intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Dạy từ vựng tiếng Anh tiểu học

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

43
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc ghi nhớ từ vựng không chỉ đơn thuần là nhớ nghĩa Tiếng Việt của từ mà còn là việc giúp các em nghe, phát âm và giao tiếp một cách tự nhiên, chính xác. Việc tìm ra những cách thức giúp các em học từ vựng, hiểu từ vựng và nhớ kỹ là nhiệm vụ của mỗi giáo viên. Vì vậy mục đích của sáng kiến này chính là đưa ra các phương pháp giúp học sinh ghi nhớ nhanh các từ vựng một cách dài lâu và hiệu quả.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Dạy từ vựng tiếng Anh tiểu học

  1. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN LƯƠNG TÀI TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN THỨA  SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ NGHỊ  THẨM ĐỊNH, ĐÁNH GIÁ Ở CẤP HUYỆN                    TÊN SÁNG KIẾN:     “DẠY TỪ VỰNG TIẾNG ANH TIỂU HỌC”                                           Tác giả sáng kiến: Bùi Bá Thiện                                           Chức vụ: Giáo viên                            Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị Trấn Thứa                                           Bộ môn   : Tiếng Anh
  2. Lương Tài , THÁNG 9 NĂM 2017   
  3. PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1. Mục đích của sáng kiến: Trong dạy Tiếng Anh, việc giúp học sinh ghi nhớ  từ  vựng là một hoạt động  không thể  thiếu. Việc ghi nhớ  từ  vựng không chỉ  đơn thuần là nhớ  nghĩa Tiếng   Việt của từ  mà còn là việc giúp các em nghe, phát âm và giao tiếp một cách tự  nhiên, chính xác. Việc tìm ra những cách thức giúp các em học từ  vựng, hiểu từ  vựng và nhớ kỹ là nhiệm vụ của mỗi giáo viên. Vì vậy mục đích của sáng kiến này  chính là đưa ra các phương pháp giúp học sinh ghi nhớ nhanh các từ vựng một cách  dài lâu và hiệu quả. 2. Những mặt tích cực của các phương pháp dạy từ vựng . Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu   sau đây: ­ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tôi đã nghiên cứu nhiều tài liệu liên quan  đến việc dạy từ vựng Tiếng Anh ở cấp Tiểu học để hiểu hơn về tâm lý, nhu cầu   học cũng như  các kỹ  năng giảng dạy từ  vựng Tiếng Anh cho các em. Thông qua  phương pháp này tôi đã thu thập được khá nhiều kiến thức bổ  ích cho bài nghiên  cứu của mình. ­ Phương pháp quan sát: đối tượng mà tôi quan sát là các học sinh khối 3­4­5.  Phương pháp này giúp tôi phát hiện ra sự  thay đổi từng ngày của các em khi học  môn Tiếng Anh. Ví dụ:  Ở  lớp 5H,  Chí là một em học sinh khá là nhút nhát trong   mọi hoạt động. Mặc dù được xếp ngồi  ở  bàn đầu nhưng em luôn lơ  đãng không  chú ý trong giờ học. Khi tôi dạy từ vựng sử dụng dụng cụ trực quan, phương pháp  này giúp em chú ý hơn một chút. Tôi thay đổi phương pháp dạy từ  vựng bằng sử  dụng vật thật hay là lồng ghép dạy từ vựng vào các trò chơi thì em chú ý hơn hẳn.  Em tham gia sôi nổi, phát biểu nhiều hơn và theo một cách tự nhiên em tự ghi nhớ  được một số lượng từ vựng nhanh và nhớ lâu hơn.  1
  4. ­ Phương pháp phỏng vấn: nhờ vào phương pháp này mà tôi đã hiểu rõ được  các em thích hay không thích những hoạt động gì khi học từ vựng Tiếng Anh, từ đó   có kế hoạch thay đổi phương pháp dạy sao cho phù hợp với các em. ­ Phương pháp trưng cầu ý kiến: Tôi thường cho học sinh tự đưa ra những ý   kiến cá nhân của các em nhằm xem các em có nhu cầu và nguyện vọng gì trong   việc học từ vựng nhằm phát huy tính tích cực của các em ra một tờ giấy nhỏ không  cần ghi tên học sinh để các em mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình. ­ Phương pháp đàm thoại: tôi thường xuyên sử  dụng phương pháp này khi  học sinh của mình gặp khó khăn trong việc phát âm hay không hiểu về một vấn đề  gì đó, phương pháp này giúp nắm bắt tình hình học sinh để  kịp thời sửa sai hoặc  uốn nắn cho các em.  ­ Phương pháp đối chiếu, so sánh kết quả  của học sinh: phương pháp này  giúp tôi có thể đối chiếu và so sánh chất lượng học tập của học sinh ở các lớp khác   nhau từ  đó tôi có thể  nhận ra tính hiệu quả  của các phương pháp mà tôi đã vận  dụng cụ thể ở từng lớp.  Mỗi phương pháp trên đều mang lại các thông tin hữu ích cho đề tài của tôi.  Trong đó phương pháp chủ đạo là phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn,  phương pháp thống kê toán học và phương pháp đối chiếu, so sánh kết quả. Còn  những phương pháp khác được dùng như phương pháp bổ trợ.  PHẦN 2. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA SÁNG KIẾN 1. Cơ sở lí luận. Để  dạy tốt môn Tiếng Anh, mỗi một giáo viên đứng lớp luôn phải thực   hiện tốt công tác bồi dưỡng và tự bồi dưỡng thường xuyên, nghiên cứu, vận dụng  các phương pháp dạy học tích cực, khoa học và phù hợp với từng đối tượng học  sinh. Xuất phát từ  mục tiêu của giáo dục hiện nay đang tập trung hướng vào việc phát  2
  5. triển tính năng động, sáng tạo, tích cực của học sinh trong hoạt động học tập nhằm   tạo khả  năng nhận biết và giải quyết vấn đề  cho học sinh. Cốt lõi của việc đổi  mới phương pháp dạy học(PPDH) là giúp học sinh hướng tới việc học tập chủ  động, chống lại thói quen học tập thụ  động. Chương trình giáo dục phổ  thông đã  ban hành kèm theo quyết định số  16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ  trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu: “ Phải phát huy tính tích cực, tự giác,   chủ  động, sáng tạo của học sinh , phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối   tượng học sinh, điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự   học, khả năng hợp tác, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động   đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh.” Dạy học ngoại ngữ  thực chất là hoạt động rèn luyện năng lực giao tiếp  dưới các dạng nghe, nói, đọc, viết. Muốn rèn luyện năng lực giao tiếp cần có môi  trường với những tình huống đa dạng của cuộc sống. Môi trường này chủ  yếu do  giáo viên tạo ra dưới dạng những tình huống giao tiếp và học sinh phải tìm cách  ứng xử bằng ngoại ngữ cho phù hợp với tình huống giao tiếp cụ thể. Mục đích cuối cùng của việc học ngoại ngữ  là giao tiếp. Để  giao tiếp tốt  trước hết đòi hỏi  ở  học sinh có vốn từ  vựng nhất định, vốn từ  vựng càng nhiều   giúp học sinh càng hiểu ngôn ngữ giao tiếp nhanh chóng và có hiệu quả. Từ vựng  Tiếng Anh là một công cụ, phương tiện quan trọng nhất trong việc dùng và học   Tiếng Anh . Ở bất kỳ một kỹ năng nào của việc học ngoại ngữ đều phải dùng đến  từ  vựng.Vì vậy từ  vựng Tiếng Anh là nguồn vốn, là sản phẩm vô giá, là công cụ  chính cho người dùng.  Trong một bài học môn học Tiếng Anh, hầu hết tiết học nào cũng có phần  “giới thiệu từ vựng”. Để bài học đạt kết quả  cao, học sinh phải nắm rõ cách phát   âm cũng như  cách dùng của các từ. Muốn thế  giáo viên cần lựa chọn các phương   pháp dạy từ vựng phù hợp với từng loại từ để sao cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ và   dễ  sử  dụng. Tôi đã cố  gắng tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu viết về  phương pháp  cùng với những trải nghiệm trong quá trình giảng dạy. Tôi đã rút ra được một vài   3
  6. kinh nghiệm trong việc gây hứng thú cho học sinh học Tiếng Anh qua các giờ dạy   từ  vựng  ở  cấp Tiểu học. Đây là kinh nghiệm mà tôi tâm đắc nhất và tôi đã mạnh  dạn chọn nó để làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm cho mình. 2. Cơ sở thực tiễn: Vào đầu năm học ngành và nhà trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho bản  thân tôi được tham gia các lớp chuyên đề  đổi mới phương pháp giảng dạy  ở  cấp  Tiểu học, đi tập huấn, dự  các tiết thao giảng chuyên đề, nghiên cứu, thảo luận   việc đổi mới PPDH  ở huyện. Từ đó tôi đã học tập được những phương pháp dạy  học theo hướng đổi mới. Những phương tiện giúp các em học và rèn luyện cho bộ  môn Tiếng Anh không còn là vấn đề nan giải. Điều kiện trang thiết bị phục vụ cho  việc dạy học bộ môn Tiếng Anh khá đầy đủ như: phòng tiếng anh trang bị đầy đủ  phương tiện nghe nhìn, máy chiếu, đài catset, sách giáo khoa, sách bài tập… Bản  thân luôn được sự quan tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, đồng nghiêp.  Tình hình chung học sinh cấp Tiểu học Trường TH Thứa mà tôi trực tiếp giảng  dạy đa số các em chăm học và ngoan. Bên cạnh đó một số cá biệt học sinh vẫn còn  thiếu kiên nhẫn trong học tập, còn chây lười, ỷ lại và mang tính thụ động.  CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Theo phân phối chương trình hiện nay, môn tiếng Anh tiểu học mỗi tuần 04   tiết, mà hầu như  tiết nào cũng có từ  mới trong bài học và kể  cả  trong bài tập.  Muốn dạy tốt từ vựng để tiết học sinh động hơn, Giáo viên phải làm tranh ảnh, đồ  dùng để  minh hoạ, tạo điều kiện cho các em nhớ  từ  dễ  dàng và hướng sự  chú ý   của các em vào chủ đề hay trọng tâm bài học.   Về sự phân bố  tiết trong tuần, một buổi các em phải học hai tiết tiếng Anh   liên tiếp, phải tải một số  lượng từ  rất nhiều. Điều này chắc chắn sẽ  gây tâm lý  quá tải cho một số học sinh, gây ảnh hưởng rất nhiều đến tiết học sau.   Về phía học sinh, bên cạnh một số em học hành nghiêm túc, có không ít học  sinh chỉ  học  qua loa, không khắc sâu được từ  vựng vào trong trí nhớ, không tập  đọc, tập viết thường xuyên, không thuộc nghĩa hai chiều. Đến khi giáo viên yêu  4
  7. cầu các em sẽ không thành công.   Về phía gia đình học sinh, cũng rất khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng  dẫn các em tự học ở nhà. Bởi vì vậy là môn ngoại ngữ, không phải phụ huynh nào  cũng biết. Đây cũng là vấn đề hết sức khó khăn trong quản lý việc học ở nhà của   học sinh.   Ngoài ra, cách học từ  vựng của học sinh cũng là điều đáng được quan tâm,  học sinh thường học từ  vựng bằng cách đọc từ  bằng tiếng Anh và cố  nhớ  nghĩa  bằng tiếng Việt, có viết trong tập viết cũng là để  đối phó với giáo viên, chứ  chưa   có ý thức tự  kiểm tra lại mình, để  khắc sâu từ  mới và vốn từ  sẵn có. Vì thế  cho  nên, các em rất mau quên và dễ  dàng lẫn lộn giữa từ  này với từ  khác. Do vậy,   nhiều học sinh đâm ra chán học và bỏ quên. Cho nên giáo viên cần chú ý đến tâm lý  này của học sinh. Giáo viên cần phải nắm rõ được các em muốn gì, các em cần gì và quan  trọng hơn là phải nắm rõ được những phương pháp dạy từ vựng tôi đã áp dụng từ  đầu năm đến thời điểm này đối với các em như  thế  nào. Phương pháp đó có phù  hợp, có khiến các em học từ vựng một cách nhanh và ghi nhớ lâu hay không. Tôi đã  tiến hành một đợt điều tra nhỏ  để  thống kê sở  thích của học sinh đối với các  phương pháp dạy từ vựng ở cả ba khối 3 – 4 – 5 thì có kết quả như sau: BẢNG THỐNG KÊ PHƯƠNG PHÁP DẠY TỪ VỰNG TIẾNG ANH GIÚP HỌC SINH  HỨNG THÚ 1. Sử dụng tranh ảnh 70% 2. Sử dụng vật thật 85% 3. Sử dụng điệu bộ 60% 4. Thông qua tình huống hoặc giải thích 20% 5. Dùng từ đồng nghĩa/ trái nghĩa 35% 6. Dịch nghĩa  25% 7. Trò chơi 85% Bảng thống kê phương pháp dạy từ vựng Tiếng Anh giúp học sinh hứng thú Từ  kết quả  của đợt thống kê, tôi đã cố  gắng áp dụng những phương pháp  dạy từ vựng mà các em thích thú nhiều hơn trong các tiết dạy từ. Sự thay đổi này   5
