Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần Viết - Bài 1 để hình thành và phát triển năng lực viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Về chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật) cho học sinh lớp 10
lượt xem 0
download
Sáng kiến "Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần Viết - Bài 1 để hình thành và phát triển năng lực viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Về chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật) cho học sinh lớp 10" được hoàn thành với mục tiêu nhằm đề xuất một số biện pháp tổ chức dạy phần Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Về chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật) - Bài 1. Sức hấp dẫn của truyện kể; Tiến hành thực nghiệm để đánh giá hiệu quả của đề tài.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần Viết - Bài 1 để hình thành và phát triển năng lực viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Về chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật) cho học sinh lớp 10
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT DIỄN CHÂU 3 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần Viết - Bài 1 để hình thành và phát triển năng lực viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Về chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật) cho học sinh lớp 10 Tác giả: 1. Nguyễn Thị Ngà Sđt: 0981158505 2. Phan Thị Hồng Sđt: 0968142686 3. Cao Thị Huyền Lam Sđt: 0392784178 Lĩnh vực: Ngữ văn NGHỆ AN - 2024 1
- PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………….……………...…5 1. Lí do chọn đề tài………………………...…………………….….………….........5 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề …………………………………….…….………..…..5 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và địa bàn khảo sát……………………….…..…7 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu……………………….…………………….…7 5. Phương pháp nghiên cứu……………………….………………………….……...8 6. Đóng góp mới của đề tài……….………………….……………………………....8 7. Cấu trúc của đề tài……………………………………..…………..……………....8 PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU………………………………..…………...9 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI…………….….9 1.1. Cơ sở lí luận……………………………………………………………….……..9 1.2. Cơ sở thực tiễn…………………………………………………………………..15 CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP, KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO DẠY PHẦN VIẾT VĂN BẢN NGHỊ LUẬN PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ MỘT TÁC PHẨM TRUYỆN (BÀI 1) TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10………………………...………………………………………….….23 2.1. Một số nguyên tắc khi vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực….23 2.2. Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực vào dạy học phần Viết - Bài 1 để hình thành và phát triển năng lực viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Về chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật) cho học sinh lớp 10……………………...……………………………………………………………..24 2.2.1. Áp dụng mô hình lớp học đảo ngược vào hình thành kiến thức lí thuyết Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về hìnhthức của tác phẩm truyện……………...…………………………….…………………………….24 2.2.2. Vận dụng kĩ thuật KWLH, 5W1H giúp HS dễ đàng trong việc tìm ý, lập dàn ý cho bài văn…………………….……………………………………………………..29 2.2.3. Vận dụng phương pháp dạy học dự án giúp học sinh phát triển năng lực Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật)……..………..........................................……….35 2.2.4. Sử dụng linh hoạt các hình thức kiểm tra, đánh giá nhằm kích thích hoạt động học và phát triển kĩ năng viết cho học sinh................................................................ 38 2
- 2.3. Thiết kế kế hoạch bài dạy phần Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Về chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật) (Bài 1 – Ngữ văn 10) bằng việc vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực……….47 CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM .......................................................... 48 3.1. Mục đích, nhiệm vụ thực nghiệm.........................................................................48 3.2. Đối tượng, địa bàn, thời gian và phương pháp thực nghiệm............................... 48 3.3. Quy trình tổ chức thực nghiệm............................................................................ 49 3.4. Đánh giá thực nghiệm......................................................................................... 49 PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..............................................................53 1. Kết luận.................................................................................................................. 53 1.1. Tính cấp thiết và khả thi của đề tài.......................................................................53 1.2. Ý nghĩa của đề tài................................................................................................ 53 1.3. Tính mới mẻ của đề tài........................................................................................ 54 1.4. Tính khoa học của đề tài………………………………..………........................ 54 1.5. Phạm vi ứng dụng và hướng phát triển của đề tài............................................... 54 2. Đề xuất, kiến nghị………………………………………………………………………...…………….54 3
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ CT Chương trình GDPT Giáo dục phổ thông HS Học sinh GV Giáo viên SGK Sách giáo khoa TB Trung bình THPT Trung học phổ thông 4
- PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Chương trình GDPT 2018 được xây dựng theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh, đòi hỏi giáo viên phải đổi mới về cách dạy, chuyển từ dạy kiến thức sang dạy cách thức, phương pháp, kĩ năng. Vì vậy, việc vận dụng các phương pháp dạy, kĩ thuật dạy học mới nhằm tạo cơ hội để học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo từ đó hình thành phẩm chất và năng lực là vô cùng cần thiết. Mục tiêu của bộ môn Ngữ văn trong Chương trình GDPT 2018 là hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất quan trọng; rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói, nghe; biết tạo lập các văn bản thông dụng; biết tiếp nhận và đánh giá các văn bản văn học nói riêng, các sản phẩm giao tiếp và các giá trị thẩm mĩ khác nói chung. Truyện là một thể loại cốt yếu trong kho tàng văn học của nhân loại. Không chỉ ra đời sớm và chiếm một số lượng lớn; mà thông qua các hình thức nghệ thuật đặc sắc cùng hệ thống các hình tượng nhân vật; truyện có lợi thế rất lớn trong việc phản ánh hiện thực đời sống và bồi dưỡng, giáo dục nhân cách cho con người. Do đó, việc thâm nhập sâu vào tác phẩm để cảm thụ một cách trọn vẹn, sâu sắc cái hay cái đẹp của truyện đối với học sinh là rất quan trọng. Để làm được điều đó, đòi hỏi học sinh phải có kĩ năng viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện. Tuy nhiên, đứng trước một tác phẩm truyện hoàn toàn mới, việc viết một văn bản nghị luận phân tích, đánh giá đối với học sinh lớp 10 là không hề dễ dàng. Bởi vậy, giáo viên cần phải thiết kế, tổ chức, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực giúp học sinh hình thành và phát triển được kĩ năng viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện, cũng như khơi gợi niềm cảm hứng ở học sinh khi tiếp xúc với thể loại này. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu và triển khai đề tài: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần Viết - Bài 1 để hình thành và phát triển năng lực viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Về chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật) cho học sinh lớp 10. Chúng tôi hi vọng thông qua đề tài, sẽ đóng góp một phần vào việc nâng cao hiệu quả dạy học phần“Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Về chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật)” và hình thành, phát triển được năng lực viết một văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện cho học sinh lớp 10. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nhiệm vụ, mục tiêu của bộ môn Ngữ văn trong Chương trình GDPT 2018 là hình thành và phát triển cho HS bốn năng lực đặc thù quan trọng: đọc - viết - nói - 5
- nghe. Trong đó, viết là nhiệm vụ quan trọng thứ hai của môn Ngữ văn. Bởi vậy, việc tìm ra các phương pháp dạy học viết hiệu quả luôn nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã đề xuất các phương pháp dạy viết trong trường phổ thông. Có thể kể đến như sau: Giáo sư Trần Đình Sử trong cuốn Môn Ngữ văn và dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông (2018) cũng đưa ra một số phương pháp về dạy viết như: HS sẽ học viết các văn bản đơn giản đến phức tạp, từ mô phỏng theo mẫu đến sáng tạo, từ dung lượng ngắn đến dung lượng dài. […] Khi HS viết phải bắt đầu từ ý thức viết để làm gì, viết cho ai, viết nhằm mục đích gì, hình thức viết, biết tự kiểm tra bài viết theo yêu cầu đề ra. […] GV phải dạy cho HS khi tìm hiểu đề, cần thực hành tập giả định tình huống giao tiếp cụ thể thì HS mới lập ý, sinh ý và lập dàn ý được. Cuốn Dạy học phát triển năng lực môn Ngữ văn THPT (2019) do Đỗ Ngọc Thống chủ biên viết: Trong dạy viết, GV cần chú ý đến cách dạy để hình thành và phát triển cho HS kĩ năng về quy trình viết và kĩ năng viết các kiểu loại văn bản. Phương pháp dạy học trong dạy quy trình viết tập trung vào việc giao nhiệm vụ để HS thực hiện từng bước khi viết văn bản với bốn bước chính sau: 1) Xác định mục tiêu và nội dung viết. 2) Thu thập tư liệu, hình thành ý và lập dàn ý cho bài viết. 3) Viết nháp rồi hoàn thành bài viết. 4) Dựa vào việc đọc lại, góp ý của GV hoặc bạn để chỉnh sửa bài. Tiến sĩ Đỗ Thị Thu Hương (Giảng viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2) trong bài Báo cáo nghiên cứu Quan niệm về dạy viết trên thế giới và đề xuất phương pháp dạy viết trong nhà trường phổ thông đăng trên Tạp chí Khoa học Giáo dục Việt Nam (ra ngày 15/09/2021) đã căn cứ vào ba quan niệm dạy viết trên thế giới đó là Tiếp cận sản phẩm, Tiếp cận quy trình và Tiếp cận thể loại; từ đó đề xuất một số phương pháp dạy viết trong nhà trường phổ thông ở Việt Nam. Cụ thể, bên cạnh đề xuất phương pháp dạy viết cần đi theo tiến trình và kết hợp với đặc trưng thể loại, Tiến sĩ Đỗ Thị Thu Hương còn nhấn mạnh một số điểm cần thay đổi khi áp dụng các phương pháp dạy viết, như: - Dạy học viết cần tích hợp giữa hoạt động viết và hoạt động đọc hiểu văn bản. - Về hệ thống học liệu: Cần có những đổi mới trong việc xây dựng hệ thống học liệu dạy học kĩ năng viết. Về nội dung, học liệu cần chú trọng đến tính thực hành, hệ thống bài tập phong phú đa dạng, từ đó, phát huy năng lực tự học của người học. Về hình thức, học liệu cũng cần có những thay đổi, điều chỉnh cho cập nhật, mới mẻ và hiện đại. 6
- - Đổi mới cách kiểm tra đánh giá đối với kĩ năng viết của HS. Để hoạt động kiểm tra đánh giá giúp ích cho phát triển năng lực viết của HS, giáo viên cần xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá theo từng kiểu bài. Các tiêu chí đánh giá có thể là: 1) Nội dung; 2) Kết cấu bài viết; 3) Diễn đạt và lập luận; 4) Sử dụng ngôn ngữ và trình bày. Như vậy, có thể thấy dạy viết là một hoạt động đặc thù của bộ môn Ngữ văn và đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến phương pháp dạy viết. Tuy nhiên, các công trình nhgieen cứu trên hầu hết mới chỉ dừng lại ở phương pháp dạy viết theo tiến trình hoặc gắn với đặc điểm của kiểu bài và đặc trưng thể loại mà chưa có công trình nào đề cập hay đưa ra những giải pháp cụ thể trong việc áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào để phát triển năng lực viết cho HS, nâng cao chất lượng giờ học. Đặc biệt, đặt trong mục tiêu của Chương trình GDPT 2018 và bối cảnh xã hội hiện đại ngày nay, việc đi tìm các giải pháp để áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học nói chung, dạy học viết nói riêng là một yêu cầu vô cùng cấp thiết. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và địa bàn khảo sát 3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực (mô hình lớp học đảo ngược; kĩ thuật KWL, 5W1H; dự án;…); Phần Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Về chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật) (Bài 1) trong chương trình Ngữ văn 10 (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống). - Phạm vi nghiên cứu: + Phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực: mô hình lớp học đảo ngược; kĩ thuật KWL, 5W1H; dự án; một số hình thức kiểm tra, đánh giá hoạt động học và năng lực viết của học sinh. + Phần Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Về chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật) thuộc Bài 1. Sức hấp dẫn của truyện kể trong chương trình Ngữ văn 10 (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) 3.2. Địa bàn khảo sát Đề tài tiến hành khảo sát tại trường THPT Diễn Châu 3 và một số trường THPT trên địa bàn huyện Diễn Châu, tiến hành thực nghiệm sư phạm tại trường THPT THPT Diễn Châu 3 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Khẳng định tính hiệu quả của việc vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực để hình thành và phát triển năng lực viết văn bản nghị luận 7
- phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Về chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật). - Nhiệm vụ: Xác định cơ sở khoa học của đề tài; Đề xuất một số biện pháp tổ chức dạy phần Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Về chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật) - Bài 1. Sức hấp dẫn của truyện kể; Tiến hành thực nghiệm để đánh giá hiệu quả của đề tài. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phân loại và hệ thống hoá lý thuyết - Phương pháp điều tra, khảo sát - Phương pháp quan sát - Phương pháp thống kê, phân tích số liệu - Phương pháp thực nghiệm sư phạm 6. Đóng góp mới của đề tài - Đề tài hướng đến đề xuất một số biện pháp vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học: mô hình lớp học đảo ngược; kĩ thuật KWLH, 5W1H; Dự án,… vào dạy học phần Viết văn văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Bài 1 - Ngữ văn 10, Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống). - Đề tài được triển khai lần đầu tiên với đối tượng học sinh lớp 10 chương trình GDPT 2018 ở trường THPT Diễn Châu 3, nhằm giúp giáo viên hướng đến giải quyết các vấn đề khó khăn khi tổ chức hoạt động dạy học trên lớp. Giúp học sinh tiếp cận mục tiêu bài học một cách hiệu quả, góp phần phát triển năng lực viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Về chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật), đáp ứng yêu cầu đổi phương pháp dạy học và mục tiêu CT GDPT môn Ngữ văn 2018. 7. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần Đặt vấn đề, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung của đề tài có 3 chương: Chương 1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài Chương 2. Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực vào dạy phần Viết - Bài 1 để hình thành và phát triển năng lực viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Về chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật) cho học sinh lớp 10 Chương 3. Thực nghiệm sư phạm 8
- Phần II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Năng lực viết và mục đích, yêu cầu dạy viết ở trường phổ thông 1.1.1.1. Năng lực và năng lực viết Chương trình GDPT 2018 ban hành kèm Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã định nghĩa về năng lực như sau: Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể. Về viết, Từ điển tiếng Việt giải thích viết là: 1) Vạch những đường nét tạo thành chữ. Tập viết. Viết lên bảng; 2)Viết chữ ghi ra nội dung muốn nói đã được sắp xếp. Viết thư. Viết bài báo. Viết sách (tr.1094). Còn Chương trình GDPT môn Ngữ văn 2018 quy định: Viết bao gồm kĩ thuật viết (tư thế ngồi viết, cầm bút, kĩ năng viết chữ, viết đúng chính tả…) và viết câu, viết đoạn, viết văn bản (gồm các yêu cầu về quy trình tạo lập văn bản và yêu cầu về thực hành viết theo đặc điểm của các kiểu văn bản). - Như vậy, năng lực viết (hay còn gọi là năng lực tạo lập văn bản, sản sinh văn bản) có thể hiểu là người học có khả năng viết một cách độc lập khi được yêu cầu thực hiện và bài viết thể hiện đầy đủ các tiêu chí của một bài viết sáng tạo; khả năng nhận biết được ích lợi của việc viết; nhận biết khi nào thì cần viết và viết như thế nào để giải quyết được vấn đề; người đọc sẽ có nhận thức, thái độ, hành động như người viết mong muốn. Viết là năng lực thứ hai trong bốn năng lực đặc thù (đọc - viết - nói - nghe) mà bộ môn Ngữ văn cần phát triển cho người học. Trên thực tế, năng lực viết đóng vai trò vô cùng quan trọng và được xem là năng lực quan trọng nhất quyết định sự thành công trong công việc, trong học tập và trong cuộc sống của một cá nhân. Do đó, phát triển năng lực viết cho HS vừa là một nhiệm vụ, vừa là yêu cầu và cũng là mục tiêu của bộ môn Ngữ văn. 1.1.1.2. Mục đích, yêu cầu dạy viết trong bộ môn Ngữ văn ở trường phổ thông a. Mục đích dạy viết 9
- Mục tiêu chung của Chương trình GDPT 2018 môn Ngữ văn là ngoài việc hình thành và phát triển cho HS những phẩm chất và năng lực chung thì còn phải giúp HS phát triển được những năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học, đó là rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói, nghe; có hệ thống kiến thức phổ thông nền tảng về tiếng Việt và văn học, phát triển tư duy hình tượng và tư duy logic, góp phần hình thành học vấn căn bản của một người có văn hóa; biết tạo lập các văn bản thông dụng; biết tiếp nhận, đánh giá các văn bản văn học nói riêng, các sản phẩm giao tiếp và các giá trị thẩm mĩ nói chung trong cuộc sống. Như vậy, mục đích đầu tiên của dạy viết trong nhà trường phổ thông là hình thành và phát triển ở học sinh năng lực sử dụng tiếng Việt, trong đó có năng lực tạo lập văn bản viết và kĩ năng sử dụng ngôn ngữ lên mức thành thục, tăng hiệu quả giao tiếp. Thứ hai, dạy viết còn hướng tới mục đích giúp là HS phát triển năng lực tư duy bởi ngôn ngữ là phương tiện và cũng là sản phẩm của tư duy. Cụ thể, dạy viết giúp các em phát triển tư duy trong việc phân tích đề văn, hình thành ý tưởng, tìm ý, sắp xếp ý, sử dụng các thao tác lập luận, lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ, cách diễn đạt, rà soát và đánh giá bài viết. Thứ ba, sản phẩm bài viết của HS thể hiện tổng hợp vốn sống, vốn văn học, nhân cách, năng lực tư duy, năng lực ngôn ngữ của các em. Thông qua bài viết, HS được bộc lộ và khẳng định chính mình. Vì thế, mục đích của dạy viết còn hướng tới hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp cho các em HS. Từ đó, chúng ta có thể đi đến kết luận rằng, ba mục đích lớn nhất của dạy viết ở trường phổ thông là: hoàn chỉnh tri thức và kĩ năng về các kiểu văn bản, nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ viết đạt hiệu quả giao tiếp cao; phát triển năng lực tư duy và hình thành, bồi dưỡng phẩm chất, nhân cách cho người học. b. Yêu cầu dạy học viết Chương trình GDPT 2018 môn Ngữ văn quy định rõ yêu cầu cần đạt đối với GV THPT khi dạy viết là phải giúp HS: - Biết phân tích, đánh giá nội dung và đặc điểm nổi bật về hình thức biểu đạt của văn bản, nhất là những tìm tòi, sáng tạo về ngôn ngữ, cách viết và kiểu văn bản. - Viết thành thạo kiểu văn bản nghị luận và văn bản thuyết minh về các đề tài gắn với đời sống và định hướng nghề nghiệp; viết đúng quy trình, có kết hợp các phương thức biểu đạt, kiểu lập luận và yếu tố nghệ thuật; có chủ kiến về một vấn đề xã hội. - Viết được văn bản nghị luận và văn bản thông tin có đề tài tương đối phức tạp, văn bản; văn bản nghị luận yêu cầu phân tích, đánh giá, so sánh giá trị của tác phẩm 10
- văn học; bàn về những vấn đề phù hợp với đối tượng gần đến tuổi thành niên, đòi hỏi cấu trúc và kiểu lập luận tương đối phức tạp, bằng chứng có thể tìm kiếm từ nhiều nguồn;… - Bài viết thể hiện được cảm xúc, thái độ, những trải nghiệm và ý tưởng của cá nhân đối với những vấn đề đặt ra trong văn bản, thể hiện được cách nhìn, cách nghĩ, cách sống mang đậm cá tính. - Tạo lập được một số kiểu văn bản văn học thể hiện khả năng biểu đạt cảm xúc và ý tưởng bằng hình thức ngôn từ mang tính thẩm mĩ. Như vậy có thể thấy, yêu cầu đối với việc dạy viết ở cấp THPT khá cao và phức tạp, đạt được những yêu cầu trên là một nhiệm vụ không hề dễ dàng, đòi hỏi người GV cần phải thực sự có năng lực và phương pháp dạy học phù hợp, hiệu quả. Ngoài ra, trong dạy học nói chung, dạy viết nói riêng người GV luôn phải tuân thủ các nguyên tắc nhất định. Đối với dạy viết, GV cần phải tuân thủ những nguyên tắc quan trọng sau đây: Nguyên tắc thứ nhất, dạy viết (tạo lập văn bản) cần đi theo tiến trình. Tiến trình (quy trình) viết theo hướng dẫn ở SGK thường bao gồm bốn bước: - Bước 1: Chuẩn bị viết (Xác định mục đích viết, đối tượng tiếp nhận; lựa chọn đề tài/ tác phẩm,…; thu thập thông tin cho bài viết;…) - Bước 2: Tìm ý, lập dàn ý (Tìm ý và sắp xếp các ý theo trình tự logic). - Bước 3: Viết (Viết các ý thành các đoạn văn, bài văn). - Bước 4: Chỉnh sửa, hoàn thiện (Đọc, rà soát lại bài viết, chỉnh các lỗi mắc phải và hoàn thiện bài viết). Nguyên tắc thứ hai, HS là chủ thể của quá trình dạy viết. Trong dạy viết, GV chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn, tổ chức các hoạt động học để HS tự tìm kiếm, khám phá tri thức, thực hành và hình thành kĩ năng. Vì vậy, hoạt động dạy viết cần được tổ chức dựa trên những trải nghiệm, cảm xúc của cá nhân người học. GV cần tôn trọng ý tưởng riêng của HS, khuyến khích các em thể hiện con người cá nhân của mình qua bài viết. GV cũng không nên lập dàn ý quá chi tiết cho học sinh, không quá áp đặt nội dung bài viết mà hãy để cho HS được viết như một hoạt động trải nghiệm để thể hiện mình và được sáng tạo theo ý muốn. Nguyên tắc thứ ba, dạy học viết cần tích hợp chặt chẽ với dạy học đọc hiểu. Bởi dạy viết không phải là dạy cho HS viết những đề văn cụ thể mà là dạy cho các em tạo lập được các kiểu văn bản với những đặc trưng riêng phù hợp với các tình huống giao tiếp của đời sống. Khi đọc hiểu văn bản tốt, HS sẽ áp dụng được những kiến thức về đặc trưng thể loại, cấu trúc văn bản vào việc tạo lập văn bản. 11
- Nguyên tắc thứ tư, dạy viết phải hướng vào hoạt động thực hành với hệ thống bài tập phong phú, đa dạng. Hoạt động thực hành và hệ thống bài tập phong phú sẽ giúp HS rèn luyện được các thao tác, kĩ năng bộ phận và năng lực viết tổng hợp; từ đó hình thành và phát triển năng lực viết cho HS. Có thể kể đến một số dạng bài tập như: bài tập phân tích mẫu, bài tập tìm hiểu đề, bài tập tìm ý, lập dàn ý, bài tập viết đoạn/ câu, bài tập liên kết câu/ đoạn văn, bài tập thực hành tổng hợp,… 1.1.1.3. Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Về chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật) trong chương trình Ngữ văn 10. Văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Về chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật) là kiểu văn bản mà ở đó người viết bày tỏ, chia sẻ những cảm nhận, quan điểm, đánh giá của mình về chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của một tác phẩm truyện dựa trên những cứ liệu cụ thể, thuyết phục. Đối với bộ môn Ngữ văn, năng lực viết văn bản nghị luận văn học nói chung, nghị luận về một tác phẩm truyện nói riêng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển năng lực viết cũng như các năng lực, phẩm chất khác cho HS. Bởi lẽ: - Truyện là thể loại chiếm dung lượng, thời lượng khá lớn trong chương trình Ngữ văn 2018. Trong chương trình lớp 10, truyện chiếm 02 trong tổng số 09 bài học (Bài 1: Sức hấp dẫn của truyện kể và Bài 7: Quyền năng của người kể chuyện), HS phải học và thực hành viết 02 kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (gồm kiểu bài Phân tích, đánh giá về chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật và kiểu bài Phân tích, đánh giá về chủ đề và nhân vật trong tác phẩm truyện). - Truyện là thể loại thường đi sâu vào khám phá, cắt nghĩa, lí giải đời sống và con người thông qua hệ thống các hình tượng nhân vật và các yếu tố về nghệ thuật. Mỗi câu chuyện đều phản ánh ít nhất một vấn đề đang diễn ra trong đời sống và thể hiện nhãn quan của tác giả về tình đời, tình người trong cuộc sống. Bởi vậy, truyện đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc giáo dục nhân các, hình thành và bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp cho HS. Do đó, việc giúp HS đi sâu vào khám ra giá trị và vẻ đẹp của tác phẩm truyện là một nhiệm vụ quan trọng của GV Ngữ văn, mà viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật). - Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật) là một con đường vô cùng hiệu quả không chỉ giúp HS đi sâu khám phá giá trị Chân - Thiện - Mĩ của tác phẩm truyện để làm giàu tâm hồn, bồi dưỡng nhân cách mà còn giúp HS phát triển năng lực cảm thụ văn 12
- học; biết bày tỏ và bảo vệ những suy nghĩ, quan điểm cá nhân; hình thành và phát triển lực tư duy, năng lực ngôn ngữ và năng lực viết,... Mỗi một tác phẩm văn học luôn gắn liền với một thể loại nhất định. Cho nên, đối với kiểu bài này, muốn thành công, trước hết GV cần phải hình thành cho HS kiến thức chắc chắn về thể loại truyện. Trong quá trình phân tích, đánh giá tác phẩm, GV cần hướng dẫn và yêu cầu HS phải luôn luôn tuân thủ và bám sát vào những đặc trưng của thể loại như: câu chuyện, truyện kể, cốt truyện, tình huống truyện, nhân vật, người kể chuyện, lời kể, lời nhân vật,… Nếu xa rời đặc trưng thể loại thì bài viết không có cơ sở và sức thuyết phục. Mặt khác, mỗi kiểu bài luôn phải tuân thủ những yêu cầu riêng gắn với đặc điểm của kiểu bài đó. Cụ thể, yêu cầu của văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật) đó là: - Giới thiệu ngắn gọn về tác phẩm truyện (nhan đề, tên tác giả,…) và ý kiến khái quát của người viết về tác phẩm. - Tóm tắt tác phẩm truyện (vừa đủ để người đọc nắm được nội dung chính). - Phân tích cụ thể, rõ ràng về tác phẩm truyện (chủ đề nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật và tác dụng của chúng) với những cứ liệu sinh động. - Đánh giá tác phẩm truyện dựa trên lí lẽ và các bằng chứng thuyết phục. - Khẳng định giá trị tác phẩm. Ngoài ra, khi dạy HS viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật), GV cũng cần hướng dẫn HS đảm bảo quy trình 04 bước trong hoạt động viết: Chuẩn bị viết; Tìm ý, lập dàn ý; Viết và Chỉnh sửa, hoàn thiện. 1.1.2. Lí luận về các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực Phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp, kĩ thuật giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học (Từ “tích cực” trong phương pháp, kĩ thuật dạy học được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực). Phương pháp, kĩn thuật dạy học tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, gắn liền với tư tưởng, quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm với bốn đặc trưng cơ bản sau: - Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh: Trong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt động "dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo 13
- viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những kiến thức mới chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Trong phương pháp dạy học tích cực, giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn là người tổ chức, điều phối hoạt động, hướng dẫn HS tham gia, hành động. - Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học: Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Thông qua các hoạt động học, người học được rèn luyện về phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học, từ đó tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. - Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác: Để phát huy tính tích cực, chủ động của HS, các phương pháp tích cực hướng tới việc huy động sự hoạt động độc lập của cá nhân để chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng, thái độ. Tuy nhiên, lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập, cho nên cần phải có sự phối hợp giữa học tập cá nhân, cá thể với học tập hợp tác. Học tập hợp tác không chỉ giúp tăng hiệu quả học tập, và còn phát triển ở người học rất nhiều những năng lực quan trọng khác: hợp tác, giao tiếp, giải quyết vấn đề, sáng tạo,... - Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò: Trong dạy học tích cực, GV không còn giữ vai trò độc quyền trong việc đánh giá HS. Ngược lại, GV cần phải hướng dẫn HS phát triển năng lực tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau để tự điều chỉnh cách học. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần thiết trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho HS. Hơn nữa, để đào tạo những con người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì trong các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, việc kiểm tra, đánh giá không chỉ dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà còn phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo của HS trong việc giải quyết những tình huống thực tế. Có thể nói, trong xã hội hiện đại, các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích đang dần khẳng định vai trò và vị thế của mình trong việc hình thành và phát triển năng lực cho HS. Cụ thể: - Phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực giúp HS cảm thấy thoải mái, không bị gò ép, áp đặt khi học (HS cảm thấy được học chứ không phải bị học). Người học 14
- được thoải mái chia sẻ những kiến thức và kinh nghiệm của mình, được làm, được thể hiện, được sáng tạo, đồng thời những kiến thức, kinh nghiệm HS không chỉ từ bổ sung từ GV mà còn từ chính các bạn trong lớp. Nhờ đó, HS sẽ trở nên tích cực, chủ động; hình thành và phát triển được những năng lực và phẩm chất quan trọng; kiến thức không chỉ được HS ghi nhớ, khắc sâu mà còn tăng khả năng áp dụng vào thực tế lên gấp nhiều lần so với cách học thụ động một chiều. Hơn nữa, khi HS được chủ động trong việc học, được tự làm việc, được khám phá tiềm năng của chính mình sẽ giúp HS tự tin hơn, có trách nhiệm hơn với bản thân và cộng đồng. Tại các quốc gia tiên tiến trên thế giới, các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực đã được áp dụng một cách rộng rãi trong dạy học. Tại Việt Nam, trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng có có những biện pháp nhằm đẩy mạnh việc áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giảng dạy trong nhà trường nhất là khi Chương trình GDPT 2018 được đưa vào thực hiện. Các đợt tập huấn nhằm trang bị cho GV kiến thức, quy trình áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực được Bộ Giáo dục và Đào tạo ráo riết triển khai. Điều đó đã khẳng định tầm quan trọng và sự cấp thiết của việc áp dụng các phương pháp, kĩ thuật tích cực vào dạy học trong nhà trường phổ thông hiện nay. 1.2. Cơ sở thực tiễn Để tìm hiểu về thực tiễn áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực và thực trạng về dạy viết trong trường THPT, chúng tôi đã sử dụng phương pháp thống kê, phiếu hỏi với GV bộ môn Ngữ văn và HS lớp 10 để tiến hành làm khảo sát, từ đó có căn cứ đề xuất các biện pháp để áp dụng các phương pháp, kĩ thuật tích vào dạy học nói chung và dạy học phần Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật) của Bài 1 nói riêng nhằm phát triển phẩm chất, năng lực, nhất là năng lực viết cho HS và nâng cao chất lượng giờ dạy. Chúng tôi tiến hành khảo sát 16 GV Ngữ văn ở 3 trường THPT trên địa bàn huyện Diễn Châu (gồm 08 GV ở trường THPT Diễn Châu 3, 03 GV ở trường THPT Diễn Châu 1, 03 GV ở trường THPT Diễn Châu 2, 2 GV ở trường THPT Diễn Châu 4, các GV tham gia khảo sát đều đạt chuẩn hoặc trên chuẩn, trong đó có 11 GV trình độ Đại học, 05 GV có trình độ Thạc sĩ) và 124 HS ở khối lớp 10 trường THPT Diễn Châu 3. Chúng tôi thiết kế bộ câu hỏi khảo sát và link khảo sát trên google form dành cho GV và HS. Bộ câu hỏi khảo sát chúng tôi xin được trình bày ở Phụ lục 1 và Phụ lục 2. Link khảo sát GV: https://docs.google.com/forms/d/e/1FAIpQLSeERo8zn4y1zpiTuFXQKZQHY 15
- Link khảo sát HS: https://docs.google.com/forms/d/e/1FAIpQLSdL4Rpoepe2ocMAL5q- Sau khi tiến hành khảo sát, chúng tôi thu về được kết quả như sau: 1.2.1. Thực trạng về việc áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực trong trong dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT Để tìm hiểu thực trạng về việc áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực ở trường THPT, chúng tôi khảo sát, phân tích ở 03 khía cạnh, gồm: - Mức độ quan tâm của GV và HS đối với các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực. - Mức độ nhận thức về sự cần thiết của việc áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học bộ môn Ngữ văn của GV và HS. - Mức độ áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực của GV vào các giờ học bộ môn Ngữ văn. 1.2.1.1. Về mức độ quan tâm của GV và HS đối với các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực Để khảo sát mức độ quan tâm của GV và HS đối với các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, chúng tôi đặt câu hỏi: Thầy, cô/ Em có quan tâm đến các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực không? Chúng tôi thu về kết quả như sau: 70 60 50 40 Giáo viên 30 20 Học sinh 10 0 Không quan Đang tìm hiểu Có quan tâm Rất quan tâm tâm Biểu đồ 1.1. Mức độ quan tâm của GV và HS về các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực Thông qua số liệu ở Biểu đồ 1.1, có thể thấy không có GV nào không quan tâm đến các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực. Số GV đang tìm hiểu rất ít (1 GV) và chiếm tỉ lệ rất nhỏ (6,2%), còn hầu hết các GV bộ môn Ngữ văn đều quan tâm hoặc rất quan tâm đến các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực (tổng 15/16 GV, chiếm 93,8%). 16
- Đối với HS, mức độ quan tâm của các em về các các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực thấp hơn GV, chỉ có 46/124 HS quan tâm và rất quan tâm (chiếm 37,1%). Số HS đang tìm hiểu là 47 em (chiếm 37,9%) và số HS không quan tâm là 31 em (chiếm 25,0%). 1.2.1.2. Về mức độ nhận thức đối với sự cần thiết của việc áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học bộ môn Ngữ văn Để khảo sát mức độ nhận thức đối với sự cần thiết của việc áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học bộ môn Ngữ văn, chúng tôi đặt câu hỏi: Theo thầy/ cô (em), việc áp dụng các các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực có thực sự cần thiết đối với bộ môn Ngữ văn không? Kết quả chúng tôi thu về như sau: 80 60 40 Giáo viên 20 Học sinh 0 Không cần Không cần Cần thiết Rất cần thiết thiết thiết lắm Biểu đồ 1.2. Mức độ nhận thức về sự cần thiết của việc áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực của GV và HS Qua biểu đồ 1.2, có thể thấy, phần lớn GV và HS đều cảm thấy sự cần thiết của việc áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào bộ môn Ngữ văn. Cụ thể, số GV cho rằng là cần thiết và rất cần thiết là 15/16 GV (chiếm 93.8%), còn HS là 77/124 HS (chiếm 62,1%). Khi được hỏi về lí do cho rằng việc áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào bộ môn Ngữ văn là cần thiết, các GV đã trả lời rằng: Các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực sẽ tạo ra nhiều cơ hội để HS phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, hình thành và phát triển các năng lực, phẩm chất quan trọng; cải thiện được tình trạng ù lì, thụ động, buồn ngủ của HS và cũng giúp GV “nhàn” hơn khi dạy học ở trên lớp. Còn đối với HS, các em cho rằng: Khi được áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, các em cảm thấy giờ học vui vẻ, thoải mái hơn, các em được làm việc, thậm chí được “chơi” chứ không chỉ đơn thuần ngồi nghe và trả lời câu hỏi một cách nhàm chán, mệt mỏi, vì thế các tiết học sẽ trôi qua nhanh và nhẹ nhàng hơn. 17
- Từ kết quả trên, chúng tôi có thể khẳng định cả GV và HS đều cần và mong muốn được áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào các giờ dạy và học của mình. 1.2.1.3. Về mức độ áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực của GV vào các giờ học bộ môn Ngữ văn Để khảo sát mức độ áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực của GV vào các giờ học bộ môn Ngữ văn. Chúng tôi đặt câu hỏi như sau: Câu hỏi dành cho GV: Thầy/cô có thường xuyên sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực trong giờ dạy học của mình không? Câu hỏi dành cho HS: Trong giờ Ngữ văn, các em có thường được tổ chức các hoạt động học bằng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực không? Kết quả thu về như sau: 60 50 Giáo viên 40 Học sinh 30 20 10 0 Không bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên Biểu đồ 1.3. Mức độ áp dụng và được thực hiện các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực của GV và HS Biểu đồ 1.3 cho thấy, mặc dù còn hầu hết các GV Ngữ văn đều quan tâm và có mong muốn áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực; tuy nhiên số GV thường xuyên áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ học thì lại rất ít, chỉ 2/16 GV, chiếm tỉ lệ rất nhỏ (12,5%). Còn số GV hiếm khi áp dụng là 5/16 GV (chiếm 31,3%) và số GV thỉnh thoảng mới áp dụng là 9/16 GV (chiếm 56,2%), đó là một con số rất lớn. Đối với HS, số HS thường xuyên được thực hành các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực trong môn Ngữ văn là rất ít, chỉ chiếm 12,9%. Còn lại, hầu hết các em là thỉnh thoảng (35,5%) hoặc hiếm khi (41,1%) và thậm chí là không bao giờ (10,5%) được thực hành các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực. Khi được hỏi về nguyên nhân các GV hiếm khi hoặc thỉnh thoảng mới áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực thì hầu hết các GV đều có chung câu trả lời: Việc áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực trong bộ môn Ngữ văn 18
- gặp rất nhiều khó khăn, như HS đã quen với cách học cũ nên rất thụ động; chưa hiểu hết bản chất và nắm rõ quy trình thực hiện của các các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực; do đặc thù môn học, do áp lực về chương trình, áp lực thi cử, thời gian trên lớp có hạn và đặc biệt là tốn rất nhiều công sức và thời gian chuẩn bị nên mặc dù rất quan tâm nhưng phần lớn các GV vẫn chưa áp dụng nhiều và phát huy tối đa thế mạnh của các các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực. Đồng thời, chúng tôi cũng tiến hành quan sát cách tổ chức giờ học và khảo sát một số kế hoạch bài dạy của GV và nhận thấy, việc áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực của phần lớn GV chỉ mang tính hình thức, đối phó mà chưa bám sát vào mục tiêu, nội dung bài học và năng lực của HS, chưa có sự đầu tư, chuẩn bị kĩ lưỡng nên hiệu quả chưa cao. 1.2.2. Thực trạng dạy viết trong trường trung học phổ thông 1.2.2.1. Những khó khăn khi dạy viết ở trường phổ thông Để tìm hiểu thực trạng về những khó khăn mà GV và HS gặp phải khi dạy viết và học viết ở trường phổ thông, chúng tôi đặt câu hỏi như sau: Câu hỏi dành cho GV: Khi dạy viết, thầy/ cô thường gặp phải những khó khăn gì? Câu hỏi dành cho HS: Khi học viết, em thường gặp phải những khó khăn gì? Kết quả chúng tôi thu về như sau: Đối với GV: 100% GV cảm thấy khi dạy phần viết, lượng kiến thức lí thuyết phải hình thành cho HS nhiều và dài trong khi thời gian thì rất ít (thường là 02 tiết cho mỗi bài) nên không có thời gian để hướng dẫn HS thực hành; 87,5% GV thấy khó khăn trong việc giúp HS tìm ý, lập dàn ý khi ngữ liệu cho bài văn luôn nằm ngoài SGK; 93,8% GV cảm thấy khó khăn trong việc chấm bài, phát hiện và sửa lỗi cho bài viết của HS bởi số lượng bài của HS quá nhiều. Đối với HS: 90,3% HS cảm thấy giờ học viết khô khan, hàn lâm bởi lượng kiến thức lí thuyết nhiều; 94,4% HS cảm thấy khó khăn trong việc ghi nhớ những ý lớn cần có trong bài viết cũng như khó khăn trong việc tìm ý nhất là với kiểu bài nghị luận văn học với ngữ liệu hoàn toàn mới; 86,3% HS cảm thấy thiếu sự hỗ trợ sát sao, kịp thời của GV trong quá trình viết bài và 92,7% HS gặp khó khăn khi tự mình phát hiện và sửa chữa lỗi trong bài viết của mình. Với những số liệu thu về như trên, có thể khẳng định việc dạy viết trong trường phổ thông hiện nay còn gặp rất nhiều những khó khăn, thách thức. Bởi vậy, vấn đề đặt ra là phải tìm được những giải pháp phù hợp để giải quyết khó khăn và nâng cao chất lượng của giờ dạy học viết. 19
- 1.2.2.2. Thực trạng về việc tổ chức hoạt động thực hành viết khi dạy viết ở trường phổ thông Để tìm hiểu về thực trạng của việc tổ chức hoạt động thực hành viết khi dạy viết ở trường phổ thông, chúng đặt câu hỏi như sau: Câu hỏi dành cho GV: Khi dạy viết, hoạt động thực hành viết (tìm ý, lập dàn ý, viết, chỉnh sửa và hoàn thiện) có được thầy/ cô tổ chức hoàn toàn ở trên lớp không? Câu hỏi dành cho HS: Trong giờ học viết, các em có được thực hiện hoạt động thực hành viết (tìm ý, lập dàn ý, viết, chỉnh sửa và hoàn thiện) hoàn toàn ở trên lớp không? Kết quả thu về như sau: Về phía GV: 12,5% GV nói rằng họ chỉ ra đề và HS sẽ thực hành viết ở nhà; 75% GV chỉ thực hiện bước tìm ý, lập dàn ý, còn phần viết và chỉnh sửa, hoàn thiện sẽ giao nhiệm vụ về nhà cho HS làm; 12,5% GV thực hiện bước tìm ý, lập dàn ý và viết bài ở lớp, còn phần chỉnh sửa hoàn thiện sẽ giao cho HS làm ở nhà hoặc GV thu bài về chấm và sửa cho HS; 0% GV thực hiện đầy đủ các bước trên trong giờ dạy viết. Về phía HS: 16,9% HS nói rằng GV chỉ ra đề, còn lại về nhà các em tự mày mò và thực hành; 61,3% HS được GV hướng dẫn bước tìm ý, lập dàn ý ở lớp, về nhà các em tự viết và chỉnh sửa, hoàn thiện; 14,5% HS được thực hành bước tìm ý, lập dàn ý và viết ở lớp; chỉ 7,3% HS được tổ chức thực hiện tất cả các bước trên tại lớp. 80 70 60 50 40 30 20 10 0 Chỉ ra đề, HS về Thực hiện bước Thực hiện bước Thực hiện hoàn nhà làm tìm ý, lập dàn ý tìm ý, lập dàn ý toàn ở lớp và viết Giáo viên Học sinh Biểu đồ 1.4. Mức độ tổ chức hoạt động thực hành viết ở lớp của GV và HS Khi được hỏi về những khó khăn khi viết bài hoặc chỉnh sửa, hoàn thiện bài viết ở nhà, các em đều trả lời rằng: Mặc dù đã có dàn ý, nhưng em vẫn lúng túng trong việc triển khai các luận điểm thành các đoạn văn, bài văn. Em không biết cách mình 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p | 139 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM trong bài Cacbon của chương trình Hóa học lớp 11 THPT
19 p | 138 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng cảm thụ văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12
27 p | 39 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng kiến thức văn học trong dạy học một số nội dung phần Công dân với đạo đức môn GDCD lớp 10 nhằm tạo hứng thú trong học tập cho học sinh tại trường THPT Thái Lão
43 p | 35 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng cơ chế giảm phân để giải nhanh và chính xác bài tập đột biến nhiễm sắc thể
28 p | 38 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng mô hình học tập Blended Learning trong dạy học chủ đề 9 Tin học 11 tại Trường THPT Lê Lợi nhằm nâng cao hiệu quả học tập
16 p | 22 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng toán tổ hợp xác suất trong việc giúp học sinh giải nhanh các bài tập di truyền phần sinh học phân tử và biến dị đột biến
17 p | 40 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM trong chương trình Hóa học hữu cơ 11
74 p | 41 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng quan điểm tích hợp thông qua phương pháp dự án để dạy chủ đề Liên Bang Nga
77 p | 74 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng lí thuyết chuẩn độ axit – bazơ trong giảng dạy Hóa học ở trường chuyên và phục vụ bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia, Quốc tế
143 p | 37 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các biện pháp nâng cao hiệu quả làm bài phần Đọc - hiểu trong đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn THPT
36 p | 26 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hệ thống bài tập Hóa học rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong chương trình Hóa học THPT
47 p | 15 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM phần hóa học phi kim lớp 11 nhằm phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh
71 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập môn Lịch Sử theo định hướng 5 bước 1 vấn đề, đáp ứng yêu cầu mới của kỳ thi THPT Quốc gia
29 p | 35 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng nguyên tắc tích hợp trong dạy làm văn dạng bài Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ; Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học
29 p | 44 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng định lý Thales để tìm lời giải cho các bài toán hình học tọa độ trong mặt phẳng
35 p | 28 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn