Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng một số phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học truyện ngắn lãng mạn Việt Nam năm 1930-1945 theo định hướng phát triển năng lực học sinh THPT
lượt xem 7
download
Đề tài tập trung việc vận dụng phương pháp dạy học hiện đại vào giảng dạy phần truyện lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 trong chương trình Ngữ Văn 11 THPT. Cụ thể là truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam và truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng một số phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học truyện ngắn lãng mạn Việt Nam năm 1930-1945 theo định hướng phát triển năng lực học sinh THPT
- 1
- A. MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Thực hiện Nghị quyết Trung ương số 29NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, giáo dục phổ thông trong phạm vi cả nước đang thực hiện đổi mới toàn bộ, từ: mục tiêu chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh; từ nội dung nặng tính hàn lâm sang nội dung có tính thực tiễn cao; từ phương pháp truyền thụ một chiều sang phương pháp dạy học tích cực; từ hình thức dạy học trên lớp là chủ yếu sang kết hợp đa dạng các hình thức dạy học trong và ngoài lớp, trong và ngoài nhà trường, trực tiếp và qua mạng; từ hình thức đánh giá tổng kết là chủ yếu sang coi trọng đánh giá trên lớp và đánh giá quá trình; từ giáo viên đánh giá học sinh là chủ yếu sang tăng cường việc học sinh tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh. Vấn đề dạy học nói chung dạy và dạy học môn Ngữ Văn nói riêng hiện nay đang là một vấn đề nhận được sự quan tâm rất cao không chỉ của các nhà chuyên môn, các nhà nghiên cứu mà chính bản thân nó cũng đang thu hút được rất nhiều sự quan tâm của xã hội. Có thể dễ dàng nhận thấy, hiện nay thái độ học tập của học sinh với môn Ngữ Văn trong nhà trường đang có dấu hiệu giảm sút khá rõ nét. Vốn được xem là một môn học cần thiết, một môn học mang ý nghĩa nhân văn rất cao hướng học sinh đến cái chân, thiện, mỹ nhưng thái độ của học sinh với môn Ngữ Văn không được hứng thú, yêu thích nhiều như giá trị mà nó mang lại. Đa số học sinh cũng không chủ động, tích cực trong việc học tập môn Ngữ Văn mà đón nhận nó một cách thụ động. Hiện tượng học sinh không còn hứng thú với môn Ngữ Văn không còn là hiện tượng hiếm thấy nữa mà trở thành một hiện tượng phổ biến. Chính vì không còn hứng thú với môn học nên ý thức, thái độ của học sinh với môn học có phần không tốt, dẫn đến hiệu quả chưa được cao. Thêm vào đó hiên nay yêu cầu đổi mới dạy học môn Ngữ văn ở THPT đang chú trọng mục tiêu, phương pháp. Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được Nghị quyết 29NQ/TW ngày 4/11/2013, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI ban hành Nghị quyết số về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Nghị quyết 29 có một quan điểm chủ chốt là: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học”. Về mục tiêu, Chương trình giáo dục phổ thông (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TTBGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã xác định yêu cầu cần đạt về phẩm chất chủ yếu và năng lực chung: "Môn Ngữ văn góp phần hình thành, phát triển ở học sinh những phẩm chất chủ yếu và năng lực chung theo các mức độ phù hợp với môn học, cấp học đã được quy định tại Chương trình tổng thể" đó là: năng lực tự chủ và tự học, năng lực 2
- giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo Đứng trước những vấn đề đó đặt ra cho chúng tôi, những người trực tiếp giảng dạy trên lớp có nhiều băn khoăn trăn trở. Làm sao để tạo được hứng thú cho HS trong quá trình dạy học? Làm sao để các em yêu thích môn Văn? Làm sao để giúp các em phát huy những năng lực của mình? Cho nên việc dạy văn trong nhà trường phổ thông đang là một thử thách lớn với giáo viên hiện nay. Dạy như thế nào cho hay, hiệu quả cao, tạo sự hứng thú, say mê cho học sinh quả thực là cả một vấn đề lớn. Việc học sinh không thích thú với môn văn cũng có nhiều lí do, tuy nhiên có một nguyên nhân khá quan trọng đó là: Thầy cô giáo chưa thực sự tạo ra sự cuốn hút học sinh bằng bài giảng của mình. Thầy cô chưa thực sự có nhưng bước ngoặt đột phá trong việc đổi mới phương pháp, một số giáo viên vẫn nặng về phương pháp truyền thống thế nên việc dạy và học chưa thực sự hiệu quả. Với vai trò tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của học sinh, hơn ai hết việc phải tìm ra nhiều biện pháp để phát huy cao nhất tính tích cực sáng tạo của người học, tạo niềm hứng thú say mê học tập ở các em chính là nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi người giáo vên đứng lớp. Xuất phát từ những vấn đề trên, với mong muốn góp một phần vào việc tạo thêm hứng thú cho người học, giúp học sinh tích cực, chủ động tiếp nhận tri thức và hình thành kĩ năng, phát triển nhân cách, đồng thời nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn truyền thống chúng tôi mạnh dạn xin được trao đổi một số kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường THPT nói chung và việc dạy phần truyện ngắn lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945 nói riêng. Việc vận dụng phương pháp dạy học hiện đại vào dạy học một tác phẩm văn học là điều rất cần thiết trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học trong những năm gần đây. Với vai trò then chốt nhằm tạo sự hấp dẫn, làm tăng hiệu quả việc dạy – học một tác phẩm văn học, thế nhưng trong các tài liệu phục vụ cho việc dạy – học môn Ngữ văn trong nhà trường chưa thấy đề cập đến việc tìm hiểu, khám phá truyện ngắn lãng mạn dựa vào phương pháp dạy học hiện đại. Vì vậy ở để tài này chúng tôi muốn vận dụng phương pháp dạy học hiện đại nhằm phát triển năng lực của học sinh để đi sâu vào khai thác thế giới của tác phẩm và để tạo sự hấp dẫn, hứng thú cho học sinh khi tiếp cận một tác phẩm văn học hiện đại. Vậy xin trình bày đề tài Vận dụng một số phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học truyện ngắn lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945 theo định hướng phát triển năng lực học sinh THPT. Đề tài này là công trình của chúng tôi chưa được cá nhân, tập thể và công trình giáo dục nào công bố trên các tài liệu sách báo và diễn đàn giáo dục hiện nay. II. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG 3