  8. khiến các em rất hứng khởi vừa khiến các em dễ  hiểu, nắm được cách đọc và   nghĩa của từ nhanh hơn, biết cách áp dụng từ vừa mới học một cách khoa học, ghi  nhớ lâu dài từ đó. Cố gắng giúp các em đến gần hơn với môn học, yêu thích và chú   tâm hơn khi học môn học này. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng thực tế những phương pháp giảng dạy   từ vựng Tiếng Anh, tôi nhận thấy học sinh của mình đã có nhiều thay đổi tích cực,   tiến bộ. Tôi đã tiến hành các biện pháp sau: 1. Các bước để giới thiệu từ mới: Bước 1: Thâm nhập nắm chắc chương trình môn Tiếng Anh lớp  3­4, nghiên cưú kỹ  nội dung từng bài để có kế  hoạch làm đồ  dùng cho giờ  dạy sôi động, hấp dẫn và   lôi cuốn. Bước 2: Phối hợp với học sinh và duy trì ngôn ngữ  giao tiếp với học sinh bằng  cách đặt câu hỏi học sinh trả lời. Bước 3: Lựa chọn và phân loại từ Bước 4: Sử dụng các thủ thuật linh hoạt để giới thiệu nghĩa của từ. Bước 5: Kiểm tra việc hiểu và nắm nghĩa của từ. Bước 6: Luyện tập từ của học sinh. Bước 7: Kiểm tra mức độ hiểu biết và nắm được từ của một số học sinh yếu nếu  cần thiết. 2. Các phương pháp để giới thiệu nghĩa của từ vựng: 2.1. Lựa chọn từ để dạy: Tiếng Anh là một môn học có tầm quan trọng, nó là công cụ để giao tiếp với   các nước trên thế giới. Muốn giao tiếp tốt chúng ta phải có vốn từ phong phú. Ở  môi trường tiểu học hiện nay, khi nói đến ngữ  liệu là chủ  yếu nói đến  ngữ  pháp và từ  vựng, từ  vựng là ngữ  pháp luôn có mối quan hệ  khắng khích với   nhau, luôn được dạy phối hợp để  làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên dạy và giới   6
  9. thiệu từ  vựng là vấn đề  cụ  thể. Thông thường trong một bài học luôn xuất hiện   những từ mới, xong không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để  dạy. Để  chọn từ  cần dạy, giáo viên cần xem xét những vấn đề: ­ Từ chủ động (active vocabulary) ­ Từ bị động (passive vocabulary) Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ  này khác nhau. Từ  chủ  động có liên  quan đến bốn kỹ năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại từ này giáo viên cần   đầu tư thời gian để giới thiệu và cho học sinh tập nhiều hơn. Với từ  bị  động giáo viên chỉ  cần dừng  ở  mức nhận biết, không cần đầu tư  thời  gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định xem  sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động. ­ Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là: + Form.              + Meaning.                  + Use. Đối với từ  chủ  động ta chỉ  cho học sinh biết chữ  viết và định nghĩa như  từ  điển thì chưa đủ, để  cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên  cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết phát âm đúng   những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ. ­ Số  lượng từ  cần dạy trong bài tuỳ  thuộc vào nội dung bài và trình độ  của  học sinh. Không bao giờ  dạy tất cả  các từ  mới, vì sẽ  không có đủ  thời gian thực   hiện các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6 từ. ­ Trong khi lựa chọn từ để dạy, bạn nên xem xét đến hai điều kiện sau:  + Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ? + Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ? ­ Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của học   sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn phải dạy cho học sinh. ­ Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ  của   học sinh, thì nó không thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn nên giải thích rồi cho học   sinh hiểu nghĩa từ đó ngay. 7
  10. ­ Nếu từ  đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó lắm  thì bạn nên yêu cầu học sinh đoán. Với sự  đa dạng của từ, tôi đã đầu tư  trong việc lựa chọn từ  thích hợp, có vai trò  chủ  động để  hiểu được nội dung chính của bài học. Vì thế  trong mỗi tiết dạy tôi  chỉ cho các em 5­8 từ chủ động, vì thực tế có bài có đến 10­15­20 từ mới, nếu đưa  ra quá nhiều học sinh sẽ không nhớ nỗi. 2.2. Các bước tiến hành giới thiệu từ mới: Có nhiều phương pháp giới thiệu từ vựng nhưng giới thiệu bằng cách nào  cho phù hợp với từ, với đối tượng để học sinh dễ nhận biết và phát huy được tính  tích cực ,tìm tòi, đoán nghĩa