intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng và sử dụng bài giảng E-learning vào dạy học Tiết 20 - Bài 14: “Phong trào cách mạng 1930 – 1935” (T1 - Lịch sử lớp 12 cơ bản) theo mô hình lớp học đảo ngược

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:43

46
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đây là mô hình dạy học dựa trên bài giảng điện tử Elearning kết hợp hài hòa giữa học trực tuyến và học chính khóa được nhiều giảng viên tại các trường học ở Mỹ, Autralia và nhiều nước trên thế giới nghiên cứu và áp dụng; những năm gần đây đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây để nắm nội dung của sáng kiến kinh nghiệm!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng và sử dụng bài giảng E-learning vào dạy học Tiết 20 - Bài 14: “Phong trào cách mạng 1930 – 1935” (T1 - Lịch sử lớp 12 cơ bản) theo mô hình lớp học đảo ngược

  1. 1. Lời giới thiệu Trong nền giáo dục truyền thống từ  xa xưa đến nay, chúng ta đã khá quen thuộc  với hình  ảnh những ông đồ  mặc áo dài the gõ đầu trẻ; rồi đến hình ảnh người thầy  đứng trên bục giảng say sưa giảng bài, người học ngồi dưới cắm cúi, hý hoáy chép  từng từ  từng chữ. Kết quả  sau đó chắc ai trong chúng ta cũng đã nắm được, người   học như những cỗ máy kiến thức khô khan, không biết thực hành hay ứng dụng vào  thực tiễn. Đó chính là hệ quả của một nền giáo dục truyền thống với việc lạm dụng   quá nhiều kiến thức lý thuyết mà không có sự chú trọng tới vận dụng, thực hành. Với  cách dạy học như vậy, nền giáo dục không thể đạt được mục tiêu giáo dục của thời   đại mới là nhằm đào tạo một con người toàn diện, một công dân toàn cầu với những  kỹ  năng tự  học suốt đời, tư  duy phê phán, kỹ  năng làm việc trong môi trường hợp  tác… Đã đến lúc chúng ta phải thay đổi, và phải có một cuộc cải cách giáo dục, đổi  mới phương pháp giảng dạy: Thay vì phải ép người học phải ngồi hàng tiếng đồng  hồ  nghe những bài giảng đã quá quen thuộc và thiếu sự  hấp dẫn, tại sao chúng ta   không tận dụng quãng thời gian đó dành cho các hoạt động tương tác trên lớp? Bởi lẽ  những hoạt động đó mang lại nhiều giá trị, nhiều lợi ích cho người học hơn trong yêu   cầu của xã hội hiện nay.  Chúng ta đang sống trong thời đại mà cách mạng khoa học ­ kỹ  thuật phát triển  như vũ bão. Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) thâm nhập và chi phối hầu hết  các lĩnh vực trong đó có giáo dục. Nhờ sự hỗ trợ của ICT mà giáo dục đã có thể thực   hiện được các tiêu chí mới: học mọi nơi (any where), học mọi lúc (any time), học   suốt đời (life long), dạy cho mọi người (any one)  ở mọi trình độ  tiếp thu khác nhau.  Năng lực tự học trở thành năng lực cốt lõi cần phải hình thành cho người học ngay từ  bậc học phổ thông, đặc biệt là đối với học sinh trung học phổ thông (THPT). Vấn đề  đặt ra là làm thế nào để bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh THPT trong thời đại  công nghệ thông tin hiện nay? Những năm gần đây, chắc hẳn những người quan tâm  đến giáo dục đã không còn xa lạ với thuật ngữ E­learning – học trực tuyến, một hình   thức tự  học hiện đại dựa trên nền tảng  ứng dụng Công nghệ  thông tin và truyền   thông. E­learning mang lại sự  thay  đổi lớn lao trong việc tiếp cận các nguồn tài  1
  2. nguyên giáo dục cùng với hàng loạt các ưu điểm khác nhau như thoải mái, linh hoạt,  cá nhân hóa người học,... mở ra nhiều cơ hội, điều kiện học tập phù hợp với nhu cầu  và khả năng của mỗi người, góp phần bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh (HS).   Tuy nhiên, E­learning cũng bộc lộ  nhiều nhược điểm như  đòi hỏi học sinh phải có  tính tự  chủ  lớn, có động lực học tập cao. Thông qua E­learning, HS chủ  yếu học   được kiến thức hơn là học được cách vận dụng kiến thức và không có nhiều điều   kiện để học và rèn luyện các năng lực cần thiết như năng lực giao tiếp, năng lực làm  việc theo nhóm và năng lực tự  học như   ở  các lớp học chính khóa. Như  vậy có thể  thấy rằng không thể thay thế, phủ nhận vai trò của lớp học chính khóa đối với việc   rèn luyện năng lực tự  học cho học sinh. Thời gian trên lớp dùng để  triển khai kênh   giao tiếp trực tiếp giữa GV với HS và giữa HS với nhau, giúp khuyến khích, nâng cao   động lực học tập, góp phần bồi dưỡng cho HS năng lực tự học. Trên lớp, HS không   chỉ  được học kiến thức mà còn được học nhân cách, phương pháp truyền đạt kiến  thức, cách thức làm việc, học tập, nghiên cứu của thầy, trao đổi, học hỏi với các bạn, … là những nhược điểm mà E­learning chưa giải quyết được. Mặt khác, trong điều  kiện giáo dục Việt Nam, lớp học chính khóa  ở  bậc THPT còn gặp nhiều khó khăn  như  bị  giới hạn thời gian của tiết học, phụ thuộc nhiều vào kiến thức nền tảng và   khả năng học tập của mỗi HS.  Với những khó khăn trên, tôi mạnh dạn đề xuất tới phương pháp dạy học theo mô  hình lớp học đảo ngược (FL) – một mô hình có thể  hạn chế  tối thiểu những nhược  điểm nội tại của cả E­learning và lớp học chính khóa. Lớp học đảo ngược sẽ  điền   khuyết những vấn đề  còn thiếu sót của E­learning và ngược lại. Trong lớp học đảo  ngược, E­learning được sử  dụng như  một phương tiện hiện đại, giúp phân phối các  tài nguyên học tập, các bài giảng video, câu hỏi đóng kiểm tra mức độ  tiếp thu giúp  cá nhân hóa việc học, để HS tự học ở nhà,... Giờ học ở lớp sẽ được GV tận dụng tối   đa tổ  chức cho HS vận dụng, thực hành kiến thức, thảo luận nhóm hoặc triển khai   các dự án, giải quyết các vấn đề mở, giúp HS hiểu sâu hơn đồng thời bồi dưỡng cho   học sinh các năng lực tự học. Môn Lịch sử  với phương pháp dạy học truyền thống nhiều năm trước đã không  còn gây được hứng thú, chú ý và sự yêu thích của nhiều thế hệ học sinh. Bởi đặc thù  2
  3. kiến thức khiến nhiều học sinh cảm thấy khô khan, khó nhớ, khó thuộc,…, lại thêm  phương pháp giáo dục truyền thụ một chiều, thiếu sự linh động và hấp dẫn đã khiến  cho nhiều học sinh cảm thấy chán nản và xa rời dần bộ  môn này. Những năm gần  đây, với sự bùng nổ của công nghệ thông tin và quyết tâm đổi mới căn bản toàn diện  của Bộ giáo dục, đặc biệt là đổi mới về phương pháp dạy học, nhiều giáo viên đã cố  gắng tìm tòi, thử  nghiệm nhiều phương pháp dạy học tiên tiến có sự  ứng dụng khá  hiệu quả  của các phương tiện công nghệ  thông tin. Tuy nhiên, thực tế  cho thấy,  nhiều giáo viên vẫn chưa ứng dụng tốt công nghệ thông tin, khiến bài giảng trở thành  một bài thuyết trình với những slide trình chiếu đơn thuần, hoặc vì áp dụng quá nhiều  phương pháp và hoạt động vào tiết học, dẫn đến hiện tượng “cháy giáo án” hoặc làm  cho học sinh cảm thấy ngạt thở, rối rắm, không tập trung được vào kiến thức cơ  bản. Mô hình “Lớp học đảo ngược” – Flipped Classroom sẽ là một giải pháp phù hợp   nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Lịch sử. Đây là mô hình dạy học dựa trên  bài giảng điện tử  Elearning kết hợp hài hòa giữa học trực tuyến và học chính khóa   được nhiều giảng viên tại các trường học ở Mỹ, Autralia và nhiều nước trên thế giới  nghiên cứu và áp dụng; những năm gần đây đã bắt đầu xuất hiện  ở  Việt Nam. Hy  vọng với phương pháp dạy học mới này sẽ  phần nào giải quyết được những khó  khăn của giáo dục nói chung, của việc dạy và học môn Lịch sử  nói riêng, góp phần   làm cho chất lượng giáo dục được nâng cao. 2. Tên sáng kiến: “Xây dựng và sử dụng bài giảng E­learning vào dạy học Tiết 20   ­ Bài 14: “Phong trào cách mạng 1930 – 1935” (T1 ­ Lịch sử lớp 12 cơ bản) theo  mô hình lớp học đảo ngược. 3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Phan Thị Hoài. ­ Địa chỉ: Trường THPT Bình Xuyên – Huyện Bình Xuyên ­ Tỉnh Vĩnh Phúc. ­ SĐT: 0395.728.270. ­ Email: phanhoai.c3binhxuyen@vinhphuc.edu.vn. 3
  4. 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:  ­ Họ và tên: Phan Thị Hoài ­ Địa chỉ: Trường THPT Bình Xuyên – Huyện Bình Xuyên ­ Tỉnh Vĩnh Phúc. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:  Học sinh lớp 12 trường THPT Bình Xuyên (Năm học 2018 – 2019). 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đâu: 10/11/2018 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: (Nội dung sáng kiến) 7.1.  Những vấn đề chung. 7.1.1. Một vài nét chung về bài giảng điện tử E­learning:  Khái quát chung: Trong những năm qua, với sự  phát triển không ngừng của công nghệ  thông tin  và truyền thông, việc dạy ­ học với sự  hỗ  trợ  của máy tính và mạng internet đã và  đang trở  nên quen thuộc, đặc biệt là thuật ngữ  E­Learning đã ngày càng phổ  biến.  Thuật ngữ  E­Learning được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, trong  khuôn khổ  sáng kiến này, người viết đề  cập đến bài giảng E­learning theo tài liệu  tập huấn bài giảng điện tử E­learning của Cục công nghệ thông tin – Bộ giáo dục và   Đào tạo như  sau: E­learning (Còn gọi là Đào tạo điện tử, Giáo dục điện tử) là một   thuật ngữ  dùng để  mô tả  việc học tập, đào tạo dựa trên công nghệ  thông tin và   truyền thông. Bài giảng E­learning là sản phẩm được tạo ra từ  các công cụ  tạo bài   giảng, có khả năng tích hợp đa phương tiện gồm: phim, hình ảnh, đồ họa, hoạt hình,   âm thanh,… và tuân thủ một trong các chuẩn như HTML, SCROM. Như vậy, qua cách tiếp cận trên cho thấy bài giảng E­learning khác hoàn toàn với   các khái niệm như  giáo án điện tử, bài trình chiếu hoặc bài giảng điện tử  (power   point) thường thấy. Những bài giảng điện tử thông thường không có khả năng tương  tác với người học, và chỉ  được sử  dụng làm công cụ  hỗ  trợ  cho giáo viên trong các   4