- 1. Phạm vi khảo sát Đề tài tập trung việc vận dụng phương pháp dạy học hiện đại vào giảng dạy phần truyện lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 1945 trong chương trình Ngữ Văn 11 THPT. Cụ thể là truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam và truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. 2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là truyện ngắn Việt Nam thời kì đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng tám năm 1945 trong chương trình Ngữ văn 11 THPT, cụ thể là phần truyện ngắn lãng mạn. Cụ thể là truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam và truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. III, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Phương pháp so sánh Sử dụng phương pháp so sánh để thấy được khác biệt giữa truyện ngắn lãng mạn với truyện hiện thực phê phán để từ đó thấy được đặc điểm, giá trị của truyện ngắn lãng mạn. 2. Phương pháp phân tích Sử dụng phương pháp phân tích để đi sâu vào phân tích, khám phá thế giới nội dung, nghệ thuật của thể loại truyện ngắn lãng mạn. 3. Phương pháp thống kê, phân loại Thống kê phân loại các phương pháp, kĩ thuật dạy học hiện đại. 4. Phương pháp điều tra, điền giả, ghi chép Điều tra, điền giả bằng thực nghiệm giảng dạy và kiểm tra đánh giá học sinh để thấy được tính hiệu quả hay không hiệu quả của sáng kiến IV. CẤU TRÚC A. Phần mở đầu B. Nội dung I. Cơ sở của đề tài. II. Một số giải pháp. C. Kết luận và kiến nghị 4
- B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận 1.1 Yêu cầu về đổi mới giáo dục và đào tạo Nghị quyết trung ương IV về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ "Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, các bậc học cần áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực và tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, phải thường xuyên khơi dậy, rèn luyện và phát triển năng lực tự học, tự nghiện cứu năng lực nghĩ và làm một cách tự chủ. Năng lực tự đặt và giải quyết vấn đề ngay trong quá trình học tập ở nhà trường, đi đôi với vai trò mới của thầy là người hướng dẫn cho người học biết tự mình tìm kiến thức, xử lí những tình huống, biết làm việc cá nhân, với bạn với thầy, với tập thể, biết chuyển quá trình đào tạo của mình, là người trọng tài đánh giá, kết quả học tập, là người cố vấn giúp người học tự đánh giá, tự điều chỉnh theo yêu cầu của mục tiêu người học. Nghị quyết số: 29NQ/TW, ngày 4/11/2013 “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã được Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) thông qua. Nghị quyết nêu rõ: Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Thực tiễn đổi mới chương trình giáo dục 2018 đã xác định cách xây dựng chương trình theo định hướng phát triển năng lực. Đây là xu hướng tất yếu, đáp ứng yêu cầu giáo dục và đào tạo con người trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển với tốc độ chưa từng có và nền kinh tế tri thức đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với mọi quốc gia. Ngữ văn là môn học công cụ, mang tính nhân văn. Các đặc trưng này thể hiện qua những mục tiêu cơ bản của nó và cách tiếp cận những mục tiêu đó. Môn Ngữ văn giúp học phát triển các năng lực và phẩm chất tổng quát và đặc thù, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông nói chung. Năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực 5
- tự học là những năng lực tổng quát, liên quan đến nhiều môn học. Năng lực sử dụng ngôn ngữ và năng lực thẩm mỹ mà chủ yếu là cảm thụ văn học là những năng lực đặc thù, trong đó năng lực sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và tư duy đóng vai trò hết sức quan trọng trong học tập của học sinh và công việc của các em trong tương lai, giúp các em nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời với quá trình giúp học sinh phát triển các năng lực tổng quát và đặc thù, môn Ngữ văn có sứ mạng giáo dục tình cảm và nhân cách cho người học. Để phát triển được phẩm chất và năng lực của học sinh cần phải có rất nhiều yếu tố, trong đó phương pháp dạy học đóng vai trò hết sức quan trọng. Với phạm vi của để tài này, chúng tôi sẽ đưa một số phương pháp dạy học hiện đại nhằm hướng đến sự phát triển năng lực của học sinh THPT. 1.2 Khái niệm về phương pháp dạy học hiện đại Phương pháp dạy học hiện đại hay còn có tên gọi khác là phương pháp dạy học tích cực. Phương pháp này có nguồn gốc từ các nước phương Tây từ thế kỷ 20. Và trong những năm gần đây, phương pháp dạy học hiện đại đang ngày càng có ảnh hưởng rộng rãi đến các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn rất nhiều người xa lạ đối với phương pháp này, chưa hiểu về cách dạy của nó. Như chúng ta đã biết phương pháp dạy học truyền thống là những phương pháp được cha ông chúng ta truyền lại qua nhiều thế hệ, phương pháp này sẽ lấy người thầy, người dạy học là trung tâm. Còn đối với phương pháp dạy học hiện đại lại khác hoàn toàn. Phương pháp dạy học hiện đại là phương pháp dạy cho học sinh chủ động trong suy nghĩ, tư duy và hành động. Trong phương pháp này, người thầy chỉ giữ vai trò định hướng, đưa ra ý kiến gơi ý, hướng dẫn tìm kiếm tài liệu, tổ chức các buổi thảo luận, tranh luận cho học sinh của mình. Từ đó học sinh sẽ chủ động trong việc tìm kiếm thông tin, tích lũy kinh nghiệm, rèn luyện khả năng phán đoán và trưởng thành, tự tin hơn qua mỗi bài học. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp dạy học hiện đại. Ưu điểm : Do phương pháp dạy học hiện đại rất chú trọng tới kĩ năng thực hành, nên học sinh có khả năng linh hoạt trong việc sử lý các tình huống thực tiễn Rèn luyện cho học sinh, sinh viên tính chủ động trong lối suy nghĩ, tư duy khi học tập. Khả năng tự tin được nâng cao qua mỗi bài thảo luận và tranh luận. Nhược điểm: Trong phương pháp dạy học hiện đại sẽ giảm bớt các bài thuyết trình, giảng giải mà chỉ trú trọng vào hướng dẫn cách làm, cách suy nghĩ, tăng khả 6
- năng chủ động cho học sinh, sinh viên. Từ đó thường khiến học sinh, sinh viên không hiểu được bài nếu không tập trung và theo sát bài giảng của giáo viên. Do phương pháp dạy học hiện đạ được du nhập từ các nước phát triển phương Tây và chúng ta cũng không thể phủ nhận được những lợi ích mà nó mang lại. Tuy nhiên, đi đôi với nó là những yêu cầu về cơ sở vật chất và phương tiện hỗ trợ dạy học của phương pháp dạy học hiện đại. Cho nên nhiều giáo viên ở các trường học ở Việt Nam hiện nay vẫn không áp dụng được phương pháp này do không đáp ứng được các yêu cầu trên. Những đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học hiện đại. Lồng ghép các bài học vào các hoạt động thực tế: Việc dạy học thông qua các hoạt động thực tế sẽ giúp các bạn học sinh, sinh viên tiếp nhận kiến thức nhanh hơn. Qua đó, giáo viên không cần phải giảng dạy chi tiết, áp đặt các kiến thức cho học sinh, sinh viên. Tự giác học tập: Phương pháp dạy học hiện đại mang lại rất nhiều ưu điểm. Do đó, phuong pháp này cũng yều cầu người học phải tự giác tìm kiếm tài liệu, tự suy nghĩ, tự khám phá và rút ra kinh nghiệm … Không những thế học sinh, sinh viên trước khi theo học tiết học sử dụng phương pháp này thì luôn phải chuẩn bị trước bài tập ở nhà nếu không muốn không thể theo kịp bài dạy. Phối hợp gữa học nhóm và tự học: Học sinh, sinh viên vừa phải tham gia các hoạt động học nhóm để tăng khả năng giao tiếp, tính chủ động, tính tự giác và tạo nguồn động lực học tập khi học nhóm. Đồng thời, các bạn cũng cần có những buổi tự học để tập hợp kiến thức, tập chung suy nghĩ. Giáo viên và người học cùng nhau đánh giá: Nếu dạy học theo phương pháp truyền thống thường chỉ có giáo viên mới cần đưa ra những nhận xét đánh giá của mình đối với học sinh, sinh viên. Còn đối với phương pháp dạy học hiện đại thì giáo viên cùng với người học cùng đưa ra đánh giá của mình. Việc họ cùng đưa ra những ý kiến đánh giá, nhận xét sẽ dễ dàng tìm ra các biện háp khắc phục những chỗ còn thiếu xót trong bài giảng của giáo viên. Một số phương pháp dạy học hiện đại. Phương pháp hỏi – đáp: là phương pháp giáo viên sẽ đưa ra các câu hỏi để học sinh trả lời hoặc tranh luận, đưa ra ý kiến phản bác. Từ đó, học sinh có thể rút ra được bài học. Không những thế, phương pháp hỏi đáp còn đòi hỏi các em học sinh phải ghi nhớ được kiến thức, nội dung bài học, chuẩn bị trước ở nhà. Tạo và giải quyết các tình huống: Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển, rất nhiều các tình huống, vấn đề chỉ được giải quyết bằng những cuộc thảo luận hoặc tranh luận. Do đó, Phương pháp tạo và giải quyết các tình huống dựa vào thực tế sẽ giúp các em học sinh không bỡ ngỡ, bất ngờ khi bắt gặp, đồng thời nắm được các cách giải quyết chúng. 7
- Phương pháp đóng vai: Trong phương pháp này, học sinh sẽ được đóng vai thành một số nhận vật trong các tình huống được giáo viên tạo ra. Từ đó, các em sẽ được rèn luyện thành thạo các kỹ năng ứng xử, giải quyết tình huống, kìm chế cảm xúc. Ngoài ra, phương pháp này sẽ khiến tạo sự mới lạ, thích thú cho các bạn học sinh dễ dàng tiếp thu các kiến thức mà giáo viên muốn truyền đạt. Sử dụng bộ não: Trong phương pháp này, giáo viên sẽ giúp học sing kích thích não bộ, nảy sinh được nhiều ý tưởng, sáng tạo thông qua các bài dạy. Để có thể thực hiện phương pháp này, giáo viên sẽ đưa ra các biện pháp như khuyến khích học sinh phát biểu, tổ chức các buổi vui chơi học tập theo nhóm…. Phương pháp dạy học hiện đại là một phương pháp mang lại rất nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, nó không phải là phương pháp hoàn hảo cho mọi bài giảng cũng như phù hợp với tất cả các bạn học sinh. Do đó, trước khi áp dụng phương pháp nào vào bài dạy, giáo viên nên tìm hiểu kỹ về phương pháp đó. Và phương pháp dạy học hiện đại cũng vậy. Hiện nay, các nhà nghiên cứu giáo dục đã đưa ra nhiều phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp học sinh không chỉ tiếp thu kiến thức tốt mà còn phát triển năng lực. Tuy nhiên, để áp dụng giáo viên cần linh hoạt tuỳ vào bài học để chọn được kỹ thuật phù hợp. Bên cạnh các kỹ thuật dạy học thường dùng, có thể kể đến một số kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Về phía giáo viên Hiện nay nhiều GV vẫn còn sử dụng phương pháp dạy học truyền thống vào các giờ dạy học Ngữ Văn nói chung, dạy truyện lãng mạn 19301945 nói riêng. Trong giờ học chủ yếu là giáo viên làm việc còn học sinh thụ động ngồi nghe, chép lại và về học lý thuyết đó. Vì thế trong giờ học giáo viên là tâm điểm, mọi kiến thức được truyền đạt đầy đủ từ A đến Z. Nhưng học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, giờ học cũng buồn tẻ và kiến thức chỉ thiên về lý thuyết. Bởi vì không có nhiều cơ hội thực hành, nên học sinh khó có thể áp dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn. Hơn nữa phương pháp truyền thống còn làm hạn chế việc phát triển các kỹ năng vốn có của học sinh, làm học sinh mất tự tin. Việc dạy học truyện ngắn nói chung và truyện ngắn lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 1945 nói riêng còn gặp những khó khăn nhất định. Truyện lãng mạn được đưa vào giảng dạy hiện nay là những tác phẩm chứa đựng trong đó nhiều nội dung, tư tưởng, quan niệm của tác giả mà tác giả lại không đóng vai trò là “một cái loa phát ngôn”. Vì vậy người tiếp nhận có thể có nhiều hướng tiếp cận khác nhau trong quá trình khám phá tác phẩm. Đối diện với cái 8
- mới, cái khác trong văn học, người giáo viên cũng phải đối diện với những áp lực nhất định về những tri thức xã hội, thời đại mới. Điều này đòi hỏi người giáo viên phải tự trang bị cho mình vốn kiến thức sâu, rộng hơn. Đặc biệt là những kiến thức liên quan đến sự khác biệt trong các loại truyện ngắn hiện đại. Giáo viên tổ chức giờ dạy – học làm sao phát huy tối đa tính tích cực, chủ động sáng tạo, phát huy được các phẩm chất, năng lực của học sinh. Có một thực tế nữa là trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin ngày nay, người học có thể tìm hiểu các thông tin và cách tiếp cận tác phẩm văn học qua nguồn tài liệu phong phú và đa dạng trên internet. Vì vậy để tổ chức được một giờ dạy tác phẩm văn học nói chung và truyện ngắn nói riêng đạt hiệu quả cao người dạy cần phải có kiến thức sâu rộng, có bản lĩnh và khả năng tổ chức tốt. Nhiều lúc giáo viên còn đóng vai trò của một “trọng tài” đứng ra xử lí những bất đồng trong cách tiếp cận, cách hiểu văn bản khác nhau của người học. Thực tế của quá trình dạy và học trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay đòi hỏi người dạy nói chung và dạy Văn nói riêng cần phải có những đổi mới về mặt phương pháp dạy học sao cho phù hợp với yêu cầu phát huy năng lực của người học. Do vậy đổi mới phương pháp giảng dạy Văn đang là yêu cầu cấp bách và nhiệm vụ nặng nề đối với người thầy không chỉ để thực hiện những chỉ thị mà là nhằm đáp ứng được nhu cầu chính đáng của người học và của công tác đào tạo trong tình hình hiện nay. 2.2. Về phía học sinh Theo xu hướng chọn trường, chọn nghề hiện nay, đa số HS chọn môn tự nhiên để học. Các em học môn Ngữ văn với mục tiêu lấy điểm, mà chưa thấy được những giá trị bồi đắp tư tưởng, tình cảm cho mình. Với đặc điểm bài dài, phải đọc nhiều, chép nhiều, học thuộc nhiều, phương pháp dạy học chưa sáng tạo là một trong những nguyên nhân dẫn đến thái độ học tập chưa tích cực ở môn Ngữ văn, nhất là đối với các tác phẩm tự sự. Đa số HS không đọc tác phẩm, soạn bài một cách đối phó. Thông thường, các em sử dụng tài liệu, chép lại một cách thụ động, nhiều em còn mượn vở ghi của anh chị lớp trước hay bạn bè lớp khác đã học rồi chép lại một công đôi việc vừa có soạn bài, vừa để nếu GV có gọi hỏi bài mà nhìn vào đó trả lời. Việc HS ham học, thích học Văn cũng không nhiều vì đặc trưng bộ môn cũng khó tiếp cận, kiến thức nhiều, các em phải học thuộc rất vất vả. Thêm vào đó nhiều em còn chây lười, nhác học, không muốn tìm hiểu, đọc bài trước khi lên lớp. Giáo viên lại không tạo được hứng thú nên nhiều giờ học không hiệu quả.. Việc học sinh không chịu chuẩn bị bài trước khi đến lớp đã ảnh hưởng rất nhiều đến giờ dạy Ngữ văn nói chung và dạy đọc – hiểu nói riêng. Khả năng sử dụng tiếng Việt của một số học sinh còn hạn chế nên kĩ năng đọc, tiếp cận một tác phẩm văn chương còn gặp nhiều khó khăn. Bởi vì khi tiếp xúc với văn 9
- chương nghệ thuật, học sinh không phải chỉ đọc, cảm thụ các dòng chữ in trên giấy, mà trước hết phải đọc để biến các kí hiệu chữ thành nghĩa, thành thế giới hình tượng, trên cơ sở đó mới cảm thụ thế giới nghệ thuật bằng ngôn từ. 2.3. Về vấn đề tài liệu tham khảo Tài liệu tham khảo hiện nay như sách giáo viên, thiết kế bài giảng... đang nặng về phân tích nội dung mà chưa chú trọng nhều vào việc vận dụng các phương pháp dạy học vào quá trình dạy học. Thực tế của việc dạy – học truyện ngắn trong trường THPT. Khi có dịp dự giờ các đồng nghiệp, kể cả giờ dạy bình thường và cả giờ dạy thao giảng những bài về truyện ngắn nói chung và truyện ngắn lãng mạn giai đoạn 1930 1945 nói riêng, chúng tôi nhận thấy hầu hết các giờ dạy đều đi sâu vào khai thác các chi tiết cụ thể, từ đó khái quát lên nội dung, tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm theo chiều hướng áp đặt mà chưa vận dụng các phương pháp dạy học hiện đại để phát huy hết năng lực của người học. Với đề tài này, chúng tôi hy vọng việc vận dụng các phương pháp dạy học hiện đại để tiếp cận truyện ngắn lãng mạn sẽ mang lại những thuận lợi nhất định trong việc tìm hiều, khám phá những tư tưởng, quan niệm của nhà văn đã gửi gắm gián tiếp qua thế giới nhân vật của mình. II. VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HIỆN ĐẠI TRONG DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN LÃNG MẠN VIỆT NAM 1930 1945 THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 1. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực 1.1. Khái niệm Dạy học theo hướng phát triển năng lực đã phát triển từ những năm 90 của thế kỷ trước và giờ đang trở thành xu hướng giáo dục được cả thế giới quan tâm. Đối với nước ta, dạy học theo hướng phát triển năng lực cũng đã được áp dụng trong chương trình giảng dạy cho tất cả các cấp học. Vậy dạy học theo định hướng phát triển năng lực là gi? Dạy học phát triển năng lực là quá trình thiết kế, tổ chức và phối hợp giữa hoạt động dạy và hoạt động học, tập trung vào kết quả đầu ra của quá trình này. Trong đó nhấn mạnh người học cần đạt được các mức năng lực như thế nào sau khi kết thúc một giai đoạn (hay một quá trình) dạy học. Để giúp bạn đọc hiểu rõ bản chất khái niệm dạy học theo định hướng phát triển năng lực, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu từng khái niệm năng lực, phát triển năng lực, định hướng phát triển năng lực. Năng lực: Về nguồn gốc, khái niệm năng lực (Tiếng Anh: Competency) bắt nguồn từ tiếng La tinh “competencia”. Trên thế giới và tại 10
- Việt Nam, có rất nhiều các quan điểm về năng lực. Nhưng tựu chung lại, năng lực có thể được hiểu một cách đơn giản là khả năng hoàn thành nhiệm vụ đặt ra, gắn với một loại hoạt động cụ thể nào đó. Năng lực là một yếu tố cơ bản của nhân cách nên mang dấu ấn cá nhân, thể hiện tính chủ quan trong hành động và được hình thành theo quy luật hình thành và phát triển nhân cách, trong đó tính tích cực hoạt động và giao lưu của cá nhân đóng vai trò quyết định. Năng lực ở mỗi con người có được nhờ vào sự kiên trì học tập, rèn luyện và tích lũy kinh nghiệm của bản thân trong hoạt động thực tiễn. Phát triển năng lực: Là phát triển những khả năng hoàn thành nhiệm vụ đặt ra, phát triển nhân cách, trong đó tính tích cực hoạt động và giao lưu của cá nhân đóng vai trò quyết định. Phát triển sự kiên trì học tập, rèn luyện và tích lũy kinh nghiệm của bản thân trong hoạt động thực tiễn. Phát triển khả năng thực hiện thành công hoạt động trong bối cảnh nhất định nhờ sự huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và phát triển các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí… Phát triển các năng lực chung cũng như năng lực đặc thù của học sinh. Định hướng phát triển năng lực: Định hướng phát triển năng lực là đảm bảo hướng tới phát triển năng lực người học thông qua nội dung giáo dục với những kỹ năng, kiến thức cơ bản, hiện đại và thiết thực; giáo dục hài hòa đức, trí, thể, mỹ ; chú trọng vào việc thực hành, vận dụng các kiến thức, kỹ năng đã được trang bị trong quá trình học tập để giải quyết các vấn đề trong học tập và đời sống hàng ngày; tích hợp cao ở các lớp học dưới, phân hoá dần ở các lớp học trên. Thông qua hình thức tổ chức giáo dục và các phương pháp giáo dục, phát huy tiềm năng và tính chủ động của mỗi học sinh. Đồng thời có những phương pháp đánh giá phù hợp với mục tiêu giáo dục đặt ra. Định hướng nhằm phát triển tối đa tiềm năng vốn có của từng đối tượng học sinh khác nhau, dựa trên các đặc điểm tâm sinh lí, nhu cầu, khả năng, hứng thú và định hướng nghề nghiệp khác nhau của từng học sinh. Giúp học sinh phát triển khả năng huy động tổng hợp các kỹ năng, kiến thức... thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết một cách hiệu quả nhất các vấn đề xảy ra trong học tập và đời sống hàng ngày, được thực hiện ngay trong quá trình lĩnh hội tri thức và rèn luyện kỹ năng sống. Theo chương trình giáo dục phổ thông mới định hướng 10 năng lực cốt lõi cần phát triển cho HS là: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực tìm hiểu xã hội, năng lực ngôn ngữ, năng lực công nghệ, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất, năng lực tin học, năng lực tính toán. Theo đó, dạy học theo hướng phát triển năng lực là mô hình dạy học hướng tới mục tiêu phát triển tối đa phẩm chất và năng lực của người học thông qua cách thức tổ chức các hoạt động học tập độc lập, tích cực, sáng tạo của học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn và hỗ trợ hợp lý của giáo viên. Trong 11
- mô hình này, người học có thể thể hiện sự tiến bộ bằng cách chứng minh năng lực của mình. Điều đó có nghĩa là người học phải chứng minh mức độ nắm vững và làm chủ các kiến thức và kỹ năng (được gọi là năng lực); huy động tổng hợp mọi nguồn lực (kinh nghiệm, kiến thức, kĩ năng, hứng thú, niềm tin, ý chí,…) trong một môn học hay bối cảnh nhất định, theo tốc độ của riêng mình. 1.2. Đặc điểm của dạy học theo định hướng phát triển năng lực Dạy học phát triển năng lực có bốn đặc điểm chính: Thứ nhất, dạy học theo định hướng phát triển năng lực được thiết kế theo hướng phân hóa dựa trên hứng thú, nhu cầu và nền tảng kiến thức, sở thích cũng như thế mạnh của học sinh. Phương pháp này cho phép người học cá nhân hóa, đa dạng hóa việc học để đáp ứng nhu cầu của bản thân theo hướng có lợi cho họ. Tức là, ngoài số giờ lên lớp theo quy định, học sinh có quyền lựa chọn môn học, hình thức học ở bất kỳ đâu và bất cứ thời điểm nào (học online, học nhóm, …) để giúp học sinh phát triển tối đa năng lực vốn có của mình. Phương pháp học này mang đến sự tự do, linh hoạt cho học sinh, loại bỏ sự bất bình đẳng trong quá trình học tập. Học sinh được coi là trung tâm của quá trình học và luôn cảm thấy thoải mái, dễ chịu. Thứ hai, dạy học theo hướng phát triển năng lực định hướng để học sinh có thể tiếp thu kiến thức cần thiết và nâng cao khả năng thực hành, vận dụng kiến thức đã học được. Kiến thức, kỹ năng và cách ứng xử là những “tài nguyên” để các em thực hiện nhiệm vụ cụ thể để hình thành và phát triển năng lực. Thứ ba, dạy học phát triển năng lực xác định và đo lường năng lực đầu ra của học sinh dựa trên mức độ làm chủ kiến thức môn học. Học sinh thể hiện sự tiến bộ của mình thông qua việc chứng minh năng lực mà không dựa trên khoảng thời gian cố định như học kỳ hay cấp học. Thứ tư, dạy học theo định hướng phát triển năng lực giúp người học có thể chọn cách tiếp nhận các tài liệu học tập kể cả thời điểm và nhịp độ học tập. Điều này khuyến khích khả năng làm việc độc lập và tự chủ của học sinh, phát triển tối đa các kỹ năng để đạt được mục tiêu học tập. 1.3. Ý nghĩa của dạy học theo định hướng phát triển năng lực Dạy học theo định hướng phát triển năng lực giúp đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển các phẩm chất nhân cách và năng lực của học sinh một cách toàn diện. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực chú trọng năng lực vận dụng kiến thức của bài học vào việc giải quyết các tình huống thực tiễn từ đó giúp học sinh áp dụng được những gì đã học vào thực tế cuộc sống. Điều này giúp người học có năng lực giải quyết các vấn đề cuộc sống và nghề nghiệp cũng như giúp học sinh thích ứng với những thay đổi của cuộc sống. 12
- Với một số học sinh, dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho phép đẩy nhanh tiến độ hoàn thành chương trình học, tiết kiệm thời gian và công sức cho việc học. Dạy học theo hướng phát triển năng lực tạo ra những giờ học thú vị, sôi động và cuốn hút học sinh vào các hoạt động tìm tòi, khám phá kiến thức.Từ đó phát triển các kỹ năng học tập của học sinh một cách toàn diện để giải quyết vấn đề, tự học và hợp tác cùng tư duy sáng tạo. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực giúp cách giảng dạy trở nên hiệu quả hơn, giáo viên đáp ứng được nhu cầu học của từng học sinh và đảm bảo mọi học sinh đều tận dụng giờ học một cách tối đa. 2. Một số phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực 2.1. Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động Việc tổ chức cho học sinh tham gia vào các hoạt động học tập sẽ giúp việc học trở thành tự thân và đạt hiệu quả cao nhất. Qua các hoạt động, học sinh sẽ ghi nhớ kiến thức được tốt hơn và phát triển năng lực học sinh toàn diện. Cách dạy này giúp học sinh học tập và hoạt động dưới sự tổ chức, hướng dẫn và điều khiển của giáo viên trong suốt quá trình tiếp thu kiến thức,rèn luyện kỹ năng và hình thành hành vi hay thái độ học tập đúng đắn. Cách dạy này cũng giúp môi trường học tập trở nên sôi động, vui vẻ và hào hứng hơn cho học sinh. Học sinh và giáo viên cùng tham gia học tập và hoạt động, các hoạt động dạy học cũng đa dạng tùy theo nội dung của bài học. Thông thường, giáo viên có thể áp dụng các hoạt động cơ bản như: khởi động đầu giờ, hình thành kiến thức mới qua việc đọc tài liệu, sách giáo khoa,… cho học sinh tự nghiên cứu, tự học. Giáo viên cũng có thể tổ chức cách hoạt động ngoài giờ... 2.2. Dạy học thông qua tương tác và hợp tác Trong dạy học theo định hướng phát triển năng lực sẽ có sự tương tác hai chiều, trong đó có hỏi đáp, tranh luận và phản biện giữa giáo viên và học sinh cũng như giữa học sinh với nhau. Từ đó sẽ tạo nên mối quan hệ giao lưu, hòa đồng và hợp tác. Học sinh mạnh dạn, tự tin hơn và giáo viên lắng nghe, chỉ dẫn học sinh trả lời các câu hỏi hoặc thúc đẩy học sinh biết suy nghĩ, khai thác và mở rộng vấn đề. Đôi khi, giáo viên cần đưa ra các thông tin phản hồi kịp thời, chính xác và đúng thời điểm để học sinh có thể tiếp thu kiến thức mới một cách chính xác. Trong quá trình dạy học này, giáo viên đóng vai trò là một người thầy, một người bạn để đồng hành cùng học sinh. Để việc tương tác đạt hiệu quả, giáo viên cần nắm rõ điểm mạnh, điểm yếu của từng học sinh để có cách dạy phù hợp, tạo điều kiện cho các em phát triển toàn diện, đồng đều. 13