của học sinh. Bước giới thiệu bài, giới thiệu chủ  đề: đây là bước khá quan trọng trong   việc dạy từ  vựng. Bước này sẽ  quyết định sự  thành công của tiết học, nó sẽ  gợi   mở  cho học sinh liên tưởng đến những từ  sắp học qua chủ  điểm vừa mới được  giới thiệu. Điều quan trọng nhất trong giới thiệu từ mới là phải thực hiện theo trình tự:   nghe, nói, đọc, viết. Đừng bao giờ bắt đầu từ hoạt động nào khác “nghe”. Hãy nhớ  lại quá trình học tiếng mẹ  đẻ  của chúng ta, bao giờ  cũng bắt đầu bằng nghe, bắt   chước phát âm rồi mới tới những hoạt động khác. Hãy giúp cho học sinh của bạn   có một thói quen học từ mới một cách tốt nhất: ­ Bước 1: “nghe”, giáo viên cho học sinh nghe từ mới bằng cách đọc mẫu. ­ Bước 2: “nói”, sau khi học sinh đã nghe được ba lần giáo viên mới yêu cầu   học sinh nhắc lại. Khi cho học sinh nhắc lại ,giáo viên cần chú ý cho cả lớp nhắc  lại trước, sau đó mới gọi cá nhân. ­ Bước 3: “đọc”, giáo viên viết từ đó lên bảng và cho học sinh nhìn vào đó để  đọc. Cho học sinh đọc cả  lớp, rồi đọc cá nhân và sửa lỗi cho học sinh tới một  chừng mực mà giáo viên cho là đạt yêu cầu. ­ Bước 4: “viết”, sau khi học sinh đã đọc từ  đó một cách chính xác rồi giáo   viên mới yêu cầu học sinh viết từ đó vào vở. 8
  11. ­ Bước 5: giáo viên hỏi xem có học sinh nào biết nghĩa của từ  đó không và  yêu cầu một học sinh lên bảng viết nghĩa của từ đó bằng tiếng Việt. ­ Bước 6: đánh trọng âm từ: phát âm lại từ và yêu cầu học sinh nhận diện âm   tiết có trọng âm và đánh dấu. ­ Bước 7: cho câu mẫu và yêu cầu học sinh xác định từ loại của từ mới học. 3. Các thủ  thuật gợi mở  giới thiệu từ  mới:  Giáo viên có thể  dùng một số  thủ  thuật gợi mở giới thiệu từ mới như: a. Visual (nhìn): Giáo viên chuẩn bị tranh ảnh cho học sinh nhìn và học từ vựng từ  những bức tranh đó, phương pháp này giúp giáo viên ngữ  nghĩa hoá từ  một cách  nhanh chóng. ­ Khi dạy những từ cần hình ảnh , tôi đã dùng tranh để giới thiệu. Ví dụ:   Ở  bài Unit 2 – Tiếng Anh 4, khi dạy về quốc tịch các nước tôi đã dùng tranh để  minh họa lá cờ và con người của từng nước để các em có thể dễ dàng hình dung và   ghi nhớ đất nước đó hơn                b. Realia (vật thật): Giáo viên sử dụng những dụng cụ trực quan thực tế có được  để giới thiệu từ vựng cho học sinh.  Ví dụ: Ở bài Unit 8 – Tiếng Anh 3: khi dạy về các dụng cụ học tập của học sinh như bút  (pen), thước (ruler), hộp bút (pencil case), cặp sách (school bag)… tôi đã sử  dụng  chính những dụng cụ  học tập của các em để  dạy về  từ  vựng. Vì phần lớn tất cả  các em đều có những dụng cụ này nên khi tôi giới thiệu và gọi tên bằng Tiếng Anh   9
  12. từng đồ vật thì các em rất thích thú. Nhiều em cầm từng đồ vật cụ thể của mình và   gọi tên chúng rất tự nhiên. c. Mine (điệu bộ): Thể hiện qua nét mặt, điệu bộ, cử chỉ Ví dụ: Ở bài Unit 10 – Tiếng Anh 3: khi dạy về các trò chơi như bóng đá (football),   nhảy dây (skip), trốn tìm (hide­ and­seek), bịt mắt bắt dê (blind man’s bluff), bóng  bàn (table tennis)…tôi đã thực hiện các hành động về những trò chơi đó rồi cho học   sinh đoán xem đó là trò gì và gọi tên những trò chơi đó bằng Tiếng Anh. Tôi yêu   cầu học sinh lặp lại hành đồng đó và gọi tên trò chơi bằng Tiếng Anh. Với phương  pháp này, học sinh nhớ  khá nhanh và rất thích thú khi được bắt chước theo hành   động của các trò chơi. Sử dụng hình thức này tôi đã thể hiện rõ ràng, tự nhiên giúp  học sinh dễ hiểu, dễ nhận biết và rất hứng thú học.  d. Drawing (Vẽ phác họa) Ví dụ:  ở bài Unit 12 – Tiếng Anh 3: khi dạy về các từ  vựng về  nhà cửa tôi đã vẽ  minh họa lên bảng  một ngôi nhà có các phòng, vườn cây, ao nước cụ  thể  để  các  em dễ hình dung và dễ nhớ hơn.                       e. Synonyon \ antonyon (đồng nghĩa \ trái nghĩa): Giáo viên dùng những từ đã học  rồi để giảng từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa. Một phần giúp học sinh liên tưởng đến  những từ đã học, vừa nắm được nghĩa của từ mới. Ví dụ:  thấp – cao (short – tall)  mâp ­ ốm (fat­ slim) nóng – lạnh (hot­cold)  10
  13. to – nhỏ ( big – small) g. Situation / explanation: Giáo viên sử dụng tình huống(situation) hay giải thích(explanation) để  giới  thiệu từ vựng cho học sinh.  Ví dụ: Ở bài Unit 12 – Tiếng Anh 4, tôi đã dùng những từ vựng các em đã học hoặc   dùng một giáo viên cụ thể trong trường để giới thiệu từ vựng mới cho các em    ­ a teacher (giáo viên) : Ms. Hien is a…..(teacher).  ­ a student (học sinh)  : You are a ….(student).  ­ hospital (bệnh viện)  : Doctor works in a….(hospital). h. Example (nêu ví dụ) Ngoài ra tôi còn sử dụng tình huống giảng giải, dạy từ trong ngữ cảnh, giải   thích từ bằng những Tiếng Anh đơn giản, nhiều em rất tích cực trong việc đoán từ.  i. Translation (dịch): Giáo viên dùng những từ  tương đương trong tiếng Việt để  giảng nghĩa từ trong tiếng Anh. Giáo viên chỉ sử dụng thủ thuật này khi không còn  cách nào khác, thủ thuật này thường được dùng để dạy từ trừu tượng, hoặc để giải  quyết một số lượng từ nhiều nhưng thời gian không cho phép, Giáo viên gợi ý học   sinh tự dịch từ đó. Đối với những từ trừu tượng tôi dùng phương pháp dịch thuật như: Ví dụ: friendly (thân thiện), scary (làm sợ  hãi), usually ( thông thường), wonderful  ( kỳ diệu)… k. Compound word ( từ  ghép): Tôi đã giúp học sinh học thêm về  những từ  mới   khác bắt nguồn từ  những từ vựng đơn giản mà các em đã học ở  những bài trước.   Để minh họa, tôi đã vẽ những bức hình đơn giản để  các em dễ  dàng hình dung và   cảm thấy thích thú hơn. Ví dụ: rain (mưa) + bow (nơ)          rainbow (cầu vòng)            sun ( mặt trời) + flower (hoa)  sunflower (hoa hướng dương)… 11
  14.            4. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố từ mới: Chúng ta biết rằng chỉ giới thiệu từ mới thôi không đủ, mà chúng ta còn phải   thực hiện các bước kiểm tra và củng cố. Các thủ  thuật kiểm tra và củng cố  sẽ  khuyến khích học sinh học tập tích cực và hiệu quả  hơn. Trong hoạt động này,  chúng ta có thể sử dụng để kiểm tra từ mới. Sau đây là một vài thủ thuật kiểm tra   từ mới: + Rub out and remember: Hình thức này đã thực sự giúp học sinh nhớ từ ngay   tại lớp. + Slap the board: Hình thức này đã giúp học sinh nhận ra từ vựng qua nghe   hiểu và kiểm tra việc hiểu nghĩa từ  của học sinh. Học sinh làm việc  theo nhóm.  Nhóm nào cũng muốn chiến thắng vì vậy các em hoạt động rất nhanh nhẹn và sôi  nỗi. + What and Where: Tôi đã gợi ý để học sinh đưa ra được từ  vựng rồi viết  chúng vào các vòng tròn lên bảng, lần lượt (đọc­xoá­đọc) và tôi yêu cầu học sinh  phải nhớ  được từ  và vị  trí của nó để  lên viết lại. Thoạt đầu một số  em yếu còn   nhút nhát nhưng dần về sau nhiều em đã rất mạnh dạn và muốn lên bảng để  viết.   Hình thức này đã giúp học sinh ghi nhớ và ôn luyện từ bằng cách viết từ + Matching words: Tôi yêu cầu học sinh nối nghĩa tiếng Việt với tiếng Anh  hoặc với tranh. Phương pháp này tiết kiệm được thời gian và học sinh rất hào hứng   làm việc, 90% học sinh xung phong lên bảng để nối, kể cả những em rất yếu.  + Guessing pictures (đoán tranh): Phương pháp này đã giúp nhiều học sinh   cùng nói và luyện từ mới một cách có ý nghĩa. 12
  15. + Bingo: Bằng cách này tôi đã giúp học sinh luyện tập được kỹ  năng nghe   và nối âm thanh nghe được với từ  đúng. Học sinh thực hành rất sôi nỗi. Thậm chí  học sinh còn đề nghị giáo viên cho làm lại để quyết giành chiến thắng. + Noughts and croses: Tôi đã dùng hình thức này để kiểm tra việc vận dụng   từ mới trong câu và thực sự gây hứng thú học tập cho học sinh và đạt hiệu quả cao  về học tập từ. + Jumbled words: Bằng cách kiểm tra này tôi đã giúp học sinh luyện tập  viết đúng chính tả của từ. Học sinh phải sắp xếp được các chữ  cái lộn xộn thành  một từ có nghĩa. + Taboo (trò chơi có thể hiểu như trò "Đuổi hình bắt chữ"): Trò chơi "Taboo"   được tổ  chức rất đơn giản. Học sinh được ngồi theo nhóm với một chồng thẻ  từ  mới úp xuống. Một học sinh lật thẻ lên và cố  giải thích, ví dụ… để  khiến những  bạn khác nhớ  ra từ  mới. Học sinh đoán được từ  mới  ấy sẽ  nhận được thẻ  đó và   bắt đầu một lượt chơi khác. Cuối buổi học, người chiến thắng là người nhận  được nhiều thẻ từ mới nhất. + Hot seat (Ghế nóng): Trò chơi được tôi sử dụng nhiều để giúp học sinh ôn   từ và khuấy động không khí (warm ­ up). Lớp học được chia làm hai đội. Mỗi đội  cử  một bạn lên bảng, ngồi lên một chiếc ghế  quay lưng với cả  lớp. Các bạn còn  lại trong đội cố  gắng diễn tả từ vựng bằng cách diễn giải, ví dụ… để  thi xem ai   đoán ra nhanh hơn.  Với  những hình thức kiểm tra trên kết hợp với một số  trò chơi tôi đã tổ  chức cho các em, tôi nhận thấy các em hứng thú hơn với việc học từ vựng, ghi nhớ  từ nhanh và lâu hơn, đồng thời cũng rèn luyện kỹ năng viết và sử  dụng từ  cho các   em. Trong quá trình hướng dẫn học sinh học từ, nhớ từ và vận dụng từ tôi luôn  theo dõi thái độ và kết quả của học sinh để có sự điều chỉnh bổ sung cho việc nâng  cao giờ dạy từ vựng. Tôi thường đưa bài tập luyện từ  từ  dễ  đến khó để  nâng cao  13
  16. dần trình độ  và kỹ  năng sử  dụng từ  cho các em(đặc biệt là đối tượng khá, giỏi).  Các dạng bài tập tôi thường cho các em làm như sau: ­  Gap fill: học sinh điền từ  vào chỗ  trống để  hoàn thiện một câu hoặc một   đoạn văn. ­ Choose the best answer: Học sinh chọn đáp án đúng nhất trong các đáp án   gợi ý. ­ Put words in the right order: Học sinh sắp xếp các từ  xáo trộn thành câu  hoàn chỉnh. ­ Listen and choose the best answer: Học sinh lắng nghe một đoạn bang và  chọn đáp án đúng nhât. Với những bài tập này, một số  học sinh khá, giỏi đã thể  hiện năng lực, trí   tuệ của mình và các em làm việc rất tích cực, chủ động. Còn những em khác có thể  học hỏi  ở bạn khi làm nhóm hoặc thực hiện bài tập nhiều lần để  quen với những   dạng bài tập này. Đây phần lớn là những dạng bài được dùng trong đề  thi học kỳ  nên khi được làm một cách thường xuyên, các em đều quen dần và không có sự bỡ  ngỡ khi làm bài thi học kỳ.  CHƯƠNG 4: KIỂM CHỨNG CÁC GIẢI PHÁP. Mục đích của việc áp dụng những phương pháp dạy từ  vựng này là để  giúp   học sinh học từ vựng một cách nhanh chóng và ghi nhớ dài lâu, nâng cao chất lượng   việc học từ vựng cho học sinh. Việc giới thiệu từ vựng tuy chi ếm lượng thời gian   không nhiều song chúng có vai trò hết sức quan trọng, tạo tiền để  cho học sinh   nắm vững và sử  dụng ngôn ngữ  sau này. Người giáo viên với vai trò của người   hướng dẫn phải sử dụng những kỹ năng sao cho phù hợp trong quá trình giới thiệu  từ  vựng để đạt được mục đích mà bài học đề  ra. Trong quá trình soạn bài, nhiệm   vụ  của người giáo viên phải lựa chọn kỹ  năng, kỹ  thuật thích hợp, chuẩn bị  kỹ  càng cho các lời dẫn gợi mở, các vật dụng cần thiết liên quan đến việc giới thiệu   từ và chọn cách kiểm tra từ sao cho phù hợp gây hứng thú cho học sinh.  14
  17. Qua việc áp dụng các phương pháp dạy từ  mới trong quá trình giảng dạy  Tiếng Anh của trường TH Thứa, tôi nhận thấy có sự chuyển biến rõ rệt về thái độ  học tập cũng như  chất lượng của học sinh trong các tiết học Tiếng Anh. Sự  thay   đổi đó được thể hiện cụ thể như sau: Học Tiếng Anh và ghi nhớ  một số lượng từ vựng Tiếng Anh đối với các em  ở bậc Tiểu học là một điều khó. Vậy làm sao để các em dễ hiểu, dễ nhớ, hứng thú  trong quá trình học? Qua  bài  SKKN này, tôi muốn giới thiệu và đưa ra những  phương pháp  giúp học sinh ghi nhớ  nhanh các từ  vựng một cách dài lâu và hiệu   quả. Sau khi sử dụng các phương pháp tôi nhận thấy: ­ Các tiết học trở nên sôi nổi và sinh động hơn. ­ Học sinh đã thuộc các từ mới ngay tại lớp học. ­ Vốn từ vựng của các em tăng lên rõ rệt. ­ Các em học sinh yếu kém có thể sử  dụng được từ  vựng vào những câu đơn   giản. Những học sinh khá có thể sử dụng từ vựng trong những câu phức tạp hơn. ­ Học sinh có tự tin hơn khi trình bày quan điểm trước lớp. ­ Thích nói Tiếng Anh khi chào hỏi, yêu cầu, nhờ  bạn một việc gì đó và xin  phép ­ Phản ứng nhanh hơn trước, nhớ từ nhiều. ­ Học sinh hăng hái, hứng thú, sôi nổi hơn trong học tập, bài chuẩn bị   ở  nhà   chu đáo hơn.   