phát triển năng lực nhằm phát triển và hoàn thiện kiến thức, kĩ năng, thái độ cho học sinh đáp ứng đổi mới giáo dục và thực tiễn cuộc sống trong thời kì hội nhập thế giới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học Địa lí 11 THPT theo định hướng phát triển năng lực

  1. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐC                       Đối chứng SGK                     Sách giáo khoa GV                        Giáo viên HS                         Học sinh HĐTN                   Hoạt động trải nghiệm KH ­ XH               Khoa học xã hội KVH                     Khu vực hóa TCH                      Toàn cầu hóa THPT                    Trung học phổ thông TN                         Thực nghiệm NCKH                   Nghiên cứu khoa học KN                         Kĩ năng GQVĐ                    Giải quyết vấn đề TN                          Trải nghiệm  
  2. PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài  Phát triển năng lực của học sinh là một trong những mục tiêu quan trọng  mà nền giáo dục đang đặt ra. Để  đạt được mục tiêu đó, cần đổi mới phương   pháp   giảng   dạy,   từ   giảng   dạy   theo   phương   pháp   truyền   thống   đến   những  phương pháp mới nhằm nâng cao vai trò của người học, phát huy tính tích cực  trong học tập của học sinh.  Thực tế  giáo dục của nhiều nước đã chứng minh   giáo dục muốn phát triển tốt năng lực người học thì giáo dục cần coi trọng xây  dựng và thực hiện các hoạt động trải nghiệm đa dạng cho đối tượng người học.  HĐTN được tổ  chức dưới nhiều hình thức khác nhau như  hoạt động câu  lạc bộ, tổ chức trò chơi, diễn đàn, sân khấu tương tác, tham quan dã ngoại, các  hội thi, hoạt động giao lưu, hoạt động nhân đạo, hoạt động tình nguyện, hoạt  động cộng đồng, sinh hoạt tập thể, lao động công ích, sân khấu hóa (kịch, thơ,   hát, múa rối, tiểu phẩm, kịch tham gia,...), thể  dục thể thao, tổ  chức các ngày  hội,... Mỗi hình thức hoạt động trên đều mang ý nghĩa giáo dục nhất định. Đặc   biệt qua các hoạt động trải nghiệm học sinh có cơ  hội thể  hiện bản thân, phát   huy các năng lực vốn có và hình thành phát triển các năng lực mới. Hơn thế  HĐTN đưa học sinh đến những miền tri thức mới mà ở  đó học sinh là chủ  thể  của các kiến thức, học sinh không chỉ hiểu mà còn biết vận dụng kiến thức để  giải quyết các vấn đề  nảy sinh trong cuộc sống bằng chính các năng lực của   bản thân và năng lực tập thể, năng lực nhóm khi các em có điều kiện hợp tác   với nhau. Thế  giới thật rộng lớn và ngày càng đa dạng. Nhưng nếu người học   chỉ  đọc, nghe và nói thì mới chỉ  đang nhìn ngắm thế  giới mà chưa phải là một   phần của thế  giới. Trải nghiệm bằng nhiều giác quan,  ở  nhiều góc độ, bằng  cách hóa thân, bằng cách sống thử trong các phần khác nhau của thế giới dù chỉ  là trong không gian tạo dựng thì vẫn mang lại cho người học những cảm xúc  thực và lắng đọng.  Mỗi môn học trong nhà trường phổ  thông đều có nhiều cơ  hội khác nhau   cho HS trải nghiệm. Địa lý là một môn học về các vùng đất mà ở  đó yếu tố  tự  nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa hòa quyện với nhau tạo nên các đặc trưng và sức   hấp dẫn riêng của môn học.  Đặc biệt chương trình địa lí 11 với đặc trưng là  những nội dung và kiến thức về  địa lí tự  nhiên và kinh tế  ­ xã hội thế  giới và  khu vực, sẽ rất thuận lợi trong việc áp dụng các hoạt động trải nghiệm.  Những  tiết học địa lí giàu tính trải nghiệm thì đều lấy được nhiều ấn tượng, nhiều xúc  cảm của người học, từ đó hình hành ở người học mong muốn tìm tòi, khám phá  và thấy yêu nhiều hơn các vùng đất trên thế giới. Thế giới quan, nhân sinh quan,   kĩ năng sống, năng lực và phẩm chất của người học theo đó mà hoàn thiện hơn.   Lứa tuổi học sinh lớp 11, là lứa tuổi rất mong được tìm tòi, khám phá, trải  nghiệm các vùng đất trên thế giới. Trong chương trình giáo dục phổ  thông mới, học sinh được lực chọn môn  học. Đây thực sự là một thách thức cho các thầy cô dạy Địa lí khi mà học sinh  
  3. sẽ  cân nhắc môn học tự  chọn có hay không môn Địa lí. Vì vậy để  tạo nên sức   hút cho bộ  môn thì mỗi thầy cô dạy Địa lí đều cần ý thức được phải đổi mới   phương pháp dạy học, hình thức dạy học như  một nhiệm vụ  sống còn. Theo   cách đó xây dựng và thiết kế các HĐTN trong nhiều tiết học là một đổi mới bắt   buộc và tất yếu để  môn địa lí thực sự  được HS lựa chọn học nhiều hơn. Tuy  vậy do HĐTN ngoài thực địa khó thực hiện thường xuyên vì nhiều nguyên nhân   nên cơ  hội TN của HS ít. TN ngay trong các tiết học trong không gian trường  học là giải pháp tăng cơ hội TN cho học sinh, đồng thời TN trên lớp cũng khiến   cho môn học gần gũi với thực tiễn hơn, khiến cho các giờ học hấp dẫn, thu hút  hơn.  Vì vậy, từ  thực tiễn hiệu quả  của phương pháp này, tôi đã mạnh dạn đề  xuất sáng kiến: “ Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học   địa lí 11 THPT theo định hướng phát triển năng lực”. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Trên cơ sở vận dụng lí luận và thực tiễn của dạy học trải nghiệm môn Địa  lí, thiết kế một số hoạt động trải nghiệm trong dạy học trên lớp môn Địa lí lớp  11 THPT theo định hướng phát triển năng lực nhằm phát triển và hoàn thiện  kiến thức, kĩ năng, thái độ  cho học sinh đáp ứng đổi mới giáo dục và thực tiễn   cuộc sống trong thời kì hội nhập thế giới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ­ Đối tượng nghiên cứu: Tổ chức dạy học trải nghiệm môn Địa lí lớp 11.  ­ Phạm vi nghiên cứu: + Nội dung: Nghiên cứu Tổ chức dạy học trải nghiệm môn Địa lí lớp 11. +   Thời gian: đề  tài được thực hiện từ  tháng 9 năm 2021 ­ tháng 3 năm  2022. ­ Không gian nghiên cứu: 3 trường THPT trên địa bàn thành phố Vinh – tỉnh   Nghệ  An: trường THPT chuyên Phan Bội Châu, trường THPT Lê Viết Thuật,  trường THPT Herman Gmeiner. 4. Tính mới và ưu điểm nổi bật của đề tài ­ Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về dạy học trải nghiệm môn Địa lí  lớp 11 THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh.  ­ Đề xuất quy trình thiết kế hoạt động trải nghiệm Địa lí.  ­ Thiết kế một số hoạt động trải nghiệm Địa lí lớp 11 THPT.  ­ Thực nghiệm sư phạm và đánh giá kết quả thực nghiệm.  5. Đóng góp của đề tài:  ­ Kế thừa và làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn về việc đổi mới giáo dục và   phương pháp giảng dạy, trong đó có hoạt động trải nghiệm. 
  4. ­ Làm sáng tỏ cơ sở thực tiễn của dạy học hoạt động sáng tạo môn Địa lí   nói chung và Địa lí lớp 11 nói riêng.  ­ Đề xuất một số hoạt động trải nghiệm trong dạy học trên lớp môn Địa lí  lớp 11 nhằm phát triển tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh.  6. Cấu trúc đề tài  Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung đề tài  được chia thành 3 chương:  ­ Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc tổ chức một số hoạt động   trải nghiệm cho học sinh trong dạy học địa lí lớp 11 THPT theo định hướng phát   triển năng lực.  ­ Chương 2: Thiết kế  và tổ  chức một số  hoạt động trải nghiệm cho học  sinh trong dạy học môn địa lí lớp theo định hướng phát triển năng.  ­ Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
  5. PHẦN 2: NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG  TRẢI NGHIỆM CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ LỚP 11  THPT THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC 1.1.  Cơ   sở   lí   luận   của  việc   tổ   chức   hoạt   động  trải   nghiệm   theo   định   hướng phát triển năng lực  1.1.1. Một số khái niệm  Dạy học: Các nhà nghiên cứu giáo dục cho rằng: “Dạy học là toàn bộ các   thao tác có mục đích nhằm chuyển các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các giá trị   văn hóa mà nhân loại đã đạt được hoặc cộng đồng đã đạt được vào bên trong   một con người”, một số khác dựa trên quan điểm phát triển, nhất là phát triển  về khoa học và công nghệ cho rằng “Dạy học là một quá trình gồm toàn bộ các   thao tác có tổ chức và có định hướng giúp người học từng bước có năng lực tư   duy và năng lực hành động với mục đích  chiếm  lĩnh  các  giá  trị  tinh  thần,  các  hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ   sở  đó có khả  năng giải quyết được các bài toán thực tế  đặt ra trong toàn bộ   cuộc sống của mỗi người học”. Trải nghiệm: Theo quan điểm của triết học, sự trải nghiệm được hiểu là  kết quả của sự tương tác giữa con người với thế giới khách quan. Sự tương tác  này bao gồm cả hình thức và kết quả các hoạt động thực tiễn trong xã hội, bao  gồm cả kỹ thuật và kỹ  năng, cả những nguyên tắc hoạt động và phát triển thế  giới khách quan. Nhà triết học vĩ đại người Nga Solovyev V.S. quan niệm rằng   trải nghiệm là kiến thức kinh nghiệm thực tế; là thể  thống nhất bao gồm kiến  thức và kỹ  năng. Trải nghiệm là kết quả của sự tương tác giữa  con người và  thế giới, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hoạt động giáo dục trải nghiệm: là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới  sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia  trực  tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà   trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát  triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo  của cá nhân mình. Muốn vậy thì người  dạy  cần  sử  dụng  nhiều  phương  pháp  trong đó người dạy khuyến khích người học tham gia trải nghiệm thực tế, sau  đó phản ánh, tổng kết lại để tăng cường hiểu biết, phát triển kỹ năng, định hình  các giá trị sống và phát triển tiềm năng bản thân, tiến tới đóng góp tích cực cho  cộng đồng và xã hội. Năng lực: là khả  năng, điều kiện chủ  quan hoặc tự  nhiên sẵn có để  thực  hiện một  hoạt  động  nào  đó”  như  năng  lực  tư  duy,  năng  lực  tài  chính  hoặc  là 
  6. “phẩm  chất  tâm sinh lý và trình độ  chuyên môn tạo cho con người khả  năng  hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao như năng lực chuyên  môn, năng lực lãnh đạo.Theo cách hiểu khác, Năng lực là tổ  hợp các thuộc tính  độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định,  đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả tốt. Năng lực vừa là tiền đề, vừa là kết  quả  của hoạt động. Năng lực vừa là điều kiện cho hoạt  động đạt kết quả  nhưng đồng thời năng lực cũng phát triển ngay trong chính hoạt động ấy (kinh  nghiệm, trải nghiệm). Theo chương trình giáo dục phổ  thông tổng thể  (Bộ  giáo dục và đào tạo   ngày 27/07/2017), Năng lực là thuộc tính độc đáo của cá nhân được hình thành,  phát triển nhờ  tố  chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con   người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác   thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định đạt kết quả  mong muốn   trong những điều kiện cụ  thể. Như  vậy có thể hiểu: Năng lực của học sinh là  khả năng làm chủ kiến thức, kĩ năng, thái độ phù hợp với lứa tuổi và vận hành  chúng  một  cách  hợp  lí  vào  việc  thực  hiện  thành  công nhiệm vụ  học tập, giải  quyết hiệu quả các vấn đề đặt ra cho chính các em trong cuộc sống. 1.1.2. Đặc trưng của học qua hoạt động trải nghiệm trong trường học Nội dung học trong hoạt động trải nghiệm rất đa dạng và tổng hợp kiến  thức, kĩ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực học tập và giáo dục như: giáo   dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục kĩ năng sống, giáo dục giá trị sống, giáo   dục thẩm mĩ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động, giáo dục an toàn giao thông,  giáo  dục  môi  trường,  giáo  dục  phòng  chồng  ma  túy,  giáo  dục   phòng  chống   HIV/AIDS và tệ nạn xã hội, giáo dục các phẩm chất người lao động, nhà nghiên  cứu... Điều này giúp cho các nội dung giáo dục thiết thực hơn, gần gũi hơn với   cuộc sống, đáp ứng được nhu cầu hoạt động của HS, giúp các em vận dụng vào  trong thực tiên cuộc sông một cách dễ dàng, thuận lợi hơn. Hình  thức  học  qua  hoạt  động  trải  nghiệm  rất  đa  dạng:  hoạt  động  trải  nghiệm được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như trò chơi, hội thi, diễn   đàn, giao lưu, du lịch, sân khấu hóa (kịch, thơ, hát, tiểu phẩm, kịch tham gia...),  thể dục  thể  thao.  câu  lạc bộ, tổ  chức các ngày hội, các công trình nghiên cứu  khoa học  kỹ  thuật. Mỗi một hình thức hoạt động trên đều tiềm tàng trong nó  những khả năng giáo dục nhất định. Nhờ các hình thức tổ chức đa dạng, phong   phú mà việc giáo dục học sinh được thực hiện một cách tự  nhiên, sinh động,  nhẹ nhàng, hấp dẫn, không gò bó và khô cứng, phù hợp với  đặc điểm tâm sinh  lý  cũng  như  nhu  cầu,  nguyện  vọng  của  học  sinh.  Trong  quá  trình thiết kế, tổ  chức, đánh giá các hoạt động trải nghiệm, cả giáo viên lần học sinh đều có cơ  hội thể hiện sự sáng tạo của mình làm tăng thêm tính hấp dẫn, độc đáo của các  hình thức tổ chức hoạt động. Học qua trải nghiệm là quá trình học tập tích cực và hiệu quả: hoạt động  trải nghiệm tạo cơ hội cho học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác và 
  7. sáng tạo của bản thân học sinh. Nó có khả năng huy động sự tham gia tích cực  của học sinh vào tất cả các khâu của quá trình hoạt động: từ thiết kế hoạt động   đến chuẩn bị, thực hiện và đánh giá kết quả hoạt động phù hợp với đặc điểm  lứa tuổi và khả năng của bản thân; tạo cơ cho các em được trải nghiệm, được  bày tỏ quan điểm, ý tưởng; được đánh giá và lựa chọn ý tưởng hoạt động, được  thể  hiện, tự  khẳng định bản thân, được tự  đánh giá  và đánh  giá  kết  quả hoạt  động của  bản  thân.  của  nhóm  mình và  của  bạn  bè... Từ  đó hình thành và phát  triển cho các em những giá trị sống và các năng lực cần thiết. 1.1.3. Vai trò của giáo viên dạy Học tập qua trải nghiệm Vai trò của người dạy Học tập qua trải nghiệm là một quá trình hàm chứa  nhiều mối liên hệ phức tạp, gồm sự cân bằng chú ý của người học đối với vấn   đề  chuyên môn, vừa cân bằng được khả  năng phản tỉnh về  ý nghĩa sâu xa của   các quan niệm với kỹ năng áp dụng chúng. Angela Passarelli và Garima Sharma,   trường đại học Case Western Reserve University đã nghiên cứu ra một mô hình 4   chức năng mà một nhà giáo dục cần thực hiện, đó là: Người hỗ trợ, Chuyên gia  môn học, Người thiết lập và đánh giá tiêu chuẩn, Người huấn luyện viên. Vai  trò người hỗ  trợ: Người dạy giúp người học bám sát kinh nghiệm cá nhân của  họ và tự phản tỉnh. Họ sử dụng một phong cách quyết đoán nhưng thân thiện,  ấm áp để lôi cuốn sự yêu thích của người học, động lực bên trong và kiến thức  bản thân bằng hội thoại nhóm nhỏ, tạo ra mối quan hệ cá nhân với học sinh.Vai  trò chuyên gia bộ môn: Trong vai trò này, người dạy giúp người học tổ chức và  kết nối những phản ánh của họ về kiến thức dựa trên các vấn đề của môn học.  Phong cách của người dạy ở đây là có thẩm quyền, phản ánh. Người dạy dạy  bằng ví dụ, làm mẫu và khuyến khích người học tư  duy phản biện khi họ  tổ  chức và phân tích một cách hệ  thống kiến thức môn học. Các kiến thức này  được truyền thông qua bài giảng và sách giáo khoa. Vai trò Thiết lập và đánh giá  tiêu chuẩn: người dạy đóng vai trò là người thiết lập và đánh giá tiêu chuẩn nên  người dạy giúp người học nắm vững được kiến thức và kỹ  năng để  đáp  ứng   các yêu cầu học. Họ sử dụng một phong cách định hướng kết quả mục tiêu, tạo  ra các hoạt động cho người học để đánh giá việc học. Vai trò Huấn luyện viên:  Trong vai trò là huấn luyện viên, người dạy giúp người học áp dụng kiến thức  để đạt được các mục tiêu của mình. Họ sử dụng phong cách khuyến khích, hợp   tác, thường làm việc 1­1 với từng cá nhân để giúp họ học từ những trải nghiệm   trong ngữ cảnh đời sống. Họ  hỗ  trợ người học trong việc lập ra các kế  hoạch  phát triển cá nhân và cung cấp các cách thức nhận phải hồi từ  phần vừa thực   hiện. Vì  vậy  trong  dạy  học  qua  trải  nghiệm  cần  có  sự  thay  đổi  của  giáo  viên.  bản  thân mỗi giáo viên phải thường xuyên học tập, nâng cao trình độ, có vốn  hiểu biết và kỹ  năng giải quyết các thắc mắc của học sinh này sinh trong quá   trình học tập thực tế. 1.1.4.Hệ thống các năng lực có thể  hình thành và phát triển cho HS qua tổ  
  8. chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học Địa lí 11 Chương  trình  giáo  dục  phổ  thông  tổng  thể  chính  thức  vừa  được  Ban  Chỉ  đạo đổi mới  chương  trình  sách  giáo  khoa  giáo  dục  phổ  thông  thông  qua  ngày  28/7.  Những năng lực chung được tất cả các môn học và hoạt động giáo dục góp   phần hình thành, phát triển: Năng lực tự  chủ  và tự  học: Tự  lực; Tự khẳng định và bảo vệ  quyền, nhu   cầu chính  đáng;  Tự  kiểm  soát  tình  cảm,  thái  độ,  hành  vi  của  mình;  Tự  định  hướng; Tự học, tự hoàn thiện. Năng lực giao tiếp và hợp tác: Xác định mục đích, nội dung, phương tiện  và thái độ giao tiếp; Thiết lập, phát triển các quan hệ xã hội, điều chỉnh và hóa  giải các mâu thuẫn; Xác định mục đích và phương thức hợp tác; Xác định trách  nhiệm và hoạt động của bản thân; Xác định nhu cầu và khả năng của người hợp  tác; Tổ chức và thuyết phục người khác; Đánh giá hoạt động hợp tác; Hội nhập   quốc tế. Năng lực giải quyết vấn đề  và sáng tạo: Nhận ra ý tưởng mới; Phát hiện   và làm rõ vấn đề; Hình thành và triển khai ý tưởng mới; Đề xuất, lựa chọn giải   pháp; Thực hiện và đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề; Tư duy độc lập. Những năng lực chuyên môn được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua  một số môn học, hoạt động giáo dục nhất định. Đó là: ­ Năng lực ngôn ngữ: Sử dụng Tiếng Việt; Sử dụng ngoại ngữ. ­ Năng lực tính toán: Hiểu biết kiến thức toán học phổ  thông cơ  bản;   Biết cách vận dụng các thao tác tư duy, suy luận, tính toán, ước lượng, sử dụng   các công cụ tính toán và dụng cụ đo,…; đọc hiểu, diễn giải, phân tích, đánh giá   tình huống có ý nghĩa toán học. ­ Năng lực tìm hiểu tự nhiên: Hiểu biết kiến thức khoa học; Tìm tòi và  khám phá thế  giới tự  nhiên; Vận dụng kiến thức vào thực tiễn,  ứng xử  với tự  nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. ­ Năng lực tìm hiểu xã hội: Nắm được những tri thức cơ  bản về  đối   tượng của các khoa học xã hội; Hiểu và vận dụng được những cách tiếp cận và  phương pháp nghiên cứu cơ bản của khoa học xã hội; Nắm được những tri thức  cơ bản về xã hội loài người; Vận dụng được những tri thức về  xã hội và văn  hóa vào cuộc sống. ­ Năng lực Công nghệ: Thiết kế; Sử dụng; Giao tiếp; Đánh giá. ­  Năng lực Tin học: Sử dụng và quản lý các phương tiện, công cụ, các   hệ  thống tự  động hóa của công nghệ  thông tin và truyền thông; Hiểu biết và   ứng xử phù hợp chuẩn mực đạo đức, văn hóa và pháp luật trong xã hội thông tin  và nền kinh tế tri thức; Nhận biết và giải quyết vấn đề trong môi trường xã hội 
  9. và nền  kinh  tế  tri  thức;  Học tập, tự  học  với  sự  hỗ  trợ  của  các  hệ  thống  ứng  dụng công nghệ thông tin và truyền thông; Giao tiếp, hòa nhập, hợp tác phù hợp  với thời đại xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức. ­ Năng lực thẩm mỹ: Nhận biết các yếu tố thẩm mỹ (cái đẹp, cái bi, cái  hài, cái chân, cái thiện, cái cao cả); Phân tích, đánh giá các yếu tố thẩm mỹ; Tái  hiện, sáng tạo và ứng dụng các yếu tố thẩm mỹ. ­ Năng lực thể  chất: Sống thích  ứng và hài hòa với môi trường; Nhận   biết và  có các kỹ  năng vận động cơ  bản trong cuộc sống; Nhận biết và hình  thành các tố  chất thể lực cơ  bản trong cuộc sống; Nhận biết và tham gia hoạt  động thể dục thể thao; Đánh giá hoạt động vận động. Những năng lực đặc thù của bộ môn Địa lí cần chú ý trong quá trình thiết  kế các HĐTN gồm: ­ Năng  lực  nhận  thức  khoa  học  Địa  lí:  Nhận  thức  thế  giới  theo  quan  điểm không gian và giải thích các hiện tượng, quá trình Địa lí. ­ Năng lực tìm hiểu Địa Lí: Sử dụng công cụ Địa Lí; Tổ chức học tập ở  thực địa; Khai thác internet. ­ Vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học: Cập nhật thông tin và liên hệ thực  tế;  Thực hiện chủ  đề  học tập; Vận dụng tri thức để  giải quyết các vấn đề  ngoài thực tế. Vì vậy hoạt động trải nghiệm trong dạy học ở các trường phổ thông được   xây dựng nhằm đáp ứng sự hình thành hệ thống các năng lực cốt lõi trên cho học  sinh. 1.1.5. Một số hình thức, phương pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm trong   dạy học ở nhà trường phổ thông Hoạt động trải nghiệm sáng tạo được tổ  chức dưới nhiều khác nhau như  hoạt động câu lạc bộ, tổ chức trò chơi, diễn đàn, sân khấu tương tác, tham quan  dã ngoại, các hội thi, các hoạt động giao lưu, hoạt động nhân đạo, hoạt động  tình nguyện, hoạt động  cộng  đồng,  sinh  hoạt  tập  thể,  lao  động  công  ích,  sân  khấu hóa như: Kịch, thơ, hát, múa rối, tiểu phẩm, kịch tham gia,… thể dục thể  thao, tổ chức các ngày hội… Sau đây là một số hình thức tổ chức có điều kiện  triển khai và phù hợp với dạy học Địa lí trong không gian lớp học: Trò chơi là là hình thức tổ chức các hoạt động vui chơi với nội dung kiến   thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có tác dụng giáo dục "chơi mà học, học mà  chơi". Trò chơi còn là một loại hình hoạt động giải trí, thư  giãn; là món ăn tinh   thần nhiều bổ   ích và không thể  thiếu  được trong cuộc sống con người nói   chung, đối với học sinh nói riêng.  Trò  chơi  có  thể  được  sử  dụng  trong  nhiều  tình huống khác nhau của HĐTN như làm quen, khởi động, dẫn nhập vào nội dung học tập, cung cấp 
  10. và tiếp nhận tri thức; đánh giá kết quả, rèn luyện các kĩ năng và củng cố những  tri thức đã được tiếp nhận,... Trò chơi giúp phát huy tính sáng tạo, hấp dẫn và  gây hứng thú cho học sinh; giúp học sinh dễ tiếp thu kiến thức mới; giúp chuyển  tải nhiều tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau; tạo được bầu không khí thân  thiện; tạo cho các em tác phong nhanh nhẹn... Sân khấu tương tác (hay sân khấu diễn đàn) là một hình thức nghệ  thuật   tương tác dựa trên hoạt động diễn kịch, trong đó vở  kịch chỉ  có phần mở  đầu  đưa ra tình huống, phần còn lại được sáng tạo bởi những người tham gia. Phần   trình diễn chính là một cuộc chia sẻ, thảo luận giữa những người thực hiện và  khán giả, trong đó đề cao tính tương tác hay sự tham gia của khán giả. Mục đích của hoạt động này là nhằm tăng cường nhận thức, thúc đẩy để  học sinh đưa ra quan điểm, suy nghĩ và cách xử lý tình huống thực tế gặp phải   trong bất kì nội dung nào của cuộc sống. Thông qua sân khấu tương tác, sự tham  gia của học sinh được tăng cường và thúc đẩy, tạo cơ  hội cho học sinh rèn  luyện những kĩ năng như: kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, kĩ năng  phát hiện vấn đề, kĩ năng phân tích vấn đề, khả  năng sáng tạo khi giải quyết  tình huống và khả năng ứng phó với những thay đổi của cuộc sống,... Diễn đàn là một hình thức tổ chức hoạt động được sử dụng để thúc đẩy sự  tham gia của học sinh thông qua việc các em trực tiếp, chủ động bày tỏ  ý kiến  của mình với thầy cô giáo, cha mẹ, đông đảo bạn bè, nhà trường, và những  người lớn khác có liên quan.Thông qua diễn đàn, học sinh có cơ  hội bày tỏ  suy  nghĩ, ý kiến, quan niệm hay những câu hỏi, đề xuất của mình về một vấn đề  nào đó có liên quan đến nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng của các em. Đây cũng  là dịp để các em biết lắng nghe ý kiến, học tập lẫn nhau. Vì vậy, diễn đàn là  một trong những hình thức tổ chức mang lại hiệu quả giáo dục thiết thực như  một sân chơi tạo điều kiện để  học sinh được biểu đạt ý kiến của mình một  cách trực tiếp với đông đảo bạn bè và những người khác. Diễn đàn thường   được tổ chức rất linh hoạt với những hình thức hoạt động cụ thể, phù hợp với  từng  lứa tuổi  học  sinh.  Mục  đích  của  việc  tổ  chức  diễn  đàn  là  để  tạo  môi  trường, cơ hội cho học sinh được bày tỏ  ý kiến về  những vấn đề  các em quan  tâm, giúp các đưa ra những suy nghĩ và hành vi tích cực để khẳng định vai trò và   tiếng nói của mình. Hội thi/cuộc thi là một trong những hình thức tổ chức hoạt động lôi cuốn,   hấp dẫn học sinh và đạt hiệu quả cao trong việc tập hợp, giáo dục, rèn luyện và  định hướng giá trị cho tuổi trẻ. Hội thi mang tính chất thi đua tích cực để vươn  lên đạt được mục tiêu mong muốn thông qua việc tìm ra người/đội thắng cuộc.   Mục đích tổ  chức  hội  thi/cuộc  thi  nhằm lôi  cuốn học  sinh  tham gia  một  cách  chủ  động,  tích  cực  vào  các  hoạt  động  giáo  dục  của  nhà  trường;  đáp  ứng  nhu  cầu về vui chơi giải trí cho học sinh; thu hút  tài  năng  và  sự  sáng  tạo  của  học  sinh;  phát  triển  khả  năng  hoạt  động  tích  cực  và  tương  tác  của  học  sinh,  góp  phần bồi dưỡng cho các em động cơ học tập tích cực, kích thích hứng thú trong 
  11. quá  trình  nhận  thức.  Hội  thi/cuộc  thi  có  thể  được  thực  hiện  dưới  nhiều hình  thức khác nhau như: Thi vẽ, thi tiểu phẩm, thi thời trang, thi kể chuyện, thi chụp  ảnh, thi viết, thi tìm hiểu, thi đố  vui, thi giải ô chữ,, thi kể  chuyện theo   tranh,  thi  sáng tác bài hát, hội thi học tập, hội thi thời trang, hội thi h ọc sinh thanh   lịch,... có nội dung giáo dục về một chủ đề nào đó. Chính vì vậy, tổ chức hội thi   cho học sinh  là  một  yêu  cầu  quan  trọng,  cần  thiết  của  nhà  trường,  của  giáo  viên  trong  quá  trình  tổ  chức HĐTN Nội dung của hội thi rất phong phú, bất cứ  nội  dung giáo  dục nào  cũng  có thể được  tổ  chức  dưới  hình  thức  hội  thi/cuộc  thi.  Điều  quan  trọng khi tổ  chức hội thi là phải linh hoạt, sáng tạo khi tổ chức  thực hiện, tránh máy móc thì cuộc thi mới hấp dẫn. Phương  pháp  tổ  chức  hoạt  động  sáng  tạo  trong  dạy  học  phổ  thông  có  nhiều  phương pháp phù hợp để  thiết kế các HĐTN ngay trong không gian lớp học. Trong đó có một số phương  pháp phù hợp với mục tiêu và đối tượng của HĐTN trong môn Địa lí như: Phương pháp giải quyết vấn đề (GQVĐ): GQVĐ là một phương pháp giáo  dục nhằm phát triển năng lực tư  duy, sáng tạo trong việc GQVĐ của HS. Các   em được đặt trong tình huống có vấn đề, thông qua việc GQVĐ giúp các em lĩnh  hội   tri   thức,   kĩ   năng   và   phương   pháp.   Trong   tổ   chức   HĐTN,   phương   pháp   GQVĐ thường được vận dụng khi HS phân tích, xem xét và đề xuất những giải   pháp trước một hiện tượng, sự việc nảy sinh trong quá trình hoạt động. Phương pháp GQVĐ có ý nghĩa quan trọng, phát huy tính tích cực, sáng tạo  của HS, giúp các em có cách nhìn toàn diện hơn trước các hiện tượng, sự  việc  nảy sinh trong  hoạt  động,  cuộc  sống  hàng  ngày.  Để  phương  pháp  này  thành  công thì vấn đề đưa ra phải sát với mục tiêu hoạt động, kích thích HS tích cực  tìm tòi  cách  giải quyết. Đối với tập thể  lớp, khi GQVĐ GV phải coi trọng   nguyên tắc tôn trọng, bình đẳng, tránh gây ra căng thẳng không có lợi khi giáo   dục HS. Sắm vai là phương pháp giáo dục giúp HS thực hành kĩ năng ứng xử, bày tỏ  thái độ  trong  những  tình  huống  tạo  dựng,  giả  định  hoặc  trên  cơ  sở  óc  tưởng  tượng  và  ý  nghĩ  sáng tạo của các em. Sắm vai thường không có kịch bản cho   trước mà HS hoặc  GV  tự xây dựng trong quá trình hoạt động. Đây là phương   pháp giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào cách ứng  xử cụ thể mà các em quan sát được. Việc "diễn" không phải là phần quan trọng  nhất  của  phương  pháp  này  mà  là  xử  lí  tình  huống  khi  diễn  và  thảo  luận  sau  phần diễn đó. Mục đích của phương pháp trên không phải chỉ ra cái cần làm mà  bắt đầu cho một cuộc thảo luận. Để  bắt đầu cho một cuộc   thảo  luận  thú vị  người sắm vai nên làm một cái gì đó sai, hoặc phải thực hiện nhiệm vụ vô cùng  khó khăn. Nếu người sắm vai làm đúng mọi chuyện thì chẳng có gì để  thảo   luận. Sắm vai  có  ý  nghĩa  rất  lớn  trong  việc  hình  thành  và  phát  triển  các  KN  giao  tiếp  cho  HS. Thông qua sắm vai, HS được rèn luyện, thực hành những KN  ứng  xử  và  bày  tỏ  thái  độ  trong  môi  trường  an  toàn  trước  khi  thực  hành  trong  thực tiễn, tạo điều kiện phát triển óc sáng tạo của các em, khích lệ thay đổi thái 
  12. độ  và hành vi theo hướng tích cực trước một vấn  đề  hay đối tượng nào đó  về  mặt tâm lý học, thông qua các hành vi, cá nhân nhận thức và giải quyết tốt hơn  vấn đề của bản thân, vai trò lĩnh hội được trong quá trình sắm vai cho phép HS  thích  ứng với cuộc sống tốt hơn. Trong trò chơi cũng như trong cuộc sống, các  em  mong  muốn  có  được  một  vai  yêu  thích,  khi  sắm  một  vai  HS  bước  ra  từ  chính  bản  thân  mình.  Điều  này  trở  thành  phương  tiện  để  thể  hiện  nỗi  băn  khoăn, mong muốn được chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, mối quan tâm,, sự do dự,  ngập ngừng,...  của  chính  các  em.  Thông  qua  các  vai  được  sắm  trong  trò  chơi,  HS thể hiện các khía  cạnh khác  nhau trong tính cách  của  bản thân như: sự  ưa  thích, tình  cảm, sự hiểu biết về nhân vật mà các em đang sắm vai đó và những   người bạn đang chơi cùng với hành động của chúng là điều đặc biệt quan trọng,  có ý nghĩa nhiều mặt đối với HS.  Trò chơi là tổ chức cho HS tìm hiểu một vấn đề hay thực hiện những hành  động, việc làm hoặc hình thành thái độ thông qua một trò chơi nào đó. Đặc thù   của trò chơi: Trò chơi không phải là thật mà là giả  vờ  như  làm một cái gì đó  nhưng mang tính chân thật (nhập các vai chơi một cách chân thật, thể hiện động  tác, hành vi phù hợp…). Hơn nữa, đây là một hoạt động tự do, tự nguyện không  thể gò ép hoặc bắt buộc chơi khi các em không thích, không đáp  ứng nhu cầu,  nguyện vọng của chúng. Trò chơi được giới hạn bởi không gian và thời gian, có  qui tắc tổ chức (luật chơi do nội dung chơi quy định). Đặc thù này sẽ  quy định  quy mô, số lượng người chơi, điều kiện, vật chất, cũng như xác định tính chất,   phương pháp hành động, tổ  chức và điều khiển hành vi cũng như  những  mối  quan hệ lẫn nhau của người chơi. Trò chơi là một hoạt động mang tính sáng tạo  cao,  thể  hiện  ở  việc  lựa  chọn  chủ  đề  chơi,  phân  vai  tạo  ra  tình  huống,  hoàn  cảnh chơi, sử dụng phương tiện thay thế trong các trò chơi sáng tạo, lựa chọn   các phương thức hành động và phân chia tình huống chơi để giải quyết nhiệm  vụ chơi trong những trò chơi có luật. Trò chơi là phương tiện giáo dục và phát triển toàn diện HS, giúp các em   nâng cao hiểu biết về thế giới hiện thực xung quanh, kích thích lòng ham hiểu  biết, trí thông minh, học cách giải quyết nhiệm vụ. Ngoài ra, trò chơi là phương  tiện giáo dục phẩm chất nhân cách cho HS. Các phẩm chất nhân cách được hình  thành  thông  qua  chơi như  tính hợp tác, tính kỷ  luật, tự  chủ, tích cực, độc lập,   sáng tạo tính đồng đội, tính tập thể, sự  quan tâm lo lắng đến người khác, thật  thà, dũng cảm, kiên nhẫn,… Trò chơi còn là phương tiện giáo dục thẩm mỹ,  giáo dục thể lực cho HS, hình thành các KN giao tiếp, KN xã hội... Trò chơi là   một phương thức giải trí tích cực, hiệu quả, mang lại sự  hồn nhiên, yêu  đời,  niềm vui, sự hứng khởi cho HS để các em tiếp tục học tập và rèn luyện tốt hơn.  Về  mặt tâm lý học, trong quá trình diễn ra trò chơi tất cả  các thành viên của   nhóm đều tham gia hết mình và từ đó các em sẽ được trải nghiệm, bởi vì mỗi cá  nhân cũng như cả nhóm đang sống trong một tình huống khác với những gì các   em đã sống trong cuộc sống thực.
  13. Làm việc theo nhóm nhỏ là phương pháp tổ chức dạy học ­ giáo dục, trong   đó, GV  bố  trí  hoặc  sắp  xếp  HS  thành  những  nhóm  nhỏ  theo  hướng  tạo  ra  sự  tương tác trực tiếp giữa các thành viên, từ đó HS trong nhóm trao đổi, giúp đỡ và  cùng nhau phối hợp làm việc để hoàn thành nhiệm vụ chung của nhóm do GV  giao cho. Làm việc nhóm có ý nghĩa rất lớn trong việc: ­ Phát huy cao độ  vai trò chủ  thể, tính tự  giác, tích cực, sáng tạo, năng  động, tinh thần trách nhiệm của HS, tạo cơ  hội cho các em tự  thể  hiện, tự  khẳng định khả năng của mình và thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao. ­ Giúp  HS  hình  thành  các  KN  xã  hội  và  phẩm  chất  nhân  cách  cần  thiết  như: KN GQVĐ, tổ  chức, quản lí, hợp tác, có trách nhiệm cao, tinh thần đồng  đội, sự ủng hộ cá nhân và khuyến khích tinh thần học hỏi lẫn nhau, sự quan tâm  và mối quan hệ khăng khít, xác định giá trị của sự đa dạng và tính gắn kết. ­ Thể hiện mối quan hệ bình đẳng, dân chủ và nhân văn: tạo điều kiện và  cơ  hội bình đẳng cho mỗi cá nhân người học được khẳng định và phát triển.   Nhóm làm việc sẽ khuyến khích HS giao tiếp với nhau và như  vậy sẽ giúp cho  những em ngại ngùng, thiếu tự tin có nhiều cơ hội hòa nhập với lớp học,... Để phương pháp làm việc nhóm thực sự phát huy hiệu quả, GV cần lưu ý  một số vấn đề sau: 1) Thiết kế các nhiệm vụ đòi hỏi sự phụ thuộc lẫn nhau 2) Tạo ra những nhiệm vụ phù hợp với KN và khả năng làm việc nhóm  của HS 3) Phân công nhiệm vụ công bằng giữa các nhóm và các thành viên. 4) Đảm bảo trách nhiệm của cá nhân 5) Sử dụng nhiều cách sắp xếp nhóm làm việc khác nhau 6) Hướng dẫn HS phương pháp, KN làm việc nhóm (KNLVN) Tùy theo tính chất và mục đích của từng hoạt động cụ  thể  cũng như  điều   kiện, khả năng của các em mà GV có thể lựa chọn một hay nhiều phương pháp  phù hợp. Điều quan trọng là phương pháp được lựa chọn cần phát huy cao độ  tích cực, sáng tạo, vai trò chủ  động, của HS và khai thác tối đa kinh nghiệm và  kiến thức các em đã có. Hoạt động TN hướng đến những phẩm chất và năng   lực chung như đã được đưa ra trong Dự thảo Chương trình mới, ngoài ra HĐTN  còn có ưu thế trong việc thúc đẩy hình thành ở người học các năng lực đặc thù  sau: + Năng lực hoạt động và tổ chức hoạt động; + Năng lực tổ chức và quản lý cuộc sống; + Năng lực tự nhận thức và tích cực hóa bản thân; + Năng lực định hướng nghề nghiệp;
  14. + Năng lực khám phá và sáng tạo. Chính vì vậy các hoạt động TN khá đa dạng và khó xác định mức độ chung,   nhất là khi nó lại luôn gắn với cảm xúc ­ lĩnh vực mang tính chủ quan cao, cũng   là cơ  sở  quan trọng của sự  hình thành sáng tạo và phân hóa. Hoạt động trải   nghiệm là hoạt động giữ vai trò rất quan trọng trong chương trình giáo dục phổ  thông mới. Hoạt  động này giúp cho học sinh có nhiều cơ  hội trải nghiệm để  vận dụng những kiến thức học được  vào  thực  tiễn,  vào  các  tình  huống  trong  cuộc  sống,  từ  đó  hình  thành  năng  lực  thực tiễn cũng như  phát huy tiềm năng  sáng tạo của bản thân. 1.2 Cơ sở thực tiễn của việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm trong dạy  học Địa lí 11 THPT 1.2.1 Đặc điểm tâm sinh lí và năng lực hoạt động của học sinh THPT Học sinh THPT còn gọi là tuổi thanh niên, là giai đoạn phát triển bắt đầu từ  lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Tuổi thanh niên được tính   từ 15 đến 25 tuổi, được chia làm 2 thời kì: Thời kì từ 15­18 tuổi: gọi là tuổi đầu  thanh niên; Thời kì từ  18­25 tuổi: giai đoạn hai của tuổi thanh niên (thanh niên   sinh viên). Yếu tố ảnh hưởng tới tâm sinh lí và năng lực hoạt động của HS THPT như  sự phát triển thể chất, trí tuệ và tác động của hoàn cảnh sống. Hoạt động trí tuệ của các em có thể phát triển tới mức cao. Khả năng hưng  phấn và ức chế ở vỏ não tăng lên rõ rệt có thể hình thành mối liên hệ thần kinh  tạm thời phức tạp hơn. Những phẩm chất ý chí, tư duy ngôn ngữ  có điều kiện  phát  triển  mạnh.  Ở tuổi này, các em có thể  tham gia tích cực, chủ  động, sáng  tạo vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức. Đặc điểm của sự phát triển   trí tuệ: Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển trí  tuệ. Do cơ thể các em đã được hoàn thiện, đặc biệt là hệ thần kinh đã phát triển  mạnh tạo thuận lợi cho sự phát triển các năng lực trí tuệ. Tri giác và cảm giác   của các em đã đạt tới mức độ của người lớn. Quá trình quan sát gắn liền với tư  duy và ngôn ngữ. Khi thiết kế các hoạt động trải nghiệm GV cần tính đến đặc  điểm này của HS để tạo nên các tình hướng kích thích sự tư duy, sáng tạo của  HS. Tuy nhiên, sự quan sát ở các em thường chưa tập trung cao vào một nhiệm  vụ  nhất định, trong khi quan sát một đối tượng vẫn còn mang tính đại khái,  phiến diện và do vậy các em thường đưa ra kết luận vội vàng không có cơ  sở  thực tế. Do đó GV cần luôn giám sát học sinh khi thực hiện các nhiệm vụ trải  nghiệm để định hướng, uốn nắn kịp thời. Trí nhớ của học sinh THPT cũng phát  triển rõ rệt. Trí nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ. Các  em đã biết sắp xếp lại tài liệu học tập theo một trật tự mới, có biện pháp ghi  nhớ  một  cách  khoa  học. Các  em  đã  có  khả  năng  tư  duy  lý luận, tư  duy trừu 
  15. tượng một cách độc lập và sáng tạo hơn. Hoạt động tư duy của học sinh THPT   phát triển mạnh.. Năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa phát  triển cao giúp cho các em có thể lĩnh hội mọi khái niệm phức tạp và trừu tượng.   Các em thích tìm hiểu, thích khái quát, những quy luật và nguyên tắc chung của  các hiện tượng hàng ngày, của những tri thức phải tiếp thu… Các tình huống,  các nhiệm vụ  trải nghiệm cần tạo cơ  hội để  học sinh hát huy được các khả  năng này. Năng lực tư  duy phát triển đã góp phần nảy sinh hiện tượng tâm lý   mới đó là tính hoài nghi khoa học. Trước một vấn đề các em thường đặt những  câu hỏi nghi vấn hay dùng lối phản đề để nhận thức chân lý một cách sâu sắc  hơn. HS rất hứng thú nếu các nghiệm vụ trải nghiệm cho học sinh các cơ  hội  đưa ra nhiều hương án giải quyết khác nhau. Từ đó phát triển tư duy phản biện,  tranh luận để  tìm ra chân lý. Nhìn chung tư  duy của học sinh  THPT  phát  triển  mạnh, hoạt  động  trí  tuệ  linh hoạt và nhạy bén hơn.  Các em có khả năng phán  đoán và giải quyết vấn đề  một cách rất nhanh. Tuy nhiên,  ở  một số  học sinh  vẫn còn nhược điểm là  chưa phát huy hết năng  lực độc  lập suy nghĩ của bản  thân, còn kết luận vội vàng theo cảm tính. Vì vậy giáo viên cần hướng dẫn, giúp  đỡ các em tư duy một cách tích cực độc lập để phân tích đánh giá sự việc và tự  rút ra kết luận cuối cùng. Việc phát triển khả năng nhận thức của học sinh trong  dạy học cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên. Điều kiện sống và hoạt động: Trong gia đình, các em đã có nhiều quyền  lợi  và  trách  nhiệm  như  người  lớn.  Các  em  cũng  thấy  được  quyền  hạn  và  trách nhiệm của bản thân đối với gia đình. Các em bắt đầu quan tâm chú ý đến  lối  sống  sinh  hoạt,  nề nếp và điều kiện kinh tế  của gia đình. Có thể  nói rằng  cuộc sống của các em trong độ tuổi  này  là  vừa  học  tập  vừa  lao  động;  Ở  nhà  trường,  học  tập  vẫn  là  hoạt  động  chính nhưng  tính  chất  và  mức  độ  thì  phức  tạp  hơn  hẳn  so  với  tuổi  thiếu  niên.  Đòi  hỏi  các em phải tự giác, tích cực độc  lập hơn, biết cách vận dụng tri thức một cách sáng tạo. Nhà  trường  lúc  này  có  ý  nghĩa  đặc  biệt  quan  trọng  vì  nội  dung  học  tập  không  chỉ  nhằm  trang  bị,  hoàn  chỉnh  tri  thức  mà  còn  có  tác  dụng  hình  thành  thế  giới  quan  và nhân sinh  quan  cho  các  em.  Với  các  thay  đổi  trong  điều  kiện  sống  như  trên,  học  sinh  THPT  có  nhiều  điều  kiện  và  thuận  lợi  để  làm  chủ  trong  các  hoạt  động  học,  mong muốn  được  trải  nghiệm  trở  thành  nhu  cầu  tất  yếu  để  khẳng  định  bản  thân.  Vì  vậy  tổ chức  các  hoạt  động  trải  nghiệm  cho  học  sinh  THPT  sẽ  tạo  động  lực  học  tập  tốt  và phát huy được sức sáng tạo trong các hoạt động học.  Tuy nhiên GV cần lưu ý sự hưng phấn và nóng vội có thể dẫn đến những hạn  chế trong kết quả của các hoạt động học. Hoạt  động học tập vẫn là hoạt  động chủ  đạo đối với học sinh THPT   nhưng yêu cầu cao hơn nhiều đối với tính tích cực và độc lập trí tuệ của các em.  Muốn lĩnh hội được sâu sắc các môn học, các em phải có một trình độ  tư  duy  khái niệm, tư duy khái quát phát triển đủ cao. Những khó khăn trở ngại mà các  em  gặp  thường  gắn  với  sự  thiếu kĩ  năng  học  tập  trong  những  điều  kiện  mới  chứ không phải với sự không muốn học như  nhiều người nghĩ. Hứng thú học 
  16. tập của các em  ở  lứa tuổi này gắn liền với khuynh hướng   nghề  nghiệp  nên  hứng thú mang tính đa dạng, sâu sắc và bền vững hơn.Thái độ  của các em đối  với  việc học tập cũng có  những chuyển biến rõ  rệt. Học sinh  đã lớn, kinh  nghiệm của các em đã được khái quát, các em ý thức được rằng mình đang đứng  trước ngưỡng cửa của cuộc đời tự lập. Thái độ  có ý thức đối với việc học tập   của các em được tăng lên mạnh mẽ. Học tập mang ý nghĩa sống còn trực tiếp  vì các em đã ý thức rõ ràng được rằng: cái vốn những tri thức, kĩ năng và kĩ xảo  hiện có, kĩ năng độc lập tiếp thu tri thức được hình thành trong nhà trường phổ  thông là điều kiện cần thiết để  tham gia có hiệu quả  vào cuộc sống lao động  của xã hội. Điều này đã làm cho học sinh THPT bắt đầu đánh giá hoạt động chủ  yếu theo quan điểm tương lai của mình. Vì vậy các hoạt động học trang bị được  nhiều kĩ năng sống cho học sinh và hơn hết tạo điều  kiện  cho  học  sinh  hoàn  thiện các kĩ năng làm việc và kĩ năng sống sẽ lôi cuốn các em tham gia thực sự.  Tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học rất hù hợp để tiế cận và hát triển   các kĩ năng cơ bản cho tương lai nghề nghiệp của HS. Ngoài việc nắm vững các yếu tố  ảnh hưởng đến năng lực hoạt động của   HS THPT thì GV cần nắm rõ các đặc điểm nhân cách chủ  yếu của các em để  thiết kế, tổ  chức HĐTN sao cho có hiệu quả  tốt. Đặc điểm nhân cách của HS   THPT bao gồm: Sự tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của  học sinh THPT, nó có ý  nghĩa to  lớn  đối với sự phát triển tâm  lý của lứa tuổi  này. Biểu hiện của sự tự ý thức là nhu cầu tìm hiểu và tự đánh giá những đặc  điểm tâm lý của mình theo chuẩn mực đạo đức của xã hội, theo quan điểm về  mục đích cuộc sống… Điều đó khiến các em quan tâm sâu sắc tới những phẩm  chất nhân cách, đời sống tâm lý và  năng lực riêng. Các em không chỉ nhận thức  về cái tôi hiện tại của mình mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội  tương lai. Các em không chỉ chú ý đến vẻ bên ngoài  mà còn đặc biệt chú trọng  tới  phẩm  chất  bên  trong.  Các  em  có  khuynh  hướng  phân  tích  và  đánh  giá  bản  thân mình một cách độc lập dù có thể chưa chính xác khi đánh giá. Ý thức làm  người lớn khiến các em có nhu cầu muốn thể  hiện cá tính của mình một cách   độc  đáo,  khẳng  định  bản  thân,  muốn  người  khác  quan  tâm,  chú  ý  đến  mình.  Nhìn  chung  thanh  niên  mới  lớn  có  thể  tự  đánh  giá  bản  thân  một  cách  sâu  sắc  nhưng đôi khi vẫn chưa đúng đắn nên các em vẫn cần sự giúp đỡ thêm của các   thầy cô . Một mặt, thầy cô  phải lắng nghe ý kiến của em các, mặt khác phải  giúp các em hình thành được biểu  tượng  khách  quan về  nhân cách của mình  nhằm giúp cho sự tự đánh giá của các em được đúng đắn hơn, tránh những lệch  lạc, phiến diện trong tự đánh giá. Cần tổ chức hoạt động của tập thể cho các  em có sự giúp đỡ, kiểm tra lẫn nhau để hoàn thiện nhân cách của bản thân. Sự hình thành thế giới quan là nét chủ yếu trong tâm lý thanh niên vì các  em sắp bước vào cuộc sống xã hội, các em có nhu cầu tìm hiểu, khám phá để có  quan điểm và cách nhìn về  tự  nhiên, xã hội, về  các nguyên tắc và quy tắc  ứng 
  17. xử, những định hướng giá trị về con người. Các em quan tâm đến nhiều vấn đề  về thế giới quan như: thói quen đạo đức, cái xấu cái đẹp, cái đúng cái sai, quan   hệ giữa cá nhân với tập thể, giữa cống hiến với hưởng thụ, giữa quyền lợi và  nghĩa vụ trách nhiệm… Tuy nhiên vẫn có em chưa được giáo dục đầy đủ về thế  giới quan, chịu  ảnh hưởng của tư  tưởng cũ như: ý thức tổ  chức kỉ  luật kém,  thích có cuộc sống xa hoa, hưởng thụ  hoặc sống thụ  động, coi khinh lao động  chân tay,… Nhìn chung,  ở  tuổi này các em đã có ý thức xây dựng lý tưởng sống cho  mình, biết xây dựng hình  ảnh con người lý tưởng gần với thực tế  sinh hoạt   hàng ngày. Các em có thể hiểu sâu sắc và tinh tế những khái niệm, biết xử sự  một cách đúng đắn trong những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau nhưng có khi  các em lại thiếu tin tưởng vào những hành vi đó. Vì vậy, giáo viên phải khéo léo,  tế nhị khi lồng ghép giáo dục thế giới quan thông qua các HĐTN. Xu hướng nghề nghiệp: Thanh niên đã xuất hiện nhu cầu lựa chọn vị trí  xã hội trong tương lai cho bản thân và các phương thức đạt tới vị trí xã hội  ấy.  Xu hướng nghề  nghiệp có tác dụng thúc đẩy các mặt hoạt động và điều chỉnh  hoạt động của các em. Càng cuối cấp học thì xu hướng nghề nghiệp càng được  thể hiện rõ rệt và mang tính ổn định hơn. Nhiều em biết nhìn nhận mối quan hệ  giữa những đặc điểm riêng về  thể  chất, về  tâm lý và khả  năng của mình với  yêu cầu của nghề nghiệp. Tuy vậy, sự hiểu biết về yêu cầu nghề  nghiệp của   các em còn phiến diện, chưa đầy đủ, vì cậy công tác hướng nghiệp cho học sinh  thông qua HĐTN rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Qua đó giúp cho học   sinh lựa chọn nghề nghiệp sao cho phù hợp với hứng thú, năng lực và phù hợp   với yêu cầu của xã hội. Hoạt động giao tiếp: Các em khao khát muốn có những quan hệ bình đẳng  trong cuộc sống và có nhu cầu sống cuộc sống tự  lập. Tính tự  lập của các em   thể hiện ở ba mặt: tự lập về hành vi, tự lập về đạo đức, giá trị tự lập và về tình  cảm. Nhu cầu giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi trong tập thể phát triển mạnh.  Trong  tập  thể,  các  em  thấy  được vị  trí, trách nhiệm của  mình và các em cũng  cảm thấy mình cần cho tập thể, cho cộng đồng. Nhìn chung thanh niên mới lớn là thời kỳ đặc biệt quan trọng đối với cuộc   đời con người. Đây là thời kì lứa tuổi phát triển một cách hài hòa, cân đối, là   thời kì có sự  biến đổi lớn về  chất trong toàn bộ  nhân cách để  các em sẵn sàng   bước vào cuộc sống tự lập. Do đó, giáo viên chúng ta phải nhận thức đầy đủ vị  trí của lứa tuổi này để có nội dung, phương pháp giáo dục thích hợp nhằm đem  lại hiệu quả  tối  ưu trong tổ  chức  các hoạt động sư  phạm nói chung và trải  nghiệm nói riêng. 12.2.  Đặc điểm môn Địa lí 11, căn cứ  để  tổ  chức hoạt động trải nghiệm   trong dạy học trên lớp Hoạt động trải nghiệm dược thiết kế và tổ chức ngoài sự phù hợp với đối 
  18. tượng người học và nội dung, hình thức tổ chức cần lấy căn cứ từ chương trình  SGK địa lí 11 trên cơ  sở  GV nghiên cứu yêu cầu về  mục tiêu và phương pháp  của chương trình theo hướng dẫn của Bộ. * Mục tiêu: Học xong chương trình Địa lí 11 (chương trình chuẩn) học sinh đạt được: Về  kiến thức: Hiểu và trình bày được một số  đặc điểm của nền kinh tế  thế giới đương đại và một số vấn đề đang được nhân loại quan tâm; Đặc điểm  tự nhiên, dân cư, kinh tế ­ xã hội của một số khu vực, quốc gia trên thế giới. Về  kĩ  năng:  Củng  cố  và  phát  triển  các kỹ  năng  nhận  xét,  phân  tích,  tổng  hợp, so sánh các sự  vật, hiện tượng địa lí, xây dựng biểu đồ, sử  dụng và khai  thác bản đồ, số  liệu thống kê liên quan đến địa lí kinh tế  ­ xã hội thế  giới, khu  vực và một số quốc gia tiêu biểu; Thu thập, trình bày các thông tin địa lí về một  số khu cực hay quốc gia tiêu biểu trên thế giới; Vận dụng kiến thức ở mức độ  nhất định để giải thích các sự vật, hiện tượng địa lí đang diễn ra trên thế giới. Về  thái độ, hành vi: Có ý chí vươn lên để đóng góp vào sự phát triển kinh tế  ­ xã hội đất nước; Có thái độ đúng đắn trước hiện tượng kinh tế ­ xã hội của một  số  quốc gia, khu vực; Quan tâm đến những vấn đề  liên quan đến Địa lí như  dân  số, môi trường. * Cấu trúc chương trình SGK địa lí 11: Gồm 2 phần: phần 1­ Khái quát chung về  nền kinh tế  ­ xã hội thế  giới;   Phần 2 ­ Địa lí khu vực và quốc gia.Trong phần 1 có 4 chủ  đề: Sự  tương phản   về  trình độ  phát triển kinh tế ­ xã hội của các nhóm nước; xu hướng toàn cầu  hoá, khu vực hoá; một số  vấn đề  mang tính toàn cầu một số  vấn đề  của châu  lục và khu vực. Đây đều là các nội dung mang tính thời sự thu hút được sự chú ý   của HS và kích thích được tư duy phản biện và kĩ năng đánh giá của HS về các   vấn đề  quốc tế. Phần 2 nội dung về  tự nhiên, KT ­ XH của một số nước tiêu  biểu như Hoa Kỳ, EU, Nga, Nhật, Trung Quốc và Đông Nam Á. HS rất thích thú  khi học phần này vì các em có điều kiện khám phá các vẻ đẹp thiên nhiên, con  người, văn hóa và các đặc trưng về kinh tế của các nước và khu vực này. Tuy  nhiên do đặc thù nội dung học liên quan đến các vùng đất xa xôi trên thế giới  nên Hs có thể  sưu tầm thông tin trên mạng nhưng không có điều kiện trải   nghiệm  thực tế. Điều này gây khó khan nhất định đến hình thức tổ  chức các  HĐTN cho HS. * Yêu cầu đối với GV khi thiết kế, tổ chức các hoạt động trải nghiệm  cần: ­ Bám sát Chuẩn kiến thức, kĩ năng để thiết kế bài giảng, với mục tiêu là  đạt được các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ năng, dạy không quá tải   và không quá lệ thuộc hoàn toàn vào SGK. Việc khai thác sâu kiến thức, kĩ năng  phải phù hợp với khả năng tiếp thu của HS.
  19. ­ Thiết kế, tổ  chức, hướng dẫn HS thực hiện các hoạt động học tập với  các  hình thức đa dạng, phong phú, có sức hấp dẫn phù hợp với đặc trưng bài  học, với đặc điểm và trình độ  HS, với điều kiện cụ thể  của lớp, trường và địa  phương. ­ Động viên, khuyến khích, tạo cơ hội và điều kiện cho HS được tham gia   một cách tích cực, chủ  động, sáng tạo vào quá trình khám phá, phát hiện, đề  xuất và lĩnh hội kiến thức; chú ý khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng   đã có của HS; tạo niềm vui, hứng khởi, nhu cầu hành động và thái độ  tự  tin  trong học tập cho HS; giúp HS phát triển tối đa năng lực, tiềm năng của bản   thân. ­ Thiết kế và hướng dẫn HS thực hiện các dạng câu hỏi, bài tập phát triển  tư duy và rèn luyện kĩ năng; hướng dẫn sử dụng các thiết bị dạy học; tổ chức có  hiệu quả các giờ thực hành; hướng dẫn HS có thói quen vận dụng kiến thức đã  học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. ­ Sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lí,   hiệu quả,  linh  hoạt,  phù  hợp  với  đặc  trưng  của  cấp  học,  môn  học;  nội  dung,  tính chất của bài học; đặc điểm và trình độ HS; thời lượng dạy học và các điều  kiện dạy học cụ thể của trường, địa phương. 1.2.3 Thực trạng tổ chức hoạt động trải nghiệm cho HS ở một số trường  THPT tỉnh Nghệ An Việc tổ  chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học ngoài giờ  môn Địa lí  cho học sinh lớp 11 là rất cần thiết, phù hợp với chương trình giáo dục và được  nhiều GV quan tâm.  Về  phía GV, các thầy cô đều cố  gắng để  tổ  chức một số  HĐTN  ở  từng  phần của một số  bài học địa lí 11 cho học sinh với các hình thức như  cho HS  đóng vai hướng dẫn viên du lịch, tổ  chức diễn đàn, đóng hoạt cảnh về  nét văn   hóa một số  nước, trình bày và thuyết trình một số sản phẩm học tập như làm  Brochure, poster, clip, tập san về tự nhiên, kinh tế ­ xã hội của thế giới và một  số  nước, khu vực... Một số  trường đã tổ  chức  cho  HS  tham  gia  hưởng  ứng  phong  trào  thu  gom  rác  trên  bờ  vịnh.  Các  em  rất  vui và tích cực với các hoạt  động này. Qua đó HS được trải nghiệm thực trạng ô nhiễm môi trường biển và  thể hiện hành động cụ thể để bảo vệ môi trường biển nơi mình đang sống. Tuy  nhiên GV đều gặp khó khăn về khâu kinh phí cho các phương tiện, dụng cụ học  tập cho một số hoạt động TN. Về  phía học sinh, các hoạt động đều thu hút được sự  tham gia nhiệt tình   của HS và HS rất hào hứng, tích cực hưởng  ứng các tình huống trải nghiệm.   Tuy nhiên thời gian chuẩn bị cho các HĐTN chưa thực sự nhiều vì cùng lúc các   em phải hoàn thành yêu cầu của nhiều môn học.  Ở  một số  HĐTN chưa huy  động được sự tham gia của số đông HS, nhiệm vụ học tập chỉ do một nhóm học 
  20. sinh  đầu  tư  để  hoàn thành. Qua phiếu điều tra có thể  khẳng định mong muốn  được học thông qua trải nghiệm của HS là rất lớn. Các em rất muốn TN ngay  trong các giờ  học trên  lớp ngoài các  trải nghiệm ở thực tế. Do vậy nhiệm vụ  biên soạn và thiết kế  các giờ  học địa lí theo hướng trải nghiệm của GV bước  đầu đã tiếp cận được mong muốn đổi mới trong học tập của HS nhằm tạo nên  không khí học tập mới, tích cực hơn và hiệu quả hơn. Như vậy ở địa bàn các trường phổ thông trên địa bàn tỉnh, nhiều trường đã  sớm tiếp cận đổi mới giảng dạy và học tập qua HĐTN trong và ngoài không   gian lớp học. GV viên các trường đã có điều kiện trao đổi, học tập kinh nghiệm   thiết kế  tổ  chức các HĐTN với nhau. Tuy nhiên đối với chương trình địa lí 11  GV đang gặp khó khăn trong việc thiết kế, thực thi các HĐTN do đây là chương  trình dạy học về thế giới nên nguồn tài liệu cũng như các kênh thông tin có độ  tin cậy cao về thế giới và các nước có phần hạn chế. Việc xây dựng các HĐTN   tiếp cận các đặc điểm của các nước cũng rất khó cho GV và nhiệm vụ thực thi  các HĐTN với HS cũng không dễ dàng. Dẫn đến các HĐTN cho HS khi học địa  lí 11 còn hạn chế  so với các khối học khác. Đặc biệt với một số  trường điều  kiện còn khó khăn, HS cũng chưa có nhiều cơ hội để trải nghiệm đa  dạng trong  các giờ học địa lí 11, chủ yếu mới chỉ được TN qua kênh nhìn: xem tranh  ảnh,  video. CHƯƠNG 2 THIẾT KẾ MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM TRONG DẠY HỌC  TRÊN LỚP THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH  MÔN ĐỊA LÍ LỚP 11 THPT 2.1 Nguyên tắc của thiết kế hoạt động trải nghiệm môn địa lí  Nguyên tắc 1: Gắn với các tình huống từ thực tiễn đời sống Học tập trải nghiệm sáng tạo mang ý nghĩa rộng là các tình huống hay bối   cảnh có ý nghĩa vận dụng kiến thức vào giải quyết và nó mang ý nghĩa một hoạt  động  xã  hội.  Học  tập  trải  nghiệm  gắn  với  các  tình  huống  từ  thực  tiễn  cuộc  sống  đòi  hỏi  học  sinh  phải  hòa  mình  vào  thực  tiễn  để  giải  quyết  vấn  đề  đó.  Hơn nữa các nội dung học tập trải nghiệm phải mang tính xã hội có nghĩa là nói  tới quy mô rộng lớn của học tập trải nghiệm hướng tới. Với mục tiêu đào tạo ra  những con người mới, thế hệ mới làm chủ nhân tương lai đất nước thì việc đưa  học sinh gần hơn tới thực tế cuộc sống, xã hội sẽ làm nâng cao vốn hiểu biết từ  đó có được kĩ năng sống và vốn kiến thức cần thiết. Nguyên tắc 2: Gắn với những vấn đề  đặc trưng và cần giải quyết  ở  Việt Nam và địa phương Cần đảm bảo chủ đề học tập trải nghiệm phải gắn với những vấn đề cần  giải quyết ở địa phương nơi tập thể sinh sống và học tập, hoặc những điểm nổi  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2