- 2.3. Dạy học phân hóa Mỗi học sinh đều là một cá thể độc lập có sự khác biệt về năng lực, trình độ và sở thích nên không thể dạy học theo kiểu đồng loạt bằng một phương pháp duy nhất để áp dụng cho tất cả mọi học sinh mà cần tiến hành dạy học phân hóa và cho phép học sinh học tập theo tốc độ, khả năng riêng của mình. Khi thiết kế các hoạt động dạy học, giáo viên phải dựa trên năng lực, nhu cầu và hứng thú của từng cá nhân để đạt được mục tiêu dạy học. Trong quá trình dạy học, học sinh được đánh giá theo những cách khác nhau để đảm bảo việc đánh giá được khách quan, công bằng và chính xác với năng lực của từng học sinh. Khi học sinh được học với khả năng của mình, chúng sẽ làm chủ việc học và học tập có trách nhiệm và hiệu quả hơn. Học sinh cũng có cơ hội để thực hành kiến thức, kỹ năng đã học vào đời sống. 2.4. Dạy học gắn với hướng dẫn tự học Tự học chính là con đường phát triển nội sinh, phát triển năng lực bản thân. Ngày này, việc dạy học đòi hỏi định hướng cho học sinh cách tự học để học suốt đời. Trong dạy học phát triển năng lực, cần hướng dẫn cho học sinh tự học, tự khám phá để chiếm lĩnh kiến thức là một yêu cầu quan trọng và là cơ sở hình thành và phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh. Để làm được điều này, giáo viên cần định hướng nội dung, giao nhiệm vụ và đặt câu hỏi để học sinh suy nghĩ, khám phá và tự chiếm lĩnh kiến thức nhằm đạt được mục tiêu bài học. Kiến thức được lĩnh hội theo cách này sẽ giúp học sinh nắm chắc hơn, tránh tình trạng học vẹt, học thuộc lòng. Giáo viên giao nhiệm vụ, đặt câu hỏi và gợi mở cách tìm kiếm thông tin là chìa khóa lớp học phát triển theo mô hình phát triển năng lực và cũng thể hiện năng lực của giáo viên. 2.5. Dạy học đi cùng với đánh giá để thúc đẩy, điều chỉnh việc học Trong dạy học theo định hướng phát triển năng lực, hoạt động dạy học và đánh giá luôn song hành cùng nhau trong mỗi tiết học. Điều này sẽ giúp giáo viên đánh giá học sinh từ nhiều nguồn với các hình thức khác nhau, trong đó học sinh cũng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau. Đánh giá sự tiến bộ của học sinh nhằm động viên và có những điều chỉnh để học sinh phát triển tốt hơn. Cần thực hiện đánh giá một cách công bằng, khách quan và chính xác. Giáo viên cần có những ghi chép riêng để dùng làm hồ sơ minh chứng hay mô tả sự tiến bộ hoặc sa sút của học sinh trong việc học. Sự phản hồi thường xuyên về kết quả học tập của học sinh và cha mẹ là điều cần thiết. 2.6. Dạy học gắn với thực tiễn Mục tiêu của dạy học theo định hướng phát triển năng lực là hướng cho học sinh vận dụng kiến thức đã học vào trong cuộc sống. Việc đưa bài học vào cuộc sống là yêu cầu quan trọng trong dạy học phát triển năng lực. Giáo viên 14
- ngoài việc giảng dạy các kiến thức trong sách giáo khoa, cần đưa thêm các kiến thức từ thực tiễn vào cuộc sống để học sinh nhận thấy được giá trị thực của học tập. Ngoài ra, giáo viên có thể giao các bài tập vận dụng thực hành, tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho học sinh ngoài giờ học để học sinh liên hệ, vận dụng kiến thức với thực tế cuộc sống đang diễn ra tại địa phương, cộng đồng hoặc chính bản thân mình. 3. Vận dụng một số phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam và Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân Cũng cần nhận thức rằng, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học không thể chỉ nói chung chung mà cần phải áp dụng vào từng môn học, từng bài dạy, tiết dạy cụ thể. Mỗi một phân môn, một nội dung kiến thức có những điểm khác biệt mà giáo viên cần phải linh động trong quá trình giảng dạy, từ đó để áp dụng một cách có hiệu quả việc kết hợp các phương pháp dạy học hiện đại vào trong quá trình dạy học. Trong chương trình Ngữ văn 11, tập 1, tác phẩm Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam và tác phẩm Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân được xem là một trong những đơn vị kiến thức trọng tâm, là những tác phẩm có giá trị được đưa vào chương trình, thuộc về giai đoạn văn học từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng tám năm 1945, đây là những tác phẩm thể hiện phong cách độc đáo của Thạch Lam và Nguyễn Tuân. Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù là những tác phẩm thuộc trào lưu văn học lãng mạn 19321945. Đây cũng là những tác phẩm mà trong đó tác giả gửi gắm nhiều quan niệm về cuộc sống, về nghệ thuật. Việc dạy hai tác phẩm này nhằm để giúp cho học sinh cảm nhận được hoàn cảnh sống, vẻ đẹp con người trong cuộc sống; đồng thời hình thành, định hướng về cách nhìn cuộc đời xung quanh mình là một yêu cầu quan trọng. Không chỉ vậy, để giảng dạy tốt những tác phẩm văn học hiện đại thuộc trào lưu văn học lãng mạn, với quan niệm nghệ thuật khác hẳn những tác phẩm văn học khác trong chương trình là một điều không dễ với rất nhiều giáo viên. Làm thế nào để đưa ra những kiến thức nền cơ bản nhất để học sinh có thể tiếp thu và cảm nhận tác phẩm một cách hiệu quả là điều mà mỗi giáo viên đứng trên bục giảng luôn trăn trở và suy nghĩ. Chính vì những lí do đó, chúng tôi đã chọn đề tài này. Việc vận dụng những phương pháp dạy học hiện đại vào dạy học bộ môn Ngữ văn góp phần quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học hiệu quả, đồng thời khơi dậy niềm hứng thú, yêu thích môn học. Có nhiều phương pháp dạy học tích cực mà giáo viên có thể sử dụng như: Thảo luận nhóm, Đóng vai, Nghiên cứu tình huống, Dự án, Động não, Đặt và giải quyết vấn đề… Trong khuôn khổ bài viết nhỏ này, bên cạnh những phương pháp 15