Thông qua quá trình nghiên cứu và vận dụng đề tài “Dạy Từ vựng Tiếng Anh   tiểu học” tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm sau: Để nâng cao chất lượng giảng dạy, giáo viên phải có tâm huyết với nghề,  có  trách nhiệm với tiết dạy của mình, quan tâm đến các đối tượng học sinh và chất   lượng giảng dạy thì mới chọn được phương pháp linh hoạt theo hướng đổi mới  phù hợp với học sinh của mình. Ngoài ra giáo viên còn có thể khai thác các trang Web hỗ trợ việc học và dạy  môn Tiếng Anh trên trang mạng xã hội. Nguồn tài nguyên công nghệ thông tin đang   15
  18. ngày một phong phú và rộng khắp, dễ  khai thác và khai thác rất nhanh. Giáo viên  muốn dạy tốt môn Tiếng Anh thì cần tận dụng tối đa nguồn tài nguyên này. Từ  thông tin từ  vựng, từ  hình  ảnh sống động đến các phương pháp giảng dạy có rất   nhiều trên Internet, giáo viên có thể vào trang Web “www.tieuhoc.info” là trang Web  có nhiều phương pháp dạy từ  vựng Tiếng Anh mới và các phương pháp, tài liệu  dạy Tiếng Anh Tiểu học rất phong phú đa dạng. Giáo viên trong giờ dạy có thể sự  dụng nguồn tư liệu này một cách dễ dàng làm cho bài dạy sinh động lôi cuốn học   sinh hơn. “www.thuvienviolet.com” là diễn đàn dành riêng cho giáo viên ở tất cả các  lĩnh vực không riêng gì môn Tiếng Anh. ­ Và rất nhiều trang Web khác mà giáo viên có thể chia sẽ cùng nhau. Bên cạnh  đó có rất nhiều đĩa dạy học Tiếng Anh bằng hình  ảnh do người bản địa kết hợp  với người Việt dạy rất phong phú và phù hợp với lứa tuổi Tiểu học. Bộ  đĩa học   Tiếng Anh bằng hình ảnh: Fun with English, Go’s go, ABC English for children. Các  bộ phim hoạt hình, các trò chơi hoạt hình bằng Tiếng Anh…Các loại băng đĩa này  khi áp dụng vào việc giảng dạy trẻ học Tiếng Anh rất bổ ích. Sử  dụng nguồn tài   nguyên công nghệ  thông tin này không những giúp trẻ  học tốt môn Tiếng Anh mà  còn giúp trẻ tiếp cận sớm với công nghệ thông tin. Trẻ sẽ sớm biết cách khai thác  nguồn thông tin vô hạn này, khi tiếp cận thông tin không những giáo viên thích thú  trong giảng dạy mà học trò cũng say sưa với việc học. Nhưng cái gì cũng có hai  mặt của nó, hình thức học này rất lôi cuốn trẻ nên giáo viên và các bậc phụ huynh  phải biết cách hướng dẫn và kèm cặp trẻ trong quá trình tiếp cận.  ­ Cần chuẩn bị kế hoạch bài học chu đáo, chi tiết, tỉ m ỉ. Tăng cường sử dụng  đồ dùng dạy học sẵn có hoặc tự làm phong phú, thiết thực, có hiệu quả.  ­ Sử dụng các phương pháp dạy từ vựng lôi cuốn, tổ  chức nhiều trò chơi hay  dạy cho các em những bài hát vui nhộn để tăng cường vốn từ vựng và rèn luyện cấu trúc câu tạo cho học sinh ham thích môn học. Hệ thống cho   học sinh đầy đủ kiến thức trọng tâm đơn giản, dễ nhớ, dễ sử dụng. 16
  19. ­ Khuyến khích học sinh đổi sang Tiếng Anh những điều các em nói bằng  Tiếng Việt đồng thời sử dụng Tiếng Anh thường xuyên hơn ở lớp, hay nhóm  bạn  học tập ở nhà. ­ Khen thưởng tuyên dương những em có năng khiếu, có tiến bộ và có tham gia  phát biểu. Ngoài ra, cần thường xuyên giúp đỡ  động viên các em còn yếu kém và   kịp thời sửa lỗi ngoại ngữ  của các em một cách nhẹ  nhàng, để  các em không bị  mặc cảm, xấu hổ, sợ sai dẫn đến việc ngại nói hoặc lười học. ­Tạo giờ học thoải mái, sinh động, hợp tác tin cậy lẫn nhau giữa thầy và  trò phát huy tốt tính tích cực tư duy của học sinh. