intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:22

25
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học được hoàn thành với một số nội dung như sau khảo sát thực tế phân loại đối tượng học sinh. Yêu cầu đối với giáo viên. Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc trong giờ Tập đọc cho cho học sinh lớp 2B.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc

  1. Mẫu 04 BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu: Tiểu học là bậc học nền tảng, bậc học đầu tiên trong hệ  thống giáo  dục quốc dân. Đây là bậc học tạo ra những cơ bản ban đầu và bền vững về  tri thức, về kĩ năng cho trẻ, góp phần hình thành và phát triển nhân cách học   sinh, giúp các em học tốt  ở bậc học tiếp theo. Trong những môn học  ở Tiểu   học, môn Tiếng Việt là môn học hết sức quan trọng. Môn Tiếng việt giúp các   em tiếp nhận những tri thức ban đầu, sơ  giản nhưng rất cần thiết về  tiếng  Việt phổ thông như: Ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp, từ vựng… Trên cơ sở đó  rèn những kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết và kĩ năng giao tiếp. Phân môn Tập  đọc được coi như môn khởi đầu để  học tiếp các môn khác. Lúc đầu trẻ  học   để biết đọc, qua đó dùng đọc để học các môn học khác và để tiếp thu các tri  thức của nhân loại. Những năm gần đây, cùng với sự đầu tư và phát triển của  giáo dục, chất lượng giáo dục ngày được nâng cao. Giáo viên trường Tiểu  học Kim Long B không ngừng học tập nâng cao nghiệp vụ  chuyên môn, tích  cực đổi mới phương pháp dạy học trong đó có việc đổi mới phương pháp  “rèn đọc” cho học sinh. Việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh bên cạnh những   thành công còn một số hạn chế, nhất là đối với lớp 2, các em mới chuyển từ  lớp 1 lên, qua ba tháng nghỉ  hè, nhiều em không thường xuyên ôn luyện nên   khi bắt đầu vào năm học lớp 2, kỹ năng đọc của một số em còn yếu, dẫn đến  kết quả  “đọc” của một số  lớp chưa cao. Vì thế  giáo viên cần phải dạy đọc   bài Tập đọc với giọng thế nào? làm thế nào chữa lỗi “đọc” cho học sinh, làm   thế  nào để  các em đọc đúng, đọc nhanh hơn, hay hơn, diễn cảm hơn, phối   hợp đọc thành tiếng và đọc hiểu... để  hiểu nội dung văn bản được đọc, để  cho những gì đọc được tác động vào chính cuộc sống của các em. Chính vì lí   do trên đòi hỏi người giáo viên phải có phương pháp dạy “đọc” như  thể  nào   để  giúp các em thực hiện được nhiệm vụ  phân môn Tập đọc. Trong điều  kiện xã hội ngày càng phát triển, nhất là chúng ta đang sống trong thời kì bùng  nổ  công nghệ  thông tin, nếu học sinh đọc yếu, đọc chậm các em sẽ  bị  hạn   chế  nhiều trong việc tiếp cận với công nghệ  thông tin, các em sẽ  thiệt thòi  trong giao tiếp, trong việc học tập... Trong suốt quá trình học tập học sinh sử  dụng “đọc” rất nhiều, các em đọc bài học, đọc bài ghi, đọc sách giáo khoa,  đọc truyện…chính vì vậy, dạy tốt phân môn Tập đọc không những rèn kĩ  năng đọc mà còn phát triển những kĩ năng khác. Qua việc học các bài Tập đọc  học sinh được tiếp xúc với ngôn ngữ văn học, bước đầu có khái niệm cơ bản   về  nhân vật, hình  ảnh, bố  cục…góp phần hình thành và bồi dưỡng cho các   em những tình cảm tốt đẹp của con người như tình yêu quê hương đất nước,   tình thầy trò, tình bạn bè…, tình yêu Tiếng Việt. 1
  2. Đối với học sinh Tiểu học nhất là đối với học sinh lớp 2 thì yêu cầu   đọc đến đâu hiểu ­ cảm nhận được đến đó thì quả  là một điều cực kì khó,  muốn làm được điều đó thì giáo viên phải có những biện pháp để  học sinh  đọc được lưu loát, rõ ràng, đọc trôi chảy. Sau đó tuỳ  từng bài, từng thể  loại  giáo viên tìm cách khai thác, hướng dẫn cho học sinh hiểu ý tứ, nội dung,   nghệ thuật của từng đoạn văn và cả bài để có thể đọc cho đúng, có đọc đúng  rồi thì mới luyện cho học sinh đọc hay, đọc diễn cảm được (thực hiện mục  tiêu rèn đọc cho học sinh) Thực trạng việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh trong các tiết Tập đọc ở  một  số giáo viên trong trường còn gặp khó khăn, còn lúng túng, giờ Tập đọc  ở  một số  lớp còn nhiều gò ép, học sinh “đọc” chưa đạt được kết quả  như  mong muốn đặc biệt là đối với Tập đọc lớp 2. Là một giáo viên, tôi luôn băn  khoăn cần phải làm thế  nào để  góp phần nâng cao chất lượng giáo dục qua  việc dạy Tập đọc, cần phải có biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 như thế  nào để đạt được hiệu quả như mong muốn, nhất là học sinh lớp 2B là lớp mà  đa số học sinh có học lực trung bình khá. Mặt khác, một số gia đình học sinh,   cha mẹ  làm ruộng hặc buôn bán, làm nghề  tự  do ... nên các em ít được sự  quan tâm của bố mẹ về học tập, bởi vậy giáo viên phải cố gắng rất nhiều để  đạt được mục tiêu giáo dục của nhà trường. Xuất phát từ những lí do trên tôi  đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 trong   giờ Tập đọc”  2. Tên sáng kiến: “Biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc” 3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Trần Thị Thúy ­ Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Kim Long B, huyện Tam  Dương, tỉnh Vĩnh Phúc ­ Số điện thoại: 0987817217   E_mail: tranthithuy.c1kimlongb@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:  Trần Thị Thúy 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Sáng kiến này áp dụng vào việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:  Ngày 05/9/2019 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 7.1. Về nội dung của sáng kiến 2
  3. 7.1.1. Những nội dung lí luận có liên quan trực tiếp đến vấn đề  nghiên  cứu. a. Cơ sở lí luận  1. Đọc là gì? Đọc là quá trình chuyển chữ  viết sang lời nói có âm thanh và có ngữ  điệu ­ ứng với hình thức đọc thành tiếng, là quá trình chuyển trực tiếp từ hình  thức chữ viết thành các đơn nghĩa không có âm thanh ­ ứng với đọc thầm (Sổ  tay thuật ngữ phương pháp dạy học tiếng Nga của MR. Lô­vốp). 2. Ý nghĩa của việc đọc: Con người thật là hạnh phúc khi biết đọc. Chúng ta đã biết phần lớn  những tri thức, khái niệm của đời sống và những thành tựu văn hóa, khoa học,  tư  tưởng, tình cảm của thế hệ trước và cả  của thời đương đại được ghi lại   bằng chữ  viết, nếu không biết đọc thì con người khó có thể  tiếp thu được  nền văn minh của loài người, chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc làm  chủ xã hội hiện đại. Không biết đọc con người không được hưởng thụ những   thành tựu văn hoá khoa học, tư  tưởng, tình cảm của nhân loại qua ngôn ngữ  viết. Đặc biệt là trong thời kì bùng nổ thông tin thì đọc càng quan trọng, vì nó   sẽ giúp người ta sử dụng tốt các nguồn thông tin. Biết đọc con người đã nhân  khả  năng tiếp nhận lên nhiều lần. Từ  đây, con người mới tìm hiểu đánh giá  cuộc sống, nhận thức mối quan hệ tự nhiên, xã hội. Biết đọc, con người có   khả năng giao tiếp được với thế giới bên trong của con người khác thông qua  tác phẩm văn, thơ, bút kí... của họ. Không biết đọc, con người sẽ khó có điều  kiện hưởng thụ  giáo dục mà xã hội dành cho họ, khó có thể  hình thành một   nhân cách toàn diện. Đọc giúp các em học sinh chiếm lĩnh được ngôn ngữ để  dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác.   Đọc một cách có ý thức cũng sẽ  có tác động tích cực tới trình độ  ngôn ngữ  cũng như tư duy của người đọc. Đọc là một kỹ năng quan trọng hàng đầu của   con người. Nhờ  biết đọc, con người có thể  tự  học, học nữa, học mãi, học   suốt đời. Đó là một yêu cầu không thể  thiếu được của con người trong thời  đại hiện nay. Biết đọc, ngắt câu, đổi giọng cho đúng ngữ điệu vừa đảm bảo  được diễn cảm, hấp dẫn người nghe, vừa đảm bảo đúng ngữ  pháp, ý nghĩa   thông tin của tác giả muốn truyền đạt cho người nghe hiểu, nhận thức được  đúng cũng là góp phần làm trong sáng ngôn ngữ  Tiếng Việt. Chính vì vậy  “đọc” có ý nghĩa to lớn  ở bậc Tiểu học. Bước đầu trẻ  học “đọc”, sau đó trẻ  “đọc” để  “học”. Đọc giúp trẻ  chiếm lĩnh được ngôn ngữ  trong giao tiếp và  học tập, nó là công cụ để học các môn học khác, đọc tốt giúp các em kĩ năng   giao tiếp có giáo dục. Môn Tập đọc ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng  lực hoạt động ngôn ngữ  cho học sinh, thể  hiện  ở  bốn chức năng: nghe, nói,  đọc, viết. Đọc không phải chỉ là công việc chuyển kí hiệu chữ viết thành âm  3
  4. thanh mà còn là quá trình nhận thức để  có kĩ năng thông hiểu những gì mình  đọc được. b. Những yêu cầu cơ bản của việc dạy phân môn Tập đọc lớp 2 * Nội dung, chương trình phân môn Tập đọc lớp 2 Trong quá trình tìm hiểu sách giáo khoa lớp 2 tôi nhận thấy rằng: các  bài Tập đọc được phân bố vào từng tuần cùng với các phân môn khác. Các bài   Tập đọc được bố trí vào đầu mỗi tuần có vai trò làm cơ sở, chỗ dựa cho việc   dạy các phân môn khác như: Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn… Mỗi  tuần có 3 bài Tập đọc, song học sinh được học 2 bài còn 1 bài các em tự đọc   thêm, thường thì các bài tập đọc đầu tuần được học trong 2 tiết. Các bài Tập   đọc có đủ  các thể  loại: Văn bản văn học, văn xuôi, thơ  và một số  văn bản  nước ngoài. Trung bình mỗi chủ  điểm học trong 2 tuần, các em được học   truyện vui ở kì 1, truyện ngụ ngôn ở kì 2, những câu chuyện này vừa để giải   trí vừa có tác dụng rèn luyện tư duy và phong cách sống vui tươi, lạc quan cho  các em. Các văn bản khác gồm văn bản báo chí, hành chính (tự thuật, thời khoá  biểu, thời gian biểu, mục lục sách…). Thông qua văn bản này sách giáo khoa   cung cấp cho các em một số kiến thức kĩ năng cần thiết trong đời sống, bước  đầu xác lập mối quan hệ giữa học với hành, giữa nhà trường và xã hội. ­ Mỗi bài tập đọc lớp 2 khoảng 100 chữ, yêu cầu đọc trong thời gian 2  đến 3 phút. Đọc đúng, rõ ràng từng từ, từng câu trong một đoạn, bài văn, bài   thơ  ngắn, biết ngắt hơi  ở  dấu phẩy, nghỉ  hơi  ở  dấu chấm. Bước đầu biết  đọc thầm, hiểu nội dung bài đọc ở lớp. Cụ thể, hiểu được ý nghĩa của các từ  ngữ  trong bài, nắm được ý chính của từng câu, đoạn văn hay thơ  đã học, trả  lời được những câu hỏi về  nội dung của bài tập đọc. Nhận xét về  nội dung   Tập đọc lớp 2 ­ Cấu tạo sách giáo khoa, nội dung bài Tập đọc phù hợp với đối tượng   học   sinh. ­ Kênh hình đẹp hấp dẫn. ­ Các bài tập đọc được trình bày khoa học và xếp theo chủ điểm. * Yêu cầu về kiến thức, kĩ năng * Phát triển kĩ năng đọc và nghe cho học sinh. + Rèn kĩ năng đọc thành tiếng: ­ Phát âm đúng ­ Đọc rõ ràng, liền mạch từng câu, đoạn, cả bài, biết ngắt nghỉ hơi hợp lí sau  dấu câu, giữa các cụm từ, các phần trong bài tập đọc. 4
  5. ­   Cường   độ,   tốc   độ   đọc   vừa   phải   (không   đọc   to   quá   hay   đọc   lí   nhí). ­ Tốc độ  đọc vừa phải (không ê, a, ngắc ngứ  hay liến thoắng), đạt yêu cầu   khoảng 50 tiếng/phút. + Rèn kĩ năng đọc thầm và hiểu nội dung: Biết đọc không thành tiếng, không mấp máy môi. Hiểu được nghĩa của các từ  ngữ  trong văn cảnh (bài đọc); nắm được nội  dung của câu, đoạn hoặc bài đã đọc, trả lời được các câu hỏi ở cuối mỗi bài  tập đọc, tập nhận xét một số nhân vật, hình ảnh, chi tiết trong bài đọc. + Rèn kĩ năng nghe nói: ­ Nghe: Nghe giáo viên đọc mẫu và nắm được cách đọc đúng các từ  ngữ, câu, đoạn,  bài. Nghe ­ hiểu các câu hỏi và yêu cầu của thầy, cô. Nghe ­ hiểu và có khả năng nhận xét ý kiến của bạn. ­ Nói: Biết cách trao đổi với các bạn trong nhóm học tập về bài đọc. Biết cách trả các câu hỏi về bài đọc. + Rèn tư thế đọc Tư  thế  đứng đọc thoải mái, không gò ép, đứng thẳng, khoảng cách từ  mắt  cách sách giáo khoa khoảng 25 ­ 30 cm. * Trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn văn học, phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu   biết của học sinh về cuộc sống. Cụ thể là: ­ Làm giàu và tích cực hoá vốn từ, ngữ, vốn diễn đạt. ­ Bồi dưỡng vốn văn học ban đầu, mở rộng vốn hiểu biết về cuộc sống, hình  thành một số  kỹ  năng phục vụ  cho đời sống và việc học tập của bản thân  (như  khai lí lịch đơn giản, đọc thời khoá biểu, tra và lập mục lục sách, nhận   và gọi điện thoại...) ­ Phát triển một số thao tác tư duy cơ bản (Phân tích, tổng hợp) *   Bồi   dưỡng   tư   tưởng   tình   cảm   và   tâm   hồn   trong   sáng,   lành   mạnh,   tình yêu cái đẹp, cái thiện, cách  ứng xử  đúng trong cuộc sống, từ  đó các em say  mê, hứng thú đọc sách và thêm yêu Tiếng Việt. ­ Bồi dưỡng tình cảm yêu quý, kính trọng, biết ơn và trách nhiệm đối với ông  bà, cha mẹ, thầy cô; yêu trường lớp; đoàn kết, giúp đỡ  bạn bè; vị  tha, nhân  5
  6. hậu. ­Xây dựng ý thức và năng lực thực hiện những phép xã giao tối thiểu.  ­ Từ những mẩu chuyện, bài văn, bài thơ hình thành lòng ham muốn đọc sách,  khả  năng cảm thụ  văn bản văn học, cảm thụ  vể  đẹp của tiếng Việt và tình  yêu tiếng Việt. * Những yêu cầu cần đạt được sau khi học Tập đọc lớp 2 ­ Kĩ năng đọc thành tiếng phát âm đúng rõ ràng các tiếng có vần khó, có phụ  âm đầu, có dấu thanh dễ lẫn. ­ Đọc rõ ràng, mạch lạc, đảm bảo tốc độ theo quy định. ­ Ngắt nhịp đúng câu văn, câu thơ, đọc trơn và lưu loát bài Tập đọc, biết phân  biệt lời nhân vật trong bài Tập đọc. ­ Kĩ năng đọc hiểu: Hiểu được nội dung ý nghĩa bài Tập đọc.  7.1.2. Thực trạng việc rèn đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc a. Thực trạng     Trường Tiểu học Kim Long B là một trường luôn dẫn đầu về  chất  lượng giáo dục, đa số giáo viên có trình độ chuyên môn khá và giỏi, giáo viên   nhiệt tình, trăn trở  với công việc đặc biệt là việc nâng cao chất lượng giáo  dục. Đa số giáo viên linh hoạt trong việc sử dụng các hình thức, phương pháp   dạy học, tích cực tự học, tự bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. Ban  Giám hiệu nhà trường phân công nhiệm vụ cụ thể, phù hợp với năng lực của  mỗi giáo viên. Giáo viên được phân công dạy chuyên khối nên có nhiều kinh   nghiệm trong giảng dạy. Nhà trường tổ chức có hiệu quả các buổi sinh hoạt   chuyên môn, tổ chức báo cáo sáng kiến kinh nghiệm của những giáo viên thực  hiện có hiệu quả  trong năm học... vì thế  giáo viên đã tích luỹ, học tập được  nhiều kinh nghiệm của đồng nghiệp để  áp dụng vào giảng dạy. Nhà trường  được trang bị  tương đối đủ  đồ  dùng dạy học, giáo viên tích cực làm và sử  dụng có hiệu quả  đồ  dùng dạy học, một số  giáo viên có khả  năng thực hiện  ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả trong dạy Tập đọc. Học sinh lớp 2 của trường học đúng độ tuổi, đa số các em được cha mẹ  quan tâm đến việc học tập. Các em được học 2 buổi/ngày, các em được rèn  đọc nhiều hơn  ở  buổi chiều. Các em được tiếp cận nhiều với công nghệ  thông tin, nhiều em thích đọc thơ, đọc truyện tranh ... nên nhiều em đọc thông  thạo, trôi chảy và có em còn biết đọc diễn cảm khi học hết lớp 1. Học sinh  được trang bị đầy đủ sách giáo khoa và đồ  dùng học tập, nhiều em thích học  Tập đọc. Về  phía giáo viên: Đã nhiều năm dạy Tiểu học và nhiều năm nghiên  cứu về phương pháp dạy Tập đọc, đặc biệt là Tập đọc lớp 2, tôi nhận thấy  6
  7. một số  ít giáo viên còn phân biệt chưa thật rõ ràng được mục tiêu chính của   phân môn Tập đọc lớp 2. Học sinh lớp 2 chỉ cần đọc đúng, phát âm chuẩn và  đọc lưu loát một bài Tập đọc là chính, còn phần đọc hiểu các em chỉ cần nắm  được ý chính của đoạn, bài hoặc ý nghĩa của bài Tập đọc, phần luyện đọc,  giáo viên cần cho học sinh đọc bài nhiều lần, luyện phát âm đúng, phát âm  chuẩn, luyện đọc câu, đoạn, bài. Mỗi học sinh trong giờ Tập đọc phải được  đọc dưới mọi hình thức từ một, hai đến ba lần.  Một số giáo viên, phân bố thời gian trong tiết dạy chưa hợp lí, thời gian   dành cho luyện đọc còn ít, thời gian dành cho tìm hiểu bài nhiều hơn. Một số  ít giáo viên dạy các lớp không phải là lớp chọn hoặc giáo viên mới chuyển từ  vùng sâu, vùng xa về trường chưa thực sự đầu tư, đổi mới phương pháp dạy  học nhất là đối với phân môn Tập đọc, chỉ chú ý dạy đủ  bước, dạy đều đều  cho đến hết bài, chưa biết cách sửa lỗi cho học sinh, chưa sử dụng linh hoạt   các hình thức dạy học trong khâu luyện đọc ... Cách thức tổ  chức luyện đọc  của một số ít giáo viên còn tẻ nhạt, chưa tạo ra những “điểm mới” trong cách  luyện đọc, việc vận dụng nguyên tắc dạy học “Học mà chơi, chơi mà học”  còn chưa thực sự  hiệu quả. Giáo viên chưa hệ  thống được lỗi sai của học   sinh để tìm biện pháp sửa lỗi cho các em. Việc sửa lỗi cho học sinh chưa kiên  trì, xuyên suốt tiết dạy Tập đọc, chỉ sửa lỗi cho học sinh trong lúc luyện đọc  câu, mà chưa chú ý sửa lỗi khi đọc đoạn, bài, khi đọc lại hoặc khi luyện đọc   thuộc lòng. Một số giáo viên giọng đọc còn chưa đúng mẫu, chưa diễn cảm,  có giáo viên còn đọc ngọng, phát âm lệch chuẩn... vì thế chất lượng dạy Tập  đọc chưa đạt như  mong muốn. Một số ít giáo viên (dạy các lớp chọn) do đề  cao quá mức yêu cầu cảm thụ  văn học nên đã biến giờ  Tập đọc thành giờ  giảng văn, cô giảng là chính, trò chỉ nghe, dành ít thì giờ luyện đọc. Trong khi   giảng nội dung hầu hết giáo viên sử  dụng câu hỏi sách giáo khoa là chính,  chưa biết bóc tách câu hỏi, chẻ  nhỏ  câu hỏi, đặt thêm câu hỏi cho phù hợp   với đối tượng học sinh, nên không gây được hứng thú học tập cho học sinh.   Các nguyên nhân trên dẫn đến một số học sinh không thích học Tập đọc, chất   lượng “đọc” của học sinh chưa được cao. Vì vậy việc tìm ra biện pháp rèn kĩ  năng đọc cho học sinh lớp 2 tôi thấy là thiết thực. Về phía học sinh: Trong một lớp học có rất nhiều đối tượng học sinh.  Một số  học sinh phát âm lệch chuẩn chữ  viết  ở  một số  âm đầu s/x; tr/ch;  l/n; ... một số vần anh/ăn; uyên/uên... Ngắt nghỉ hơi tuỳ tiện, tốc độ  đọc còn   chậm, đọc rời rạc, chưa biết nhấn giọng  ở  những từ gợi tả, gợi cảm; chưa   cảm thụ được cái hay, cái đẹp của bài văn, bài thơ. Kĩ năng đọc đúng, đọc hay  của các em lớp 2 còn yếu, các em đọc một cách thụ động. Nhiều học sinh khá  hơn cố  gắng đọc hay, đọc diễn cảm song vì không có kĩ năng đọc đúng,  không biết nên nhấn giọng chỗ  nào, ngắt nhịp thơ  ra sao, giọng đọc các câu  phân loại theo kiểu câu như câu kể, câu hỏi, câu cảm... phải đọc như thế nào  nên vẫn không đạt kết quả. 7
  8. b. Nguyên nhân * Giáo viên ­ Chưa thực sự đầu tư vào tiết dạy Tập đọc, chưa biết hệ thống, phân  loại đối tượng học sinh để tìm biện pháp rèn đọc cho từng nhóm đối tượng.   ­ Chưa biết lựa chọn phương pháp, hình thức dạy đọc phù hợp, chưa   đổi mới hình thức luyện đọc dẫn đến học sinh nhàm chán, không hứng thú  học tập đọc. Giáo viên chưa kiên trì trong việc sửa lỗi cho học sinh. ­ Chưa có biện pháp rèn kỹ năng đọc phù hợp, hiệu quả cho học sinh. ­ Chưa xây dựng được thời gian biểu của tiết dạy cho hợp lí, xử lí các   tình huống trong giờ dạy chưa thật linh hoạt. ­ Chưa tích cực làm và sử  dụng đồ  dùng dạy học, hoặc sử  dụng đồ  dùng dạy học chưa thật hiệu quả. ­ Một số giáo viên phát âm lệch chuẩn (ngọng n/l) nên không phát hiện   ra học sinh phát âm sai để sửa lỗi cho các em. ­ Một số giáo viên mới ra trường chưa có kinh nghiệm giảng dạy. ­ Giáo viên tiểu học phải dạy nhiều môn học (9 môn học) nên việc tập  trung đầu tư cho phân môn Tập đọc chưa nhiều. * Học sinh Học sinh lớp 2, mới từ lớp 1 lên, các em còn nhỏ, hay quên, trí nhớ chưa  bền. Các em chưa có tính kiên trì trong sửa lỗi. Các em trong lớp có nhiều đối  tượng khác nhau, mỗi học sinh thường mắc những lỗi đọc khác nhau, một số  em mắc lỗi phát âm lẫn lộn từ giao tiếp trong gia đình (cha, mẹ nói ngọng). Ở  lớp 1 các bài tập đọc còn ngắn, thường là dễ  nhớ, dễ thuộc, và nội dung tìm  hiểu bài chỉ  gồm những câu hỏi đơn giản, học sinh ít phải tư  duy, thời gian  dành cho luyện đọc rất nhiều.  Ở  lớp 2, các bài Tập đọc thường dài hơn,   những bài đầu tuần thường dạy trong 2 tiết, nếu giáo viên không biết hướng  dẫn luyện đọc thì các em rất chóng chán, không tận dụng được thời gian để  phát huy hết khả năng đọc của mỗi học sinh. 7.1.3. Các giải pháp thực hiện Xác   định  rõ   nguyên  nhân  chính  dẫn  đến  thực  trạng  trên  tôi  đã  tiến  hànhmột số biện pháp sau: Biện pháp 1: Khảo sát thực tế phân loại đối tượng học sinh Khảo sát kỹ  năng đọc của học sinh lớp 2B đầu năm (khảo sát không   tính điểm). Cụ thể, tôi đã khảo sát thực tế việc đọc của các em qua một đoạn  văn. Giáo viên chép lên bảng đoạn văn sau: 8
  9. Xuân về! Thế  là mùa xuân mong  ước đã đến! Đầu tiên, từ  trong vườn, mùi hoa   hồng, hoa huệ thơm nức. Trong không khí không còn ngửi thấy hơi nước lạnh   lẽo mà đầy hương thơm và ánh sáng mặt trời. Cây hồng bì đã cởi bỏ  hết   những cái áo lá già đen thủi. Các cành cây đều lấm tấm màu xanh. Những   cành xoan khẳng khiu đương trổ lá, lại sắp buông toả ra những tán hoa sang   sáng, tim tím. Ngoài kia, rặng râm bụt cũng sắp có nụ. Giáo   viên   lần   lượt   gọi   từng   học   sinh   đọc   bài,   với   thang   điểm   10. Cụ thể:  Điểm giỏi (điểm 9 ­ 10): Học sinh đọc lưu loát, biết nhấn giọng đúng  chỗ, ngắt nghỉ phù hợp, bước đầu biết đọc diễn cảm.  Điểm Khá (điểm 7 ­ 8): Học sinh đọc to, rõ ràng, ngắt nghỉ đôi chỗ còn   có thể chưa phù hợp. Điểm trung bình (điểm 5, 6): Học sinh đọc đúng tiếng, từ  đôi chỗ  còn  chưa lưu loát, mắc 4 đến 5 lỗi.  Điểm yếu (dưới 5): Học sinh đọc còn sai nhiều. Sau khi cho học sinh trong lớp đọc bài, có một số lỗi như sau:  Xuân về Thế nà mùa xuân mong ước đã đến! Đầu tiên, từ  trong vườn, mùi hoa   hồng, hoa huệ thơm lức. Trong không khí không còn ngựi thấy hơi nước nạnh   nẽo mà đầy hương thơm và ánh sáng mặt trời. Cây hồng vì đã cợi bọ  hết   nhứng cái áo đá già đen thụi. Các cành cây đều đấm tấm màu xanh. Những   cành xoan khẳng khiu đương chộ lá, lại sắp buông toả ra nhứng tán hoa sang   sáng, tim tím. Ngoài kia, dặng dâm bụt cúng sắp có lụ. Đánh giá sau khảo sát cụ thể như sau:  Tổng  Trung  số HS  Giỏi Khá Yếu bình dự KT Số  Số  Số  Số  % % % % lượng lượng lượng lượng 40 5 12,5 10 25 15 37,5 10 25 Qua khảo sát thực tế, tôi tiến hành lập danh sách, phân loại học sinh  mắc lỗi theo nhóm như sau: 9
  10. Số lượng % Tổng số học sinh 40 100 Đọc ngọng âm đầu n/l 5 12,5 Ngọng vần uyên/uên, anh/ăn 4 10 Ngọng thanh hỏi/nặng 1 2,5 Đọc chậm, ê a 4 10 Đọc nhỏ 4 10 Đọc liến thoắng 2 5  Cụ thể: + Về  lỗi phát âm: Các em chủ  yếu ngọng về  âm đầu và thanh, ngọng   vần ít hơn. Cụ  thể: học sinh chủ  yếu lẫn  âm l/n: 5 em (phần nhiều  ảnh   hưởng do phát âm từ  gia đình bố  mẹ  học sinh); 1 em ngọng thanh hỏi/nặng;  còn 4 em ngọng vần uyên/uên; anh/ăn + Về lỗi diễn đạt: Cả lớp có 5 học sinh đọc trôi chảy, mạch lạc, bước   đầu có diễn cảm, 10 em đọc rõ ràng, ngắt nghỉ tương đối phù hợp, 15 em đọc  được bài tuy nhiên đôi khi vẫn còn ngắt, nghỉ chưa đúng chỗ, chưa biết ngắt   câu dài, vẫn ngọng âm, còn 4 em vừa đọc vừa đánh vần, đọc chậm và còn   mắc cả  lỗi phát âm (ngọng âm đầu và thanh), trong lúc đọc còn dừng lại để  đánh vần, không đảm bảo tốc độ. Còn 2 em đọc được bài nhưng đọc liến   thoắng, ngắt nghỉ không đúng chỗ, đọc ào ào cho hết bài, còn 4 em đọc nhỏ.  Sau khi khảo sát, phân loại đối tượng tôi tiến hành lập danh sách theo   dõi, tập trung các nhóm học sinh mắc lỗi để  xây dựng kế  hoạch bồi dưỡng   riêng. Lập bảng theo dõi mức độ  tiến bộ  trong phát âm, những  ưu khuyết   điểm còn mắc phải trong từng bài, từng tuần để từng bước dứt điểm.  Thông qua bảng thống kê giáo viên nắm được mức độ mắc lỗi của học   sinh trong lớp từ  đó có kế  hoạch sửa lỗi cho từng nhóm học sinh trong từng   tiết học, bài học, theo từng loại lỗi khác nhau. Tóm lại: Bước khảo sát thực tế việc đọc của học sinh nhằm tìm ra để  phân loại các nhóm mắc lỗi khác nhau để biềm biện pháp khắc phục, sửa lỗi  cho học sinh. Đây là bước rất quan trọng để  thực hiện tốt việc “rèn kĩ năng   đọc” cho học sinh. Biện pháp 2: Yêu cầu đối với giáo viên 1. Chuẩn bị bài trước khi lên lớp 1.1 Tập đọc mẫu Trước khi lên lớp, giáo viên phải nghiên cứu kỹ bài Tập đọc: Xác định  chuẩn kiến thức kỹ năng của bài, nắm chắc nội dung và ý nghĩa bài Tập đọc,  10
  11. đặc biệt là thể loại bài Tập đọc, từ  đó hình thành cách đọc, giọng đọc, cách  ngắt hơi, nghỉ hơi, cách ngắt nhịp câu thơ, cách lên giọng, xuống giọng ... cho  phù hợp.  Đọc bài thành tiếng ít nhất hai đến ba lần để  tự  kiểm tra giọng đọc,  cách ngắt hơi, nghỉ hơi, ... của mình đã phù hợp chưa để  kịp thời điều chỉnh  cho bước đọc mẫu của giờ Tập đọc. Giáo viên phải tập cho bản thân mình có  giọng đọc mẫu thật chuẩn. Đọc mẫu cho các em trong giờ  Tập đọc là vô  cùng quan trọng nó góp phần quyết định đến chất lượng đọc của các em trong  giờ Tập đọc đó. Giáo viên đọc mẫu phải đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy, đảm bảo tốc độ  và diễn cảm, vì đây chính là cái đích về  kỹ  năng đọc mà học sinh cần đạt  được. Qua bài đọc mẫu của giáo viên còn diễn đạt được đúng ý nghĩa và tình   cảm mà tác giả  muốn gửi gắm trong bài tập đọc (đây chính là phương pháp  trực quan tốt nhất đối với học sinh lớp 2). Nếu giáo viên còn phát âm chưa chuẩn nên gạch dưới những tiếng từ  mình hay mắc lỗi để  khi đọc chú ý uốn nắn kịp thời tiến tới đọc chuẩn khi  đọc mẫu trước học sinh. 1.2   Phân  tích   nội   dung  bài   Tập   đọc   qua   hệ   thống  câu   hỏi  cuối   bài Giáo viên phải trả lời được các câu hỏi vì các câu trả lời này sẽ giúp cho giáo   viên xác định được mục đích, yêu cầu, nội dung và phương pháp dạy bài Tập  đọc. Trong một số  bài Tập đọc giáo viên có thể  dùng thêm một số  câu hỏi   dẫn dắt trước khi vào các câu hỏi chính, có thể  chia câu hỏi trong sách giáo  khoa thành các câu hỏi nhỏ, sắp xếp, hệ  thống lại các câu hỏi cho phù hợp  (tránh những câu hỏi vụn vặt). 1.3 Lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học ­ đặc biệt là lựa chọn   biện pháp rèn đọc cho học sinh Tuỳ  từng bài Tập đọc, giáo viên lường trước các từ  khó, phát âm dễ  lẫn để lựa chọn nhóm đối tượng luyện đọc nhiều hơn. Ví dụ  bài tập đọc có  nhiều âm đầu khó, hay có vần dễ lẫn để chọn nhóm học sinh hay mắc lỗi đó   luyện đọc kĩ hơn. Lựa chọn hình thức luyện đọc  ở  phần đọc đoạn, bài hay  phần đọc lại sau tìm hiểu nội dung, có thể  chọn các hình thức dạy học như:  Trò chơi, thi đọc tiếp sức, thi đọc đối đáp... để  học sinh không nhàm chán.  Cách luyện đọc nhóm cũng cần linh hoạt, không nhất nhất cứ nhóm đôi. Bài  có 3 đoạn chúng ta có thể luyện đọc nhóm ba, bốn đoạn thì luyện đọc nhóm   4. Đến phần thi đọc nhóm trước lớp cũng cần thay đổi linh hoạt, có thể  thi   chọn mỗi nhóm một em thi đọc, cũng có thể  thi đọc đồng thanh cả  nhóm ...  Tóm lại là giáo viên phải linh hoạt để tiết học sinh động. 1.4. Bước soạn bài  11
  12. ­ Xác định rõ mục đích, yêu cầu của bài Tập đọc bám sát Chuẩn kiến   thức kỹ năng cơ bản. ­ Lập thời gian biểu cụ thể cho từng phần của bài Tập đọc (chú ý thời  gian dành cho luyện đọc của từng bài). Phần luyện đọc phải dành 20 ­ 25  phút/tiết. Ví dụ: Phần đọc mẫu: khoảng 2 phút.  Luyện đọc từng câu (học sinh đọc nối tiếp mỗi em 1 câu) (từ  5 ­ 7   phút): phần này tuỳ  bài dài hay ngắn, tuỳ  số  lượng học sinh phải sửa lỗi   nhiều hay ít để phân bố thời gian cho hợp lí. Thường thí dành nhiều thời gian   hơn ở kỳ I và chú ý sửa lỗi phát âm cho học sinh. Luyện đọc từng đoạn trước lớp (từ  5 ­ 7 phút): rèn lỗi ngắt, nghỉ  câu  dài, cách đọc câu hỏi, câu cảm, ... Đọc đoạn trong nhóm (từ  2 ­ 3 phút): học sinh tự  sửa lỗi cho nhau. Thi đọc nhóm trước lớp (5 ­ 7) phút: Có thể tổ  chức trò chơi luyện đọc: đọc  thi cá nhân các nhóm, thi đồng thanh nhóm, thi đọc tiếp sức đoạn trong nhóm,   đọc “truyền điện”... ­ Lựa chọn nhóm đối tượng hay mắc lỗi trong từng bài để  dành thời   gian sửa lỗi cho nhóm này nhiều hơn. ­ Lựa chọn hình thức luyện đọc cho bài, tránh trùng lặp gây nhàm chán  cho học sinh. 1.5 Bước chuẩn bị đồ dùng dạy học Đây là bước quan trọng phục vụ  cho giờ  dạy, các tranh  ảnh, sưu tầm   các câu thơ, ca dao, tục ngữ… để hỗ trợ thêm bài giảng thêm phong phú, phải   lựa chọn, sắp xếp, đưa ra lúc nào cho phù hợp để phục vụ cho mục đích tiết  dạy, tận dụng tranh minh họa trong sách giáo khoa và đồ  dùng dạy học một  cách thiết thực có hiệu quả nhất. Khi dạy trình chiếu, có thể  lựa chọn tranh  ảnh phục vụ  cho việc giải nghĩa từ, giảng nội dung, cảm thụ  bài văn, bài   thơ... hoặc cho học sinh nghe giọng đọc diễn cảm của bài Tập đọc. 2. Giảng bài Giáo viên cần dạy đúng quy trình của bài Tập đọc, đảm bảo về  mặt   thời gian và khối lượng kiến thức cần truyền tải đến học sinh. Chú ý trong   khi giảng bài việc khen, động viên học sinh phải đúng lúc, kịp thời, không  khen nhiều quá, hay ít khen quá làm tiết học buồn tẻ, không nên chê học sinh   mà chọn lời nói phù hợp để  khuyến khích học sinh, các em rất hiếu động vì   thế mỗi lời khen, chê của giáo viên đều phải cân nhắc kĩ lưỡng, không được  tuỳ tiện. 3 Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà. 12
  13. Phải có sự  chuẩn bị bài trước ở  nhà. Học sinh lớp 2 chưa có thói quen   đọc trước bài  ở  nhà. Ngay từ  đầu năm học tôi đã hướng dẫn học sinh cách  chuẩn bị một bài Tập đọc, để hình thành phương pháp học bộ môn này. Bước1: Đọc thầm một lần bài Tập đọc để làm quen mặt chữ, để  cảm  nhận ban đầu về bài văn. Nếu học sinh đọc ngọng thì dùng bút chì gạch chân  những tiếng bản thân hay đọc ngọng để khi đọc chú ý để sửa. Bước 2: Đọc thành tiếng hai lần, đầu tiên đọc đúng, rõ ràng từng từ,  từng câu (biết ngắt hơi ở dấu phẩy, nghỉ hơi  ở dấu chấm) để sau đó tiến tới  đọc diễn cảm, đọc hay. Bước 3: Đọc kỹ  phần chú giải (có thể  hỏi cha mẹ, anh chị  những từ  nào chưa hiểu trong bài Tập đọc). Bước 4: Tập trả lời câu hỏi dưới bài Tập đọc. Trước khi trả  lời nên đọc toàn bộ  câu hỏi một lần, suy nghĩ động não  trả lời từng câu sao cho gọn, đủ ý (Có thể viết vào vở chuẩn bị bài). Bước 5: Đọc thành tiếng lần cuối sao cho đúng, giọng đọc phù hợp với  nội dung của bài Tập đọc. 4. Kiểm tra đánh giá thường xuyên. Sau mỗi bài Tập đọc, giáo viên ra bài tập và hướng dẫn học sinh học ở  nhà theo yêu cầu, giáo viên phải có kế hoạch kiểm tra việc học ở nhà đối với  các   em. Sau mỗi tiết, mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi kì giáo viên cần đánh giá kiểm tra  trình độ của học sinh rồi ghi lại vào bảng theo dõi, từ đó giáo viên điều chỉnh  lại phương pháp giảng dạy hoặc giúp học sinh điều chỉnh lại cách học sao  cho việc dạy và học đạt hiệu quả cao. Mặt khác xuất phát từ  đặc điểm của lứa tuổi học sinh tiểu học: rất   thích được cô giáo khen, thích gần gũi, vui vẻ cùng cô giáo, luôn cố gắng làm   nhiều việc tốt để  được cô giáo chú ý, khen ngợi nên việc động viên, khen  ngợi kịp thời có tác dụng khuyến khích học sinh tích cực, hứng thú học tập   hơn. Giáo viên cần hạn chế việc chê bai học sinh một cách lộ  liễu trước cả  lớp. Đối với những em chậm tiến bộ  nên nhẹ  nhàng nhắc nhở, tìm hiểu   nguyên nhân để  tìm cách khắc phục chứ  không phê bình gay gắt, không xúc  phạm đến học sinh, không để học sinh chán nản, không thích học Tập đọc. 5. Dự giờ đồng nghiệp. Trong trường  có  rất  nhiều  giáo viên  có  kinh nghiệm  dạy  Tập  đọc,   những giáo viên mới về trường nên tích cực đi dự giờ, học hỏi đồng nghiệp.  Sau mỗi tiết dự  giờ  rút kinh nghiệm với giáo viên trực tiếp giảng dạy, bổ  13
  14. sung kiến thức, phương pháp cho bản thân mình. Phần nào chưa rõ, chưa hiểu   có thể trực tiếp hỏi giáo viên giảng dạy để hiểu thấu đáo hơn. Tóm lại: Giáo viên phải chuẩn bị bài kĩ lưỡng, chi tiết, dự phòng được  một số  tình huống sư  phạm khi giảng dạy và hướng giải quyết, xây dựng  được kế hoạch dạy học phù hợp với bài tập đọc, phù hợp với đối tượng học  sinh của lớp, lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp. Tích cực   tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. Biện pháp 3: Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc trong giờ Tập đọc   cho cho học sinh lớp 2B 1. Luyện đọc đúng (dùng cho nhóm lỗi phát âm ngọng)  ­ Học sinh đọc đúng tức là đọc một cách chính xác, không có lỗi, nghĩa  là không đọc thừa, thiếu tiếng, không đọc theo cách phát âm địa phương, lệch  chuẩn, đọc đúng chính âm. ­ Giáo viên cần hướng dẫn học sinh có tâm thế  để  đọc: Tư  thế  đứng  đọc ngay ngắn, hít sâu, thở ra chậm để lấy hơi. + Luyện cho học sinh biết đọc đúng chính âm: ­ Rèn đọc đúng là rèn cho học sinh thể hiện chính xác âm vị Tiếng Việt. ­ Đọc đúng các phụ âm đầu: lạnh lẽo chứ không phải nạnh nẽo; thơm  nức chứ không phải thơm lức; lấm tấm, đen thủi, rì rào không đọc thành đấm   tấm; len tủi; đì đào… ­ Đọc đúng vần: phân việt và đọc đúng các vần có âm đôi ươ, uô, iê. Ví   dụ: vườn, nước, đầu tiên... chứ không đọc là vờn, nơc, lầu tên…, ­ Đọc đúng thanh: phân biệt giữa thanh sắc với thanh ngã; thanh nặng   với thanh hỏi. Ví dụ: Những ≠ nhứng; đỏ ≠ đọ, cởi bỏ ≠ cợi bọ… Biện pháp: Trước tiên giáo viên cần luyện cho học sinh nói, đọc đúng chính âm   càng sớm càng tốt, tiếp đó chúng ta cần nắm các biện pháp chữa lỗi phát âm   bao gồm: + Chữa lỗi phát âm theo mẫu: Rèn cho học sinh kỹ năng nghe. Học sinh   phát âm sai, giáo viên phát âm chuẩn, yêu cầu học sinh nghe và đọc lại chính  xác theo mẫu. Giáo viên cho học sinh quan sát khẩu hình miệng cách bật âm   thanh, rồi học sinh làm theo mẫu. Giáo viên có thể để  học sinh có giọng đọc  chuẩn đọc mẫu để học học phát âm sai đọc lại theo, cho học sinh gạch chân   tiếng có âm mình hay lẫn để luyện phát âm riêng những tiếng đó. + Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp cấu âm: cho học sinh phân tích cấu   tạo tiếng: âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối từ  đó đánh vần đủ  để  đọc  14
  15. đúng, không bỏ âm cuối hoặc âm đệm, hoặc lẫn các âm cuối (có thể cho học   sinh vẽ lại mô hình cấu tạo vần, đưa vần vào mô hình đã học ở lớp 1) + Chữa lỗi bằng âm trung gian, chữa lỗi phát âm bằng cách tìm tiếng,   từ  có chứa âm dễ  lẫn: ví dụ: “no” khác với “ lo” bằng cách tìm từ  có tiếng  “no”, “lo”: ăn no, no nê, .. lo lắng, lo sợ, “đỏ” khác với “đọ”: màu đỏ, hoa  đỏ  ... khác với đọ  sức, so đọ  ..., cũng có thể  giáo viên dùng tranh  ảnh (hoặc   hình ảnh khi dạy giáo án điện tử) để học sinh phân biệt, ví dụ phân biệt vần   ơn/ươn: hình ảnh vườn rau, vườn cây với hình ảnh đàn bướm vờn hoa... + Chữa lỗi theo nhóm: Khi học đến bài tập đọc nào có nhóm học sinh  mắc lỗi nhiều trong bài thì giáo viên phải tập trung vào nhóm học sinh đó để  sửa lỗi ngay, cố  gắng, kiên trì với từng học sinh, có thể  cho học sinh gạch   chân chữ  mình hay đọc sai để  khi đọc đến đó nhớ  đọc cho đúng. Giáo viên  cần chú ý kiên trì chữa lỗi phát âm sai cho học sinh trong lớp  ở tất cả trong  các tiết học khác, trong khi giao tiếp hàng ngày. Tóm lại: Để  hướng dẫn học sinh đọc đúng giáo viên phải luyện cách   phát âm đúng. Giáo viên phải kiên trì, liên tục có hệ  thống. Nhiều học sinh   phát âm ngọng ngại không muốn đọc sợ các bạn cười, giáo viên phải giải toả  tâm lí, phân tích để  các bạn cùng giúp đỡ, giáo viên nên lựa chọn hình thức  sửa lỗi trong đọc nhóm đôi, học sinh tự phát hiện tự sửa lỗi cho nhau. 2. Luyện đọc nhanh ­ đọc lưu loát (dùng cho nhóm học sinh đọc nhỏ,  đọc chậm ­ đọc ê, a, nhóm học sinh đọc liến thoắng). Theo thực hiện Chuẩn kiến thức kĩ năng tốc độ đọc cần đạt ở mỗi học  kì khác nhau: Giữa học kì I: khoảng 35 tiếng / phút. Cuối học kì I: khoảng 40 tiếng / phút. Giữa học kì II: khoảng 45 tiếng / phút. Cuối học kì II: khoảng 50 tiếng / phút. Đọc nhanh còn gọi là đọc lưu loát, đọc trôi chảy, đọc nhanh là nói đến  mức độ  đọc về mặt tốc độ. Vấn đề  đọc nhanh chỉ  xảy ra sau khi đọc đúng.  Mức độ  thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn, không đọc ê a, ngắc ngứ  vừa   đọc vừa đánh vần. Song đọc nhanh không phải là đọc ào ào, liến thoắng,   không thể hiện được nội dung, tình cảm của bài Tập đọc. Tốc độ chấp nhận   được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ  của lời. Khi đọc   thầm tốc độ sẽ nhanh hơn. Khi đọc cho người khác nghe thì phải đọc tốc độ  kịp thời cho người nghe hiểu  được. Đọc nhanh chỉ  thực sự  có ích khi nó  không tách rời việc hiểu rõ điều được đọc.  15
  16. Biện pháp: Hướng dẫn học sinh nắm  được tiêu chí cường độ   đọc: Đọc to: là đọc đủ  nghe, rõ ràng, không có nghĩa là gào lên. Những học sinh   đọc quá nhỏ  cần yêu cầu học sinh đọc sao cho các bạn  ở  xa nhất lớp vẫn   nghe rõ. Giáo viên cần rèn cho học sinh ngay cả  khi nói, khi trả  lời câu hỏi   cũng phải to đú nghe, rèn trong mỗi bài Tập đọc, trong các bài học khác, trong  giao tiếp.... đến khi học sinh có thói quen đọc to. Luyện cho học sinh không đọc ê a, ngắc ngứ, đọc lặp lại. Tốc độ  đọc   đảm bảo theo yêu cầu, không đọc nhanh quá hay chậm quá. Muốn vậy phải   luyện cho học sinh làm chủ  tia mắt khi đọc: Trước hết phải luyện cho học  sinh đọc không bỏ  sót tiếng, bỏ  sót dấu thanh; không thêm tiếng, bớt tiếng;  không lạc dòng. Để làm được điều này giáo viên phải yêu cầu học sinh thật  kiên trì, bước đầu có thể  cho các em dùng que chỉ  để  chỉ  vào từng chữ  đọc  cho chính xác, khi đã quen mặt chữ rồi thì chỉ dùng  mắt để nhìn chữ đọc cho  đúng. Giáo viên hướng dẫn học sinh làm chủ  tốc độ  bằng cách đọc mẫu   đúng, chính xác để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị đọc nhanh là cụm   từ, câu, đoạn, bài. Giáo viên điều khiển tốc độ  bằng cách giữ  nhịp đọc (có   thể gõ thước làm nhịp cho học sinh giữ nhịp đọc). Đối với những em còn đọc  ê a hoặc đọc liến thoắng giáo viên cần chỉ ra chính xác lỗi đọc sai của các em   rồi   từ   từ   hướng   dẫn các em sửa theo mẫu của giáo viên. Phần luyện đọc này thường thực hiện khi  các em luyện đọc thành tiếng. Đối với học sinh đọc liến thoắng giáo viên tập   cho học   sinh có thói quen đọc đúng nhịp bằng cách cho các em đọc theo nhịp   gõ thước của cô giáo, còn đối với học sinh đọc chậm (đọc ê, a) thì giáo viên  sẽ  cho học sinh đọc từng câu, từng đoạn nhanh dần lên cho kịp bắt nhịp với  các bạn khác.   Ngoài ra cần sử  dụng triệt để  hình thức đọc thành tiếng nối tiếp trên   lớp, đọc thầm có sự  kiểm tra của thầy của bạn để  điều chỉnh tốc độ  đọc.  Giáo viên đo tốc độ  đọc bằng cách đọc bài Tập đọc trước và dự  tính sẽ  đọc  trong thời gian mấy phút. Định tốc độ  đọc như  thế  nào còn phụ  thuộc và độ  khó của bài đọc.  Ví dụ: Bài: Bím tóc đuôi sam (Tuần 4) học sinh có thể đọc trong vòng 2  đến 3 phút. Tốc độ đọc nhanh dần lên, đến bài “Sơn Tinh, Thuỷ Tinh” (Tuần   25) bài này chỉ yêu cầu đọc trong gần 2 phút. 3. Luyện đọc hiểu (dùng cho tất cả các nhóm học sinh trong lớp) ­ Dạy học sinh đọc hiểu là dạy học sinh đọc có ý thức, hiệu quả đó đo  được bằng khả năng thông hiểu nội dung văn bản. 16
  17. ­ Kết quả của đọc hiểu là giúp học sinh hiểu được ý nghĩa của từ, cụm   từ, câu, đoạn, bài, tức là gồm toàn bộ  những gì mình đọc được. Muốn đọc  hiểu được văn bản thì học sinh phải biết ngắt, nghỉ đúng. Ví dụ: Bài: “Trên chiếc bè” (Tiếng Việt 2 ­Tập 1) Một học sinh đọc to, cả lớp đọc thầm đoạn: “Mùa thu …mặt nước” Giáo viên yêu cầu học sinh tự phát hiện những câu dài: ­ Mùa thu mới chớm/ nhưng nước đã trong vắt/ trông thấy cả hòn cuội  trắng tinh/ nằm dưới đáy.// ­ Những anh gọng vó đen sạm,/ gầy và cao/ nghênh cặp chân gọng vó/  đứng trên bãi lầy/ bái phục nhìn theo chúng tôi// Sau đó giáo viên treo bảng phụ  đã viết những câu dài (hoặc trên màn  hình nếu dạy trình chiếu) Học sinh tự xác định cách ngắt hơi, nghỉ hơi, nhấn   giọng ở các từ ngữ của các câu đó. Giáo viên hướng dẫn và tổng kết lại cách  đọc rồi cho học sinh gạch dưới các từ ngữ cần nhấn giọng và gạch chéo giữa  các cụm từ  cần ngắt nghỉ. Sau đó cho học sinh luyện đọc lại. Điều này đã  giúp học sinh nắm bài một cách có ý thức, chủ  động và phát huy khả  năng   cảm thụ văn học của các em. Hoặc bài: “Mẹ” (Tiếng Việt 2 ­ Tập 1) ­ GV hướng dẫn học sinh đọc bài thơ theo nhịp 2/4 và 4/4, đến câu thơ  7 và 8 học sinh giỏi tự phát hiện ra cách ngắt nhịp câu thơ khác những câu trước. Những ngôi sao/ thức ngoài kia (3/3)  Chẳng bằng mẹ/ đã thức vì chúng con. (3/5) Biện pháp: Người giáo viên cần có biện pháp giúp học sinh hiểu được  nội dung bài tập đọc bắt đầu phải hiểu được các từ  trong bài đọc. Giáo viên  phải biết hướng dẫn học sinh đọc tiếng từ khó, câu khó bằng cách đọc mẫu  chính xác rồi cho học sinh luyện đọc lại sau đó mới yêu cầu các em đọc hoàn   chỉnh câu, đoạn, bài. Những học sinh khá giỏi có thể sau khi giáo viên đọc tự  phát hiện ra cách   ngắt, nghỉ, cách nhấn giọng, lên giọng, xuống giọng,  ở  những từ  ngữ  nào để  đọc đúng và hay, và biết cách phân biệt lời nhân vật.   Sau đó giáo viên là người tổng kết lại cách đọc giúp học sinh nắm chắc cách  đọc để phát huy tính chủ  động sáng tạo của các em. Nếu học sinh chưa phát   hiện được cách đọc giáo viên có thể  đọc mẫu câu văn, khổ  thơ, từ  đó giúp  học sinh nhận ra cách đọc phù hợp, sau đó các em được đọc lại những câu,  đoạn giáo viên đã hướng dẫn để học sinh nắm chắc cách đọc của câu, đoạn,   bài đó. 17
  18. Với học sinh lớp 2 việc Luyện đọc hiểu được coi là yêu cầu cần thiết   của tiết học Tập đọc vì vậy nếu chúng ta bỏ qua hoặc là thực hiện đại khái   không thực hiện tốt thì lên lớp trên các em sẽ khó có khả năng đọc diễn cảm,   đọc phân vai…việc cảm thụ văn học của các em sẽ bị hạn chế rất nhiều. Đối  với học sinh đọc yếu ngoài việc rèn đọc đúng chúng ta cũng nên dần hướng   dẫn các em tập đọc hiểu. Muốn vậy giáo viên phải hết sức kiên trì phù đạo  thêm, không nên nôn nóng, không bỏ  qua mà cần có sự  quan tâm nhiều hơn,  tạo điều kiện cho các em đó được đọc nhiều hơn. Ngoài ra giáo viên có thể  phối hợp với cha mẹ các em để hướng dẫn các em tự học thêm ở nhà. Trong giờ  Tập đọc để  các em hiểu được nội dung, ý chính của đoạn,  bài ngoài việc đọc đúng, đọc lưu loát các em cần phải có kĩ năng đọc hiểu, vì  có hiểu nội dung thì mới đọc đúng được. Ngay từ đầu năm học cần xây dựng  cho học sinh ý thức đọc thầm. Đó là phải chú tâm vào việc đọc và đã suy nghĩ  về  nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài. Phải hiểu được thì mới đọc đúng,  đọc hay được. Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài giáo viên đưa ra các câu   hỏi theo từng nội dung đoạn cần tập cho các em có thói quen đọc thầm rồi   suy nghĩ câu trả lời sao cho thoát li sách giáo khoa, không phải là đọc lại nội  dung trong sách. Giáo viên có thể chia nhỏ câu hỏi ra để các em đọc yếu hơn   có thể trả lời được, không nên hoàn toàn lệ thuộc vào các câu hỏi trong sách   giáo khoa mà có thể  có thêm những câu hỏi dẫn dắt các em đến những câu  hỏi đó. Tuy nhiên giáo viên cũng không nên sử dụng hệ thống câu hỏi quá vụn  vặt mà vẫn cần có những câu hỏi đòi hỏi khả  năng tư  duy của những học  sinh khá giỏi. Từ  chỗ  hiểu nội dung bài, học sinh xác định được cách đọc  hiểu để rồi tiến tới đọc diễn cảm, đọc phân vai… 4. Luyện đọc diễn cảm (dùng cho nhóm học sinh đọc lưu loát, rõ ràng,  mạch lạc ­ nhóm học sinh khá, giỏi). Luyện đọc diễn cảm là luyện cho học   sinh nâng cao hơn. Luyện đọc diễn cảm chính là rèn năng lực cảm thụ  văn  học cho học sinh. Muốn vậy, giáo viên phải có trách nhiệm giúp học sinh  nâng cao cảm xúc, cảm nhận được cái hay, cái đẹp của bài Tập đọc. Đọc  diễn cảm  ở lớp 2 có nhiều mức độ  khác nhau nhưng tôi chỉ  dừng lại ở  mức  độ biết phân biệt lời tác giả, lời nhân vật, biết đọc đối thoại, đọc phân vai. Bài: Chuyện bốn mùa (Tuần 19) Tôi phân nhóm sáu em đọc: Người dẫn chuyện, bốn nàng Xuân, Hạ,  Thu, Đông và Bà Đất. Bài: Ông Mạnh thắng Thần Gió (tuần 20) Tôi phân nhóm 3 em đọc: Người dẫn chuyện, ông Mạnh, Thần Gió.  Phân tích giọng đọc các nhân vật theo văn cảnh, giọng người dẫn chuyện, từ  đó học sinh nhập vai để đọc. 18
  19. Việc luyện đọc diễn cảm cho học sinh lớp 2  ở  trường Tiểu học Kim   Long B là khả thi, bởi qua quá trình luyện đọc có nhiều em đọc được bài lưu  loát, trôi chảy, nhiều em còn có giọng đọc hay. Bởi vậy trong khi dạy Tập   đọc tuỳ từng bài tôi chú ý rèn đọc diễn cảm cho học sinh. Biện pháp: Muốn các em đọc diễn cảm, phân vai được thì giáo viên  phải làm tốt phần đọc hiểu. Từ  đó học sinh nhập được vai, thể  hiện giọng  đọc  đúng vai mình  đóng. Giáo viên tiến hành bước  đọc mẫu, hướng dẫn  giọng đọc các nhân vật, giọng người dẫn chuyện (cũng có bài để  phát huy  tính tích cực của học sinh, giáo viên để học sinh tự nêu ra cách đọc diễn cảm   của mình, giáo viên có thể  bổ  sung thêm), học sinh luyện đọc theo nhóm để  tự  sửa theo vai mình đóng. Học sinh thể  hiện trước lớp. Giáo viên có thể  tổ  chức cho học sinh thi đọc diễn cảm trước lớp để  các em thể  hiện tài năng  của mình. Phần luyện đọc diễn cảm chỉ  dành cho học sinh khá, giỏi. Phần  luyện đọc diễn cảm tôi cũng có thể  tổ  chức dưới dạng trò chơi: Thi Ai có  giọng đọc giống phát thanh viên; thi thả thơ hay nhất, thi đọc đối đáp...  Tuỳ  từng bài Tập đọc mà lựa chọn các hình thức luyện đọc diễn cảm  cho phù hợp, tránh nhàm chán. Cũng có những bài Tập đọc không có thời gian  để luyện đọc diễn cảm mà giáo viên phải hướng dẫn về nhà đọc.  Tóm lại: Năng lực sư phạm của giáo viên là vai trò quyết định sự thành   công trong dạy học vì thế đòi hỏi người giáo viên phải tích cực tự học tự bồi  dưỡng, tích cực đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học   sinh, phù hợp với vùng miền, phù hợp với tiết dạy, bài dạy…điều đó đòi hỏi  người giáo viên phải lao động nghiêm túc, tận tâm với nghề nghiệp.  7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến: Trước khi nghiên cứu sáng kiến này, tôi chỉ mong muốn làm thế nào để  kĩ năng đọc của học sinh nói chung, và chất lượng học môn Tiếng Việt nói   riêng của học sinh lớp tôi được nâng lên. Nhưng sau một học kì nghiên cứu,   thử nghiệm, tôi đã có những thành công nhất định. Mặc dù, hiệu quả của sáng   kiến chưa phải đã cao song đó cũng là sự  khởi sắc cho công trình nghiên cứu  đầy tâm huyết của tôi. Đến nay, tôi có thể khẳng định sáng kiến không chỉ áp  dụng cho việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2B trong giờ Tập đọc mà còn  có thể vận dụng cho cả các khối lớp khác trong việc dạy phân môn Tập đọc.   Tôi thiết nghĩ, mỗi giáo viên nếu thực hiện đúng theo các giải pháp nêu trong   sáng kiến sẽ  góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt và tất cả  các  môn học khác trong nhà trường. 8. Những thông tin cần được bảo mật: Không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: 19
  20. ­  Phòng học, học sinh, bàn ghế, sách vở, đồ  dùng học tập, cơ  sở  vật  chất đầy đủ. ­ Giáo viên nhiệt tình, tâm huyết, yêu nghề, tận tâm với học sinh. 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể  thu được do áp dụng   sáng kiến: 10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng  sáng kiến theo ý kiến của tác giả: *Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng Sáng kiến: Sau gần một năm thực hiện đề  tài tôi đã dần dần khắc phục được các  lỗi đọc chưa đúng của học sinh, bước đầu xây dựng cho các em thói quen biết   tự sửa lỗi để  đọc đúng và có hứng thú khi học phân môn Tập đọc, bước đầu  biết cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong mỗi bài Tập đọc. Từ  đó các em  thêm   yêu   Tiếng   Việt. Sau khi nghiên cứu, xây dựng đề tài sáng kiến tôi thực hành áp dụng vào dạy  Tập đọc ở lớp 2B. Tôi thấy từng bước đạt được kết quả. Kết quả qua ba lần khảo sát sau khi dạy thực nghiệm: Dạy lớp 2B Tiết 1: Bài Người mẹ hiền (tuần 8) Ở  bài này giáo viên chú ý nhóm học sinh mắc lỗi phát âm ngọng âm  đầu, ngọng thanh trong phần  đọc  câu nối tiếp (biện pháp rèn  đọc  đúng),  luyện nhóm nhóm đọc nhỏ, đọc chậm, đọc ê a trong phần đọc đoạn, bài và   phần đọc lại.  Tiết 2: Bài Tìm ngọc (tuần 17) Ở  bài này giáo viên chú ý nhóm học sinh đọc ngọng vần anh/ăn trong   phần luyện đọc câu; sửa lỗi nhóm đọc liến thoắng, giữ nhịp đọc cho học sinh  đọc đúng nhịp trong phần đọc đoạn, bài và phần đọc lại. Bài này giáo viên rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh và luyện đọc diễn   cảm (vẫn kết hợp sửa lỗi cho học sinh). Kết quả cụ thể: Tuần 8 Tuần 17 Các lỗi  thường gặp Số  Số lượng % % lượng Ngọng âm đầu 3 7,5 1 2,5 Ngọng vần 3 7,5 1 2,5 Ngọng thanh 0 0 0 0 Đọc chậm, e a 3 7,5 1 2,5 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2