- truyền thống, tôi chỉ trình bày vài phương pháp mà bản thân đã áp dụng và đem lại hiệu quả giáo dục trong quá trình giảng dạy. Những phương pháp này chúng tôi đã vận dụng cho HS T1, A2, D4 khóa học 2019 2022 và HS T1, D1, D5 khóa học 2020 2023 trường THPT Anh Sơn I. 3.1. Phương pháp đóng vai 3.1.1 Khái niệm: Theo tài liệu Bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình SGK lớp 10 THPT, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2006 định nghĩa: Đóng vai là tổ chức cho người học thực hành, làm thử một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Trong định nghĩa này, các tác giả tiếp cận theo hướng nhấn mạnh vai trò của người học qua việc thể hiện quan điểm, thái độ, hành vi ứng xử trước các tình huống được giao; GV nên tạo các tình huống mở để người học tự sáng tạo kịch bản, lời thoại phù hợp với nội dung bài học và kỹ năng của mình. Dưới góc độ thực hành, làm thử và không chỉ làm thử diễn xuất mà còn làm thử vai nhà biên kịch, làm thử vai đạo diễn, trong những tình huống giả định. Phương pháp này nhằm giúp các em tập trung suy nghĩ về một vấn đề, xem xét nó trong mối quan hệ với tác phẩm văn học và bản thân, xem xét các cách ứng xử để lựa chọn cho mình một cách ứng xử phù hợp tất nhiên là phù hợp với trình độ hiểu biết, quan điểm của học sinh đó về tình huống đặt ra. Từ đó, giáo viên có thể nắm được mức độ hiểu bài và hiểu học sinh của mình để có thể đưa ra những nhận xét, đánh giá, giáo dục phù hợp. 3.1.2 Quy trình cụ thể * Đóng vai trực tiếp Quy trình đóng vai trực tiếp được tiến hành trong cùng một tiết học. Hình thức đóng vai trong tiết học được tiến hành đan xen với hoạt động lên lớp của GV. Các bước tiến hành đơn giản, nhanh và gọn hơn: Bước 1: GV nêu tình huống đóng vai Bước 2: HS tiếp nhận và suy nghĩ Tiến hành đóng vai trước lớp 16
- Bước 3: GV điều khiển quá trình nhận xét, đánh giá của HS trong lớp GV nhận xét, đánh giá, tổng kết lại kiến thức. Quy trình này, người dạy vẫn đảm bảo các khâu lên lớp: khởi động, hình thành kiến thức, luyện tập, vận dụng, mở rộng. GV lựa chọn hình thức đóng vai trong hoạt động lên lớp thay vì sử dụng các kiểu câu hỏi khác nhau để triển khai các nội dung bài học. GV đưa ra một tình huống đóng vai cụ thể, HS vào vai để các em trình bày nội dung, cách hiểu, cách cảm nhận, về vấn đề được nêu ra, từ đó, GV định hướng, tổng kết lại yêu cầu cần đạt. Với cách đóng vai này, GV và HS không mất nhiều thời gian mà vẫn đảm bảo nội dung bài học, học sinh có hứng thú hơn cách nêu câu hỏi truyền thống. Đây cũng là một hình thức dạy học nêu vấn đề, có khả năng đem lại những kết quả tích cực cho hoạt động dạy học so với phương pháp dạy học truyền thống. Tuy nhiên, để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo thì phương pháp này vẫn chưa đáp ứng yêu cầu giải phóng sức sáng tạo của HS. Một hạn chế nữa của phương pháp này là lời thoại các nhân vật chưa được trau chuốt do không có nhiều thời gian chuẩn bị, đa số là tái hiện lại lời thoại từ SGK. Để thực hiện hình thức đóng vai này GV có thể đặt ra các dạng câu hỏi: Nếu em là nhân vật A, em sẽ hành động như thế nào trong hoàn cảnh đó? Vì sao lại thế? ; Hãy tưởng tượng mình là A em hãy kể lại câu chuyện?; Nếu em là nhà văn em sẽ (hãy)…, hoặc Hóa thân vào tác giả, lí giải vì sao lại để cho nhân vật hành động như vậy? Ví dụ: khi dạy tác phẩm Hai dứa trẻ của Thạch Lam và Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, Giáo viên có thể đặt một số câu hỏi: (1) Hãy tưởng tượng mình là Liên, em hãy kể lại câu chuyện cuộc đời mình? (2) Nếu em là Liên, em có chấp nhận một cuộc sống quẩn quanh, tẻ nhạt, buồn chán như vậy không? Em sẽ làm gì để có thể thay đổi cuộc sống của mình? (3) Hóa thân vào nhà văn Thạch Lam, hãy viết tiếp câu chuyện Hai đứa trẻ trong đó, hướng nhân vật của mình tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. (4) Nếu em là Quản Ngục em có bất chấp tất cả để đối đãi tốt với Huấn Cao không? Em có thấy tiếc thương cho một người như Huấn Cao không? (5) Hóa thân vào Nguyễn Tuân, hãy lí giải vì sao lúc đầu Huấn Cao lại coi thường Quản Ngục như vậy? Ưu điểm của phương pháp này: Học sinh rất tích cực, chủ động, hứng thú vì 17
- các em được trải nghiệm nhiều hơn, khi vào vai nhà văn, nhân vật, HS sẽ thỏa sức sáng tạo theo trí tưởng tượng của mình. Đối với hình thức hóa thân này, giờ học không chỉ sinh động mà không khí lớp học rất vui vẻ, hiệu quả. Đây là một hình thức tổ chức dạy học không chỉ góp phần tích cực vào củng cố kiến thức mà còn phát huy được khả năng sáng tạo của người học, vốn sống, vốn hiểu biết của các em sẽ bộc lộ qua cách các em hóa thân vào nhà văn sáng tạo nghệ thuật, GV nắm bắt tình hình dạy học thuận lợi hơn. Nhược điểm: HS muốn sáng tạo được thì phải nắm được ý nghĩa của sự việc, hiện tượng, tình huống, trong SGK, từ đó mới thấy được cái hay, cái hạn chế của tình huống, sự việc, để sáng tạo cho phù hợp. * Đóng vai có sự chuẩn bị trước ở nhà Đây là quy trình bắt đầu từ cuối tiết học trước, hoặc tiết học đầu tiên của bài học có nhiều tiết lên lớp. Quy trình cơ bản vẫn gồm ba bước như quy trình chung, sự khác nhau thể hiện ở mức độ công việc của từng bước. Cụ thể: Bước 1: Giáo viên: Chuẩn bị tình huống đóng vai Giao nhiệm vụ đóng vai cho các nhóm; Hướng dẫn HS lựa chọn xây dựng kịch bản phù hợp với chủ đề bài học; Tạo mối liên hệ giữa GV và HS để liên lạc, chia sẻ thông tin, tư vấn cho HS khi HS gặp khó khăn; Định lượng thời gian cụ thể, xác định mục tiêu kịch bản. Bước 2: Các nhóm tiến hành nhiệm vụ được giao: HS tìm tòi cùng nhau thảo luận để xây dựng kịch bản. Trao đổi lại với GV về nội dung, cách thức tiến hành kịch bản Phân công công việc của từng thành viên một cách khoa học: trưởng nhóm, thư ký, vai diễn, chuẩn bị đạo cụ, Tiến hành tập luyện vai diễn theo kịch bản, đảm bảo thời gian quy định. Thể hiện kịch bản và vai diễn trước lớp theo yêu cầu của GV. Bước 3: Nhận xét, đánh giá: Các nhóm nhận xét vai diễn của nhau, phản biện giải trình (nếu có) 18
