intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong mô hình trường học mới VNEN

Chia sẻ: Dung Hoang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:29

26
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến áp dụng phương pháp dạy học phân hóa vào môn Tiếng Việt ở lớp Ba để vừa bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho học sinh khá giỏi, vừa trang bị kiến thức cơ bản cho học sinh trung bình, vừa bồi dưỡng lấp lỗ hổng cho học sinh yếu kém. Qua đó nâng cao hiệu quả việc dạy học ở tất cả các môn học khác

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong mô hình trường học mới VNEN

  1. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN MỤC LỤC Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU Mụ Tên đề mục Trang c I.  Đặt vấn đề 2 II. Mục đích nghiên cứu 3 Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Mụ Tên đề mục Trang c I. Cơ sở lí luận của vấn đề 3 II. Thực trạng của vấn đề 4 III.  Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 8 IV. Tính mới của giải pháp 20 V.  Hiệu quả của sáng kiến. 21 Phần thứ ba: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ Mụ Tên đề mục Trang c I. Kết luận 23 II. Kiến nghị 24 Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  1
  2. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU             I. Đặt vấn đề  Trong công cuộc đổi mới giáo dục bộ Giáo dục và Đào tạo tiến hành theo ba   hướng: Đổi mới sách giáo khoa  ở  tất cả  các cấp học phổ  thông, đổi mới phương  pháp dạy học, đổi mới cách kiểm tra đánh giá học sinh.   Đi đôi với việc đổi mới  SGK, đổi mới chương trình là đổi mới phương pháp dạy học, được tiến hành với  phần đông giáo viên đang trực tiếp giảng dạy trên lớp hiện nay. Nhiều giáo viên đã   thực hiện áp dụng phương pháp mới nhưng chưa hiệu quả, chưa tích cực hóa và   khơi dậy được năng lực học tập thực sự  của tất cả các đối tượng học sinh. Hầu  hết các giáo viên chỉ  mới quan tâm đến đối tượng học sinh có lực học trung bình,  nắm được kiến thức cơ  bản trong tài liệu hướng dẫn, còn đối tượng học sinh khá   giỏi có năng lực tư  duy sáng tạo và học sinh có lực học yếu kém còn chưa được  quan tâm, bồi dưỡng đúng mức trong giờ  học, chưa khuyến khích phát triển tối đa  và tối  ưu những khả  năng của từng cá nhân học sinh. Trong quá trình đổi mới   phương pháp dạy học, việc bồi dưỡng học sinh giỏi là vấn đề rất cần thiết và cần  được thực hiện ngay  ở trong những tiết học đại trà nhằm phát hiện và bồi dưỡng,  ươm mầm những tài năng cho đất nước trong tương lai. Không những đảm bảo  chất lượng phổ cập đại trà mà đồng thời chú trọng phát hiện và bồi dưỡng học sinh  có năng khiếu về Tiếng Việt, Toán và các môn học khác.  Từ trước đến nay, đổi mới phương pháp dạy học chưa được chú trọng đúng   mức, hầu hết các giáo viên chỉ  dừng  ở  mức độ  trang bị  kiến thức cơ  bản cho đối  tượng học sinh có lực học loại trung bình đại trà trong lớp, chưa thực sự quan tâm  bồi dưỡng đến đối tượng học sinh khá giỏi. Bởi lẽ  họ  chưa mạnh dạn, sợ  cháy  thời gian, không đủ thời gian… ngại đầu tư thời gian nghiên cứu bài. Có những giáo  viên mặc dù đã dạy   theo Mô hình trường học mới nhưng vẫn còn dạy theo cách  như đã từng dạy từ mấy chục năm qua, phương pháp đàm thoại là chủ yếu. Ngược  lại, một số giáo viên lại chỉ chú ý đến đối tượng học sinh khá giỏi song chưa thực   sự  quan tâm đến sự  tiếp thu kiến thức của đối tượng học sinh trung bình và yếu  trong lớp, làm cho những học sinh này không hiểu bài và có tư  tưởng sợ  học, giáo  viên không bồi dưỡng lấp lỗ hổng kiến thức cho các em ngay trong giờ  học chính  khóa. Bên cạnh đó là một số  phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình,   đàm thoại, giảng giải, vấn đáp…còn nhiều mặt hạn chế, chưa khắc phục được  nhược điểm này. Vậy câu hỏi đặt ra là cần phải dạy học như thế nào để trong một  tiết dạy đảm bảo: bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho đối tượng học sinh khá giỏi,  Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  2
  3. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN trang bị  kiến thức cơ bản cho học sinh trung bình và bồi dưỡng lấp chỗ  hổng cho  học sinh yếu kém ? Theo tôi, hoàn toàn có thể  áp dụng được trong các tiết học  Tiếng Việt hoặc các môn khác cho tất cả  các đối tượng học sinh trong lớp bằng   những hình thức học tập, hệ thống câu hỏi, hệ thống bài tập thích hợp, bằng những   biện pháp phân hóa nội tại hợp lý, phù hợp với thực trạng học sinh trong lớp. Qua   khảo sát xét thấy tính khả thi và hiệu quả của đề tài rất cao nên trong năm học này,   tôi đã mạnh dạn áp dụng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh  lớp ba của trường   tiểu học Lý Tự Trọng. Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn và nghiên cứu đề tài:    Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN.  Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển cho biết, cùng với quá trình tích hợp là phân  hóa. Phân hóa là phải dạy học sao cho phù hợp với từng người, từng nhóm khác  nhau. Mỗi người có một năng lực riêng, phù hợp với sở thích riêng, sở trường riêng,  điều kiện riêng.  II. Mục đích nghiên cứu Áp dụng phương pháp dạy học phân hóa vào môn Tiếng Việt  ở  lớp Ba để  vừa bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho học sinh khá giỏi, vừa trang bị kiến thức cơ  bản cho học sinh trung bình, vừa bồi dưỡng lấp lỗ hổng cho học sinh yếu kém. Qua  đó nâng cao hiệu quả việc dạy học ở tất cả các môn học khác. Nghiên cứu lí luận và thực tiễn dạy học phân hoá. Các hình thức dạy học   phân hóa. Tại sao phải thực hiện dạy học phân hoá trong giờ Tiếng Việt. Mối quan   hệ  giữa phương pháp dạy học phân hoá với các phương pháp dạy học khác. Áp  dụng dạy học phân hoá vào môn Tiếng Việt cho học sinh như thế nào ? Xác định   hệ  thống phân hóa các phân môn trong môn Tiếng Việt lớp Ba. Nghiên cứu những  sai lầm thường gặp và biện pháp khắc phục cho học sinh trong dạy học môn Tiếng  Việt.  Thử nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của đề tài. Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  I. Cơ sở lý luận của vấn đề Xu hướng dạy học phân hóa  ở  nhiều nước được thực hiện bằng cách định  hướng hoặc phân luồng cho học sinh ngay từ cấp tiểu học  ở các môn học tự chọn.   Các định hướng này tạo cho HS các cơ  hội lựa chọn cho mình hướng học lên phù   hợp với năng lực, sở thích, nguyện vọng và các điều kiện riêng của mỗi HS. Xuất   phát từ  chức năng giáo dục, xét đến cùng là chức năng phát triển của mỗi cá nhân  Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  3
  4. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN học sinh và trên cơ sở đó tạo ra động lực thúc đẩy phát triển. Theo đó, cá nhân chỉ  có thể có sự phát triển tối đa khi nhà giáo dục và hệ thống giáo dục đáp ứng những  khả  năng, những nhu cầu, nguyện vọng bằng một chương trình nội dung và cách   thức phù hợp.  Nghị  quyết Hội nghị  Trung  ương 2 khoá VIII đã nêu: “Đổi mới mạnh mẽ  phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện   thành nếp tư duy sáng tạo cho học sinh. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên   tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy ­ học”.“Đổi mới tư  duy giáo dục  một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu  và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện   nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và trên thế giới;  khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ.  Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, đảm bảo công   bằng về  cơ  hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để  toàn xã hội học tập và   học tập suốt đời, đáp  ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Trên   thực tế một bộ phận giáo viên vẫn bằng kinh nghiệm của mình khi giảng dạy trên   lớp đã có ý thức chuẩn bị  công phu bài giảng, tìm hiểu trình độ  nhận thức chung  của lớp, phát hiện những HS khá giỏi, những HS còn yếu kém trong học tập, trên   cơ sở đó xây dựng nội dung dạy học phù hợp. Dạy học phân hóa xuất phát từ  yêu cầu đảm bảo thực hiện tốt tất cả  mục   đích dạy học, đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối  ưu những khả  năng  của từng cá nhân. Việc kết hợp giữa giáo dục diện "đại trà" với giáo dục diện "mũi  nhọn", giữa phổ  cập với nâng cao trong dạy học Tiếng Việt cần được tiến hành  theo các tư tưởng sau: Lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp làm nền  tảng. Người giáo viên phải biết lấy trình độ  phát triển chung và điều kiện chung  của lớp làm nền tảng thì mới có điểm xuất phát chắc chắn. Nội dung và phương   pháp dạy học trước hết phải thiết thực, phù hợp với trình độ  và điều kiện chung   đó. Phải tinh giảm nội dung, lược bỏ những nội dung chưa sát thực, chưa phù hợp   với yêu cầu thật cơ bản. Sử dụng những biện pháp phân hóa đưa diện học sinh yếu   kém lên trình độ  trên trung bình. Giúp các em đạt được chuẩn tối thiểu để  có thể  hòa nhập vào học tập đồng loạt theo trình độ chung.  II. Thực trạng của vấn đề Mỗi học sinh là một cá nhân có tiềm năng riêng, sở trường riêng, tình cảm và  động lực học tập khác nhau  mà trong các tiết dạy  giáo viên chỉ áp dụng một cách   Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  4
  5. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN dạy chung cho cùng một đối tượng học sinh thì chính người giáo đã bỏ  lỡ  mất   nhiều cơ hội cho những học sinh khác. Chính vì thế trong các tiết học giáo viên biết   áp dụng tốt các biện pháp phân hóa đồng thời có nhiệm vụ  rõ ràng, phù hợp với   từng đối tượng hoặc nhóm đối tượng học sinh sẽ giúp các em phát triển tối đa năng  lực cá nhân của bản thân. Dạy học phân hóa tốt sẽ  đáp  ứng và phát huy được  nguyện vọng, sở trường và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của các cá nhân khác  nhau. Dạy học phân hóa trong giờ  Tiếng Việt càng giúp học sinh có nhiều cơ  hội   để  phát triển. Mỗi cá nhân dù  ở bất kì nhóm đối tượng nào đều có cơ  hội để  phát  huy hết sở trường của bản thân. Tạo ra động lực học tập cho các em, tạo điều kiện   thuận lợi cho sự phát triển tối đa tư chất và năng lực của học sinh năng khiếu. Loại   trừ được tình trạng quá tải đối với học sinh yếu kém. Giúp học sinh nắm được một   cách chính xác,vững chắc có hệ thống những kiến thức và kỹ năng môn Tiếng Việt.  Có năng lực vận dụng những tri thức đó vào các tình huống khác nhau trong cuộc   sống. Phát triển những năng lực phẩm chất trí tuệ, giúp cho học sinh biến những  phẩm chất thu nhận được thành phẩm chất của bản thân mình, thành công cụ  để  nhận thức và hành động đúng đắn trong các lĩnh vực hoạt động học tập các môn  học khác, trong cuộc sống thường ngày. Giáo dục cho học sinh về  tư  tưởng, đạo  đức, lối sống, thẩm mỹ của người công dân yêu nước trung thực và giản dị. Phát  triển ở mỗi học sinh khả năng học tập, đồng thời phát hiện và bồi dưỡng sớm cho   học sinh có năng khiếu về  môn Tiếng Việt, bồi dưỡng tình yêu quê hương đất  nước một cách chân thành qua môn Tiếng Việt. Giáo dục phẩm chất đạo đức thẩm  mỹ đúng đắn phù hợp với con người Việt Nam trong thời đại hiện nay. Trong các phương pháp giảng dạy Tiếng Việt thì phương pháp dạy học phân   hóa là một phương pháp khá hiệu quả. Trong giờ  học Tiếng Việt, việc bảo đảm  thực hiện tốt các mục đích dạy học đối với tất cả các đối tượng học sinh, khuyến  khích phát triển tối đa và tối  ưu những khả  năng của cá nhân là yêu cầu vô cùng  quan trọng mà dạy học phân hóa đã đạt được. Dạy học phân hóa phát huy tốt khả  năng cá thể  hóa hoạt động của học sinh, đưa học sinh trở  thành chủ  thể  của quá  trình nhận thức, tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo, phù hợp với năng   lực nhận thức của bản thân. Bên cạnh đó giáo viên có cơ  hội hiểu và nắm được  mức độ  nhận thức của từng cá thể  học sinh để  đề  ra những biện pháp tác động,   uốn nắn kịp thời và có đánh giá một cách chính xác, khách quan. Dạy học phân hóa   trong môn Tiếng Việt gây được hứng thú học tập cho mọi đối tượng học sinh, xóa   bỏ mặc cảm tự ti của đối tượng học sinh có nhịp độ nhận thức thấp cùng tham gia  tìm hiểu nội dung, yêu cầu của bài. Kích thích, gây hứng thú học tập cho các đối   Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  5
  6. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN tượng học sinh khá giỏi phát huy hết khả  năng, trí tuệ  của mình. Không gây cảm  giác nhàm chán cho học sinh khá giỏi. Dạy học phân hóa trong giờ dạy Tiếng Việt   dễ dàng thực hiện, không gây khó khăn, trở  ngại cho giáo viên trong việc chuẩn bị  cũng như  tiến hành giảng dạy. Không nhất thiết đòi hỏi cần có các phương tiện   thiết bị  hiện đại kèm theo, phù hợp với thực trạng điều kiện vật chất của nhà   trường. Dạy phân hóa trong môn Tiếng Việt theo Mô hình trường học mới xóa bỏ  mặc cảm, khoảng cách giữa học sinh yếu kém với học sinh khá giỏi, đưa các em sít   lại gần nhau hơn qua sự tác động tình cảm trong các giờ học Tiếng Việt. Tạo điều   kiện cho đối tượng học sinh yếu kém học hỏi, thảo luận với học sinh khá giỏi. Các   em có cơ hội giúp đỡ nhau cùng phát triển, tiếp thu một cách nhanh chóng kiến thức   của giờ học. Đại đa số bộ phận giáo viên đã nhận thức được trong thời đại ngày nay đổi   mới dạy học và dạy học theo quan điểm “ Dạy học phân hóa” là tất yếu khách  quan, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Việc quản lý chương trình dạy học ở  trường được thực hiện nghiêm túc, có các biện pháp kiểm tra thường xuyên. Hầu   hết các giáo viên đều thực hiện đúng tiến độ, bám sát phân phối chương trình và   thực hiện lên kế hoạch bài dạy đều đặn. Ngay từ đầu năm học chuyên môn đã đề  ra kế  hoạch dạy học phù hợp với thực tế  của nhà trường, có những quyết định   đúng, kịp thời, tổ chức thực hiện kế hoạch tương đối hợp lý, khoa học. Chú ý coi   trọng việc  phân công giảng dạy cho giáo viên trên cơ  sở  năng lực, hoàn cảnh,  nguyện vọng, phù hợp với nhiệm vụ  chính trị  của nhà trường. Hàng năm đều tổ  chức bồi dưỡng cho GV về  chuyên môn, nghiệp vụ  như  việc thực hiện chương   trình, tiêu chuẩn đánh giá giờ lên lớp, đổi mới phương pháp dạy học… Việc dự giờ  thăm lớp, rút kinh nghiệm bài giảng, đánh giá kết quả  bài giảng theo quan điểm   phân hóa đã được tổ chức. Tổ chuyên môn đã phát huy hết vai trò trong việc quản lý  hoạt động giảng dạy của giáo viên. Dự  giờ, thống nhất nội dung bài giảng theo  quan điểm phân hóa, góp ý rút kinh nghiệm giờ dạy. Duy trì chế độ kiểm tra, thanh  tra chuyên môn, phối hợp với các tổ chức như công đoàn, đội để  kiểm tra đánh giá  việc thực hiện nề nếp dạy và học ở các lớp. Xây dựng tiêu chí thi đua ngay từ đầu   năm học. Nhà trường, các đoàn thể trong và ngoài nhà trường, Ban đại diện cha mẹ  học sinh đã tích cực phối hợp với nhau tạo sự gắn kết trong công tác giáo dục. Hầu   hết trước khi bước vào đầu năm học mới, đội ngũ GV đều được tập huấn bồi   dưỡng chuyên môn nghiệp vụ  trong đó chú trọng vào đổi mới phương pháp dạy   học, trang bị cho GV một số kỹ thuật dạy học tích cực đáp  ứng yêu cầu dạy học   theo quan điểm dạy học phân hóa. Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  6
  7. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN Thế nhưng trên thực tế dạy học, đại đa số  giáo viên chỉ áp dụng hình thức ,   phương thức tổ  chức  ở các tiết dạy chỉ  cho cùng một đối tượng học sinh mà thôi.  Vì nhiều khi  áp dụng phương pháp dạy học phân hóa  nhược điểm cơ bản của đại   đa số  giáo viên là trước khi lên lớp phải chuẩn bị  bài soạn, hệ  thống bài tập phân  hóa, đầu tư mất nhiều thời gian công sức. Tổ  chức lớp học hiện nay hầu hết đều   có số  học sinh đông, bàn ghế  chưa phù hợp với Mô hình dạy học mới, chênh lệch   nhiều về trình độ có thể gây khó khăn cho các giáo viên mới, giáo viên dạy thay có  thể  chưa kịp nắm được trình độ  nhận thức của từng học sinh. Nề  nếp, thói quen  học tập  ở  một số  lớp không  ổn định khi không có giáo viên chủ  nhiệm nên phần  nào cũng ảnh hưởng đến chất lượng những tiết học khác. Nhiều khi ở các tiết dạy  tăng cường giáo viên chưa thật sự  mạnh dạn, linh hoạt trong việc xây dựng nội   dung. Các nội dung trong tiết dạy còn cơ cấu cứng ở môn tự chọn, năng khiếu nên  việc điều chỉnh thời lượng khó thực hiện được. Mặc dù giáo viên rất tâm huyết với   nghề, rất yêu trẻ  nhưng chưa thật sự  gần gũi, thân thiện, chưa thuyết phục học  sinh bằng tình cảm, chưa tạo niềm tin cũng như  hứng thú trong học tập, nhu cầu   học tập cho trẻ nhất là học sinh yếu. Việc tổ chức các hoạt động sôi nổi trong các  tiết học cho học sinh còn hạn chế nên học sinh không có hứng thú học tập, không  tập trung vào hoạt động học. Lớp nào cũng có đủ các đối tượng học sinh (giỏi, khá,  trung bình, yếu, cá biệt,..), sĩ số  lớp đông nên khi thiết kế  bài dạy giáo viên mất   nhiều thời gian, gặp khó khăn. Còn một bộ phận học sinh yếu, gia đình không quan  tâm, bất hòa nên các em chán học, ngại học,  ỷ lại làm  ảnh hưởng đến nề  nếp và   không khí lớp học. Mặc khác trong dạy học phân hóa giáo viên phải phân loại được từng đối  tượng HS để từ đó mới có kế hoạch dạy học cho phù hợp. Kế hoạch dạy học phải  chi tiết, cụ thể cho từng đối tượng HS, do đó GV cảm thấy vất vả hơn khi lập kế  hoạch dạy học. Nhiều giáo viên còn lúng túng, bối rối, chưa tự tin trong việc thiết   kế các tiết dạy theo kiểu phân hóa cho từng đối tượng HS. Nếu quan tâm nhiều đến   HS yếu, không có thời gian để định hướng cho HS giỏi, khá phát huy năng lực của   bản thân; HS giỏi, khá dễ  bị  nhàm chán. Việc sử  dụng phương tiện dạy học còn   hạn chế do trình độ sử dụng của giáo viên chưa linh hoạt, tự tin. Theo kết quả  khảo sát của HS lớp 3B, trường TH Lý Tự  Trọng năm học  2017 – 2018 và năm học 2018 ­ 2019 vào tháng 9 nêu lên thực trạng về các  tiết học  theo phương pháp dạy học đại trà.  Lớp TSHS Năm học Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  7
  8. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN 0 22 em 9 em 3B 31 2017 ­ 2018              0 71.0 % 29.0% 2 em 25 em 6 em 3B 33 2018 ­ 2019 6.1% 75.8% 18.1% Qua kết quả khảo sát, có thể khẳng định rằng thực trạng về việc dạy học cho   cùng một đối tượng HS không đạt hiệu quả cao. Theo kết quả trên, tỉ lệ HS  trung  bình và yếu kém chiếm tỉ lệ khá cao. Bên cạnh đó, nhiều HS vẫn ngại học, không   có động lực và hứng thú học tập trong các tiết học. Nguyên nhân một phần là do các  em chưa có ý thức tự  giác trong quá trình học tập, một phần khác là do các em có  cùng một nhiệm vụ học tập nên nhiều khi học sinh khá giỏi hoàn thành nhiệm vụ  ttrước, nhanh, không được giao nhiệm vụ tiếp theo nên các em thấy tiết học quá dễ  dãi, nhàm chán. Ngược lại những học sinh yếu kém thì cảm thấy áp lực với một số  yêu cầu quá sức của bản thân.. Do vậy, vai trò của người GV trong việc dạy học   phân hóa cho phù hợp với nhận thức của các đối tượng học sinh giúp các em đạt   được chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học và có khả  năng phát triển năng lực sở  trường của bản thân nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học là hết sức  quan trọng. Đại đa số  bộ  phận GV đã nhận thức được trong thời đại ngày nay đổi mới  dạy học và dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa là tất yếu khách quan, phù  hợp với xu thế chung của thế giới. Song họ vẫn thực hiện dạy học theo quan điểm   dạy học phân hóa theo kinh nghiệm truyền thống. Nội dung chương trình một số  phần của môn học đôi chỗ chưa phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Phân  phối chương trình đôi chỗ còn chưa phù hợp (lượng kiến thức của một số bài chưa   phù hợp). Nhiều giáo viên chưa có thói quen phân hóa các đối tượng học sinh trong   tiết dạy. Nội dung tiết dạy thiết kế chưa phù hợp với tình hình thực tế và các đối  tượng học sinh của lớp. Thêm nữa họ chưa được bồi dưỡng qui trình dạy học theo  quan điểm dạy học phân hóa một cách có hệ thống, bài bản. Sự phối hợp giữa học   sinh, gia đình và nhà trường trong việc tìm hiểu năng lực và nguyện vọng cũng như  quản lý học tập của học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Học sinh còn lúng   túng chưa quen với phương pháp học tập chủ động, tích cực. Một số nội dung của   môn học còn tương đối khó so với trình độ nhận thức của HS, điều này gây quá tải  với HS, nhất là với những HS đồng bào, HS yếu kém. Ngược lại nội dung học tập  trong tài liệu học tập chưa được thiết kế  theo hướng dạy học phân hóa các đối   Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  8
  9. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN tượng học sinh, chưa có nội dung dành cho học sinh khá giỏi. Một số giáo viên còn   hạn chế  về  năng lực thật sự. Chưa thực sự  dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách   nhiệm để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục, chưa nhận thức   được đầy đủ  vai trò, vị trí của mình trong giai đoạn mới. Môi trường làm việc của  giáo viên cũng như môi trường học tập của học sinh chưa đáp ứng với mô hình dạy  học mới. Một số GV chưa nhận thức đầy đủ  tầm quan trọng về  chuẩn kiến thức,   kỹ năng đã quy định trong giảng dạy. Đời sống kinh tế của một số học sinh còn khó   khăn, chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của gia đình,  gia đình chưa tạo điều  kiện thuận lợi nhất về thời gian cũng như đầu tư phương tiện học tập (đặc biệt là  học sinh sống xa gia đình, bố  mẹ  đi làm ăn xa) nên họ  chưa dành nhiều thời gian  cho việc đáp  ứng các hoạt động  ứng dụng của con em tại gia  đình, do đó  ảnh  hưởng đến chất lượng dạy học.  III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề  Tôi hy vọng qua sáng kiến này giúp cho đồng nghiệp thấy được tầm quan  trọng của việc dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt cho học sinh tiểu học. Có   cái nhìn sâu hơn về việc dạy học phân hóa cho học sinh. Hiểu được lợi ích to lớn   mà học sinh có được qua các giờ  học phân hóa. Thay đổi suy nghĩ về  cách tổ  chức  dạy học đồng loạt cho cùng một đối tượng học sinh. Góp phần cung cấp, hỗ  trợ  thêm cho giáo viên những phương pháp, kĩ năng, kĩ thuật dạy học phân hóa trong các  tiết dạy. Giúp cho đối tượng học sinh khá giỏi phát huy hết khả  năng, trí tuệ  của   bản thân. Học sinh yếu kém có cơ hội phấn đấu vươn lên trong học tập. Dạy học phân hoá là một quan điểm dạy học tập trung vào việc thiết kế  giảng dạy xuất phát từ tình hình thực tế của HS, dựa vào đặc điểm cá nhân, tâm lí,   sinh lí, nhu cầu, động cơ, hứng thú, nguyện vọng, điều kiện hoàn cảnh... của các  em mà tìm cách dạy cho phù hợp.  Khi dạy học phân hóa tôi thường lấy trình độ  phát triển chung của học sinh  trong lớp làm nền tảng, bổ  sung một số  nội dung và biện pháp phân hóa để  giúp   học sinh khá giỏi đạt được những yêu cầu nâng cao trên cơ  sở  đã đạt được những  yêu cầu cơ bản. Sử dụng những biện pháp phân hóa đưa diện học sinh yếu kém lên  trình độ chung. Áp dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tiên tiến trong Mô hình  trường học mới VNEN và các phương pháp dạy học tiên tiến khác là một điều kiện   thuận lợi để dạy phân hóa đối tượng học sinh như dạy học phát hiện và giải quyết  vấn đề,… đặc biệt là phương pháp dạy học phân hóa ngay trong giờ  học chính   khóa, buổi học thứ  hai (các tiết dạy tăng cường) trong ngày sẽ  giúp học sinh phát  Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  9
  10. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN huy được hết khả năng của mình, tiếp thu kiến thức một cách chủ  động, sáng tạo  tùy theo mức độ  nhận thức của từng đối tượng học sinh. Đạt được như  vậy mới  thực sự  là đổi mới phương pháp dạy học, góp phần xây dựng đào tạo con người   mới: chủ động, sáng tạo phù hợp với sự phát triển khoa học kỹ thuật như hiện nay.   Trong những năm học vừa qua, người giáo viên dù đã vào nghề  nhiều năm hoặc  mới chập chững bước vào nghề đều gặp vướng  mắc nhất định, đặc biệt là khi dạy  môn Tiếng Việt thường gặp nhiều khó khăn hơn bởi bộ  môn này chiếm tỷ  trọng  lớn nhất so với các bộ môn khác và còn có nhiều phân môn khác nhau.   Khác rất nhiều đối với quan điểm dạy học khác, điểm khá đặc thù của dạy   học phân hóa là nhằm phát hiện và bù đắp lỗ  hổng kiến thức, tạo động lực thúc   đẩy học tập; biến niềm đam mê trong cuộc sống thành động lực trong học tập. Nói  cách khác, dạy học phân hóa là con đường ngắn nhất để đạt mục đích của dạy học   đồng loạt. Đảm bảo mọi đối tượng HS đều đạt được Chuẩn kiến thức, kỹ  năng  các môn học trong chương trình. Có nội dung dành cho đối tượng HS giỏi, khá; HS   trung bình, yếu. Dạy học phân hóa theo Chuẩn kiến thức, kỹ  năng giúp cho giáo  viên biết được lượng kiến thức mới và thực hành rèn kỹ  năng qua mỗi bài học để  xác định yêu cầu cần đạt cho từng đối tượng HS. Đồng thời xác định được nội  dung cần nâng cao cho đối tượng HS giỏi, khá; nội dung cần truyền thụ  cho HS  trung bình, yếu. Yêu cầu cần đạt trong tài liệu Chuẩn kiến thức, kỹ năng được trình   bày ngắn gọn, cụ  thể, dễ  hiểu. Từ  đó, giáo viên xác định được những kiến thức   trọng tâm cần truyền thụ, khắc sâu trong mỗi tiết dạy, cho mỗi đối tượng HS. HS   giỏi, khá được giáo viên căn cứ  vào Chuẩn tối thiểu để  mở  rộng việc cung cấp   kiến thức, rèn luyện kĩ năng phát huy tính sáng tạo. Học sinh trung bình, yếu có cơ  hội tiếp cận kiến thức theo khả năng, tạo được sự  hứng thú và đam mê trong học   tập, không thấy bị thua kém bạn bè.  Giải pháp 1. Các bước tổ  chức dạy học theo quan điểm dạy học phân  hóa + Điều tra, khảo sát đối tượng HS trước khi lên lớp.  Sự  giống và khác nhau về trình độ  phát triển nhân cách của mỗi cá thể  học  sinh đòi hỏi một quá trình dạy học thống nhất với những biện pháp phân hóa nội   tại. Nhiệm vụ của giáo viên là nghiên cứu tìm hiểu những mặt mạnh và yếu trong  năng lực, trình độ phát triển của học sinh để có biện pháp cụ thể tác động đến đối  tượng. Có như  vậy mới giúp cho tất cả  học sinh đều tiếp thu được những kiến   thức và kỹ năng tối thiểu. Đồng thời, phát hiện và đào tạo nhân tài ngay từ trong lớp  Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  10
  11. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN học. Trong quá trình dạy học, tôi thường xuyên theo dõi, tìm hiểu, kiểm tra để phân   loại học sinh trong lớp, thường tôi chia lớp theo 3 đối tượng học sinh: Học sinh có   nhịp độ  nhận thức nhanh ( khá giỏi), học sinh có nhịp độ  nhận thức chậm ( yếu   kém), và học sinh có nhịp độ  nhận thức trung bình. Qua đó, đề  ra những yêu cầu  khác nhau đối với từng đối tượng học sinh: mức độ  khó dễ các câu hỏi đàm thoại,  mức độ  yêu cầu đối với phương pháp học tập được nghiên cứu, số  lượng và yêu  cầu của các hoạt động cho từng nhóm. Đối với hai đối tượng khá giỏi và yếu kém  tôi thấy thường có biểu hiện không nắm được kiến thức và kỹ  năng cơ  bản, có   những sai lầm nghiêm trọng, kết quả  kiểm tra thường dưới mức trung bình. Song   tôi cố  gắng tìm ra nguyên nhân học kém môn Tiếng Việt của các em. Có em học   kém vì năng lực đọc, viết yếu, vốn từ  nghèo nàn, ..có em học yếu vì nguyên nhân  khác (gia đình khó khăn, không có điều kiện thời gian học tập, có vướng mắc về tư  tưởng nên chưa tập trung …), để  từ  đó có biện pháp giáo dục, giúp đỡ  như: xây  dựng lòng tự tin ở bản thân, thường xuyên theo dõi, động viên kịp thời, tranh thủ sự  quan tâm của gia đình và cộng đồng. Bên cạnh đó tôi cũng nghiên cứu những đặc   điểm về  tư  duy, về  phương pháp suy nghĩ của các em thường thể  hiện  ở  3 đặc  điểm sau: nhiều "lỗ hổng" về tri thức, kỹ năng tiếp thu chậm, phương pháp học tập  chưa tốt. Tôi không đồng nhất các em học kém với nhau mà phân kiểu học của từng   học sinh kém Tiếng Việt để  có phương pháp giúp đỡ.  Ở  đối tượng học sinh có  thành phần từ ­ logic nổi trội hơn thì tôi hình thành cho các em khái niệm từ lời nói,  đi từ  tư duy đến hình tượng. Ở  đối tựong học sinh có thành phần trực quan ­ hình   tượng mạnh hơn thì tôi dùng con đường khái quát hóa trên cơ  sở  trực quan, đi từ  hình tượng đến tư  duy. Đối với học sinh khá giỏi có năng lực học tập môn Tiếng  Việt các em thường có khả năng học tốt môn Tiếng Việt  thường có xu hướng thích   đọc sách báo, đọc những bài văn hay, dùng từ,  dùng câu có hình ảnh, nói năng lưu  loát nhưng thường coi nhẹ  các yêu cầu thông thường. Do đó các em không nắm  chắc kiến thức cơ  bản. Vì vậy, điều quan trọng nhất là hình thành  ở  các em lòng   ham thích, hứng thú, say mê học Tiếng Việt, thường xuyên giáo dục đức tính kiên  trì, tỉ mỉ, cẩn thận, khiêm tốn, sẵn sàng giúp đỡ  bạn cùng nhóm, cùng lớp tiến bộ.  Trong giờ  học, tôi suy nghĩ tìm tòi để  đề  ra cho hoc sinh những câu hỏi đào sâu  (chẳng hạn trả lời câu hỏi, yêu cầu trong tài liệu bằng cách khác. Ví dụ:  Ở  hoạt động thuộc về  phân môn Tập đọc, trong khi các nhóm đều   làm việc chung một hoạt động là đọc và giải nghĩa các từ đã cho sẵn trong tài liệu  thì nhóm hoặc cá nhân trong các nhóm có nhịp độ  làm việc nhanh, hoàn thành tốt  yều cầu của hoạt động đó thì tôi cho các em tìm thêm từ khó trong bài để giải nghĩa  Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  11
  12. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN cho nhau nghe hoặc tự  chọn từ và đặt câu có hình  ảnh so sánh hoặc nhân hóa với   một trong các từ đó, phù hợp với nội dung kiến thức  trong chuẩn kiến thức kĩ năng   của thời điểm học tập hoặc khai thác khía cạnh khác nhau của các họat động đơn  giản. Với học sinh trung bình tôi cho các em nắm thật chắc kiến thức cơ bản theo   bài tập yêu cầu; làm đầy đủ  và đạt yêu cầu các hoạt động với sự  gợi ý ở  mức độ  hạn chế  của giáo viên, có thể  học sinh trung bình cũng có thể  tiếp thu phần nào   kiến thức nâng cao của học sinh khá giỏi.) Biện pháp điều tra, phát hiện và phân loại đối tượng học sinh về  khả  năng  lĩnh hội kiến thức và trình độ phát triển thông qua quan sát, kiểm tra, tìm hiểu… có  thể được tiến hành ngay trong những tuần đầu năm học và trong suốt quá trình dạy  học, tôi thường xuyên theo dõi điều chỉnh lại nhân sự nhóm, chuyển lên nhóm trên   hoặc xuống nhóm dưới nếu có thành viên nào trong nhóm tỏ ra tiến bộ hay thụt lùi.   Tuy nhiên, để  đảm bảo mục đích và hiệu quả  sư phạm, có thể  tùy thuộc vào đặc   điểm và số lượng học sinh trong lớp mà có thể phân thành nhiều nhóm (chẳng hạn  phân thành 6 nhóm: 2 nhóm khá giỏi, 2 nhóm trung bình, 2 nhóm yếu kém) vừa khơi   gợi niềm tin ở khả năng mỗi cá nhân, tránh mặc cảm, tự ti, vừa tạo nhu cầu thi đua  học tập giữa các nhóm. Trong trường hợp chia nhóm theo kiểu này tôi thường hay  áp dụng ở các tiết dạy tăng cừờng ở buổi học thứ hai. Bình thường thì vẫn áp dụng  kiểu chia nhóm ngẫu nhiên hoặc nhóm đa trình độ  để  tạo điều kiện cho học sinh  khá giỏi hỗ trợ học sinh yếu kém. Hoặc để các em có cơ hội học hỏi lẫn nhau. + Lập kế  hoạch dạy học, thiết kế  tiết dạy từ  việc phân tích nhu cầu  của HS Ở  mỗi tiết dạy Tiếng Việt, tôi nghiên cứu nắm vững nội dung và yêu cầu   của bài học. Đây là vấn đề  trước tiên và đặc biệt quan trọng của giáo viên trong   việc thiết kế  bài học có chất lượng theo kiểu phân hóa. Có nắm vững nội dung   kiến thức bài học thì mới có thể hình thành các phương pháp dạy học để vận dụng   vào từng tình huống cụ  thể  cho hiệu quả, đạt được mục đích dạy học của mình.  Tôi thực hiện cẩn thận và xem xét nhiều khía cạnh khác nhau của các bài tập trong   tài liệu hướng dẫn học tập và những bài tập cho học sinh làm thêm. Khi thiết kế  các pha dạy học đồng loạt tôi sử dụng kết hợp phương pháp dạy học phát hiện và   giải quyết vấn đề, …với các câu hỏi phân hóa. Khi đưa các yếu tố phát hiện và giải   quyết vấn đề kết hợp cùng hệ thống câu hỏi phân hóa vào bài học sẽ phát triển tư  duy, tăng cường tính tự giác, chủ động, sáng tạo cho các đối tượng học sinh. Những   tri thức mới được kiến tạo nhờ quá trình phát hiện và giải quyết vấn đề, học sinh  được khám phá, phân tích vấn đề, để đề xuất và thực hiện được phương pháp giải  Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  12
  13. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN quyết. Tạo ra các tình huống có vấn đề là thành phần quan trọng trong dạy học theo   xu hướng tích cực hóa quá trình học tập của học sinh. Tình huống có vấn đề là tình   huống khó khăn đặt ra, để khắc phục nó phải tìm tòi suy nghĩ, phải có tri thức mới,   những biện pháp mới, những cách giải quyết thích hợp hay có thể  là tình huống có  mâu thuẫn. Để  phát huy tính tích cực, tự  giác học tập của học sinh cần tạo ra các   tình huống có vấn đề để học sinh khám phá ra tri thức mới. Có nhiều biện pháp tạo   ra tình huống. Khai thác phần hoạt động  ứng dụng ở  gia đình hoặc khai thác phần   kiến thức cơ bản, phần thực hành. Chọn một ứng dụng của kiến thức mới. Tôi đặt  vấn đề  mới đòi hỏi học sinh nghiên cứu, đặt học sinh trước mâu thuẫn chưa giải   quyết được với kiến thức cũ. Chọn kiến thức mới giải quyết nhanh hơn. Gắn cho   các yêu cầu với nội dung thực tế tạo cho học sinh hứng thú thực hiện yêu cầu đó.  Ví dụ: Hoạt động  ứng dụng  ở  bài 27 C yêu cầu tìm hiểu về  con suối hoặc   dòng sông gần nơi em ở.         Có những học sinh nhà ở rất xa những con suối dòng sông đó. Thêm nữa để  các em tự  tìm hiểu về sông suối trong thực tế sẽ không phù hợp vì sự  an toàn của  các em. Lúc này HS cảm thấy rất bối rối, lúng túng để hoàn thành bài tập ứng dụng  khi mình không có điều kiện để đi đến tận nơi tìm hiểu về dòng sông hoặc con suối  đó. Giáo viên có thể  gợi ý cho các em nhờ  đến sự  hỗ  trợ, giúp đỡ  của người thân   hoặc thực hiện bằng cách tìm hiểu qua sách báo  ở  thư  viện, qua truyền hình hoặc  qua mạng Internet, …Khi đó học sinh sẽ  rất hứng thú và bản thân thấy mình là   người có trách nhiệm các em sẽ thấy vui hơn, có nhiều động lực mới để  tiếp tục   nhiệm vụ học tập.  Hoặc  ở bài 4C tập 1A  ở phần thực hành hoạt động 6: Kể  một kỉ  niệm đẹp   nhất về ông hoặc bà của mình. Khi quan sát các nhóm làm việc, tôi thấy có HS rất  lúng túng, sau 15 phút nhưng em vẫn chưa viết ra  được một câu nào nhưng đó  Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  13
  14. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN không phải là đối tượng HS yếu kém. Sau khi tìm hiểu nguyên nhân tôi mới biết em   không có ông bà.  Tình huống có vấn đề  được xuất hiện khi giáo viên đặt ra các tình huống   phải lựa chọn. Trong dạy học, phát hiện và giải quyết vấn đề  giáo viên đưa học  sinh vào tình huống có vấn đề rồi giúp học sinh giải quyết vấn đề  đặt ra bằng hệ  thống câu hỏi dẫn dắt. Bằng cách đó học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm   được phương pháp đi tới tri thức đó, lại vừa phát triển tư  duy sáng tạo và có tiềm  năng vận dụng tri thức vào những tình huống mới, phát hiện kịp thời và giải quyết   hợp lý các vấn đề xảy ra. Làm cho hệ thống câu hỏi trở thành một quá trình dẫn dắt   học sinh suy luận. Không lặp lại các câu hỏi một cách đơn điệu nên hỏi cùng nội  dung dưới nhiều hình thức khác nhau. Có như vậy các em vừa nắm được bản chất  vấn đề, vừa biết vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau. Hệ  thống   câu hỏi phân hóa song vẫn tác động đến học sinh yếu kém cũng có thể trả lời được   vì nó đã có quá trình dẫn dắt và học sinh khá cũng phải theo dõi câu hỏi dễ dàng vì   đằng sau nó là sự phát hiện mới.  Khi thiết kế các hoạt động phân hóa ý đồ phân hóa của tôi là để cho học sinh   khác nhau có thể tiến hành các hoạt động phù hợp với trình độ  khác nhau của học   sinh. Tôi dựa vào đặc điểm và sự phân loại học sinh trong lớp để đề ra các yêu cầu  thích hợp. Có thể  phân hóa về  yêu cầu bằng cách cho sử  dụng mạch hoạt động   phân bậc, giao cho học sinh giỏi những hoạt động có yêu cầu ở bậc cao hơn so với  các đối tượng học sinh khác. Đối với học sinh yếu kém, có thể giao các hoạt động   có yêu cầu ở mức thấp hơn. Cụ thể là khoảng cách giữa hai bậc liên tiếp không quá   cao, quá xa. Nhiều bậc học sinh yếu kém gộp lại thành một bậc của học sinh trung   bình hoặc khá giỏi. Hoặc ngay trong một hoạt động tôi cũng có thể  tiến hành dạy  phân hóa nếu như  hoạt động đó đảm bảo yêu cầu cho cả  ba nhóm đối tượng học   sinh vừa bồi dưỡng lấp lỗ  hổng cho học sinh yếu kém, vừa trang bị  kiến thức   chuẩn cho học sinh trung bình và vừa có kiến thức nâng cao cho học sinh khá, giỏi.  Ví dụ: Với yêu cầu của những hoạt động thiên về  phân môn Tập làm văn  như: Kể  về  một người hàng xóm mà em yêu quý nhất hoặc các yêu cầu tương tự  của phân môn tập làm văn.  Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  14
  15. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN Để cho tất cả các đối tượng học sinh trong lớp cùng thực hiện một yêu cầu,   tạm thời chia lớp thành hai cấp độ: hứng thú mạnh và hứng thú trung bình. Đối với   nhóm hứng thú trung bình, tôi chỉ hướng dẫn học sinh kể theo 4 gợi ý như yêu cầu  của hoạt động. Theo dõi giúp đỡ các em cách dùng từ đặt câu đúng ngữ pháp, đúng  chính tả. Đối với nhóm hứng thú mạnh đặt thêm một số câu hỏi phụ để các em hình  dung ra một người hàng xóm đã để lại trong tâm trí các em rất nhiều ấn tượng và tự  kể  lại không theo gợi ý trong hoạt động về  người đó, đồng thời khuyến khích các   em sáng tạo trong cách dùng từ đặt câu, đặt câu có hình ảnh nên sử dụng biện pháp  so sánh, nhân hóa trong đoạn văn, đưa cảm xúc thật sự  của mình vào trong đoạn   viết khi kể về người hàng xóm đó. Để từ đó các em có thể nói được càng nhiều chi   tiết về  người đang kể  càng tốt. Tuy nhiên với nhóm hứng thú trung bình giáo viên  cũng có thể định hướng, khuyến khích thêm cho các em, để các em cũng viết được   đoạn văn rõ ý, dùng từ đặt câu đúng ngữ pháp, câu văn rõ ràng, sáng sủa và cũng có  được những cảm xúc thực sự khi nói về người hàng xóm đó. + Kết hợp nhiều phương tiện dạy học, lựa chọn những hình thức tổ  chức dạy học phù hợp với mục tiêu bài học.  Xem xét các yếu tố   ảnh hưởng đến quá trình học tập khi thực hiện các pha  phân hóa: môi trường, phương tiện, điều kiện dạy học …Trong mỗi tiết học Tiếng   Việt, tôi thường sử dụng phương tiện dạy học và đồ dùng học tập khác nhau như:  phiếu học tập, bảng nhóm, các thẻ từ, thẻ câu, những bông hoa được cắt bằng giấy  màu xốp hoặc các lá cờ be bé xinh xinh để làm phần thưởng kích thích cho học sinh  Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  15
  16. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN hứng thú học tập khi nhóm có kết quả  hoạt động tốt, khi các em tham gia các trò  chơi tìm từ, tìm nhân vật bí  ẩn,…đây là một yếu tố   ảnh hưởng rất lớn đến chất   lượng giờ học nên trong các tiết dạy tôi thực sự quan tâm và chú trọng.  Thông thường trong các giờ  học, tôi tổ  chức cho học sinh học tập trong lớp   học song một số tiết học có liên quan nhiều đến thiên nhiên để thay đổi không khí,   làm mới môi trường học tập, một số tiết học tôi thiết kế  cho học sinh từng nhóm  học ở không gian rộng hơn. Để đảm bảo cho các tiết học theo kiểu này có hiệu quả  tôi thường chú ý đến điều kiện sân bãi, môi trường xung quanh, điều kiện thời tiết   … các yếu tố đó có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tâm lý, tinh thần học tập của học  sinh nên tôi đề ra các phương án khác nhau để đảm bảo chất lượng giờ học.  Phương tiện dạy học góp phần chứa đựng và truyền tải thông tin, tạo điều   kiện thuận lợi cho việc tổ chức hoạt động học tập nên là một yếu tố  quan trọng   không thể thiếu được trong đổi mới phương pháp dạy học theo xu hướng tích cực  hóa hoạt động của học sinh. Mỗi giờ  học tôi sử  dụng các phương tiện dạy học  khác nhau tùy thuộc vào các chức năng của từng loại phương tiện như: kiến tạo tri   thức, rèn luyện kỹ năng, kích thích hứng thú học tập, tổ chức điều khiển quá trình   học tập … Tôi phối hợp sử  dụng các phương tiện dạy học khác nhau trong từng   tình huống cụ thể để  lấy điểm mạnh của phương tiện này bổ  sung điểm yếu của  phương tiện khác, nhằm phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của hệ thống phương   tiện dạy học trong mỗi giờ học. Phiếu học tập, trò chơi học tập, câu đố  vui, … là  những phương tiện thể hiện rõ tính ưu việt khi tổ chức các pha phân hóa trong giờ  học nên tôi  cố gắng sử dụng hợp lý, vì chúng vừa góp phần tổ chức điều khiển quá   trình học tập đến từng cá thể học sinh, phát huy khả năng của mình, kích thích hứng   thú học tập, vừa góp phần hợp lý hóa công việc của giáo viên và học sinh, trong đó   các yếu tố thời gian, khối lượng công việc được đảm bảo.  + Kiểm tra, đánh giá sự tiến bộ của HS trong suốt quá trình giảng dạy. Việc kiểm tra, đánh giá kết quả của từng nhóm, từng cá nhân học sinh trong   suốt quá trình giảng dạy là một căn cứ  để  tôi biết được mức độ  tiến bộ   ở  từng   nhóm, từng đối tượng học sinh. Từ  đó có những biện pháp khích lệ  kịp thời, giúp  học sinh phát huy tốt hơn nữa  ở các tiết học tiếp theo. Đồng thời cũng làm nguồn  động lực giúp học sinh hứng thú hơn trong học tập. Bám sát theo từng hoạt động của tất cả các nhóm đối tượng học sinh, tôi sử  dụng các kĩ thuật đánh giá kết quả học tập của học sinh trong Mô hình VNEN như:  quan sát, kiểm tra nhanh, kiểm tra miệng, kiểm tra thực hành, phỏng vấn nhanh,   Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  16
  17. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN đánh giá sản phẩm của nhóm,…để  đánh giá sự  tiến bộ  của học sinh hoặc những  điểm học sinh cần cố  gắng để  có kế  hoạch động viên, giúp đỡ  học sinh kịp thời,   đồng thời giúp tôi điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ  chức các hoạt   động dạy học và kịp thời phát hiện những cố gắng để động viên, khuyến khích, ghi   nhận sự tiến bộ hàng ngày của từng học sinh, giúp học sinh cảm thấy tự tin và vui   thích với các hoạt động học tập. Đồng thời giúp học sinh biết tự đánh giá, rút kinh  nghiệm, tự điều chỉnh bài làm, hoạt động của mình, bồi dưỡng hứng thú học tập và  rèn luyện để  học sinh ngày càng tiến bộ  hơn. Góp phần làm giảm áp lực cho học   sinh khi đến trường. Khuyến khích các em   tự  học, sáng tạo.   Quan điểm của tôi  trong dạy học phân hóa là luôn cố  gắng tạo mối quan hệ  dân chủ  giữa cô và trò,  giữa trò và trò để giúp HS cởi mở, tự tin hơn. Giải pháp 2. Quy trình tổ chức các pha phân hóa trong giờ dạy + Tổ  chức các pha dạy học đồng loạt:  Kết hợp và sử  dụng các phương  pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, tình huống … nhằm mục đích giúp   học sinh tiếp thu tốt các kiến thức. Các phương pháp này có ưu điểm rất lớn là tạo   ra tình huống gợi vấn đề, điều khiển học sinh hoạt động tự  đánh giá, tích cực chủ  động và sáng tạo. Để  thu hút tất cả  các đối tượng học sinh trong lớp tham gia tìm   hiểu nội dung bài học. Tôi giao nhiệm vụ  phù hợp với khả  năng từng nhóm đối   tượng học sinh, nêu những câu hỏi khó hơn cho các em có nhận thức khá giỏi,  khuyến khích các em học sinh yếu kém bằng những câu hỏi ít đòi hỏi tư  duy hơn,   kèm theo những câu hỏi gợi ý hoặc câu hỏi chẻ nhỏ. Ví dụ:  Ở  bài 25 C hoạt động 3 B về  phân môn Luyện từ  và câu, trong một  nhóm đa trình độ  của lớp. Học sinh trung bình chỉ  làm việc theo yêu cầu của tài  liệu: Sau khi đọc đoạn thơ  ( TL trang 98) Tìm các từ  ngữ  miêu tả  các sự  vật, con  vật ? Cách gọi và tả các sự vật, con vật có gì hay ? Tôi tạm hạ thấp yêu cầu với HS  yếu kém, các em chỉ cần trả lời được câu hỏi thứ nhất dưới sự hỗ trợ của giáo viên   hoặc bạn khá giỏi cùng nhóm nếu cần: Tìm các từ  ngữ  miêu tả  các sự  vật, con  vật ? Nâng cao yêu cầu đối với HS khá giỏi: Sau khi các em đã hoàn thành yêu cầu   trong tài liệu yêu cầu các em chỉ ra thêm cho các bạn trong nhóm biết cách miêu tả,  cách gọi các sự vật, con vật như thế có tác dụng gì ?; và thảo luận thêm về các cách   nhân hóa trong đoạn thơ.  Sau khi theo dõi thấy học sinh đã hoàn thành yêu cầu nâng   cao thứ nhất hoặc nếu còn thời gian. + Điều khiển các pha phân hóa: Trong việc điều khiển học sinh hoạt động  trong các pha phân hóa,  tôi định ra các yêu cầu khác nhau về mức độ yêu cầu, mức   Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  17
  18. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN độ  hoạt động độc lập của học sinh, hướng dẫn nhiều hơn cho đối tượng học sinh   này, ít hoặc không gợi ý học sinh khác, tùy theo khả năng và trình độ  của học sinh.  Tôi sử  dụng phiếu học tập hoặc hình thức khác để  việc dạy học phân hóa được  hiệu quả  hơn khi tổ  chức điều khiển quá trình tạo kiến thức mới, hoặc các hoạt  động thực hành theo kiểu phân hóa các đối tượng HS,  tôi tiến hành theo các bước   sau:    Bước 1:  Tổ  chức, giao nhiệm vụ  cho các nhóm đối tượng học sinh khá,   giỏi, trung bình, yếu kém theo 3 mức độ khác nhau tùy theo khả năng, trình độ nhận   thức của từng nhóm ( các hoạt động phân hóa mà giáo viên đã chuẩn bị  từ  trước   như đã nói ở trên) và đặt ra yêu cầu một cách rõ ràng cho từng nhóm đối tượng học  sinh.   Bước 2:  Từng cá nhân học sinh hoặc nhóm thực hiện yêu cầu của hoạt   động độc lập (dưới sự  quan sát, hướng dẫn gợi mở  của giáo viên hoặc của bạn  cùng nhóm khi có khó khăn). Định ra các yêu cầu khác nhau về mức độ  hoạt động  độc lập của mỗi học sinh hoặc nhóm, hướng dẫn nhiều hơn cho học sinh này ít  hoặc khơi gợi ý cho học sinh khác, tùy theo khả năng và trình độ của học sinh. Bước 3: Các nhóm hoặc cá nhân báo cáo kết quả  sau khi đã hoàn thành yêu  cầu của hoạt động. Bước 4: Giáo viên điều khiển học sinh trong nhóm, trong lớp tham gia thảo   luận giao lưu, đóng góp ý kiến bổ sung trong nhóm hoặc khi các nhóm khác có cùng   tiến độ báo cáo hoạt động giống nhau. Tuy nhiên giáo viên có thể khuyến khích học   sinh tham gia công việc của nhóm kế  tiếp nếu đã hoàn thành công việc của nhóm  mình.  Bước 5: Giáo viên tổng kết, chốt lại kết quả  đúng. ( theo từng nhóm hoặc  chỉ áp dụng khi các nhóm có cùng một tiến độ  làm việc). Giao thêm yêu cầu nâng   cao cho nhóm hoặc học sinh khá giỏi. Tăng cường giúp đỡ  HS yếu kém ( GV hoặc  HS khá giỏi) nếu các em chưa hoàn thành yêu cầu của hoạt động. Cụ  thể  tôi sử  dụng các biện pháp phân hóa sau: Giải pháp 3. Những biện pháp dạy học phân hóa + Đối xử  cá biệt ngay trong những pha dạy học  đồng loạt:   Theo tư  tưởng chỉ  đạo, trong dạy học tôi lấy trình độ  phát triển chung của học sinh trong   lớp học làm nền tảng, do đó những pha cơ  bản là những pha dạy học đồng loạt.   Trong lớp học có nhóm học sinh khá giỏi, có nhóm học sinh yếu kém nên khi thiết  Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  18
  19. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN kế  bài giảng, tôi thường dành thời gian để  thiết kế  về  nội dung và nhiệm vụ  cho   từng đối tượng học sinh. Cụ thể, đối với nhóm học sinh khá giỏi, tôi giao cho các  em những nhiệm vụ có tính tìm tòi, phát hiện, đối với nhóm học sinh yếu kém thì   tôi giúp đỡ  chỉ bảo cụ thể, đặt câu hỏi mang tính chất trực quan hoặc có tác dụng   rèn một kỹ năng nào đó. Tránh tư tưởng đồng nhất trình độ dẫn đến đồng nhất nội   dung học tập cho mọi đối tượng học sinh.  + Tổ  chức những pha phân hóa:  Trong lớp học tôi luôn phân ra ba nhóm  đối tượng khác nhau: nhóm học sinh yếu kém, nhóm có học lực trung bình và nhóm   học sinh khá giỏi. Trong quá trình dạy học, vào những thời điểm thích hợp có thể  thực hiện những pha phân hóa tạm thời, tổ  chức cho học sinh hoạt động một cách  phân hóa. Biện pháp này được sử dụng khi trình độ  học sinh có sự sai khác lớn, có  nguy cơ  yêu cầu quá cao hoặc quá thấp nếu cứ  dạy học đồng loạt. Trong những   pha này, tôi giao cho học sinh những nhiệm vụ  phân hóa   thể  hiện qua các hoạt   động phân hóa, từ đó điều khiển học sinh thực hành những hoạt động này theo từng  nhóm và tạo điều kiện giao lưu gây tác động qua lại cho các nhóm học tập. Thiết   kế hoạt động phân hóa là để cho các đối tượng học sinh khác nhau có thể tiến hành  các yêu cầu khác nhau với trình độ  khác nhau, có thể  phân hóa về  yêu cầu bằng  cách sử dụng mạch hoạt động phân bậc, giao cho học sinh giỏi những hoạt động ở  bậc cao hơn so với các đối tượng học sinh khác. Hoặc ngay trong một hoạt động,  có thể  tiến hành dạy học phân hóa nếu hoạt động đó bảo đảm yêu cầu cho cả  3   nhóm đối tượng học sinh: Bồi dưỡng lấp lỗ hổng cho học sinh yếu kém, trang bị  kiến thức chuẩn cho học sinh trung bình và nâng cao kiến thức cho học sinh khá,   giỏi. Để  có được hoạt động đảm bảo yêu cầu trên, giáo viên phải nắm chắc kiến  thức trọng tâm của từng hoạt động và đầu tư nghiên cứu cho tiết dạy. Để có được   kiến thức rèn luyện một kỹ  năng nào đó, đối tương học sinh yếu kém cần thiết  hoạt động cùng loại hơn đối tượng học sinh khác. Những học sinh đã hoàn thành tốt   yêu cầu của hoạt động sẽ  nhận thêm những yêu cầu khác để  đào sâu và nâng cao.  Khi điều khiển phân hóa tôi định ra yêu cầu khác nhau về mức độ yêu cầu, mức độ  hoạt động độc lập của học sinh. Hướng dẫn nhiều hơn cho đối tượng này, ít hoặc  không gợi ý cho học sinh khác, tùy theo khả năng và trình độ của học sinh.  Ví dụ: Ở phân môn Tập viết HS yếu kém tôi dành nhiều thời gian giải nghĩa  cho các em từ  và câu  ứng dụng; luyện cho các em viết đúng quy trình các chữ  cái   viết hoa, hoàn thành từ ứng dụng và biết cách trình bày, viết đúng chính tả khi viết  câu ứng dụng. HS trung bình hoàn thành bài viết theo yêu cầu của hoạt động. Tăng  cường vai trò của các nhóm trưởng khá giỏi, HS có năng khiếu viết chữ đẹp để hỗ  Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  19
  20. Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN trợ các em khi cần thiết. Tuy nhiên có sự giám sát chặt chẽ của giáo viên. Đối với  HS khá giỏi động viên các em tìm hiểu sâu hơn về  nghĩa của các từ  và câu  ứng  dụng trong phân môn Tập viết. Các em sẽ thấy mình được mở rộng kiến thức, biết   được nhiều địa danh trên mọi miền của đất nước, cảm nhận được nét đẹp và sự  tinh túy qua các câu ca dao, tục ngữ. Đặc biệt động viên các em tích cực rèn nhiều   kiểu chữ hoa sáng tao.  Chính nhờ sự phân hóa mà tôi thấy rõ được tiến bộ của từng học sinh để  tự  điều chỉnh cách dạy của mình cho phù hợp. Đồng thời cần quan tâm cá biệt động   viên học sinh có phần thiếu tự tin, lưu ý học sinh đọc viết yếu, giao tiếp rụt rè, uốn  nắn kịp thời những học sinh có nhịp độ  nhận thức nhanh nhưng kết quả không cao  do vội vàng, chủ quan, thiếu sự suy nghĩ chín chắn, lôi kéo những học sinh có nhịp  độ  nhận thức chậm theo kịp tiến trình bài học. Chú trọng sự  tác động qua lại giữa   những học sinh trong quá trình dạy học, đặc biệt là khi thực hành cần phát huy  những tác dụng qua lại giữa những học sinh trong cùng một nhóm hoặc với nhóm  khác, bằng các hình thức học tập khuyến khích sự giao lưu, thảo luận trong nhóm,  thảo luận theo cặp, …Với hình thức này, có thể  tận dụng chỗ  mạnh của một số  học sinh khác trong cùng nhóm. Tác dụng điều chỉnh này có ưu điểm lớn so với tác  dụng của giáo viên là có tính thuyết phục, nêu gương, không có tính chất áp đặt…   Ngoài việc tổ  chức dạy phân hóa trong giờ  chính khóa, tôi thường xuyên tổ  chức   dạy phân hóa trong giờ  ngoại khóa  ở  các tiết hoạt động tập thể  vào đầu tuần và  cuối tuần hoặc dạy phân hóa ở buổi học thứ hai.   + Tổ chức dạy phân hóa theo nhóm cùng trình độ ở buổi thứ hai Việc thực hiện dạy học phân hóa ngay trong giờ chính khóa là một biện pháp   được coi là hữu hiệu nhất. Tuy nhiên  ở  những lớp có sĩ số  đông giáo viên có thể  tách riêng những nhóm học sinh có nhịp độ  nhận thức như  nhau gọi là nhóm cùng  trình độ  để hoặc là bồi dưỡng học sinh giỏi, hoặc là phụ  đạo học sinh yếu kém ở  những buổi học thứ hai là hiệu quả nhất. Bồi dưỡng học sinh giỏi là việc làm rất quan trọng và cần thiết, cần được  thực hiện ngay trong những tiết học đồng loạt, bằng những biện pháp phân hóa nội  tại thích hợp. Nhưng để  bồi dưỡng và mở  rộng kiến thức cho các em  ở  mức sâu   hơn, thuận tiện hơn tôi tận dụng buổi thứ hai để  tách riêng nhóm hoc sinh khá giỏi  để  bồi dưỡng. Những học sinh cùng một lớp hoặc cùng một khối, có năng lực về  Tiếng Việt, yêu thích nghiên cứu môn Tiếng Việt. Mục đích bồi dưỡng nhóm học   sinh giỏi Tiếng Việt là để  nâng cao hứng thú học tập môn Tiếng Việt, đào sâu và   Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2