  5. giờ   học   chính   khóa.   Còn   bài   giảng   E­learning   có   thể   dùng   cho   học   ngoại   tuyến   (offline) hay trực tuyến (online) và  có khả năng tương tác với người học, giúp người   học có thể tự học mà không cần đến thầy dạy, không cần đến trường lớp, không bị  gò bó bởi thời gian. Để soạn được bài giảng điện tử E­learning có thể dùng rất nhiều   phần mềm soạn thảo. Nhưng trong khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ xin  đề cập tới cách soạn thảo bài giảng E­learning dựa trên phần mềm M­Powerpoint kết   hợp với phần mềm Ispring 8.7 cùng một số phần mềm hỗ trợ như Camtasia,…  Đặc điểm của E­learning Trên cơ  sở  các nghiên cứu thực tiễn, các nhà nghiên cứu giáo dục đã khẳng định   hiệu quả của việc ứng dụng E­Learning trong hoạt động dạy và học, bồi dưỡng cho   HS những năng lực cần thiết. Từ  các kết quả  nghiên cứu có thể  rút ra những đặc  điểm của E­learning như sau: ­ Tính linh hoạt: Với mỗi bài học E­learning có thể  tùy biến theo nhu cầu và  hoàn cảnh của học viên. Người học tự do lựa chọn bài học, chương trình học theo ý  thích, phù hợp với trình độ, tốc độ tiếp thu của bản thân, mở ra nhiều cơ hội học tập  cho mọi người. ­ Sự thoải mái: Với bài giảng E­learning, người học không bị giới hạn bởi không  gian và thời gian. Người học có thể học tập mọi nơi, mọi lúc theo nhu cầu của mình  chỉ cần có máy tính, Tablet, smartphone được kết nối mạng. Tất cả các bài giảng và  tài liệu cần thiết được cung cấp qua các nền tảng trực tuyến, dễ  dàng để  truy cập.  Khi học với E­learning, người học không phải mất thời gian, chi phí đi lại đến lớp,  không cần tuân thủ theo thời gian biểu cứng nhắc (phải dậy sớm, mặc quần theo quy   định khi đến lớp...). ­ Khả năng tự học ­ tự định hướng: Người học tự xác định lịch trình học tập theo  nhu cầu cá nhân của mình; có thể  hoàn thành các mục tiêu bất cứ  lúc nào. Với  ưu   điểm này, E­ learning cho phép họ  tiến bộ với nhịp điệu riêng, phù hợp với họ. Tuy  nhiên trong một số  trường hợp, khóa học E­learning có thể  yêu cầu thời hạn hoàn   5
  6. thành. Ví dụ, HS phải hoàn thành khóa học trước khi khóa học kết thúc theo lịch quy   định của nhà trường. ­ Có khả năng tiêu chuẩn ­ tái hiện: Các khóa học E­learning được thiết kế theo  một quy trình chuẩn hóa và nhất quán trong việc phân phối nội dung. Nội dung học   tập đa phương tiện, phong phú, lôi cuốn. Người học dễ dàng xem lại, kéo nhanh hoặc   lưu lại lâu hơn ở các đơn vị kiến thức mà cá nhân quan tâm, cần hiểu rõ hơn. Tài liệu  học, các bài kiểm tra đã làm có thể được lưu trữ lại và người học có thể  tham khảo   lại khi cần. ­ Tương tác chia sẻ: Người học có thể  tương tác với nhau hoặc với GV, phản  hồi và chia sẻ những điều đã biết, qua đó tiếp nhận và hoàn thiện kiến thức, kĩ năng  của bản thân. Khi cần hỗ trợ hoặc thắc mắc, người học chỉ cần truy cập bảng hỗ trợ  để gửi câu hỏi đến GV. ­ Phản hồi tức thì: Thông thường cuối mỗi môđun, người học được làm kiểm tra   để  đánh mức độ  tiếp nhận kiến thức vừa học. E­learning hỗ  trợ  phản hồi kết quả  ngay lập tức, qua đó người học sẽ  biết được mức độ  tiếp thu của mình, kiến thức  nào cần nghiên cứu lại hoặc gửi thông báo chúc mừng họ  đã hoàn thành môđun học  đó. ­ Tự do thể hiện: Trong quá trình học tập, đôi lúc người học có thể mắc các sai   sót. E­learning cho phép người học không phải xấu hổ khi bị sai sót. Điều này khuyến  khích việc khám phá và thử nghiệm các ý tưởng. Nếu làm sai, người học hoàn toàn có   thể bắt đầu lại mà không gặp trở ngại gì. ­ Nâng cao kĩ năng sử  dụng máy tính và Internet: Học tập với E­learning giúp   người học rèn luyện và nâng cao kĩ năng sử  dụng máy tính một cách dễ  dàng. Bằng   cách sử  dụng máy tính mỗi khi học, họ sẽ dần dần trở nên giỏi hơn trong việc truy   cập Internet và máy tính. Trên cơ  sở  những đặc điểm của E­learning, chúng ta có thể  thấy đây là phương   pháp dạy học mới, có ứng dụng công nghệ  thông tin hiện đại, tăng cường khả  năng  tự  học của Học sinh và sẽ  trở  thành môi trường học tập trong xã hội tương lai. Tuy  6
  7. nhiên, trong thời điểm hiện tại khi kho bài giảng E­learning chưa thực sự được chuẩn  hóa, cũng như người học với khả năng tự học bằng giáo trình E­learning chưa cao thì   việc có sự hướng dẫn của giáo viên trên lớp để tiếp cận dần với bài giảng E­learning   là vẫn rất cần thiết. Nhất là bài giảng E­learning đôi khi chưa thể  chuyển tải hoàn  toàn đầy đủ các kiến thức quan trọng hoặc đi vào chiều sâu của kiến thức, khả năng  vận dụng kiến thức… Lúc này, vai trò của thầy cô giáo trên lớp học cũng còn khá   quan trọng trong việc giúp học sinh tiếp cận dần với bài giảng E­learning cũng như  giúp các em làm sáng tỏ  những vấn đề  mà chưa tự  mình tìm ra được, nâng cao khả  năng tìm tòi sáng tạo và vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống. 7.1.2. Một vài nét về mô hình lớp học đảo ngược * Khái quát chung: Lớp   học   đảo   ngượ c   (FL   ­   Flipped   Classroom)   là   mô   hình   giáo   dục   tiên   tiến  đượ c  ứng dụng dựa trên sự  phát triển của công nghệ  E­learning và phươ ng pháp  đào tạo hiện đại. Mô hình này (FL)   được hiểu một cách đơn giản nhất là “đảo  ngược/đảo trình lớp học là chuyển đổi những hoạt động trong lớp ra ngoài lớp và   ngược lại”. Hoạt động này có thể tóm tắt dưới dạng bảng sau: Bảng 1. Hoạt động chuyển đổi giữa lớp học đảo ngược và lớp học truyền thống. Loại hình Trong lớp học Ngoài lớp học Lớp học truyền thống Bài học/Bài giảng Bài tập và luyện tập Lớp học đảo ngược Bài tập và luyện tập Bài   giảng   E­learning  (Video bài giảng) Đặc điểm lớn nhất của mô hình lớp học đảo ngược đó chính là dạng thức học tập  kết hợp (E­learning) giữa học tập trực tuyến và học tập giáp mặt và có sự đảo ngược  tiến trình học tập của người học.  Theo phươ ng pháp dạy học truyền thống thì học  sinh tới trườ ng, lắng nghe th ầy cô giảng bài rồi trở  về  nhà làm bài tập… Nhưng  với mô hình lớp học đảo ngượ c thì  học sinh xem các bài giảng  ở  nhà qua mạng.   7
  8. Giờ  học  ở  lớp sẽ  dành cho các hoạt độ ng hợp tác giúp củng cố  thêm các khái   niệm đã tìm hiểu như  giải đáp các thắc mắc của học sinh, làm bài tập khó hay   thảo luận sâu hơn về kiến thức...    * Ưu điểm  Việc tìm hiểu kiến thức được định hướng bởi người thầy (thông qua những giáo   trình E­Learning đã được giáo viên chuẩn bị  trước cùng thông tin do học sinh tự  tìm  kiếm), nhiệm vụ của học sinh là tự học kiến thức mới này và làm bài tập mức thấp ở  nhà. Sau đó vào lớp các em được giáo viên tổ  chức các hoạt động để  tương tác và   chia sẻ lẫn nhau. Các bài tập mức độ cao cũng được thực hiện tại lớp dưới sự hỗ trợ  của giáo viên và các bạn cùng nhóm. Cách học này đòi hỏi học sinh phải dùng nhiều đến hoạt động trí não nên được gọi  là “High thinking". Như  vậy những nhiệm vụ  mức độ  cao trong thang tư  duy được  thực hiện bởi cả thầy và trò. Phương pháp này không cho phép học sinh ngồi nghe thụ động nên giảm được sự  nhàm chán. Mặc dù vậy, muốn quá trình đảo ngược thành công thì những giáo trình E­ Learning phải rất bài bản và hấp dẫn để  lôi cuốn được học sinh không xao lãng mà  tập trung vào việc học. Vì lý do đó, phương pháp này phải gắn chặt với phương pháp  E­Learning. Giáo viên phải quản lý và đánh giá được việc tiếp thu kiến thức thông  qua các bài tập nhỏ đi kèm với bài giảng E­learning. Một ưu điểm khác là học sinh có thể học mọi lúc, mọi nơi và với mọi thiết bị chỉ  cần thiết bị  đó có thể  online được như  smartphone, máy tính bảng, Ipad, tivi hoặc  máy tính bàn có kết nối Internet...  Phân biệt rõ thời gian trên lớp chỉ luyện tập và ôn tập, hỏi đáp kiến thức, không bị  lẫn với thời gian nghe giảng như  phương pháp truyền thống. Giảm được thời gian   dành cho những khái niệm mà học sinh dễ dàng nắm bắt để tập trung vào các vấn đề  khó hơn, đào sâu hơn. Lý do này xuất phát từ việc đôi khi giáo viên khó xác định chính   xác khái niệm nào học sinh dễ nắm bắt và khái niệm nào thì khó khăn. Đôi khi, giảng   kĩ một khái niệm cho nhóm học sinh này sẽ lấy đi thời gian của các nhóm học sinh đã  hiểu còn lại. Cách giải quyết là học sinh chỉ cần tua video xem lại đoạn chưa hiểu. Như vậy, lớp học đảo ngược sẽ giúp: 8
  9. Hướng vào dạy học cá thể. Giáo viên có nhiều thời gian trên lớp hơn để  tiếp   cận các học sinh yếu kém. •  Học sinh có thể thu lại hoặc xem đi xem lại đoạn video bài giảng chưa hiểu. •  Học sinh vắng mặt sẽ không bỏ lỡ bài giảng. •  Có được nhiều thời gian hơn cho các hoạt động học trên lớp. •   Phụ  huynh có thể  phối hợp cùng giáo viên trong việc hướng dẫn học tập của   học sinh. Nhược điểm Tuy nhiên, phương pháp này cũng có những nhược điểm khi vận dụng vào quá   trình dạy học  ở phổ thông do đặc thù của giáo dục mỗi nước cũng như  tính cách và   kỹ năng của học sinh.  Trước hết nó làm mất nhiều thời gian và công sức cho việc soạn giảng của giáo  viên. Với khối lượng kiến thức khổng lồ và số môn học trong một năm quá nhiều thì  việc học tập theo phương pháp này là khó khả  thi. Cộng với việc kiểm tra đánh giá  vẫn chưa rõ ràng theo tiêu chí đánh giá toàn diện chứ không chỉ chú trọng đánh giá về  mặt nội dung thì giáo viên vẫn còn vất vả chạy theo kiểu “thi gì dạy nấy". Ngoài ra, muốn thực hiện các bài giảng E­Learning và sử dụng các công cụ khác để  tổ chức hoạt động học tập trong lớp thì đòi hỏi giáo viên phải giỏi về công nghệ  và  vững về phương pháp. Mặc dù vậy, không phải học sinh nào cũng hứng thú hợp tác  hoặc do đường truyền Internet kém sẽ gây gián đoạn việc học tập ở nhà. Cuối cùng  giáo viên, tổ bộ môn phải có một kế hoạch đồng bộ và xuyên suốt năm học vì không  phải bài học nào cũng phù hợp với phương pháp này. Nếu khắc phục được những nhược điểm trên thì phương pháp lớp học đảo ngược   ­ Flipped classroom ­ sẽ là rất tuyệt vời cho việc rèn kỹ năng trong thế kỷ 21. 7.1.3. Tiện ích Google Classroom – nơi quản lý bài học trực tuyến hiệu quả. Giới thiệu chung về tiện ích Google Lớp học. Tiện ích Lớp học trên Google (Google Classroom) là một công cụ  mới trong công  cụ Google hỗ trợ giáo dục (Google Apps for Education) giúp giáo viên tạo và sắp xếp  bài học, bài tập một cách nhanh chóng, cung cấp phản hồi một cách hiệu quả và giao   tiếp với các lớp học của họ  một cách dễ  dàng. Lớp học này còn giúp học sinh sắp   9
  10. xếp bài tập của mình trong Google Drive, hoàn thành và nộp bài tập cũng như  trực  tiếp giao tiếp với giáo viên và bạn cùng lớp của họ  bằng hình thức trực tuyến. Bên   cạnh đó, nó còn có chức năng tạo và thu bài tập, chấm điểm: Lớp học kết hợp với   Google Tài liệu, Drive và Gmail giúp giáo viên tạo và thu bài tập không cần giấy. Họ  có thể nhanh chóng xem những ai đã hoặc chưa hoàn thành bài tập và cung cấp phản   hồi trực tiếp, theo thời gian thực đến từng học sinh. Thêm vào đó, nó còn có vai trò   nâng cao hiệu quả  giao tiếp trong lớp: Giáo viên có thể  thông báo, đặt câu hỏi và  nhận xét về học sinh theo thời gian thực—nâng cao hiệu quả giao tiếp trong và ngoài  lớp học. Tuy   nhiên,   trong   phạm   vi   nghiên   cứu   này,   tôi   chỉ   sử   dụng   tiện   ích   Google  Classroom nhằm tạo ra một kho kiến thức theo từng bài học để học sinh và giáo viên   có thể dễ dàng thuận tiện trao đổi với nhau, lưu giữ thông tin… trong thời gian ngoài  giờ trên lớp. 7.1.4. Sự kết hợp hoàn hảo giữa mô hình lớp học đảo ngược với bài giảng E­learning   bằng tiện ích Google Classroom.  Trên cơ sở hiểu những nét cơ bản nhất về bài giảng E­learning, mô hình – phương  pháp lớp học đảo ngược, và tiện ích Google Classroom, tôi nhận thấy hoàn toàn có   thể sử dụng phương pháp dạy học đảo ngược thông qua các bài giảng E­learning và  đăng tải, quản lý nó bằng tiện ích Lớp học của Google. Đây là Tiện ích đơn giản mà  học sinh và giáo viên dễ dàng có thể thực hiện các thao tác để điều hành lớp học trực   tuyến. Lớp học đảo ngược là sự kết hợp hài hòa, hợp lý giữa việc học trực tuyến và   học chính khóa trên lớp, nó phát huy được những  ưu điểm và hạn chế  được các  khuyết điểm của hai hình thức này, nhằm mục tiêu cuối cùng là giúp tăng cường khả  năng tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức của học sinh.  7.2. Các giải pháp thực hiện – Quy trình thực hiện: 7.2.1. Giáo viên lập kế hoạch dạy học:  Lựa chọn bài học:  10
  11. Giáo viên lựa chọn bài dạy là Tiết 20 bài 14: (Lịch sử lớp 12 Ban cơ bản): Phong   trào cách mạng 1930 – 1935(tiết 1).  Xác định mục tiêu bài học:   Về kiến thức: Sau khi học xong bài học, học sinh nắm được: Tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh   tế trong những năm 1929­1933. Những cuộc đấu tranh tiêu biểu trong phong trào cách mạng 1930­1931. Sự ra đời và hoạt động của chính quyền Xô Viết Nghệ ­ Tĩnh.  Về  tư  tưởng: Bồi dưỡng cho học sinh niềm tự hào dân tộc về  sự  nghiệp đấu  tranh của Đảng, niềm tin về sức sống mãnh liệt, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đưa  sự nhiệp cách mạng dân tộc đi lên.                                         Về kĩ năng: Xác định kiến thức cơ bản của bài “Xô Viết Nghệ – Tĩnh”; Kĩ năng  phân tích, đánh giá sự kiện lịch sử.  Về định hướng năng lực hình thành:  Năng lực quan trọng nhất là năng lực tự học, tự tìm tòi, nghiên cứu kiến thức mới,   làm việc độc lập; năng lực  ứng dụng CNTT, năng lực sử  dụng ngôn ngữ, năng lực   hợp tác,…  Xác định phương pháp: Sử dụng phương pháp Lớp học đảo ngược.  Phương tiện: Máy tính, hoặc điện thoại thông minh có nối mạng.  Chuẩn bị của giáo viên và học sinh:  Chuẩn bị  của giáo viên: Bài giảng E­learning về  Phong trào cách mạng 1930 –   1931, phiếu học tập (bản cứng hoặc bản mềm). Máy tính, máy chiếu (trên lớp).  Chuẩn bị  của học sinh: Máy tính hoặc điện thoại thông minh có nối mạng, tự  học bài Elearning và làm phiếu học tập ở nhà… 11
  12. 7.2.2. Soạn bài giảng E­learning: Cách sử dụng các phần mềm như M­ powerpoint, Camtasia, Ispring,… được viết  khá cẩn thận thành các tài liệu tập huấn cơ bản cho giáo viên. Trong phạm vi bài viết   của mình, tôi không đi sâu vào từng bước hay cách thức cụ thể để xây dựng bài giảng   E­learning mà chỉ có đôi điều lưu ý trong từng bước thực hiện cũng như cách thức sử  dụng các phần mềm mà trong thực tế quá trình làm tôi rút ra.   Bước 1: Soạn bài giảng powerpoint Bài giảng Powerpoint dùng để thiết kế Elearing có đôi chút khác biệt so với bài  giảng powerpoint dạng thô mà giáo viên dùng để giảng dạy hay thuyết trình trên lớp.  Nó cần đảm bảo tính đồng nhất, khoa học, rõ ràng, mạch lạc,…  Bước 2: Ghi âm, ghi hình (Có sử dụng phần mềm Camtasia tạo, cắt ghép video  lời giảng cho phù hợp). ­ Trước khi thực hiện ghi âm, ghi hình, cần viết lời dẫn như một kịch bản sẵn có   để ghi âm và ghi hình. ­ Ghi âm: Nên ghi âm bằng điện thoại cho tiếng trong, rõ ràng. Tuy nhiên file ghi  âm  bằng điện thoại có  đuôi  m4a, không tương thích với phần mềm soạn bài E­ learning, bởi vậy cần chuyển đổi đuôi sang mp3 (dùng phần mềm hay có thể chuyển   đổi trực tuyến) để chèn vào bài giảng.  ­ Ghi hình: Trong quá trình thực hiện, tôi thấy  ấn tượng nhất là các video mà có  hình giáo viên đứng giảng trên nền là 1 video hoặc 1 hình ảnh liên quan đến nội dung   bài học. Thực tế, làm được điều đó, đầu tiên, tôi quay video đứng giảng bài, trên   phông nền là màu xanh lá. Sau đó sử dụng phần mềm Camtasia để lồng hai video vào  với nhau, sẽ ra được một video khá thú vị, hấp dẫn.  12
  13. (Hình 1). Video giáo viên giới thiệu bài học ghép trên nền video về cuộc khủng   hoảng kinh tế 1929 – 1933.  Bước 3: Sử dụng phần mềm Ispring suit 8.7 để đồng bộ âm thanh, hình ảnh và   xây dựng các câu hỏi tương tác.  Một vài lưu ý: ­ Nên sử dụng phần mềm Ispring bản 8. vì nó ổn định và dễ làm hơn. Hơn nữa, có   thể đầu tư mua bản Việt hóa để giáo viên tự làm thuận tiện, biết các chức năng của   từng mục mà không mất công phải dịch hay ghi nhớ nội dung nào. ­ Trong quá trình đồng bộ âm thanh phải làm sao cho khớp các slide với từng hiệu   ứng và có thể cho thêm nhạc nền âm lượng nhỏ  làm mềm bài giảng hơn, đồng thời  có thể  che được những tiếng  ồn nhỏ  do trong quá trình ghi âm bị  xen lẫn tạp âm.  (Nên dùng nhạc không lời kích thích tư  duy cho học sinh). Bên cạnh đó, trong quá   trình đồng bộ cũng cần chỉnh sửa âm thanh cho đều nhau tránh chỗ tiếng quá to, chỗ  tiếng nhỏ, hay bị hụt hơi… 13
  14. ­ Xây dựng các câu hỏi tương tác: Thông thường, nhiều giáo viên thường xây dựng   các câu hỏi  ở đầu bài và cuối bài học nhằm kiểm tra bài cũ và ôn tập lại kiến thức   vừa học. Tuy nhiên, quan điểm của tôi là cần kiểm tra mức độ  nhận thức của học   sinh cả trong qua trình lĩnh hội kiến thức mới (ở dạng nhận biết và thông hiểu). Nên  trong bài học tôi có xây dựng 5 câu hỏi với 3 hình thức trắc nghiệm: Lựa chọn  phương án đúng nhất, Đúng/Sai và Điền khuyết ngay chính trong phần tìm hiểu kiến   thức mới. Như vậy bài giảng E­learning có tính tương tác cao hơn, yêu cầu học sinh  phải tập trung vào bài học và giáo viên có thể  kiểm tra được từng học sinh qua quá   trình trả  lời. Bởi vì sau mỗi câu hỏi sẽ  có phần gửi kết quả  phản hồi về email cho   giáo viên.   Bước 4: Xuất bản bài giảng E­learning:  Cần xuất bản bài giảng Elearning theo chuẩn HTML hay SCROM  để  dễ  dàng  tương thích với giao diện của các loại máy tính, điện thoại nối mạng. Trong bài làm  của mình tôi  đã xuất bản theo chuẩn HTML, bài giảng  được xem thông qua file  index.html hoặc flash.html. 7.2.3. Sử dụng tiện ích của Google Lớp học để đăng tải và quản lý bài học.  Bước 1: Trước hết phải yêu cầu học sinh cả lớp cung cấp danh sách học sinh  và địa chỉ gmail. Để thuận tiện, cũng có thể giáo viên tạo gmail đồng bộ cho học sinh  trong lớp theo số thứ tự.  Bước 2: Tiếp theo, giáo viên Đăng nhập vào Gmail và click chuột vào mục ứng   dụng. Sau đó, Click vào biểu tượng Lớp học để  tạo lớp học mới. (Trong bảng này,   đặt Tên Lớp học (bắt buộc) (Tôi đặt tên là lớp 12A7), nếu bạn giảng dạy nhiều học   phần có thể  mô tả  thêm trong mục Phần, bạn có thể  tạo chủ  đề  cho lớp học bằng   cách điền vào dòng Chủ đề). 14
  15. Hình 2. Đăng kí tạo lớp học mới trên Tiện ích Google Classroom.  Bước 3: Thêm học sinh vào lớp học (Dựa trên danh sách gmail theo thứ  tự  đã  được chuẩn bị sẵn).  Bước 4: Tạo chủ đề bài học và tải phần bài E­learning lên Google Classroom.  7.2.4. Phát phiếu học tập và hướng dẫn HS tự học ở nhà. Giáo viên có thể phát phiếu học tập bằng giấy và yêu cầu các em vào gmail trong   Google Classroom để học bài mới qua bài giảng E­learning.  Thực tế, tôi đã soạn phiếu học tập, in ra và phát cho học sinh. Phiếu học tập bao   gồm các bước cơ  bản: hướng dẫn học sinh vào google classroom để  lấy bài giảng   Elearning, các bước thực hiện và các nhiệm vụ cần làm ở nhà. (Mẫu phiếu học tập tôi phát cho học sinh ở phần phụ lục số 2 trang 28) 7.2.5. Dạy học trên lớp.  Tất cả các công đoạn từ số 1 đến số 4 đều là sự chuẩn bị ở nhà của cả giáo viên và  học sinh. Giờ học thực tế thường có cấu trúc như sau: ­ Kiểm tra đánh giá kết quả tự học ở nhà của học sinh (10 phút) 15
  16. ­ Giải đáp các thắc mắc và hợp thức hóa, hệ thống hóa kiến thức mới (10 phút) ­ Để củng cố thêm kiến thức cho học sinh, tôi cũng dùng một số trò chơi vận động  theo từng nhóm để học sinh có sự tương tác, phát huy năng lực hợp tác và để khắc  sâu kiến thức (20 phút). ­ Cuối giờ học, tôi lại tiếp tục đưa ra tình huống mang tính vấn đề và yêu cầu HS  về nhà thực hiện nghiên cứu tiếp bài giảng E­learning Tiết 21 Bài 14 Phong trào cách  mạng 1930  ­ 1935 (Tiết 2) đã được đăng tải trên Google Classroom của lớp học và  phát phiếu hướng dẫn tự học cho bài học mới (5 phút). Nội dung của phần dạy trên lớp được thể hiện rất rõ trong phụ lục số 1 về giáo án  trên lớp, trang 26 16
  17. 8. Những thông tin cần bảo mật (Không có). 9. Điều kiện để áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:  Điều kiện:  Điều kiện về con người:   HS lớp 12  Trường THPT Bình Xuyên – Huyện Bình   Xuyên­ tỉnh Vĩnh Phúc. Giáo viên: có năng lực  ứng dụng CNTT, biết soạn bài giảng E­learning, biết sử  dụng thông thạo Gmail, có vốn tiếng Anh nhất định, có tư duy đổi mới và yêu nghề,   tâm huyết với nghề. Học sinh: Có phương tiện là máy tính hoặc điện thoại thông minh có nối mạng.  Biết sử  dụng máy tính, điện thoại thông minh, dùng thành thạo gmail, có sự  nhiệt   tình, ham học hỏi…  Điều kiện về cơ sở vật chất: Phòng lớp học, đồ dùng, máy tính, máy chiếu, các  thiết bị dạy và học nói chung, tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình, các tài liệu  chuyên môn và tài liệu đổi mới phương pháp giáo dục,… Các phần mềm như  M­ Powerpoint, Camtasia, Ispring suit, … Máy tính hoặc điện thoại thông minh có kết nối   mạng,…  Thời gian: trong năm học  Sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường, các cấp lãnh đạo, các đồng nghiệp  đặc biệt là sự quan tâm, tạo điều kiện về thời gian, phương tiện học tập cho con em   mình của các bậc phụ huynh.  Kiến nghị: Để sáng kiến có thể áp dụng vào thực tiễn, tôi xin có một số kiến   nghị sau:  Đối với các cấp quản lí giáo dục: Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng phòng học bộ môn lịch sử, mua sắm   trang thiết bị dạy học hiện đại như máy chiếu, máy vi tính, kết nối mạng internet...để  17