- GV nhận xét, đánh giá quá trình chuẩn bị, nội dung kịch bản, kỹ năng đóng vai, hiệu quả đóng vai, có thể phỏng vấn (chất vấn) các nhân vật, tổng kết lại nội dung bài học. Phim ngắn Chữ người tử tù, sản phẩm của học sinh lớp 11T1: https://www.youtube.com/watch?v=A5siIz5jzGk Ví dụ để dạy tác phẩm Hai dứa trẻ của Thạch Lam và Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân theo phương pháp đóng vai chúng tôi đã tiến hành hướng dẫn HS tham gia một số vai diễn như sau: (1) Phần tìm hiểu tiểu dẫn: Cách thứ nhất: GV tổ chức thành một cuộc phỏng vấn, trò chuyện giữa nhà văn và bạn đọc, trong đó một HS vào vai nhà văn Thạch Lam hoặc Nguyễn Tuân, một HS vào vai người dẫn chương trình. Các em chuẩn bị trước những nội dung phỏng vấn ở nhà, đến giờ học các em thể hiện vai diễn của mình trước lớp. Cách thứ 2: nếu giờ dạy học có sử dụng máy chiếu GV cho một HS biết về công nghệ thông tin chuẩn bị một số tranh ảnh liên quan về cuộc đời, sự nghiệp của nhà văn Thạch Lam hoặc Nguyễn Tuân. Các bức ảnh đó được sắp xếp theo thứ tự thông tin về tác giả, tác phẩm. Một HS viết bài giới thiệu theo nội dung đó. Đến giờ học một em hóa thân mình là người hướng dẫn viên giới thiệu cho các em HS nghe về nhà văn Thạch Lam hoặc Nguyễn Tuân nhân một chuyến trải nghiệm, tham quan bảo tàng văn học. (2) Phần đọc – hiểu: Ví dụ khi dạy truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân GV có thể lựa chọn cho HS dựng lại cảnh đón tù nhân; cảnh tiếp đãi Huấn Cao của Quản Ngục hoặc cảnh cho chữ. Hoặc cũng có thể cho HS dựng lại toàn bộ câu chuyện thay cho phần tóm tắt tác phẩm. GV tiến hành thực hiện theo 3 bước trên và thực hiện theo hai hình thức. Một là HS luyện tập đóng vai rồi diễn lại cảnh đó trực tiếp trong giờ học. Hai là GV cho HS đóng vai rồi quay lại vedeo và cho lớp xem khi học tác phẩm đó. Với hình thức đóng vai này, GV có thể hình thành cho học sinh rất nhiều năng lực: Năng lực giao tiếp; Năng lực sáng tạo; Năng lực hợp tác và đảm nhận trách nhiệm.; Năng lực tự quản lý thời gian; Rèn luyện và phát triển năng lực giải quyết vấn đề.; Hình thành và phát triển năng lực tự học; Năng lực cảm thụ văn học; Năng lực trình diễn, hóa thân; Năng lực sử dụng CNTT… không chỉ phù hợp với quan điểm đổi mới phương pháp dạy học mà còn phù hợp với xu hướng trả tác phẩm về cho học sinh, đem đến sân chơi bổ ích cho HS qua hình thức chơi mà học, học mà chơi. * Ưu và nhược điểm của phương pháp dạy học đóng vai 19
- Ưu điểm Học sinh được rèn luyện, thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trước một tình huống giả định đặt ra trong tác phẩm. Phương pháp đóng vai là một trong những hình thức trả tác phẩm về cho học sinh, đem đến hứng thú học tập, lôi cuốn sự chú ý của các em vào bài học. Phương pháp này đem đến cho các em mong muốn được thể hiện mình, muốn sáng tạo và cách các em thể hiện hiểu biết, vận dụng của mình vào tình huống cụ thể đó sẽ được kiểm chứng qua những nhận xét, đánh giá của các nhóm khác, của GV để từ đó điều chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội. GV có thể nắm bắt ngay được tác động, hiệu quả giáo dục trong lời nói, hành động của học sinh qua vai diễn. GV có thể quan tâm đối với tất cả các học sinh, nhất là với những HS nhút nhát, thiếu tự tin. Giúp các em có cơ hội thể hiện bản thân, mạnh dạn, tự tin thể hiện mình trước tập thể lớp, từ đó giúp các em hòa nhập tích cực khi đứng trước một tập thể lớn hơn. Nhược điểm Sử dụng phương pháp DHĐV thường mất nhiều thời gian chuẩn bị kịch bản, phương tiện vật chất và tài chính cho cả GV và HS. Sự thành công của tiết học phụ thuộc nhiều vào khả năng diễn xuất của học sinh. Đối với học sinh rụt rè, nhút nhát thì khả năng thành công không cao. Thường kén học sinh hơn các phương pháp truyền thống vì phương pháp này đòi hỏi người học chủ động, tích cực và có khiếu diễn xuất nữa. * Một số lưu ý khi sử dụng phương pháp đóng vai Phương pháp đóng vai không khuyến khích sử dụng trong tất cả các khâu lên lớp, tất cả nội dung bài học, GV chỉ nên chọn nội dung phù hợp để đóng vai tránh lặp lại nhàm chán. Trong quá trình lên lớp, cần kết hợp nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực khác để tăng hiệu quả của hoạt động dạy học. Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với lứa tuổi, trình độ HS và điều kiện, hoàn cảnh lớp học. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p | 139 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM trong bài Cacbon của chương trình Hóa học lớp 11 THPT
19 p | 138 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng cảm thụ văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12
27 p | 39 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng kiến thức văn học trong dạy học một số nội dung phần Công dân với đạo đức môn GDCD lớp 10 nhằm tạo hứng thú trong học tập cho học sinh tại trường THPT Thái Lão
43 p | 35 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng cơ chế giảm phân để giải nhanh và chính xác bài tập đột biến nhiễm sắc thể
28 p | 38 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng mô hình học tập Blended Learning trong dạy học chủ đề 9 Tin học 11 tại Trường THPT Lê Lợi nhằm nâng cao hiệu quả học tập
16 p | 22 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng toán tổ hợp xác suất trong việc giúp học sinh giải nhanh các bài tập di truyền phần sinh học phân tử và biến dị đột biến
17 p | 40 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM trong chương trình Hóa học hữu cơ 11
74 p | 41 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng quan điểm tích hợp thông qua phương pháp dự án để dạy chủ đề Liên Bang Nga
77 p | 74 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng lí thuyết chuẩn độ axit – bazơ trong giảng dạy Hóa học ở trường chuyên và phục vụ bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia, Quốc tế
143 p | 37 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các biện pháp nâng cao hiệu quả làm bài phần Đọc - hiểu trong đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn THPT
36 p | 26 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hệ thống bài tập Hóa học rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong chương trình Hóa học THPT
47 p | 15 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM phần hóa học phi kim lớp 11 nhằm phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh
71 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập môn Lịch Sử theo định hướng 5 bước 1 vấn đề, đáp ứng yêu cầu mới của kỳ thi THPT Quốc gia
29 p | 35 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng nguyên tắc tích hợp trong dạy làm văn dạng bài Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ; Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học
29 p | 44 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng định lý Thales để tìm lời giải cho các bài toán hình học tọa độ trong mặt phẳng
35 p | 28 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn