intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng một số phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học truyện ngắn lãng mạn Việt Nam năm 1930-1945 theo định hướng phát triển năng lực học sinh THPT

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:45

24
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài tập trung việc vận dụng phương pháp dạy học hiện đại vào giảng dạy phần truyện lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 trong chương trình Ngữ Văn 11 THPT. Cụ thể là truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam và truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng một số phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học truyện ngắn lãng mạn Việt Nam năm 1930-1945 theo định hướng phát triển năng lực học sinh THPT

  1. 1
  2. A. MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Thực hiện Nghị  quyết Trung  ương số  29­NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm  2013 về  đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, giáo dục phổ  thông  trong phạm vi cả  nước đang thực hiện đổi mới toàn bộ, từ: mục tiêu chủ  yếu   trang bị  kiến thức sang phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh; từ  nội   dung nặng tính hàn lâm sang nội dung có tính thực tiễn cao; từ  phương pháp   truyền thụ một chiều sang phương pháp dạy học tích cực; từ hình thức dạy học   trên lớp là chủ  yếu sang kết hợp đa dạng các hình thức dạy học trong và ngoài  lớp, trong và ngoài nhà trường, trực tiếp và qua mạng; từ  hình thức đánh giá  tổng kết là chủ  yếu sang coi trọng đánh giá trên lớp và đánh giá quá trình; từ  giáo viên đánh giá học sinh là chủ yếu sang tăng cường việc học sinh tự đánh giá  và đánh giá lẫn nhau của học sinh. Vấn đề  dạy học nói chung dạy và dạy học môn Ngữ  Văn nói riêng hiện   nay đang là một vấn đề  nhận được sự  quan tâm rất cao không chỉ  của các nhà   chuyên môn, các nhà nghiên cứu mà chính bản thân nó cũng đang thu hút được  rất nhiều sự  quan tâm của xã hội. Có thể  dễ  dàng nhận thấy, hiện nay thái độ  học tập của học sinh với môn Ngữ  Văn trong nhà trường   đang có dấu hiệu   giảm sút khá rõ nét. Vốn được xem là một môn học cần thiết, một môn học   mang ý nghĩa nhân văn rất cao hướng học sinh đến cái chân, thiện, mỹ  nhưng  thái độ  của học sinh với môn Ngữ  Văn không  được hứng thú, yêu thích nhiều   như giá trị mà nó mang lại. Đa số học sinh cũng không chủ động, tích cực trong   việc học tập môn Ngữ Văn mà đón nhận nó một cách thụ động. Hiện tượng học  sinh không còn hứng thú với môn Ngữ Văn không còn là hiện tượng hiếm thấy   nữa mà trở  thành một hiện tượng phổ  biến. Chính vì không còn hứng thú với  môn học nên ý thức, thái độ  của học sinh với môn học có phần không tốt, dẫn  đến hiệu quả chưa được cao. Thêm vào đó hiên nay yêu cầu đổi mới dạy học môn Ngữ văn ở THPT đang  chú trọng mục tiêu, phương pháp. Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học   đã được Nghị  quyết 29­NQ/TW ngày 4/11/2013, Ban Chấp hành Trung  ương   khóa XI ban hành Nghị quyết số về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào   tạo. Nghị quyết 29 có một quan điểm chủ chốt là: “Chuyển mạnh quá trình giáo   dục từ  chủ  yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm  chất người học”.  Về  mục tiêu, Chương trình giáo dục phổ  thông (Ban hành kèm theo Thông  tư  số  32/2018/TT­BGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào  tạo) đã xác định yêu cầu cần đạt về  phẩm chất chủ  yếu và năng lực chung:  "Môn Ngữ văn góp phần hình thành, phát triển ở học sinh những phẩm chất chủ  yếu và năng lực chung theo các mức độ phù hợp với môn học, cấp học đã được  quy định tại Chương trình tổng thể" ­ đó là: năng lực tự chủ và tự học, năng lực  2
  3. giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo  Đứng trước những vấn đề  đó đặt ra cho chúng tôi, những người trực tiếp   giảng dạy trên lớp có nhiều băn khoăn trăn trở. Làm sao để  tạo được hứng thú  cho HS trong quá trình dạy học? Làm sao để các em yêu thích môn Văn? Làm sao   để giúp các em phát huy những năng lực của mình? Cho nên việc dạy văn trong   nhà trường phổ thông đang là một thử thách lớn với giáo viên hiện nay. Dạy như  thế nào cho hay, hiệu quả cao, tạo sự hứng thú, say mê cho học sinh quả thực là   cả một vấn đề lớn. Việc học sinh không thích thú với môn văn cũng có nhiều lí  do, tuy nhiên có một nguyên nhân khá quan trọng đó là: Thầy cô giáo chưa thực   sự tạo ra sự cuốn hút học sinh bằng bài giảng của mình. Thầy cô chưa thực sự  có nhưng bước ngoặt đột phá trong việc đổi mới phương pháp, một số giáo viên  vẫn nặng về phương pháp truyền thống thế nên việc dạy và học chưa thực sự  hiệu quả. Với vai trò tổ  chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của  học sinh, hơn ai hết việc phải tìm ra nhiều biện pháp để phát huy cao nhất tính   tích cực sáng tạo của người học, tạo niềm hứng thú say mê học tập  ở  các em  chính là nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi người giáo vên đứng lớp.  Xuất  phát  từ   những  vấn  đề   trên,  với mong muốn  góp một  phần  vào  việc  tạo thêm   hứng thú cho người học, giúp học sinh tích cực, chủ động tiếp nhận tri thức và   hình thành kĩ năng, phát triển nhân cách, đồng thời nhằm góp phần đổi   mới  phương pháp dạy học Ngữ văn truyền thống chúng tôi mạnh dạn xin được trao  đổi một số  kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng dạy bộ  môn Ngữ  văn  ở  trường THPT nói chung và việc dạy phần truyện ngắn lãng mạn Việt  Nam 1930 – 1945 nói riêng. Việc vận dụng phương pháp dạy học hiện đại vào  dạy học một tác phẩm văn học là điều rất cần thiết trong quá trình đổi mới   phương pháp dạy học trong những năm gần đây. Với vai trò then chốt nhằm tạo   sự  hấp dẫn, làm tăng hiệu quả  việc dạy – học một tác phẩm văn học, thế  nhưng trong các tài liệu phục vụ  cho việc dạy – học môn Ngữ  văn trong nhà   trường chưa thấy đề  cập đến việc tìm hiểu, khám phá truyện ngắn lãng mạn  dựa vào phương pháp dạy học hiện đại. Vì vậy  ở  để  tài này chúng tôi muốn   vận dụng phương pháp dạy học hiện đại nhằm phát triển năng lực của học sinh  để  đi sâu vào khai thác thế  giới của tác phẩm và để  tạo sự  hấp dẫn, hứng thú  cho học sinh khi tiếp cận một tác phẩm văn học hiện đại. Vậy xin trình bày đề  tài Vận dụng một số phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học truyện ngắn   lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945 theo định hướng phát triển năng lực học sinh   THPT. Đề tài này là công trình của chúng tôi chưa được cá nhân, tập thể và công  trình giáo dục nào công bố  trên các tài liệu sách báo và diễn đàn giáo dục hiện  nay. II. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG 3