  18. giáo viên dễ dàng tổ chức các hoạt động dạy học một cách hiệu quả nhất. Hỗ trợ giáo  viên các công cụ để tạo bài giảng mô hình lớp học đảo ngược. Bên cạnh đó cũng cần xây dựng được một hệ thống bài giảng Elearning chuẩn hóa   đầy đủ để thực hiện việc dạy học được hiệu quả. Tổ  chức các đợt tập huấn trên diện rộng cho giáo viên về  cách ứng dụng CNTT  vào dạy học: cách soạn bài giảng Elearning, sử dụng các phần mềm giáo dục cơ bản,... Bốn là, thay đổi cách đánh giá năng lực người học: người dạy có thể tạo bài tập, rà   soát và cho điểm dễ dàng thông qua Google Drive. Năm là các cơ sở giáo dục cần tạo tối đa điều kiện thuận lợi cho các giáo viên dám  mạnh dạn thực hiện các ý tưởng về phương pháp dạy học mới.   Đối với giáo viên nói chung và giáo viên Lịch sử nói riêng: Cần chú trọng việc nâng cao ý thức tự giác học tập của người học bằng cách thay   đổi phương pháp giảng dạy ngay từ các bậc đào tạo cấp tiểu học, THCS. (Hiện nay,   các cuộc thi online như Olympic toán và Tiếng Anh sẽ là nền tảng quan trọng để học  sinh từ bậc tiểu học được làm quen với máy tính và mạng internet phục vụ cho mục  đích học tập). Việc chuyển từ  lối giảng dạy theo cách truyền đạt kiến thức sang  giảng dạy tích cực, bồi dưỡng năng lực người học. phải được áp dụng một cách tích  cực và triệt để. Với giáo viên dạy sử, cần phải tâm huyết, yêu ngành, yêu nghề, không ngừng tự  học, tự bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên cập nhật những phương   pháp dạy học mới. Từ đó biết sử dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học  hiện đại đê phat triên năng l ̉ ́ ̉ ực cho cac em, đông th ́ ̀ ơi t ̀ ạo hứng thú học tập cho học   sinh và nâng cao chất lượng môn học lịch sử trường THPT. Đặc biệt, giáo viên phải không ngừng nâng cao kĩ năng sử  dụng công nghệ  thông   tin trong dạy học góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao hiệu quả  bài học lịch   sử. Giáo viên tích cực tìm đọc các tài liệu tham khảo, co s ́ ự  hiêu biêt vê cac vân đê ̉ ́ ̀ ́ ́ ̀  thực tiên hiên nay: ô nhiêm môi tr ̃ ̣ ̃ ường, xung đôt trên thê gi ̣ ́ ới, biên đao, xu thê toan câu ̉ ̉ ́ ̀ ̀  hoa...làm cho gi ́ ờ học thêm hấp dẫn, sinh động hơn.  Đối với học sinh: 18
  19. Cần chủ động hơn nữa trong học tập: chủ động trong việc tự học, tự nghiên cứu, chủ  động lĩnh hội kiến thức … Ngoài ra, học sinh cần tăng cường sử  dụng công nghệ  thông tin trong việc học tập  như sưu tầm tài liệu liên quan đến bài học, thiết kế bài học bằng những hình thức khác   nhau để tạo hứng thú cho mình và cho các bạn xung quanh.  Đối với phụ huynh: Cần kết hợp, hỗ trợ giáo dục con em trong những thời gian ngoài giờ lên lớp; tạo điều   kiện về phương tiện học tập (máy tính hay điện thoại có kết nối mạng internet), quan   tâm đến việc tự học  ở nhà của học sinh. Và có sự  liên hệ  mật thiết với giáo viên để  hiệu quả học tập của học sinh trở nên tốt hơn.   10. Đánh giá lợi ích thu được khi áp dụng sáng kiến. 10.1. Đánh giá lợi ích thu được khi áp dụng sáng kiến theo ý kiến tác giả. 10.1.1. Tính hiệu quả. 10.1.1.2. Hiệu quả thực tiễn      Tôi đang dạy 02 lớp là lớp 12A6 và 12A7 đều là hai lớp ban Khoa học xã hội   (12A6 là khối C, 12A7 là khối D1). Về năng lực học tập môn Lịch sử của hai lớp này  tương đối đồng đều. Theo kết quả khảo sát chuyên đề đầu năm, điểm trung bình môn  sử của hai lớp như sau: Lớp Lớp 12A6 Lớp 12A7 ĐTB KS 6.89 6.93   Trong   quá   trình   thử   nghiệm   phương   pháp   mới,   tôi   chọn   lớp   12A7   thực   hiện   phương pháp lớp học đảo ngược, còn lớp 12A6 là áp dụng phương pháp dạy học  truyền thống.  Sau bài học, tôi cho học sinh làm bài kiểm tra đánh giá thì nhận được kết quả như  sau: (theo kết quả điểm kiểm tra sau bài học trong phụ lục số 4 trang 33): 19
  20. Lớp Lớp 12A6 Lớp 12A7 Điểm kiểm tra TB 6.97 7.76  Sau khi áp dụng kinh nghiệm trên vào phần lịch sử  thế  giới lớp 12  ở  trường   THPT Bình Xuyên, tôi nhận được những kết quả khả quan như sau: ­ Học sinh chú ý và hứng thú hơn trong giờ học lịch sử, những trường hợp làm việc  riêng hay ngáp dài không còn nữa.  ­ Do đã nắm được trước nội dung bài học nên trong giờ, học sinh thảo luận sôi nổi,   tích cực, thường xuyên giơ tay để được trả lời các câu hỏi.  ­ Các em có ý thức tự giác học bài, làm bài và chuẩn bị bài mới tốt hơn.  ­ Điểm kiểm tra lịch sử của các em cao hơn. So với lớp 12A6 (theo phương pháp truyền thống) thì chất lượng học tập của lớp  12A7 sau tiết dạy thực nghiệm được tăng lên đáng kể. Kết quả bài kiểm tra sau giờ học:  Kết  Khá  Trun Dưới TB quả giỏi g bình Tổng  Lớp SL % SL % SL % số HS 12A6 36 25 69,44% 8 22.22% 3 8,33% 12A7 38 32 84.21% 6 15.79% 0 0 →  Kết quả  trên cho thấy mặc dù hai lớp HS có trình độ  tương đối đồng đều,  nhưng khi áp dụng phương pháp dạy học mới, lớp 12A7 học sinh có kết quả  bài  kiểm   tra   tốt   hơn  (tỉ   lệ   khá  giỏi  là   84,21%   trong   khi  lớp  đối  chứng   12A6   chỉ   có   69,44%), và đặc biệt lớp thực nghiệm (12A7) không có học sinh bị  điểm dưới trung  bình. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1