intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học Luyện từ và câu lớp 4

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

53
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học Luyện từ và câu lớp 4” với mong muốn góp phần giáo dục toàn diện nhân cách cho học sinh, thực hiện tốt nhiệm vụ mà đơn vị, ngành giao cho.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học Luyện từ và câu lớp 4

  1. 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. LÝ DO CHỌN SÁNG KIẾN Tiếng Việt là môn học công cụ, môn học giữ vị trí trung tâm ở Tiểu học.   Môn Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học nhằm hình thành và phát triển cho  học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, đọc, nói, viết) để học tập và giao  tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Trong bộ môn Tiếng Việt thì   phân môn Luyện từ  và câu có vị  trí vô cùng quan trọng. Dạy Luyện từ  và câu   nhằm mở rộng, hệ thống hóa làm phong phú vốn từ của học sinh, cung cấp cho   học sinh những hiểu biết sơ giản về từ và câu, rèn cho học sinh kĩ năng dùng từ  đặt câu và sử dụng các kiểu câu để thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình, đồng  thời giúp cho học sinh có khả năng hiểu các câu nói của người khác. Luyện từ và  câu có vai trò hướng dẫn học sinh trong việc nghe, nói, đọc, viết, phát triển ngôn   ngữ và trí tuệ của các em. Việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng phân môn Luyện  từ và câu giúp các em làm giàu vốn từ, vốn tri thức về tâm hồn. Từ đó, giúp các  em tích lũy cho mình những kiến thức cần thiết, tạo điều kiện cho các em học  tốt các phân môn khác. Đặc biệt, nó còn khơi dậy trong tiềm thức học sinh yêu   quý sự phong phú của tiếng Việt và ý thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt,   góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Là một giáo viên trẻ được phân công đảm nhiệm công tác giảng dạy lớp   4, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay .Xác định đúng phương pháp giảng dạy phân  môn Luyện từ và câu, người giáo viên sẽ tìm ra những giải pháp tối ưu để nâng   cao chất lượng giáo dục. Từ  những lí do trên, tôi mạnh dạn đi sâu tìm hiểu “  Một số  biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học Luyện từ và câu lớp   4” với mong muốn góp phần giáo dục toàn diện nhân cách cho học sinh, thực   hiện tốt nhiệm vụ mà đơn vị, ngành giao cho. 1.2. Điểm mới của sáng kiến: Để làm tốt công tác giảng dạy phân môn Luyện từ  và câu  ở  Tiểu học thì  nhiều giáo viên đã tìm hiểu và đưa ra các giải pháp thực hiện nhưng bản thân tôi  tìm hiểu vấn đề này nhằm nâng cao chất lượng dạy phân môn Luyện từ câu theo  đúng tinh thần của thông tư 22/BGD­ ĐT đã ban hành. 1.3. Phạm vi áp dụng:  Sáng kiến này nghiên cứu để  áp dụng vào thực tiễn nhằm nâng cao chất  lượng dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4 ở trường Tiểu học Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 4A 1
  2. 2.PHẦN NỘI DUNG 2.1. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY VÀ HỌC LUYỆN TỪ VÀ CÂU 2.1.1. Về giáo viên: Do nhận thức rõ tầm quan trọng của phương pháp dạy học nhằm nâng cao  chất lượng giáo dục nên phong trào đổi mới phương pháp dạy học được phát  động khá rộng rãi trong các trường Tiểu học. Việc vận dụng phương pháp dạy  học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh đã góp phần vào việc nâng  cao chất lượng giáo dục toàn diện. Nhà trường luôn tạo điều kiện cho công tác   giảng dạy, giáo viên luôn được tiếp cận phương pháp dạy học mới trong các đợt  sinh hoạt chuyên môn. Lớp học được trang bị  đầy đủ  về  cơ  sở  vật chất. Hầu   hết giáo viên là người có tay nghề, có đầy đủ  sách giáo khoa, sách hướng dẫn,  tài liệu chuẩn kiến thức và được học về cách sử dụng các phương tiện dạy học  hiện đại như: máy tính, máy chiếu,… Đội ngũ giáo viên luôn yêu nghề, có năng  lực sư phạm. Tuy nhiên, việc dạy phân môn Luyện từ và câu không ít giáo viên   vẫn chưa thoát khỏi quỹ  đạo của phương pháp dạy học truyền thống. Một bộ  phận giáo viên chưa hiểu hết ý đồ của sách giáo khoa nên thiết kế các hoạt động   chưa phù hợp hoặc chỉ biết giải quyết các bài tập ở sách giáo khoa mà chưa hiểu   rằng thông qua các bài tập để hình thành kiến thức cho học sinh. 2.1.2. Về học  sinh: Hầu hết, các em được trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập. Cùng với   sự tận tình chỉ dẫn của giáo viên, các em thích tìm hiểu, khám phá kiến thức về  tiếng mẹ đẻ. Cơ  bản, đã quen với cách học từ   ở  lớp 1, 2, 3 nên các em đã biết   cách lĩnh hội và luyện tập thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Tuy vậy,  vẫn còn một bộ phận học sinh học Luyện từ và câu chỉ dừng lại việc giải quyết   các bài tập ở sách giáo khoa, phần vận dụng trong nói, viết, trong thực tiễn còn   hạn chế. Các em chưa hiểu nghĩa của từ, cấu tạo từ, vốn từ  của các em còn   nghèo, không diễn đạt được một cách trôi chảy ý kiến của mình. Với năm học này, bản thân tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp   4A,. Sĩ số lớp là 28  em. Theo sự phản ánh của giáo viên cũ thì trình độ tiếp thu   của học sinh không đồng đều, vẫn còn một số  học sinh tiếp thu chậm; một bộ  phận học sinh rụt rè, giao tiếp chậm, kỹ năng diễn đạt yếu. Qua khảo sát chất lượng đầu năm để nắm bắt thông tin, với đề ra thiết kế  theo dạng nắm kiến thức và vận dụng, kết quả như sau : Tổng số Điểm 10 ­ 9 Điểm 8 ­ 7 Điểm 6 ­ 5 Điểm dưới 5 HS T. số T. L % T. số T. L % T. số T.L% T. số T. L % 28 7 25 10 35,7 8 28,6 3 10,7 2
  3. Sau khi kiểm tra khảo sát, tôi nhận thấy bài làm của học sinh còn mắc  nhiều lỗi, việc nắm từ của các em chưa chắc, phần vận dụng viết một đoạn văn  còn quá hạn chế. 2.1.3. Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém Phải nói rằng phân môn Luyện từ và câu là môn học khô khan nếu chúng   ta không biết tổ chức, thiết kế các hoạt động thích hợp để tạo hứng thú học tập   cho học sinh.  Một bộ phận giáo viên nhận thức còn hạn chế, chưa hiểu hết được ý đồ  của sách giáo khoa nên chỉ  giải quyết các bài tập một cách đơn thuần, không  giúp học sinh hiểu sâu vấn đề. Cũng không ít giáo viên dạy Luyện từ và câu  mà  không hướng các em ứng dụng nó vào việc nói, viết, giao tiếp hằng ngày. Mặc dù học sinh có đủ  sách vở  học tập nhưng nhiều em không chịu học   mà phụ thuộc hoàn toàn vào sách có đáp án được in, bán sẵn ngoài thị trường. Bên cạnh đó, tư duy ở lứa tuổi các em chưa bền vững, khả năng tập trung  chưa cao, hay nóng vội, khả  năng ngôn ngữ  còn thấp cũng làm  ảnh hưởng đến  chất lượng môn học. Một bộ phận học sinh do bị hỏng kiến thức từ lớp dưới, khả năng tiếp thu  bài hạn chế, nên không thể hoàn thành hệ thống bài tập trên lớp. Địa phương là một vùng thuần nông, có thu nhập thấp nên bố  mẹ các em  phải lo chạy vạy cuộc sống. Chính vì thế, phụ huynh ít thời gian kèm cặp, tiếp   cận việc học của con, chưa điều chỉnh được hành vi, ngôn ngữ  cho con em kịp  thời. Từ thực tế trên, tôi chọn và tìm ra các giải pháp thực hiện. 2.2. CÁC BIỆN PHÁP 2.2.1. Biện pháp 1: Nắm kiến thức, kỹ  năng, chương trình, phương pháp  dạy học Đây là một nội dung hết sức quan trọng đối với giáo viên giảng dạy. Nếu  không nắm chắc nội dung chương trình bộ môn khối lớp mình đang dạy thì dẫn   đến hai hiện tượng trong quá trình dạy học làm cho các em nhàm chán : Một là  dạy lại kiến thức lớp dưới đã học, hai là dạy sa vào kiến thức lớp trên. Chính vì  thế, sau khi nhận lớp, bản thân tôi đã hệ  thống lại những vấn đề  cốt lõi làm  cẩm nang cho quá trình giảng dạy của mình. 2.2.1.1 Nội dung chương trình         Mỗi tuần, phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 có 2 tiết. Học kì I 32 tiết gồm   5 chủ điểm. Học kì II 30 tiết gồm 5 chủ điểm. Mỗi chủ điểm học sinh được học  một chủ đề tương ứng với từng chủ điểm đó. 3
  4. 2.2.1.2. Yêu cầu kiến thức a. Mở  rộng và hệ  thống hoá vốn từ :  Môn Tiếng Việt có 10 đơn vị  học thì  phân môn Luyện từ và câu mở rộng và hệ thống hoá 10 chủ điểm đó. b. Trang bị các kiến thức giảng dạy về từ và câu.       * Từ ­ cấu tạo tiếng :  ­  Cấu tạo từ : Từ đơn, từ ghép và từ láy.                                 ­ Từ loại : Danh từ, Động từ, Tính từ.         * Các kiểu câu: Câu hỏi, Câu kể, Câu cầu khiến, Câu cảm.                 * Các dấu câu: Dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm, dấu ngoặc   kép, dấu ngoặc đơn. 2.2.1.3. Yêu cầu kĩ năng về từ và câu: a. Từ: ­ Nhận biết được cấu tạo của tiếng. ­ Giải các câu đố tiếng liên quan đến cấu tạo của tiếng. ­ Nhận biết từ loại. ­ Đặt câu với từ đã cho. ­ Xác định tình huống sử dụng Thành ngữ ­ Tục ngữ. b. Câu: ­ Nhận biết các kiểu câu. ­ Đặt câu theo mẫu. ­ Nhận biết các kiểu trạng ngữ. ­ Thêm trạng ngữ cho câu. ­ Tác dụng của dấu câu. ­ Điền dấu câu thích hợp. c. Dạy tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp.       Thông qua nội dung dạy Luyện từ và câu ở lớp 4, bồi dưỡng cho học sinh ý  thức và thói quen dùng từ đúng, nói viết thành câu và ý thức sử dụng tiếng Việt  trong giao tiếp phù hợp với các chuẩn mực văn hoá. 4
  5. 2.2.1.4. Vận dụng một số phương pháp dạy học vào dạy học Luyện từ  và  câu lớp 4 + Phương pháp hoạt động nhóm Tùy mục đích, yêu cầu của vấn đề  học tập, các nhóm được phân chia  ngẫu nhiên hay có chủ  định, được duy trì  ổn định hay thay đổi trong từng phần  của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ  hay những nhiệm vụ  khác nhau.  Nhóm tự  bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể  phân công mỗi  người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc tích  cực, không thể  ỷ  lại vào một vài người hiểu biết và năng động hơn. Các thành  viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với  các nhóm khác. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có  thể  cử  ra một đại diện hoặc phân công mỗi thành viên trình bày một phần.   Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ băn khoăn,  kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Giáo viên khi lựa chọn phương pháp này cần phải kiểm soát hết tất cả các   học sinh trong lớp học. Khi giao nhiệm vụ cần cho HS cả lớp nắm, nhất là chú  trọng đến nhóm trưởng, để  nhóm trưởng thay mặt GV hướng dẫn đến các bạn  trong nhóm. VD: Khi dạy bài Mở rộng vốn từ: Trung thực ­  Tự trọng ( Tuần 6) BT2. Chọn từ ứng với mỗi nghĩa sau: Nghĩa       Từ ­ Một lòng một dạ gắn bó với lí tưởng, tổ chức   ­ trung thành hay với người nào đó ­ Trước sau như một, không gì lay chuyển nổi. ­ trung hậu ­ Một lòng một dạ vì việc nghĩa. ­ trung kiên ­ Ăn ở nhân hậu, thành thật, trước sau như một. ­ trung thực ­ Ngay thẳng, thật thà. ­ trung nghĩa Giáo viên giao việc cho các nhóm, các cá nhân trong nhóm đưa ra ý kiến   của bản thân, dùng lí lẽ của mình để phân tích nghĩa, sau đó thống nhất để  đưa  ra ý kiến chung của cả nhóm và trình bày trước lớp. Đại diện của các nhóm khác  đưa ra ý kiến, bổ sung, sửa chữa hay đồng tình với nhóm bạn. Phương pháp này  giúp các em phát triển năng lực giao tiếp, hợp tác một cách hiệu quả. + Phương pháp vấn đáp Phương pháp gợi mở  vấn đáp nhằm tăng cường kĩ năng suy nghĩ, tư  duy   sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức và xác định mức độ  hiểu bài cũng như  5
  6. kinh nghiệm đã có của học sinh. Giúp các em hình thành khả năng tự lực tìm tòi  kiến thức. Qua đó học sinh ghi nhớ tốt hơn, sâu sắc hơn. Yêu cầu khi sử dụng giáo viên phải lựa chọn những câu hỏi theo đúng nội  dung bài học, câu hỏi đưa ra phải rõ ràng, dễ  dàng phù hợp với mọi đối tượng  học sinh trong cùng một lớp. Giáo viên dành thời gian cho học sinh suy nghĩ sau   đó cho học sinh trả lời, các em khác nhận xét bổ sung. Phương pháp này thường   dùng trong kiểu bài dạy Lí thuyết VD: Khi dạy bài Dấu ngoặc kép (tuần 8) mục đích của bài là học sinh  phải nắm được  Tác dụng của dấu ngoặc kép, cách dùng dấu ngoặc kép. Biết   vận dụng những hiểu biết đã học để dùng dấu ngoặc kép trong khi viết. Giáo viên đưa ra ví dụ: Bác tự cho mình là “người lính vâng lệnh quốc dân ra mặt trận”, là “đầy   tớ  trung thành của nhân dân”. Ở Bác, lòng yêu mến nhân dân đã trở  thành một   sự say mê mãnh liệt. Bác nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc,   là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự  do, đồng   bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.” +H: Những từ ngữ và câu nào được đặt trong dấu ngoặc kép? ­ TL: người lính vâng lệnh của quốc dân ra mặt trận Tôi chỉ  có một sự  ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn   toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,   ai cũng được học hành.” + H: Những từ ngữ và câu đó là lời của ai? ­ TL: là lời của Bác Hồ + H : Những dấu ngoặc kép dùng trong đoạn văn trên có tác dụng gì? ­ TL: dấu ngoặc kép dùng để dẫn lời nói trực tiếp của Bác Hồ. + H: Vậy dấu ngoặc kép dùng để làm gì? (Dấu ngoặc kép thường dùng để dẫn   lời nói trực tiếp của nhân vật hoặc của người nào đó) Như  vậy, qua 4 câu hỏi đã gợi mở  cho các em nắm được tác dụng của dấu   ngoặc kép. Phương pháp gợi mở  vấn đáp được sử  dụng trong tất cả  tiết học và phát huy   được tính chủ động sáng tạo của học sinh. + Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề. Đây là phương pháp mà giáo viên đưa ra những tình huống gợi vấn đề  điều khiển học sinh phát hiện vần đề, tự giác hoạt động, trực tiếp chủ động và  sáng tạo để  giải quyết vấn đề, thông qua đó mà kiến tạo tri thức, rèn luyện kĩ  năng. Phương pháp này giúp học sinh tăng thêm sự  hiểu biết và khả  năng áp  6
  7. dụng lí thuyết vào giải quyết vấn đề  của thực tiễn. Nâng cao kĩ năng phân tích  và khái quát từ  tình huống cụ  thể và khả  năng độc lập cũng như  khả  năng hợp   tác trong quá trình giải quyết vấn đề. Khi sử  dụng phương pháp này, giáo viên cần chuẩn bị  trước câu hỏi sao   cho phù hợp với mục đích, yêu cầu và nội dung của bài đảm bảo tính sư phạm,   đáp ứng với các đối tượng học sinh, giáo viên cần chuẩn bị tốt kiến thức để giải   quyết vấn đề mà học sinh đưa ra. VD: Khi dạy bài mở rộng vốn từ “Đồ chơi ­ trò chơi” (tuần 16) Giáo viên  đưa ra một số thành ngữ ­ tục ngữ sau: “Chơi với lửa”, “Ở chọn nơi, chơi chọn   bạn”, “Chơi diều đứt dây”, “Chơi dao có ngày đứt tay”,  hãy chọn câu thành  ngữ, tục ngữ thích hợp để khuyên bạn: a­ Nếu bạn em chơi với một số bạn hư nên học kém hẳn đi. b­ Nếu bạn em thích trèo lên một chỗ cao chênh vênh, rất nguy hiểm để tỏ  mình gan dạ. ­ Với tình huống (a) các em có thể chọn thành ngữ tục ngữ: “Ở chọn nơi,   chơi chọn bạn”. Nhưng với tình huống (b) các em có thể  chọn 1 hoặc 2 thành   ngữ tục ngữ như:“Chơi với lửa” hoặc “Chơi dao có ngày đứt tay” đều được. Với phương pháp này người giáo viên cần hiểu rằng trong từng tình huống cụ  thể sẽ có nhiều cách giải quyết hay, thích hợp để học sinh có thể ứng dụng vào  trong học tập, trong cuộc sống. + Phương pháp trực quan. Phương pháp trực quan là phương pháp dạy học trong đó giáo viên có sử  dụng các hình ảnh trực quan nhằm giúp học sinh có biểu tượng đúng về  sự  vật  và thu nhận được kiến thức, rèn luyện kĩ năng theo nội dung bài học một cách   thuận lợi. Phương pháp này còn thu hút sự  chú ý và giúp học sinh hiểu bài, ghi  nhớ bài tốt hơn, học sinh có thể khái quát nội dung bài và phát hiện mối liên hệ  của các đơn vị kiến thức. VD: Khi dạy bài  “Đồ  chơi – Trò chơi” (tuần 15) giáo viên đưa ra 6 bức  tranh trong SGK Tiếng Việt 4 tập 1 (trang 147) để  tìm ra các từ  ngữ  chỉ  tên đồ  chơi – trò chơi mà các em được mở rộng trong bài học. Bức tranh 1: HS tìm từ chỉ đồ chơi: Diều – Trò chơi: thả diều. Bức tranh 2: đồ  chơi: đèn ông sao, trống cơm, đầu sư  tử – trò chơi: múa  lân, rước đèn, đánh trống. Bức tranh 3: đồ chơi: dây, nồi xoong, búp bê – trò chơi: nhảy dây, nấu ăn,   cho bé ăn bột… Bức tranh 4: đồ chơi: máy tính, bộ xếp hình – trò chơi: điện tử, xếp hình. 7
  8. Bức tranh 5: đồ chơi: dây, súng ná ­ trò chơi: kéo co, bắn súng. Bức tranh 6: đồ chơi: khăn – trò chơi: bịt mắt bắt dê… Sử dụng phương pháp trực quan giảng giải khi dạy phân môn Luyện từ và  câu là rất quan trọng vì sẽ khai thác được triệt để các kênh hình của bài học, nhờ  đó mà giáo viên giúp học sinh nắm bài một cách tốt hơn. + Phương pháp luyện theo mẫu. Là phương pháp dạy học mà giáo viên đưa ra các mẫu cụ  thể  qua đó  hướng dẫn học sinh tìm hiểu các đặc điểm của mẫu, cấu tạo mẫu và thực hiện  theo mẫu. VD: Khi dạy bài Động từ (Tuần 9), khi kể tên các hoạt động ở nhà hoặc ở  trường rồi gạch dưới động từ  trong các cụm từ chỉ hoạt động đó, giáo viên đưa  ra mẫu: M: quét nhà, làm bài Từ đó, giúp học sinh có điểm tựa để làm bài đặc biệt là với học sinh trung   bình và yếu còn đối với học sinh khá giỏi không bắt buộc phải theo mẫu để học  sinh có thể phát huy được tính tích cực chủ động. + Phương pháp phân tích. Đây là phương pháp dạy học trong đó học sinh dưới sự  hướng dẫn tổ  chức của giáo viên tiến hành tìm hiểu các dấu hiệu theo định hướng bài học từ  đó rút ra bài học. Giúp học sinh tìm tòi huy động vốn kiến thức cũ của mình ra  kiến thức mới. Tạo điều kiện cho học sinh tự phát hiện kiến thức (về nội dung  và hình thức thể hiện). VD: Khi dạy bài “Câu hỏi và dấu chấm hỏi”, tiến hành như sau: Bước 1: Cho học sinh tìm ra các câu hỏi trong bài tập đọc   “Người tìm   đường tới các vì sao”. Các em sẽ tìm được 2 câu: 1. Vì sao quả bóng không có cánh mà vẫn bay được? 2. Cậu làm thế  nào mà mua được nhiều sách và dụng cụ  thí nghiệm như  thế? Bước 2: Phân tích: H: Câu hỏi (1) là của ai? (Xi­ôn­cốp – xki hỏi mình) H: Câu hỏi (2) là của ai? (Bạn của Xi­ôn­cốp­xki hỏi) H: Dấu hiệu nào giúp em nhận ra đó là câu hỏi? ( Cuối câu có dấu chấm   hỏi) Qua phân tích của giáo viên, học sinh rút ra được bài học: 1. Câu hỏi (còn gọi là câu nghi vấn) dùng để hỏi về những điều chưa biết. VD: ­ Có phải trái đất quay xung quanh mặt trời không? ­ Bạn Hoa là học sinh giỏi à? 8
  9. 2. Phần lớn câu hỏi là để  hỏi người khác nhưng cũng có những câu để  tự  hỏi  mình. VD: ­ Chiếc bút này mình đã mua ở đâu nhỉ?        ­ Vì sao Trái Đất lại quay nhỉ? 3. Câu hỏi thường có các từ nghi vấn  (có phải, không, phải không, à,…). Khi viết  cuối câu hỏi có dấu chấm hỏi (?). VD: ­   Bạn đã học bài rồi à?                   ­  Chú đất trở thành chú Đất Nung phải không? Trên đây là một số  phương pháp dạy học mà tôi đã áp dụng trong giảng   dạy phân môn Luyện từ và câu, tuy nhiên tôi cũng nhận thấy rằng không có một  phương pháp dạy học nào là tối  ưu. Mỗi phương pháp thường có mặt mạnh ­   mặt yếu của nó. Mặt mạnh của phương pháp này sẽ  hỗ  trợ  cho mặt yếu của   phương pháp kia. Cho nên để tránh nhàm chán cần phối hợp nhiều phương pháp   giảng dạy phù hợp với nhiều đối tượng học sinh, có như  vậy tiết học mới đạt  kết quả tốt. Do đó để có kết quả cao trong tiết dạy Luyện từ và câu giáo viên cần lập  kế hoạch bài học chu đáo, cẩn thận chuẩn bị về mọi mặt cho tiết dạy. Việc làm  này phải diễn ra trước khi thi công bài dạy trên lớp học 2.2.2. Biện pháp 2. Làm tốt khâu lập kế hoạch bài học và lên lớp + Lập kế hoạch bài học Giáo viên cần nắm vững nội dung cơ bản của từng bài học trong SGK và  những hướng dẫn cụ thể về mục tiêu cần đạt. Tuỳ theo đặc điểm của từng bài  học mà xây dựng kế  hoạch bài giảng cho phù hợp. Song, cho dù thế  nào cũng  cần có đầy đủ các hoạt động và tổ chức các hoạt động đó một cách phong phú,  phối hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức cho phù hợp với nội dung của  bài dạy và chủ điểm của bài đó. Có thể  sử  dụng linh hoạt nhiều hình thức dạy học trong cùng một tiết   dạy. Đó là các hình thức tổ chức: làm việc cá nhân, trao đổi nhóm, đàm thoại gây  hứng thú cho học sinh tránh nhàm chán đơn điệu. VD: Khi dạy bài Mở rộng vốn từ Ước mơ (tuần 9) BT 2:  Học sinh thảo luận nhóm đôi Tìm thêm những từ cùng nghĩa với “ước mơ” ­ HS 1 tìm từ bắt đầu từ tiếng “ước”: ước ao, … ­ HS 2 tìm từ bắt đầu từ tiếng ‘‘mơ’’: mơ mộng, ... ­ HS 2 tìm từ bắt đầu từ tiếng “ước”: ước mong, ... ­ HS 1 tìm từ bắt đầu từ tiếng ‘‘mơ’’: mơ ước, ... 9
  10. BT 3 : Nêu yêu cầu viết thêm những từ :  đẹp đẽ, viển vông, cao cả, lớn, nho   nhỏ, kì quặc, dại dột, chính đáng... vào sau từ ước mơ thể hiện sự đánh giá : + HS thảo luận nhóm 4. ­ Đánh giá cao: ước mơ đẹp,  ước mơ  chính đáng, ước mơ  cao cả,  ước mơ lớn,   ước mơ đẹp đẽ. ­ Đánh giá không cao: ước mơ bình thường, ước mơ nho nhỏ. ­ Đánh giá thấp: ước mơ kì quặc,  ước mơ  dại dột,  ước mơ viển vông, ước mơ   tầm thường.  BT 4 :    Nêu VD về 1 loại ước mơ nói trên.            Bài này cho học sinh làm việc cá nhân. VD:  + Ước mơ được đánh giá cao: Đó là những ước mơ vươn lên làm những việc có   ích cho mọi người như:      ­ Ước mơ học giỏi để trở thành bác sĩ/ kĩ sư…     ­ Ước mơ chinh phục vũ trụ… + Ước mơ được đánh giá không cao: Đó là những ước mơ giản dị, thiết thực, có  thể thực hiện được không cần nỗ lực lớn:     ­ Ước mơ có truyện đọc/ có xe đạp/ có một đồ chơi… +  Ước mơ  bị  đánh giá thấp: Đó là những  ước mơ  phi lí, không thể  thực hiện   được hoặc là những ước mơ ích kỉ, có lợi cho bản thân nhưng gây hại cho người  khác:     ­ Ước mơ được xem ti vi suốt ngày/ ước không phải học mà vẫn được điểm  cao…     ­ Ước mơ có ai đó làm bài tập cho mình. Vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học sẽ làm cho lớp học sôi nổi, gây   hứng thú cho học sinh sẽ  giúp học sinh tiếp thu bài học một cách tốt hơn, nắm  vững nội dung của bài học. Bên cạnh đó, giáo viên cần phải có dự  kiến về các  câu trả lời của học sinh và các tình huống sư phạm có thể xảy ra trong mỗi hoạt   động từ  đó có biện pháp giải quyết, điều chỉnh kịp thời.  Việc tổ chức các hoạt  động học tập có tác dụng rất lớn đến việc giảng dạy phân môn Luyện từ và câu,  giúp học sinh biết quý trọng và giữ  gìn sự  trong sáng của tiếng Việt từ đó hình  thành cho các em nhân cách sống và kĩ năng sống. Do đó để có kết quả cao trong  tiết dạy Luyện từ và câu giáo viên cần lập kế hoạch bài học chu đáo, cẩn thận   chuẩn bị về mọi mặt cho tiết dạy. Việc làm này phải diễn ra trước khi thi công   bài dạy trên lớp học. + Lên lớp 10
  11. Sau khi lập xong kế  hoạch bài học, giáo viên dựa theo kế  hoạch đó để  giảng bài cho học sinh. Giáo viên giảng bài một cách trình tự. Các câu hỏi hoặc   các câu lệnh của giáo viên phải cụ thể, rõ ràng. Giáo viên giao việc cho học sinh   vừa phải, không quá ít hoặc quá ôm đồm, gây lúng túng cho học sinh. Trong   những vấn đề khó hoặc hóc búa, giáo viên cần đưa ra hệ thống câu hỏi gợi mở  để  khơi gợi học sinh khám phá bài học. Trong quá trình giảng bài thì giáo viên  nên tích hợp các kiến thức của các phân môn khác như Tập đọc, Tập làm văn…  để giúp học sinh hệ thống hóa vốn từ cũng như mở rộng vốn từ. Các tình huống   sư  phạm xảy ra bất ngờ  trong hoạt động học tập thì giáo viên phải xử  lí một  cách khéo léo.  Trong soạn giảng cần lưu ý đến các vấn đề :  Thứ nhất, phát huy ý thức học tập của học sinh từ đó bồi dưỡng hứng thú  học tập cho học sinh qua các bài học. Cũng như các phân môn khác của Tiếng Việt, một trong những nhiệm vụ  của phân môn Luyện từ  và câu là bồi dưỡng ý thức và thói quen sử  dụng tiếng   Việt văn hoá. Để thực hiện nhiệm vụ đó giáo viên cần bồi dưỡng hứng thú học   tập cho học sinh, học sinh cần có ý thức học tập đúng đắn.  Trước hết đó là cách làm cho học sinh ý thức được ích lợi của việc học để  tạo động cơ  học tập. Cho nên  ở  mỗi tiết dạy người giáo viên đều cần hướng  đến việc hình thành và duy trì hứng thú cho học sinh. Dạy Luyện từ và câu chính  là dạy cho các em kiến thức về từ ngữ và ngữ pháp nhưng giáo viên cần đưa ra  một số thủ pháp dạy học, hình thức dạy học phù hợp với sở thích của các em, đó  chính là các trò thi đố, các trò chơi để  gây hứng thú cho học sinh trong giờ học,   giảm bớt sự căng thẳng, nhàm chán. Bên cạnh đó người giáo viên cần thiết lập được mối quan hệ hợp tác tích  cực và tốt đẹp giữa cô và trò, giữa các trò với nhau cũng sẽ  tạo được hứng thú  học tập cho học sinh. Hình thức tổ  chức dạy học hấp dẫn cùng với một bầu  không khí thân ái hữu nghị  trong giờ  học sẽ  tạo hứng thú cho cả  cô và trò. Vì   vậy, bên cạnh việc giáo dục tính mục đích kỉ  luật, ý thức về trách nhiệm v.v… cho học sinh, với mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy trong nhà trường phải là  người tổ  chức cuộc sống  ở  trường thật hấp dẫn, tạo niềm vui, phải phấn đấu  sao cho mỗi ngày các em đến trường là một ngày vui. Mỗi học sinh sẽ  luôn  mong muốn phải là người được hạnh phúc ngay ngày hôm nay. Bởi vậy, giáo   viên phải thường xuyên tìm hiểu học sinh muốn việc học diễn ra như thế nào?,   cái gì làm các em thích?, cái gì làm các em không thích?, để  có thể  tổ  chức quá   trình dạy học như các em mong đợi. 11
  12. Để tạo hứng thú trong học tập cho học sinh cũng là một nghệ thuật trong   quá trình dạy học của người giáo viên. Tạo hứng thú cho học sinh trong học tập   cũng chính là làm cho các em thấy hạnh phúc trong học tập, bởi vì học là hạnh   phúc không chỉ  vì những lợi ích mà nó mang lại mà hạnh phúc còn nằm ngay  trong chính sự học từ đó mà các em nâng cao ý thức trong học tập. Thứ hai, tài liệu, đồ dùng học tập. Người giáo viên phải là người giúp học sinh biết cách lựa chọn và sử  dụng các tài liệu, đồ dùng học tập như thế nào cho phù hợp. Tài liệu nào các em   có thể sử dụng khi học ở trên lớp, khi học ở nhà, nguồn tài liệu nào phù hợp với  các em hay khi nào thì có thể sử dụng sách giáo khoa, vở bài tập, sách tham khảo.  Không chỉ sử dụng các thông tin có trong sách mà các em còn có thể tự tìm tòi, tự  làm lấy để trở thành đồ dùng học tập hữu ích. Từ đó học sinh sẽ chủ động hơn   khi sử dụng các loại tài liệu mà không còn phụ thuộc hay lệ thuộc vào sách tham  khảo. Làm được điều này cũng đồng nghĩa với việc học sinh sử  dụng các loại  sách tham khảo, có sẵn đáp án chỉ là một tài liệu giúp các em dùng để so sánh với  kết quả bài làm của mình. Thứ ba, phân chia đối tượng học sinh. Để phát huy được tính tích cực của học sinh, giáo viên cần chú ý đến mọi  đối tượng học sinh. Vì vậy có thể  phân chia học sinh ra nhiều mức độ  để  có  phương pháp dạy thích hợp. Bên cạnh đó, giáo viên phải có hệ  thống câu hỏi   trong mỗi bài thật cụ thể phù hợp với từng đối tượng học sinh cụ thể.  VD: Khi  dạy bài “Câu kể Ai làm gì?” (tuần 17) BT1: Đọc đoạn văn sau: “Trên nương mỗi người một việc. Người lớn thì   đánh trâu ra cày. Các cụ  già thì nhặt cỏ  đốt lá. Mấy chú bé bắc bếp thổi cơm.   Các bà mẹ lom khom tra ngô. Các em bé ngủ khì trên lưng mẹ. Lũ chó sủa om cả   rừng” rồi tìm trong mỗi câu ở đoạn văn trên các từ ngữ: a) Chỉ hoạt động: b) Chỉ người hoặc vật hoạt động. Học sinh có thể tìm được: + Từ chỉ hoạt động: đánh trâu ra cày, nhặt cỏ đốt lá, ngủ khì trên lưng mẹ, bắc   bếp thổi cơm, lom khom tra ngô, sủa om cả rừng. + Từ chỉ người hoặc vật hoạt động: người lớn, các cụ già, mấy chú bé, các em   bé, lũ chó. Lúc này giáo viên gạch chân những từ ngữ mà các em đã tìm được. Sau đó  tiến hành hỏi: Em hãy đặt câu hỏi cho từng từ chỉ hoạt động? Học sinh nêu: Người lớn làm gì? Các cụ già làm gì?... 12
  13.            Giáo viên cần chú ý đến mọi đối tượng học sinh trong giờ học để cho tất   cả các em đều được nói, đều được làm việc phù hợp với khả năng tư duy. Thứ tư, phân bố thời gian học tập. Việc phân bố thời gian học tập cho học sinh một cách hợp lí cũng là một   yếu tố  quan trọng của sự  thành công. Người giáo viên phải biết phối kết hợp  nhịp nhàng các hoạt động dạy học và phân chia thời gian của từng hoạt động đó  phù hợp trong mỗi tiết học, mỗi bài học cụ thể, tránh tình trạng hết tiết học mà  không hết bài hoặc ngược lại tạo cơ hội cho học sinh không làm việc. Điều này  cũng giúp ích cho học sinh trong việc tự  phân bố  thời gian học  ở  nhà hợp lí,  mang lại hiệu quả. Thứ năm, kèm cặp những học sinh tiếp thu chậm. Với đối tượng học sinh tiếp thu chậm, cần giúp các em xác định   được  mạch kiến thức trong chương trình được sắp xếp theo vòng tròn đồng tâm, tuỳ  theo  ở  mỗi lớp mà có những yêu cầu khác nhau. Từ  đó giúp học sinh yếu nắm   chắc những kiến thức  ở  lớp dưới, bổ  sung những lỗ  hổng về  kiến thức  ở lớp   dưới thì đến lớp 4 các em sẽ  nắm kiến thức một cách dễ  dàng hơn, phát huy   được những kiến thức và kĩ năng học sinh đã đạt  ở  lớp 1, 2, 3 theo hệ  thống  lôgic. VD:  Ở  lớp 1, các em được học về  âm ­ vần, học sinh tìm tiếng có vần   mới học, nói câu chứa tiếng mới học, thì lớp 4 các em sẽ  được học kĩ hơn về  cấu tạo của tiếng: tiếng thường gồm có 3 bộ  phận: âm đầu ­ vần ­ thanh (có  tiếng không có âm đầu). Hay chỉ một khái niệm “Câu hỏi và dấu chấm hỏi” ở lớp 2 học sinh mới   chỉ cần đạt yêu cầu: chọn dấu chấm hay dấu hỏi để  điền vào ô trống; ở  lớp 3,  các em phải đặt và trả  lời câu hỏi ; nhưng đến lớp 4 các em không những phải   hiểu khái niệm mà còn phải biết giữ lịch sự khi đặt câu hỏi, tránh những câu hỏi   làm phiền lòng người khác. VD:  Bạn   có   thể   chờ   hết   tiết   sinh   hoạt,   chúng   mình   cùng   nói   chuyện   được   không? Phải biết sử  dụng câu hỏi vào mục đích khác, không chỉ  dừng lại  ở  hỏi   những điều muốn biết mà còn phải biết dùng câu hỏi để thể hiện thái độ  khen,   chê, khẳng định, phủ định, yêu cầu, mong muốn. Thứ sáu, sử dụng phương tiện, thiết bị. Giáo viên cần tận dụng và sử dụng một cách triệt để các đồ dùng và trang   thiết bị  dạy học không chỉ  trong quá trình dạy học mà còn đóng góp một phần   không nhỏ  trong viêc giúp đỡ  học sinh yếu. Với đối tượng học sinh yếu khả  13
  14. năng tư duy trừu tượng thấp do đó cần tăng cường, hỗ  trợ  các em về  khả  năng  tư duy bằng hình ảnh, bằng âm thanh… bằng trực quan sinh động sẽ giúp các em  tiếp thu bài tốt hơn, hiệu quả hơn. 2.2.3. Biện pháp 3. Đánh giá học sinh Như chúng ta đã biết, mục đích của đánh giá là giúp giáo viên điều chỉnh,  đổi mới phương pháp, hình thức tổ  chức hoạt động dạy học, hoạt động trải  nghiệm ngay trong quá trình và kết thúc mỗi giai đoạn dạy học, giáo dục; kịp  thời phát hiện những cố  gắng, tiến bộ  của học sinh để  động viên, khích lệ  và   phát hiện những khó khăn chưa thể  vượt qua của học sinh để  hướng dẫn, giúp  đỡ; đưa ra nhận đúng những  ưu điểm nổi bật và những hạn chế  của mỗi học   sinh để  có giải pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả  hoạt động  học tập, rèn luyện của học sinh. Do vậy, đây là công việc mà giáo viên làm  thường xuyên trong mỗi tiết học. Trong quá trình dạy học nói chung và dạy phân  môn Luyện từ  và câu nói riêng, người giáo viên cần chú trọng vào mặt thành  công của học sinh, nhìn nhận các em theo cách nhìn em nào cũng ngoan, em nào  cũng giỏi, em nào cũng cố gắng để khích lệ, phát huy tính sáng tạo của các em.  Trong đánh giá giáo viên cần coi trọng sự  tiến bộ  của học sinh, không so sánh   học sinh này với học sinh khác, không tạo áp lực cho học sinh. Trong các tiết  học, giáo viên có thể nhận xét học sinh bằng lời nói trực tiếp hoặc viết nhận xét  vào phiếu, vào vở về những kết quả đã làm được hoặc chưa làm được; mức độ  hiểu biết và năng lực vận dụng kiến thức. Đôi lúc cô giáo cũng cần tỏ  ra ngạc  nhiên, vui sướng, tôn trọng những sáng tạo của các em dù là rất nhỏ, giúp các em  tự phát hiện ra chân lí. Thành quả mà các em thấy được qua sự học tập của mình  được thể hiện bằng những lời nhận xét, khen ngợi kịp thời từ  đó các em tự  tin  vươn lên. Chỉ có đạt được thành công trong học tập mới thực sự tạo ra hứng thú  và niềm say mê cho các em. Chỉ có thành công, niềm tự hào về thành công, cảm   giác xúc động khi thành công mới là nguồn gốc thật sự của ham muốn học tập.  Ví dụ : Khi dạy bài “ Giữ phép lịch sự khi đặt câu hỏi” ( Tuần 15), có thể đưa ra   một số lời nhận xét: ­ Em đã biết phân biệt các câu hỏi lịch sự và các câu hỏi không lịch sự  ở trong   bài. ­ Em đã biết đặt câu hỏi để hỏi chuyện thầy giáo và bạn bè một cách lịch sự. ­ Em đã đặt đúng câu hỏi cho thầy cô giáo song em cần thưa gửi và xưng hô phù   hợp để câu hỏi được lịch sự hơn,…. Đối với những học sinh có một số  nhiệm vụ  hoặc bài học chưa hoàn   thành thì giáo viên cần kịp thời giúp đỡ để học sinh biết cách hoàn thành. 14
  15. VD: Khi dạy bài “ Câu kể Ai làm gì?”, một số  học sinh có thể  chưa hoàn thành  bài tập 3 (Viết một đoạn văn kể  về  các công việc buổi sáng của em. Cho biết   những câu nào trong đoạn văn là câu kể Ai làm gì? ), giáo viên có thể hướng dẫn,  gợi ý cho các em hoàn thành trong giờ ra chơi hoặc 15 phút đầu giờ. Để tạo sự thi đua học tập một cách tích cực, học sinh cũng là người tham  gia vào việc đánh giá bạn mình. Việc làm này giúp học sinh biết mình nắm bài ở  mức nào, bạn mình còn thiếu sót hay mình thiếu sót hơn bạn ở điểm nào. Từ đó,  các em sẽ  có động lực cố  gắng hoàn thành các nhiệm vụ  học tập một cách tự  giác hoặc có thể nhờ bạn giúp đỡ. Bên cạnh đó, giáo viên cần trao đổi với phụ  huynh những công việc hay   bài học mà học sinh chưa hoàn thành để phụ huynh học sinh biết và giúp đỡ con  em mình hoàn thành các nhiệm vụ học tập. Từ đó, giữa phụ  huynh và giáo viên  có sự phối kết hợp để đánh giá học sinh một cách chính xác hơn. 2.2.4. Biện pháp 4. Làm tốt công tác phối hợp a. Với gia đình Để góp phần thành công trong công tác giảng dạy, đặc biệt với phân môn   Luyện từ  và câu, điều kiện cần thiết không thể  thiếu đó là việc phối hợp với  phụ   huynh   học   sinh.   Vấn   đề   này   được   nêu   trong   yêu   cầu   của   thông   tư   Số  30/2014/TT­ BGDĐT về Quy định đánh giá học sinh Tiểu học. Gia đình là trường học đầu tiên, trong đó bố mẹ là những người thầy giáo  thân thuộc nhất đối với học sinh. Gia đình có vai trò rất quan trọng trong việc  hình thành và phát triển về ngôn ngữ của trẻ, đây là nơi mà các em trải nghiệm,  vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế  cuộc sống. Các em sẽ  sử  dụng   các kiến thức mà các em lĩnh hội ở trên lớp để giao tiếp với mọi người trong gia   đình và xã hội. Trong qua trình giao tiếp đó, các em sẽ  không tránh khỏi những   sai sót khi nói và viết. Khi đó, bố mẹ và những người trong gia đình giúp các em  sửa chữa, uốn nắn để hoàn thiện vốn từ  của mình. Từ  đó, các em giao tiếp với   mọi người xung quanh một cách đúng đắn và lịch sự. VD : Khi nhờ  người lớn làm một việc gì đó, một số  học sinh có thể  nói   như sau : Ông! Lấy cái đồ chơi trên tủ cho cháu với! Lúc này, bố  mẹ  có thể  nhắc nhở  con nếu nhờ  ai đó làm một việc gì thì  phải nhờ  một cách lịch sự. Hơn nữa nếu là người lớn thì phải nói một cách lễ  phép. Bố mẹ có thể hướng dẫn con nói lại để các em có thể huy động được vốn  kiến thức đã học ở trường ứng dụng vào trong thực tế cuộc sống. VD  : Nhờ ông   giúp cháu lấy cái đồ chơi trên tủ  ạ ! 15
  16. Như vậy, nhiệm vụ của việc dạy học Luyện từ và câu được hoàn thành.   Do vậy, ngay từ đầu năm học, qua cuộc họp phụ huynh đầu năm, tôi cởi mở trao   đổi, bày tỏ những ý kiến, cùng bàn bạc làm như thế nào để phụ  huynh cùng hỗ  trợ  giáo viên trong dạy học nói chung và phân môn này nói riêng. Tất cả  đều  được thảo luận, bàn bạc kỹ lưỡng và đi đến thống nhất. Mặt khác, qua phiếu điều tra đầu năm, giáo viên nắm số  diện thoại, địa  chỉ  của từng phụ  huynh học sinh để  thường xuyên liên hệ, trao đổi với phụ  huynh, cùng phối hợp, động viên giúp đỡ kịp thời từng học sinh, nhất là đối với  những học sinh chậm tiến. Việc trao đổi với phụ  huynh bằng nhiều hình thức như: có thể  gặp trực  tiếp hoặc trao đổi qua điện thoại mỗi khi có sự việc cần trao đổi, đôi khi chỉ  là  những thăm hỏi việc học tập sinh hoạt của học sinh  ở nhà để  tìm nguyên nhân  học sút hay cùng nhau phối hợp để giúp học sinh tiến bộ. b. Với Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh Trong các buổi ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp của Đội tổ chức,   các em được vui chơi, giao lưu và hơn hết các em được giao tiếp với nhau.   Thông qua việc tổ  chức các cuộc thi tìm hiểu, các trò chơi hay đóng kịch… các  em sẽ được sử dụng vốn ngôn ngữ của mình để trao đổi, nói chuyện với bạn bè   và thầy cô. Đây là cơ  hội để  các em thể  hiện mình. Qua đây, các em sẽ  mạnh   dạn hơn khi giao tiếp, sẽ  tự  điều chỉnh được hành vi, ngôn ngữ  của mình, nói  chuyện một cách tự  tin và chủ  động hơn. Như  vậy, các em đã  ứng dụng được  các kiến thức về câu từ  trong giao tiếp. Từ đó, vốn ngôn ngữ  của các em sẽ  tự  nhiên được trau dồi và phong phú hơn, các em sẽ mạnh dạn hơn. Xác định được  điều đó, trong hội nghị  công chức đầu năm, bản thân tôi đã đề  xuất với nhà   trường cần tăng cường các hoạt động ngoại khóa, tổ  chức nhiều sân chơi với   nhiều màu sắc khác nhau để tạo cho các em trải nghiệm. Quả thật, qua các hoạt  động ngoài giờ lên lớp do Liên đội tổ chức, các em giao lưu, kết bạn đầy tự tin.  Bên cạnh đó, trong mọi hoạt động, giáo viên cùng tham gia với các em nên các   em gần gũi và thân thiện với các thầy cô giáo hơn. 2.2.5. Biện pháp 5. Làm tốt việc thi đua, khen thưởng  Đây là một việc làm không thể thiếu đối với học sinh Tiểu học. Do tâm  lý của học sinh Tiểu học rất thích được thi đua với bạn, thích được khen, được  động  viên. Vì vậy, giáo viên cần  thường xuyên nêu gương và biểu dương các   thành tích đạt được của các em.  16
  17. Thi đua ở đây được hiểu là thi đua trong học tập. Trong các tiết học ở trên  lớp, muốn học sinh học một cách hứng thú và hiệu quả thì việc thi đua giữa học  sinh trong lớp là một việc làm cần thiết. Thi đua học tập tạo cho các em thói  quen nhanh nhẹn, linh hoạt, giao tiếp hợp tác với các bạn để  khám phá tri thức  một cách nhanh nhất. Ví dụ : Mở rộng vốn từ : Nhân hậu, đoàn kết ( Tuần 3) Bài 1 : Tìm các từ : a) Chứa tiếng “hiền” b) Chứa tiếng “ác” Khi dạy bài tập này, thay vì cho các em làm bài cá nhân thì nên tổ chức thi  đua giữa các nhóm. Với hình thức này thì các thành viên trong nhóm huy động  vốn từ  của mình một cách nhanh nhất và tối đa nhất để  trả  lời. Như  vậy, tiết  học sẽ sôi nổi và hứng thú hơn. Học sinh sẽ đưa ra nhiều từ nhất có thể. Đi liền với thi đua là công tác khen thưởng. Việc khen phải linh động và có  nhiều cách: Có thể  khen bài làm tốt, khen tiếp thu nhanh, một lời nói hay hoặc   một diễn đạt trôi chảy, ... Khen thưởng có thể tuyên dương bằng lời ngay trong   tiết học, có thể khen bằng nhận xét ở vở  của học sinh hoặc tuyên dương trước  lớp, trường. Giáo viên luôn tìm những  ưu điểm của học sinh để  động viên các  em, giúp các em tránh áp lực trong việc học. Điều này còn khích lệ các em hứng  thú và có động lực học tập môn học. 2.3. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Với những biện pháp nêu trên, tôi thật sự vui mừng vì sự đầu tư của mình  đã đạt được kết quả tốt. Kết quả kiểm tra định kỳ cuối kỳ I :  Phân môn Luyện từ và câu : Đạt mức trung bình trở lên : 100% Chất lượng phân môn Tiếng Việt : Tổng  Điểm 10 ­ 9 Điểm 8 ­ 7 Điểm 6 ­ 5 Điểm dưới 5 số HS T. số T.L % T. số T.L % T. số T.L % T. số T.L % 28 13 46,4 11 39,3 4 14,3 0 0 Trong bài kiểm tra định kì, học sinh đã biết sử dụng hệ thống ngôn từ vào  viết câu đúng, hành văn mạch lạc, rõ ràng. Đến nay, cơ bản các em đã có vốn từ khá phong phú, đã diễn đạt trôi chảy   ý kiến của mình, vận dụng trong nói, viết và trong thực tiễn khá tốt.  17
  18. 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý NGHĨA, PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA SÁNG KIẾN Phân môn Luyện từ  và câu có vai trò rất quan trọng trong dạy học Tiếng  Việt bởi vị  trí đặc biệt quan trọng của từ  và câu trong hệ  thống ngôn ngữ.  Nhiệm vụ của dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học là làm giàu vốn từ và phát triển  năng lực sử dụng từ, câu của học sinh. Chính vì thế, đây là một việc làm không  đơn giản chút nào. Vậy, để  thực hiện thành công công việc này đòi hỏi phải   phải kết hợp nhiều yếu tố.  Qua một thời gian áp dụng vào thực tiễn giảng dạy  lớp 4 ở trường Tiểu học, bản thân nhận thấy một trong các yếu tố cần tuân thủ  đó là: ­ Trước hết giáo viên phải là người nắm vững chương trình, kiến thức, kĩ  năng tiếng Việt, có vốn sống phong phú. ­ Thực sự yêu nghề, có tâm huyết với nghề. ­ Thường xuyên học hỏi trau dồi kiến thức, nghiên cứu tài liệu, sách báo...  giao lưu học hỏi đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm đề ngày càng làm phong phú  thêm vốn kiến thức, kĩ năng cho mình. ­ Có phương pháp nghiên cứu bài, soạn bài, thiết kế bài học một cách khoa   học, sáng tạo, linh hoạt. 18
  19. ­ Tạo sự giao tiếp cởi mở, thân thiện với học sinh, mẫu mực trong lời nói,  việc làm, thái độ, cử chỉ ; Có tâm hồn trong sáng lành mạnh để học sinh noi theo. ­ Giáo viên là người khơi dậy niềm say mê hứng thú của học sinh, không   hạn chế  những lời khen ngợi trong mọi lúc, mọi khi đối với học sinh và luôn  điều chỉnh kịp thời những sai sót cần thiết. ­ Luôn phối hợp với gia đình, tổ chức chức Đội để tạo điều kiện tốt nhất   cho các em tham gia trải nghiệm. 3.2. KIẾN NGHI, ĐỀ XUẤT Để dạy tốt phân môn Luyện từ và câu góp phần nâng cao chất lượng giáo  dục toàn diện cho học sinh, nhà trường, ngành cần tổ  chức nhiều hơn nữa các  sân chơi mới để  tạo cơ  hội cho các em thể  hiện khả  năng của mình (như: thi  nhóm trưởng tài năng, em làm hướng dẫn viên du lịch, ..) Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi đã và đang áp dụng vào công  tác giảng dạy. Rất mong nhận được sự  chia sẻ, trao đổi, góp ý của các đồng   nghiệp. 19
  20. MỤC LỤC 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1 1.1. Lý do chọn đề tài 1 1.2. Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm 1 2. PHẦN NỘI DUNG 2 2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu  2 2.2. Một số giải pháp 5 ́ ̉ ̣ ược 2.3. Kêt qua đat đ 17 3. PHẦN KẾT LUẬN 18 3.1. Ý nghĩa của đề tài, sáng kiến, giải pháp  18 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1