  4. 1. Phạm vi khảo sát Đề tài tập trung việc vận dụng phương pháp dạy học hiện đại vào giảng   dạy  phần truyện lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 ­ 1945 trong chương trình  Ngữ  Văn 11 THPT. Cụ  thể  là truyện ngắn  Hai đứa trẻ  của Thạch Lam và  truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. 2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là truyện ngắn Việt Nam thời kì đầu thế  kỉ XX đến cách mạng tháng tám năm 1945 trong chương trình Ngữ văn 11 THPT,  cụ  thể  là phần truyện ngắn lãng mạn. Cụ  thể  là truyện ngắn Hai đứa trẻ  của  Thạch Lam và truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. III, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Phương pháp so sánh Sử  dụng phương pháp so sánh để  thấy được khác biệt giữa truyện ngắn  lãng mạn với truyện hiện thực phê phán để  từ  đó thấy được đặc điểm, giá trị  của truyện ngắn lãng mạn. 2. Phương pháp phân tích Sử dụng phương pháp phân tích để đi sâu vào phân tích, khám phá thế giới   nội dung, nghệ thuật của thể loại truyện ngắn lãng mạn. 3. Phương pháp thống kê, phân loại Thống kê phân loại các phương pháp, kĩ thuật dạy học hiện đại. 4. Phương pháp điều tra, điền giả, ghi chép Điều tra, điền giả bằng thực nghiệm giảng dạy và kiểm tra đánh giá học   sinh để thấy được tính hiệu quả hay không hiệu quả của sáng kiến IV. CẤU TRÚC A. Phần mở đầu B. Nội dung I. Cơ sở của đề tài. II. Một số giải pháp. C. Kết luận và kiến nghị 4
  5. B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận 1.1 Yêu cầu về đổi mới giáo dục và đào tạo Nghị quyết trung ương IV về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào   tạo đã chỉ rõ "Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, các bậc học   cần áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh  năng lực và tư  duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, phải thường xuyên  khơi dậy, rèn luyện và phát triển năng lực tự học, tự nghiện cứu năng lực nghĩ   và làm một cách tự  chủ. Năng lực tự  đặt và giải quyết vấn đề  ngay trong quá  trình học tập ở nhà trường, đi đôi với vai trò mới của thầy là người hướng dẫn   cho người học biết tự mình tìm kiến thức, xử lí những tình huống, biết làm việc   cá nhân, với bạn với thầy, với tập thể, biết chuyển quá trình đào tạo của mình,  là người trọng tài đánh giá, kết quả học tập, là người cố vấn giúp người học tự  đánh giá, tự điều chỉnh theo yêu cầu của mục tiêu người học. Nghị  quyết số: 29­NQ/TW, ngày 4/11/2013 “Về  đổi mới căn bản, toàn  diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong   điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”   đã được Hội nghị  Trung  ương 8 (khóa XI) thông qua. Nghị  quyết nêu rõ: Phát  triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân  tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ  chủ  yếu trang bị  kiến thức sang phát   triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận  gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo   dục xã hội. Thực tiễn đổi mới chương trình giáo dục 2018 đã xác định cách xây dựng   chương trình theo định hướng phát triển năng lực. Đây là xu hướng tất yếu, đáp  ứng yêu cầu giáo dục và đào tạo con người trong bối cảnh khoa học và công  nghệ phát triển với tốc độ chưa từng có và nền kinh tế tri thức đóng vai trò ngày   càng quan trọng đối với mọi quốc gia. Ngữ văn là môn học công cụ, mang tính nhân văn. Các đặc trưng này thể  hiện qua những mục tiêu cơ  bản của nó và cách tiếp cận những mục tiêu đó.   Môn Ngữ  văn giúp học phát triển các năng lực và phẩm chất tổng quát và đặc   thù, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông nói chung.  Năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực   5
  6. tự  học là những năng lực tổng quát, liên quan đến nhiều môn học. Năng lực sử  dụng ngôn ngữ và năng lực thẩm mỹ mà chủ yếu là cảm thụ văn học là những  năng lực đặc thù, trong đó năng lực sử  dụng ngôn ngữ  để  giao tiếp và tư  duy  đóng vai trò hết sức quan trọng trong học tập của học sinh và công việc của các   em trong tương lai, giúp các em nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời với   quá trình giúp học sinh phát triển các năng lực tổng quát và đặc thù, môn Ngữ  văn có sứ  mạng giáo dục tình cảm và nhân cách cho người học. Để  phát triển   được phẩm chất và năng lực của học sinh cần phải có rất nhiều yếu tố, trong   đó phương pháp dạy học đóng vai trò hết sức quan trọng. Với phạm vi của để  tài này, chúng tôi sẽ  đưa một số  phương pháp dạy   học hiện đại nhằm hướng đến sự phát triển năng lực của học sinh THPT. 1.2 Khái niệm về phương pháp dạy học hiện đại Phương pháp dạy học hiện đại hay còn có tên gọi khác là phương pháp   dạy học tích cực. Phương pháp này có nguồn gốc từ  các nước phương Tây từ  thế  kỷ  20. Và trong những năm gần đây, phương pháp dạy học hiện đại đang  ngày càng có  ảnh hưởng rộng rãi đến các nước trên thế  giới, trong đó có Việt  Nam. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn rất nhiều người xa lạ đối với phương pháp  này, chưa hiểu về cách dạy của nó.     Như   chúng   ta   đã   biết   phương   pháp   dạy   học   truyền   thống   là   những  phương pháp được cha ông chúng ta truyền lại qua nhiều thế hệ, phương pháp   này sẽ  lấy người thầy, người dạy học là trung tâm. Còn đối với phương pháp  dạy học hiện đại lại khác hoàn toàn. Phương pháp dạy học hiện đại là phương   pháp dạy cho học sinh chủ  động trong suy nghĩ, tư  duy và hành động. Trong  phương pháp này, người thầy chỉ  giữ  vai trò định hướng, đưa ra ý kiến gơi ý,   hướng dẫn tìm kiếm tài liệu, tổ  chức các buổi thảo luận, tranh luận cho học   sinh  của mình. Từ đó học sinh sẽ chủ động trong việc tìm kiếm thông tin, tích   lũy kinh nghiệm, rèn luyện khả năng phán đoán và trưởng thành, tự tin hơn qua  mỗi bài học. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp dạy học hiện đại.     Ưu điểm :         Do phương pháp dạy học hiện đại rất chú trọng tới kĩ năng thực hành,   nên học sinh có khả năng linh hoạt trong việc sử lý các tình huống thực tiễn         Rèn luyện cho học sinh, sinh viên tính chủ động trong lối suy nghĩ, tư duy   khi học tập.         Khả năng tự tin được nâng cao qua mỗi bài thảo luận và tranh luận.  Nhược điểm:          Trong phương pháp dạy học hiện đại sẽ  giảm bớt các bài thuyết trình,   giảng giải mà chỉ  trú trọng vào hướng dẫn cách làm, cách suy nghĩ, tăng khả  6
  7. năng chủ động cho học sinh, sinh viên. Từ  đó thường khiến học sinh, sinh viên   không hiểu được bài nếu không tập trung và theo sát bài giảng của giáo viên.          Do phương pháp dạy học hiện đạ  được du nhập từ  các nước phát triển   phương Tây và chúng ta cũng không thể  phủ  nhận được những lợi ích mà nó  mang lại. Tuy nhiên, đi  đôi với nó là những yêu cầu về  cơ  sở  vật chất và  phương tiện hỗ trợ dạy học của phương pháp dạy học hiện đại. Cho nên nhiều   giáo viên  ở  các trường học  ở  Việt Nam hiện nay vẫn không áp dụng được  phương pháp này do không đáp ứng được các yêu cầu trên. Những đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học hiện đại.   Lồng ghép các bài học vào các hoạt động thực tế: Việc dạy học thông qua  các hoạt động thực tế sẽ giúp các bạn học sinh, sinh viên  tiếp nhận kiến thức  nhanh hơn. Qua đó, giáo viên không cần phải giảng dạy chi tiết, áp đặt các kiến  thức cho học sinh, sinh viên.    Tự  giác học tập: Phương pháp dạy học hiện đại mang lại rất nhiều  ưu  điểm. Do đó, phuong pháp này cũng yều cầu người học phải tự  giác tìm kiếm   tài liệu, tự suy nghĩ, tự khám phá và rút ra kinh nghiệm … Không những thế học  sinh, sinh viên trước khi theo học tiết học sử  dụng phương pháp này thì luôn   phải chuẩn bị trước bài tập ở nhà nếu không muốn không thể theo kịp bài dạy.    Phối hợp gữa học nhóm và tự học: Học sinh, sinh viên vừa phải tham gia  các hoạt động học nhóm để tăng khả năng giao tiếp, tính chủ động, tính tự giác  và tạo nguồn động lực học tập khi học nhóm. Đồng thời, các bạn cũng cần có  những buổi tự học để tập hợp kiến thức, tập chung suy nghĩ.    Giáo viên và người học cùng nhau đánh giá: Nếu dạy học theo phương   pháp truyền thống thường chỉ có giáo viên mới cần đưa ra những nhận xét đánh   giá của mình đối với học sinh, sinh viên. Còn đối với phương pháp dạy học hiện  đại thì giáo viên cùng với người học cùng đưa ra đánh giá của mình. Việc họ  cùng đưa ra những ý kiến đánh giá, nhận xét sẽ  dễ  dàng tìm ra các biện háp   khắc phục những chỗ còn thiếu xót trong bài giảng của giáo viên. Một số phương pháp dạy học hiện đại. Phương pháp hỏi – đáp: là phương pháp giáo viên sẽ đưa ra các câu hỏi để  học sinh trả lời hoặc tranh luận, đưa ra ý kiến phản bác. Từ đó, học sinh có thể  rút ra được bài học. Không những thế, phương pháp hỏi­ đáp còn đòi hỏi các em   học sinh phải ghi nhớ được kiến thức, nội dung bài học, chuẩn bị trước ở nhà. Tạo và giải quyết các tình huống: Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển,   rất nhiều các tình huống, vấn đề  chỉ  được giải quyết bằng những cuộc thảo  luận hoặc tranh luận. Do đó, Phương pháp tạo và giải quyết các tình huống dựa  vào thực tế  sẽ giúp các em học sinh không bỡ  ngỡ, bất ngờ  khi bắt gặp, đồng  thời nắm được các cách giải quyết chúng. 7
  8. Phương pháp đóng vai: Trong phương pháp này, học sinh sẽ  được đóng  vai thành một số nhận vật trong các tình huống được giáo viên tạo ra. Từ đó, các   em sẽ  được rèn luyện thành thạo các kỹ  năng  ứng xử, giải quyết tình huống,   kìm chế cảm xúc. Ngoài ra, phương pháp này sẽ khiến tạo sự mới lạ, thích thú  cho các bạn học sinh dễ dàng tiếp thu các kiến thức mà giáo viên muốn truyền  đạt. Sử dụng bộ não: Trong phương pháp này, giáo viên sẽ giúp học sing kích  thích não bộ, nảy sinh được nhiều ý tưởng, sáng tạo thông qua các bài dạy. Để  có thể  thực hiện  phương  pháp  này, giáo  viên sẽ   đưa  ra các  biện  pháp như  khuyến   khích   học   sinh   phát   biểu,   tổ   chức   các   buổi   vui   chơi   học   tập   theo   nhóm…. Phương pháp dạy học hiện đại là một phương pháp mang lại rất nhiều  ưu điểm. Tuy nhiên, nó không phải là phương pháp hoàn hảo cho mọi bài giảng  cũng như phù hợp với tất cả các bạn học sinh. Do đó, trước khi áp dụng phương  pháp nào vào bài dạy, giáo viên nên tìm hiểu kỹ về phương pháp đó. Và phương   pháp dạy học hiện đại cũng vậy. Hiện  nay,  các   nhà  nghiên  cứu  giáo  dục  đã  đưa  ra  nhiều  phương  pháp  dạy học tích cực nhằm giúp học sinh không chỉ  tiếp thu kiến thức tốt mà còn  phát triển năng lực. Tuy nhiên, để  áp dụng giáo viên cần linh hoạt tuỳ  vào bài  học để  chọn được kỹ  thuật phù hợp. Bên cạnh các kỹ  thuật dạy học thường  dùng, có thể  kể  đến một số  kỹ  thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo  của người học. 2. Cơ sở thực tiễn  2.1. Về phía giáo viên Hiện nay nhiều GV vẫn còn sử dụng phương pháp dạy học truyền thống   vào các giờ  dạy học Ngữ  Văn nói chung, dạy truyện lãng mạn 1930­1945 nói   riêng. Trong giờ học chủ yếu là giáo viên làm việc còn học sinh thụ  động ngồi  nghe, chép lại và về  học lý thuyết đó. Vì thế  trong giờ  học   giáo viên là tâm  điểm, mọi kiến thức được truyền đạt đầy đủ từ A đến Z. Nhưng  học sinh  tiếp  thu kiến thức một cách thụ  động, giờ  học cũng buồn tẻ  và kiến thức chỉ  thiên   về lý thuyết. Bởi vì không có nhiều cơ  hội thực hành, nên học sinh khó có thể  áp dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn. Hơn nữa phương pháp truyền  thống còn làm hạn chế việc phát triển các kỹ năng vốn có của học sinh, làm học   sinh mất tự tin. Việc dạy ­ học truyện ngắn nói chung và truyện ngắn lãng mạn Việt   Nam giai đoạn 1930 ­ 1945 nói riêng còn gặp những khó khăn nhất định. Truyện  lãng mạn được đưa vào giảng dạy hiện nay là những tác phẩm chứa đựng trong   đó nhiều nội dung, tư  tưởng, quan niệm của tác giả  mà tác giả  lại không đóng  vai trò là “một cái loa phát ngôn”. Vì vậy người tiếp nhận có thể    có nhiều   hướng tiếp cận khác nhau trong quá trình khám phá tác phẩm. Đối diện với cái  8
  9. mới, cái khác trong văn học, người giáo viên cũng phải đối diện với những áp   lực nhất định về  những tri thức xã hội, thời đại mới. Điều này đòi hỏi người   giáo viên phải tự  trang bị  cho mình vốn kiến thức sâu, rộng hơn. Đặc biệt là  những kiến thức liên quan đến sự khác biệt trong các loại truyện ngắn hiện đại.   Giáo viên tổ chức giờ dạy – học làm sao phát huy tối đa tính tích cực, chủ động  sáng tạo, phát huy được các phẩm chất, năng lực của học sinh. Có một thực tế  nữa là trong thời đại bùng nổ  công nghệ  thông tin ngày nay, người học có thể  tìm hiểu các thông tin và cách tiếp cận tác phẩm văn học qua nguồn tài liệu  phong phú và đa dạng trên internet. Vì vậy để  tổ  chức được một giờ  dạy tác   phẩm văn học nói chung và truyện ngắn nói riêng đạt hiệu quả  cao người dạy   cần phải có kiến thức sâu rộng, có bản lĩnh và khả năng tổ chức tốt. Nhiều lúc   giáo viên còn đóng vai trò của một “trọng tài” đứng ra xử  lí những bất đồng   trong cách tiếp cận, cách hiểu văn bản khác nhau của người học.  Thực tế  của quá trình dạy và học trong thời đại bùng nổ  thông tin hiện   nay đòi hỏi người dạy nói chung và dạy Văn nói riêng cần phải có những đổi   mới về  mặt phương pháp dạy học sao cho phù hợp với yêu cầu phát huy năng  lực của người học. Do vậy đổi mới phương pháp giảng dạy Văn đang là yêu   cầu cấp bách và nhiệm vụ nặng nề đối với người thầy không chỉ để  thực hiện  những chỉ  thị  mà là nhằm đáp  ứng được nhu cầu chính đáng của người học và   của công tác đào tạo trong tình hình hiện nay. 2.2. Về phía học sinh Theo xu hướng chọn trường, chọn nghề hiện nay, đa số HS chọn môn tự  nhiên để  học. Các em học môn Ngữ  văn với mục tiêu lấy điểm, mà chưa thấy  được những giá trị bồi đắp tư tưởng, tình cảm cho mình. Với đặc điểm bài dài,   phải đọc nhiều, chép nhiều, học thuộc nhiều, phương pháp dạy học chưa sáng  tạo là một trong những nguyên nhân dẫn đến thái độ  học tập chưa tích cực  ở  môn Ngữ văn, nhất là đối với các tác phẩm tự sự.  Đa số HS không đọc tác phẩm, soạn bài một cách đối phó. Thông thường,   các em sử dụng tài liệu, chép lại một cách thụ động, nhiều em còn mượn vở ghi   của anh chị lớp trước hay bạn bè lớp khác đã học rồi chép lại một công đôi việc vừa có soạn bài, vừa để nếu GV có gọi hỏi bài mà nhìn vào đó trả lời.  Việc HS ham học, thích học Văn cũng không nhiều vì đặc trưng bộ môn   cũng khó tiếp cận, kiến thức nhiều, các em phải học thuộc rất vất vả. Thêm vào  đó nhiều em còn chây lười, nhác học, không muốn tìm hiểu, đọc bài trước khi  lên lớp. Giáo viên lại không tạo được hứng thú nên nhiều giờ  học không hiệu  quả.. Việc học sinh không chịu chuẩn bị bài trước khi đến lớp đã ảnh hưởng rất  nhiều đến giờ dạy Ngữ văn nói chung và dạy đọc – hiểu nói riêng. Khả năng sử  dụng tiếng Việt của một số học sinh còn hạn chế nên kĩ năng đọc, tiếp cận một  tác phẩm văn chương còn gặp nhiều khó khăn. Bởi vì khi tiếp xúc với văn  9
  10. chương nghệ thuật, học sinh không phải chỉ đọc, cảm thụ các dòng chữ  in trên  giấy, mà trước hết phải đọc để biến các kí hiệu chữ thành nghĩa, thành thế giới   hình tượng, trên cơ sở đó mới cảm thụ thế giới nghệ thuật bằng ngôn từ. 2.3. Về vấn đề tài liệu tham khảo Tài liệu tham khảo hiện nay như sách giáo viên, thiết kế bài giảng... đang  nặng về  phân tích nội dung mà chưa chú trọng nhều vào việc vận dụng các  phương pháp dạy học vào quá trình dạy học. Thực tế của việc dạy – học truyện ngắn trong trường THPT.   Khi có dịp  dự  giờ  các đồng nghiệp, kể  cả  giờ  dạy bình thường và cả  giờ  dạy thao giảng  những bài về truyện ngắn nói chung và truyện ngắn lãng mạn giai đoạn 1930 ­   1945 nói riêng, chúng tôi nhận thấy hầu hết các giờ dạy đều đi sâu vào khai thác   các chi tiết cụ  thể, từ  đó khái quát lên nội dung, tư  tưởng, nghệ  thuật của tác   phẩm theo chiều hướng áp đặt mà chưa vận dụng các phương pháp dạy học   hiện đại để phát huy hết năng lực của người học. Với đề  tài này, chúng tôi hy vọng việc vận dụng các phương pháp dạy   học hiện đại để  tiếp cận truyện ngắn lãng mạn sẽ  mang lại những thuận lợi   nhất định trong việc tìm hiều, khám phá những tư tưởng, quan niệm của nhà văn  đã gửi gắm gián tiếp qua thế giới nhân vật của mình. II.   VẬN   DỤNG   MỘT   SỐ   PHƯƠNG   PHÁP   DẠY   HỌC   HIỆN   ĐẠI  TRONG   DẠY   HỌC   TRUYỆN   NGẮN   LÃNG   MẠN   VIỆT   NAM   1930   ­1945  THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH TRUNG HỌC   PHỔ THÔNG 1. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực 1.1. Khái niệm Dạy học theo hướng phát triển năng lực đã phát triển từ  những năm 90  của thế  kỷ  trước và giờ  đang trở  thành xu hướng giáo dục được cả  thế  giới   quan tâm. Đối với nước ta, dạy học theo hướng phát triển năng lực cũng đã  được áp dụng trong chương trình giảng dạy cho tất cả  các cấp học. Vậy dạy   học theo định hướng phát triển năng lực là gi? Dạy học phát triển năng lực là quá trình thiết kế, tổ  chức và phối hợp  giữa hoạt động dạy và hoạt động học, tập trung vào kết quả  đầu ra của quá   trình này. Trong đó nhấn mạnh người học cần đạt được các mức năng lực như  thế nào sau khi kết thúc một giai đoạn (hay một quá trình) dạy học.  Để giúp bạn  đọc hiểu rõ bản chất khái niệm dạy học theo định hướng phát triển năng lực,  chúng ta sẽ  đi vào tìm hiểu từng khái niệm năng lực, phát triển năng lực, định  hướng phát triển năng lực. Năng   lực:  Về   nguồn   gốc,   khái   niệm năng   lực   (Tiếng   Anh:  Competency) bắt nguồn từ  tiếng La tinh “competencia”. Trên thế  giới và tại   10
  11. Việt Nam, có rất nhiều các quan điểm về năng lực. Nhưng tựu chung lại, năng  lực có thể được hiểu một cách đơn giản là khả  năng hoàn thành nhiệm vụ  đặt  ra, gắn với một loại hoạt động cụ  thể  nào đó. Năng lực là một yếu tố  cơ  bản  của nhân cách nên mang dấu ấn cá nhân, thể hiện tính chủ quan trong hành động   và được hình thành theo quy luật hình thành và phát triển nhân cách, trong đó tính  tích cực hoạt động và giao lưu của cá nhân đóng vai trò quyết định. Năng lực ở  mỗi con người có được nhờ  vào sự  kiên trì học tập, rèn luyện và tích lũy kinh   nghiệm của bản thân trong hoạt động thực tiễn. Phát triển năng lực: Là phát triển những khả  năng hoàn thành nhiệm vụ  đặt ra, phát triển nhân cách, trong đó tính tích cực hoạt động và giao lưu của cá  nhân đóng vai trò quyết định. Phát triển sự kiên trì học tập, rèn luyện và tích lũy  kinh nghiệm của bản thân trong hoạt động thực tiễn. Phát triển khả  năng thực  hiện thành công hoạt động trong bối cảnh nhất định nhờ sự huy động tổng hợp   các kiến thức, kỹ năng và phát triển các thuộc tính cá nhân khác như  hứng thú,   niềm tin, ý chí… Phát triển các năng lực chung cũng như  năng lực đặc thù của  học sinh. Định hướng phát triển năng lực: Định hướng phát triển năng lực là đảm  bảo hướng tới phát triển năng lực người học thông qua nội dung giáo dục với   những kỹ năng, kiến thức cơ bản, hiện đại và thiết thực; giáo dục hài hòa đức,  trí, thể, mỹ ; chú trọng vào việc  thực hành, vận dụng các kiến thức, kỹ năng đã  được trang bị trong quá trình học tập để giải quyết các vấn đề trong học tập và  đời sống hàng ngày; tích hợp cao  ở  các lớp học dưới, phân hoá dần  ở  các lớp  học trên. Thông qua hình thức tổ  chức giáo dục và các phương pháp giáo dục,   phát huy tiềm năng và tính chủ  động của mỗi học sinh. Đồng thời có những  phương pháp đánh giá phù hợp với mục tiêu giáo dục đặt ra. Định hướng nhằm  phát triển tối đa tiềm năng vốn có của từng đối tượng học sinh khác nhau, dựa   trên các đặc điểm tâm ­ sinh lí, nhu cầu, khả năng, hứng thú và định hướng nghề  nghiệp khác nhau của từng học sinh. Giúp học sinh phát triển khả  năng huy  động tổng hợp các kỹ năng, kiến thức... thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải  quyết một cách hiệu quả nhất các vấn đề xảy ra trong học tập và đời sống hàng  ngày, được thực hiện ngay trong quá trình lĩnh hội tri thức và rèn luyện kỹ năng  sống.  Theo chương trình giáo dục phổ thông mới định hướng 10 năng lực cốt lõi   cần phát triển cho HS là: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp   tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực tìm hiểu xã hội, năng lực   ngôn ngữ, năng lực công nghệ, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể  chất, năng lực   tin học, năng lực tính toán. Theo  đó, dạy học theo hướng phát  triển năng lực là mô hình dạy học  hướng tới mục tiêu phát triển tối đa phẩm chất và năng lực của người học  thông qua cách thức tổ chức các hoạt động học tập độc lập, tích cực, sáng tạo   của học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn và hỗ trợ hợp lý của giáo viên. Trong   11
  12. mô hình này, người học có thể thể hiện sự tiến bộ bằng cách chứng minh năng   lực của mình. Điều đó có nghĩa là người học phải chứng minh mức độ  nắm   vững và làm chủ  các kiến thức và kỹ  năng (được gọi là năng lực); huy động   tổng hợp mọi nguồn lực (kinh nghiệm, kiến thức, kĩ năng, hứng thú, niềm tin, ý  chí,…) trong một môn học hay bối cảnh nhất định, theo tốc độ của riêng mình.  1.2. Đặc điểm của dạy học theo định hướng phát triển năng lực Dạy học phát triển năng lực có bốn đặc điểm chính: Thứ nhất, dạy học theo định hướng phát triển năng lực được thiết kế theo   hướng phân hóa dựa trên hứng thú, nhu cầu và nền tảng kiến thức, sở thích cũng  như thế mạnh của học sinh. Phương pháp này cho phép người học cá nhân hóa,  đa dạng hóa việc học để  đáp ứng nhu cầu của bản thân theo hướng có lợi cho   họ. Tức là, ngoài số giờ lên lớp theo quy định, học sinh có quyền lựa chọn môn  học, hình thức học ở bất kỳ đâu và bất cứ thời điểm nào (học online, học nhóm, …) để  giúp học sinh phát triển tối đa năng lực vốn có của mình. Phương pháp   học này mang đến sự  tự  do, linh hoạt cho học sinh, loại bỏ sự  bất bình đẳng   trong quá trình học tập. Học sinh được coi là trung tâm của quá trình học và luôn  cảm thấy thoải mái, dễ chịu. Thứ hai, dạy học theo hướng phát triển năng lực định hướng để học sinh  có thể  tiếp thu kiến thức cần  thiết và nâng cao khả năng thực hành, vận dụng  kiến   thức   đã   học   được.   Kiến   thức,   kỹ   năng   và   cách   ứng   xử   là   những   “tài   nguyên” để các em  thực hiện nhiệm vụ cụ thể để hình thành và phát triển năng  lực. Thứ ba, dạy học phát triển năng lực xác định và đo lường năng lực đầu ra   của học sinh dựa trên mức độ làm chủ kiến thức môn học. Học sinh thể hiện sự  tiến   bộ   của   mình   thông   qua   việc   chứng   minh   năng   lực   mà   không   dựa   trên  khoảng thời gian cố định như học kỳ hay cấp học. Thứ  tư, dạy học theo định hướng phát triển năng lực giúp người học có   thể  chọn cách tiếp nhận các tài liệu học tập kể  cả  thời điểm và nhịp độ  học   tập. Điều này khuyến khích khả năng làm việc độc lập và tự chủ của học sinh,   phát triển tối đa các kỹ năng để đạt được mục tiêu học tập. 1.3. Ý nghĩa của dạy học theo định hướng phát triển năng lực Dạy học theo định hướng phát triển năng lực giúp đảm bảo chất lượng   đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển các phẩm chất nhân cách  và năng lực của học sinh một cách toàn diện. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực chú trọng năng lực vận  dụng kiến thức của bài học vào việc giải quyết các tình huống thực tiễn từ  đó  giúp học sinh áp dụng được những gì đã học vào thực tế cuộc sống.  Điều này  giúp người học có năng lực giải quyết các vấn đề  cuộc sống và nghề  nghiệp   cũng như giúp học sinh thích ứng với những thay đổi của cuộc sống. 12
  13. Với một số  học sinh, dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho  phép đẩy nhanh tiến độ  hoàn thành chương trình học, tiết kiệm thời gian và  công sức cho việc học. Dạy học theo hướng phát triển năng lực tạo ra những giờ học thú vị, sôi  động và cuốn hút học sinh vào các hoạt động tìm tòi, khám phá kiến thức.Từ đó  phát triển các kỹ  năng học tập của học sinh một cách toàn diện để  giải quyết  vấn đề, tự học và hợp tác cùng tư duy sáng tạo. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực giúp cách giảng dạy trở nên   hiệu quả  hơn, giáo viên đáp  ứng được nhu cầu học của từng học sinh và đảm  bảo mọi học sinh đều tận dụng giờ học một cách tối đa. 2. Một số phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực 2.1. Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động Việc tổ  chức cho học sinh tham gia vào các hoạt động học tập sẽ  giúp  việc học trở  thành tự  thân và đạt hiệu quả  cao nhất. Qua các hoạt động, học   sinh sẽ  ghi nhớ  kiến thức được tốt hơn và phát triển năng lực học sinh toàn   diện. Cách dạy này giúp học sinh học tập và hoạt động dưới sự tổ chức, hướng  dẫn và điều khiển của giáo viên trong suốt quá trình tiếp thu kiến thức,rèn luyện  kỹ năng và hình thành hành vi hay thái độ học tập đúng đắn. Cách dạy này cũng giúp môi trường học tập trở  nên sôi động, vui vẻ  và  hào hứng hơn cho học sinh. Học sinh và giáo viên cùng tham gia học tập và hoạt   động, các hoạt động dạy học cũng  đa dạng tùy theo nội dung của bài học.  Thông thường, giáo viên có thể  áp dụng các hoạt động cơ  bản như: khởi động   đầu giờ, hình thành kiến thức mới qua việc đọc tài liệu, sách giáo khoa,… cho  học sinh tự  nghiên cứu, tự  học. Giáo viên cũng có thể  tổ  chức cách hoạt động  ngoài giờ... 2.2. Dạy học thông qua tương tác và hợp tác Trong dạy học theo định hướng phát triển năng lực sẽ có sự tương tác hai  chiều, trong đó có hỏi đáp, tranh luận và phản biện giữa giáo viên và học sinh  cũng như  giữa học sinh với nhau. Từ đó sẽ  tạo nên mối quan hệ  giao lưu, hòa  đồng và hợp tác. Học sinh mạnh dạn, tự tin hơn và giáo viên lắng nghe, chỉ dẫn  học sinh trả  lời các câu hỏi hoặc thúc đẩy học sinh biết suy nghĩ, khai thác và  mở  rộng vấn đề. Đôi khi, giáo viên cần đưa ra các thông tin phản hồi kịp thời,  chính xác và đúng thời điểm để học sinh có thể tiếp thu kiến thức mới một cách   chính xác. Trong quá trình dạy học này, giáo viên đóng vai trò là một người thầy,  một người bạn để đồng hành cùng học sinh. Để việc tương tác đạt hiệu quả, giáo viên cần nắm rõ điểm mạnh, điểm  yếu của từng học sinh để  có cách dạy phù hợp, tạo điều kiện cho các em phát  triển toàn diện, đồng đều. 13
  14. 2.3. Dạy học phân hóa Mỗi học sinh đều là một cá thể độc lập có sự khác biệt về năng lực, trình  độ  và sở  thích nên không thể  dạy học theo kiểu đồng loạt bằng một phương  pháp duy nhất để  áp dụng cho tất cả  mọi học sinh mà cần tiến hành dạy học   phân hóa và cho phép học sinh học tập theo tốc độ, khả  năng riêng của mình.  Khi thiết kế các hoạt động dạy học, giáo viên phải dựa trên năng lực, nhu cầu   và hứng thú của từng cá nhân để  đạt được mục tiêu dạy học. Trong quá trình   dạy học, học sinh được đánh giá theo những cách khác nhau để  đảm bảo việc  đánh giá được khách quan, công bằng và chính xác với năng lực của từng học   sinh. Khi học sinh được học với khả năng của mình, chúng sẽ làm chủ việc học   và học tập có trách nhiệm và hiệu quả  hơn. Học sinh cũng có cơ  hội để  thực  hành kiến thức, kỹ năng đã học vào đời sống. 2.4. Dạy học gắn với hướng dẫn tự học Tự  học chính là con đường phát triển nội sinh, phát triển năng lực bản   thân. Ngày này, việc dạy học đòi hỏi định hướng cho học sinh cách tự  học để  học suốt đời. Trong dạy học phát triển năng lực, cần hướng dẫn cho học sinh tự  học, tự khám phá để chiếm lĩnh kiến thức là một yêu cầu quan trọng và là cơ sở  hình thành và phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh. Để làm được điều này, giáo viên cần định hướng nội dung, giao nhiệm vụ  và đặt câu hỏi để học sinh suy nghĩ, khám phá và tự chiếm lĩnh kiến thức nhằm   đạt được mục tiêu bài học. Kiến thức được lĩnh hội theo cách này sẽ  giúp học  sinh nắm chắc hơn, tránh tình trạng học vẹt, học thuộc lòng. Giáo viên giao  nhiệm vụ, đặt câu hỏi và gợi mở  cách tìm kiếm thông tin là chìa khóa lớp học   phát triển theo mô hình phát triển năng lực và cũng thể  hiện năng lực của giáo  viên. 2.5. Dạy học đi cùng với đánh giá để thúc đẩy, điều chỉnh việc học Trong dạy học theo định hướng phát triển năng lực, hoạt động dạy học và   đánh giá luôn song hành cùng nhau trong mỗi tiết học. Điều này sẽ  giúp giáo  viên đánh giá học sinh từ nhiều nguồn với các hình thức khác nhau, trong đó học   sinh cũng tự  đánh giá và đánh giá lẫn nhau. Đánh giá sự  tiến bộ  của học sinh  nhằm động viên và có những điều chỉnh để  học sinh phát triển tốt hơn. Cần   thực hiện đánh giá một cách công bằng, khách quan và chính xác. Giáo viên cần   có những ghi chép riêng để  dùng làm hồ  sơ  minh chứng hay mô tả  sự  tiến bộ  hoặc sa sút của học sinh trong việc học. Sự phản hồi thường xuyên về kết quả  học tập của học sinh và cha mẹ là điều cần thiết. 2.6. Dạy học gắn với thực tiễn Mục tiêu của dạy học theo định hướng phát triển năng lực là hướng cho   học sinh vận dụng kiến thức đã học vào trong cuộc sống. Việc đưa bài học vào  cuộc sống là yêu cầu quan trọng trong  dạy học phát triển năng lực. Giáo viên  14
  15. ngoài việc giảng dạy các kiến thức trong sách giáo khoa, cần đưa thêm các kiến   thức từ  thực tiễn vào cuộc sống để  học sinh nhận thấy được giá trị  thực của   học tập. Ngoài ra, giáo viên có thể giao các bài tập vận dụng thực hành, tổ chức   các hoạt động trải nghiệm cho học sinh ngoài giờ học để  học sinh liên hệ, vận  dụng kiến thức với thực tế cuộc sống đang diễn ra tại địa phương, cộng đồng  hoặc chính bản thân mình. 3. Vận dụng một số  phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học   truyện ngắn Hai đứa trẻ  của Thạch Lam và Chữ người tử tù của Nguyễn  Tuân Cũng cần nhận thức rằng, vấn đề  đổi mới phương pháp dạy học không  thể chỉ nói chung chung mà cần phải áp dụng vào từng môn học, từng bài dạy,   tiết dạy cụ  thể. Mỗi một phân môn, một nội dung kiến thức có những điểm  khác biệt mà giáo viên cần phải linh động trong quá trình giảng dạy, từ đó để áp  dụng một cách có hiệu quả việc kết hợp các phương pháp dạy học hiện đại vào  trong quá trình dạy học. Trong chương trình Ngữ văn 11, tập 1, tác phẩm Hai đứa trẻ  của nhà văn  Thạch Lam và tác phẩm Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân được xem  là một trong những đơn vị  kiến thức trọng tâm, là những tác phẩm có giá trị  được đưa vào chương trình, thuộc về  giai đoạn văn học từ  đầu thế  kỉ  XX đến  cách mạng tháng tám năm 1945, đây là những tác phẩm thể hiện phong cách độc  đáo của Thạch Lam và Nguyễn Tuân. Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù là những tác phẩm thuộc trào lưu văn học  lãng mạn 1932­1945. Đây cũng là những tác phẩm mà trong đó tác giả  gửi gắm  nhiều quan niệm về  cuộc sống, về  nghệ  thuật. Việc dạy hai tác phẩm này   nhằm để giúp cho học sinh cảm nhận được hoàn cảnh sống, vẻ đẹp con người   trong cuộc sống; đồng thời hình thành, định hướng về  cách nhìn cuộc đời xung  quanh mình là một yêu cầu quan trọng. Không chỉ vậy, để giảng dạy tốt những   tác phẩm văn học hiện đại thuộc trào lưu văn học lãng mạn, với quan niệm  nghệ  thuật khác hẳn những tác phẩm văn học khác trong chương trình là một  điều không dễ với rất nhiều giáo viên. Làm thế nào để đưa ra những kiến thức   nền cơ  bản nhất để  học sinh có thể  tiếp thu và cảm nhận tác phẩm một cách  hiệu quả là điều mà mỗi giáo viên đứng trên bục giảng luôn trăn trở và suy nghĩ.  Chính vì những lí do đó, chúng tôi đã chọn đề tài này. Việc vận dụng những phương pháp dạy học hiện đại vào dạy học bộ  môn Ngữ  văn góp phần quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học   hiệu quả, đồng thời   khơi dậy niềm hứng thú, yêu thích môn học. Có nhiều  phương pháp dạy học tích cực mà giáo viên có thể  sử  dụng như: Thảo luận  nhóm, Đóng vai, Nghiên cứu tình huống, Dự  án, Động não, Đặt và giải quyết  vấn đề… Trong khuôn khổ  bài viết nhỏ  này, bên cạnh những phương pháp  15
  16. truyền thống,  tôi chỉ trình bày vài phương pháp mà bản thân đã áp dụng và đem  lại hiệu quả giáo dục trong quá trình giảng dạy.   Những phương pháp này chúng tôi đã vận dụng cho HS T1, A2, D4 khóa   học 2019 ­2022 và HS T1, D1, D5 khóa học 2020 ­2023 trường THPT Anh Sơn I.  3.1. Phương pháp đóng vai 3.1.1 Khái niệm:  Theo tài liệu Bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình SGK lớp 10  THPT, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2006 định nghĩa: Đóng vai là tổ chức cho người  học thực hành, làm thử  một số  cách  ứng xử  nào đó trong một tình huống giả  định.  Trong định nghĩa này, các tác giả tiếp cận theo hướng nhấn mạnh vai trò  của người học qua việc thể hiện quan điểm, thái độ, hành vi ứng xử  trước các   tình huống được giao; GV nên tạo các tình huống mở để người học tự sáng tạo   kịch bản, lời thoại phù hợp với nội dung bài học và kỹ năng của mình. Dưới góc  độ   thực hành, làm thử  và không chỉ  làm thử  diễn xuất mà còn làm thử  vai nhà biên kịch,  làm   thử   vai   đạo  diễn,   trong  những  tình  huống  giả   định.  Phương  pháp này nhằm giúp các em tập trung suy nghĩ về một vấn đề, xem xét nó trong mối quan hệ  với tác phẩm văn học và bản thân, xem xét các cách  ứng xử  để  lựa  chọn cho mình một cách ứng xử phù hợp  tất nhiên là phù hợp với trình độ hiểu biết, quan điểm của học sinh đó về  tình huống đặt ra. Từ  đó, giáo viên có thể  nắm   được mức độ  hiểu bài và hiểu học sinh của mình để  có thể  đưa ra những nhận xét,  đánh giá, giáo dục phù hợp. 3.1.2 Quy trình cụ thể * Đóng vai trực tiếp Quy trình đóng vai trực tiếp được tiến hành trong cùng một tiết học. Hình  thức đóng vai trong tiết học được tiến hành đan xen với hoạt động lên lớp của  GV. Các bước tiến hành đơn giản, nhanh và gọn hơn: Bước 1: GV nêu tình huống đóng vai Bước 2: HS tiếp nhận và suy nghĩ Tiến hành đóng vai trước lớp 16
  17. Bước 3: GV điều khiển quá trình nhận xét, đánh giá của HS trong lớp GV nhận xét, đánh giá, tổng kết lại kiến thức. Quy trình này, người dạy vẫn đảm bảo các khâu lên lớp: khởi động, hình   thành kiến thức, luyện tập, vận dụng, mở rộng. GV lựa chọn hình thức đóng vai  trong hoạt động lên lớp thay vì sử dụng các kiểu câu hỏi khác nhau để triển khai   các nội dung bài học. GV đưa ra một tình huống đóng vai cụ thể, HS vào vai để  các em trình bày nội dung, cách hiểu, cách cảm nhận,  về  vấn đề  được nêu ra,  từ đó, GV định hướng, tổng kết lại yêu cầu cần đạt. Với cách đóng vai này, GV  và HS không mất nhiều thời gian mà vẫn đảm bảo nội dung bài học, học sinh có  hứng thú hơn cách nêu câu hỏi truyền thống. Đây cũng là một hình thức dạy học   nêu vấn đề, có khả năng đem lại những kết quả tích cực cho hoạt động dạy học  so với phương pháp dạy học truyền thống. Tuy nhiên, để phát huy tính tích cực,   chủ  động, sáng tạo thì phương pháp này vẫn chưa đáp  ứng yêu cầu giải phóng  sức sáng tạo của HS. Một hạn chế  nữa của phương pháp này là lời thoại các   nhân vật chưa được trau chuốt do không có nhiều thời gian chuẩn bị, đa số là tái  hiện lại lời thoại từ SGK. Để thực hiện hình thức đóng vai này GV có thể  đặt ra các dạng câu hỏi:   Nếu em là nhân vật A, em sẽ hành động như thế nào trong hoàn cảnh đó? Vì sao   lại thế? ; Hãy tưởng tượng mình là A em hãy kể lại câu chuyện?; Nếu em là nhà  văn em sẽ (hãy)…,  hoặc Hóa thân vào tác giả, lí giải vì sao lại để cho nhân vật  hành động như vậy? Ví dụ: khi dạy tác phẩm Hai dứa trẻ của Thạch Lam và Chữ người tử tù  của Nguyễn Tuân, Giáo viên có thể đặt một số câu hỏi: (1) Hãy tưởng tượng mình là Liên, em hãy kể  lại câu chuyện cuộc đời  mình? (2)   Nếu em là Liên, em có chấp nhận một cuộc sống quẩn quanh, tẻ  nhạt, buồn chán như vậy không? Em sẽ làm gì để có thể thay đổi cuộc sống của  mình? (3) Hóa thân vào nhà văn Thạch Lam, hãy viết tiếp câu chuyện Hai đứa   trẻ trong đó, hướng nhân vật của mình tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. (4) Nếu em là Quản Ngục em có bất chấp tất cả để đối đãi tốt với Huấn  Cao không? Em có thấy tiếc thương cho một người như Huấn Cao không? (5) Hóa thân vào Nguyễn Tuân, hãy lí giải vì sao lúc đầu Huấn Cao lại coi  thường Quản Ngục như vậy?  Ưu điểm của phương pháp này: Học sinh rất tích cực, chủ động, hứng thú  vì 17
  18. các em được trải nghiệm nhiều hơn, khi vào vai nhà văn, nhân vật, HS sẽ  thỏa   sức sáng tạo theo trí tưởng tượng của mình. Đối với hình thức hóa thân này, giờ  học không chỉ sinh động mà không khí lớp học rất vui vẻ, hiệu quả. Đây là một   hình thức tổ chức dạy học không chỉ  góp phần tích cực vào củng cố  kiến thức   mà còn phát huy được khả  năng sáng tạo của người học, vốn sống, vốn hiểu   biết của các em sẽ bộc lộ qua cách các em hóa thân vào nhà văn sáng tạo nghệ  thuật, GV nắm bắt tình hình dạy học thuận lợi hơn. Nhược điểm: HS muốn sáng tạo được thì phải nắm được ý nghĩa của sự  việc, hiện tượng, tình huống, trong SGK, từ  đó mới thấy được cái hay, cái hạn chế  của tình huống, sự việc,  để sáng tạo cho phù hợp. * Đóng vai có sự chuẩn bị trước ở nhà Đây là quy trình bắt đầu từ cuối tiết học trước, hoặc tiết học đầu tiên của  bài học có nhiều tiết lên lớp. Quy trình cơ  bản vẫn gồm ba bước như  quy trình   chung, sự khác nhau thể hiện ở mức độ công việc của từng bước. Cụ thể: Bước 1: Giáo viên: Chuẩn bị tình huống đóng vai Giao nhiệm vụ đóng vai cho các nhóm; Hướng dẫn HS lựa chọn xây dựng kịch bản phù hợp với chủ đề bài học; Tạo mối liên hệ giữa GV và HS để liên lạc, chia sẻ thông tin, tư vấn cho HS khi HS gặp khó khăn; Định lượng thời gian cụ thể, xác định mục tiêu kịch bản. Bước 2: Các nhóm tiến hành nhiệm vụ được giao: HS tìm tòi cùng nhau thảo luận để xây dựng kịch bản. Trao đổi lại với GV về nội dung, cách thức tiến hành kịch bản Phân   công   công   việc   của   từng   thành   viên   một   cách   khoa   học:   trưởng   nhóm, thư ký, vai diễn, chuẩn bị đạo cụ, Tiến hành tập luyện vai diễn theo kịch bản, đảm bảo thời gian quy định. Thể   hiện   kịch   bản   và   vai   diễn   trước   lớp   theo   yêu   cầu   của   GV.  Bước 3: Nhận xét, đánh giá: Các nhóm nhận xét vai diễn của nhau, phản biện­ giải trình (nếu có) 18
  19. GV nhận xét, đánh giá quá trình chuẩn bị, nội dung kịch bản, kỹ  năng  đóng vai, hiệu quả đóng vai, có thể phỏng vấn (chất vấn) các nhân vật, tổng kết lại  nội dung bài học. Phim   ngắn  Chữ   người   tử   tù,  sản   phẩm   của   học   sinh   lớp   11T1:   https://www.youtube.com/watch?v=A5siIz5jzGk Ví dụ để dạy tác phẩm Hai dứa trẻ của Thạch Lam và Chữ người tử tù  của Nguyễn Tuân theo phương pháp đóng vai chúng tôi đã tiến hành hướng dẫn   HS tham gia một số vai diễn như sau: (1) Phần tìm hiểu tiểu dẫn:  Cách thứ  nhất: GV tổ  chức thành một cuộc phỏng vấn, trò chuyện giữa  nhà văn và bạn đọc, trong đó một HS vào vai nhà văn Thạch Lam hoặc Nguyễn   Tuân, một HS vào vai người dẫn chương trình. Các em chuẩn bị  trước những   nội dung phỏng vấn  ở  nhà, đến giờ  học các em thể  hiện vai diễn của mình   trước lớp.  Cách thứ 2: nếu giờ dạy học có sử dụng máy chiếu GV cho một HS biết  về  công nghệ  thông tin chuẩn bị  một số  tranh  ảnh liên quan về  cuộc đời, sự  nghiệp của nhà văn Thạch Lam hoặc Nguyễn Tuân. Các bức  ảnh đó được sắp  xếp theo thứ tự thông tin về tác giả, tác phẩm. Một HS viết bài giới thiệu theo  nội dung đó. Đến giờ  học một em hóa thân mình là người hướng dẫn viên giới  thiệu cho các em HS nghe về nhà văn Thạch Lam hoặc Nguyễn Tuân nhân một  chuyến trải nghiệm, tham quan bảo tàng văn học. (2) Phần đọc – hiểu: Ví dụ  khi dạy truyện ngắn   Chữ  người tử  tù  của  Nguyễn Tuân GV có thể lựa chọn cho HS dựng lại cảnh  đón tù nhân; cảnh tiếp  đãi Huấn Cao của Quản Ngục hoặc cảnh cho chữ. Hoặc cũng có thể  cho HS  dựng lại toàn bộ câu chuyện thay cho phần tóm tắt tác phẩm. GV tiến hành thực hiện theo 3 bước trên và thực hiện theo hai hình thức.   Một là HS luyện tập đóng vai rồi diễn lại cảnh đó trực tiếp trong giờ học. Hai  là GV cho HS đóng vai rồi quay lại vedeo và cho lớp xem khi học tác phẩm đó. Với hình thức đóng vai này, GV có thể hình thành cho học sinh rất nhiều  năng lực: Năng lực giao tiếp; Năng lực sáng tạo; Năng lực hợp tác và đảm nhận  trách nhiệm.; Năng lực tự  quản lý thời gian; Rèn luyện và phát triển năng lực   giải quyết vấn đề.; Hình thành và phát triển năng lực tự học; Năng lực cảm thụ  văn học; Năng lực trình diễn, hóa thân; Năng lực sử  dụng CNTT… không chỉ  phù hợp với quan điểm đổi mới phương pháp dạy học mà còn phù hợp với xu  hướng trả tác phẩm về cho học sinh, đem đến sân chơi bổ ích cho HS qua hình  thức chơi mà học, học mà chơi. * Ưu và nhược điểm của phương pháp dạy học đóng vai 19
  20. Ưu điểm Học sinh được rèn luyện, thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái   độ trước một tình huống giả định đặt ra trong tác phẩm.  Phương pháp đóng vai là một trong những hình thức trả  tác phẩm về cho học sinh, đem đến hứng thú học tập, lôi cuốn sự chú ý của các em vào bài học. Phương pháp này đem đến cho các em mong muốn được thể  hiện mình, muốn sáng tạo và cách các em thể hiện hiểu biết, vận dụng của mình vào tình huống  cụ thể  đó sẽ  được kiểm chứng qua những nhận xét, đánh giá của các nhóm khác,   của GV để từ đó điều chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội. GV có thể nắm bắt ngay được tác động, hiệu quả  giáo dục trong lời nói,  hành động của học sinh qua vai diễn. GV có thể  quan tâm đối với tất cả  các học sinh, nhất là với những HS  nhút nhát, thiếu tự tin. Giúp các em có cơ hội thể hiện bản thân, mạnh dạn, tự tin thể hiện mình trước tập thể  lớp, từ  đó giúp các em hòa nhập tích cực khi đứng   trước một tập thể lớn hơn. Nhược điểm Sử  dụng phương pháp DHĐV thường mất nhiều thời gian chuẩn bị kịch  bản, phương tiện vật chất và tài chính cho cả GV và HS. Sự  thành công của tiết học phụ thuộc nhiều vào khả  năng diễn xuất của   học sinh. Đối với học sinh rụt rè, nhút nhát thì khả năng thành công không cao. Thường kén học sinh hơn các phương pháp truyền thống vì phương pháp này đòi hỏi người học chủ động, tích cực và có khiếu diễn xuất nữa. * Một số lưu ý khi sử dụng phương pháp đóng vai Phương pháp đóng vai không khuyến khích sử dụng trong tất cả các khâu  lên lớp, tất cả nội dung bài học, GV chỉ nên chọn nội dung phù hợp để đóng vai  tránh lặp lại nhàm chán.   Trong quá trình lên lớp, cần kết hợp nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học   tích cực khác để tăng hiệu quả của hoạt động dạy học. Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ  đề  bài học, phù hợp với lứa  tuổi, trình độ HS và điều kiện, hoàn cảnh lớp học. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2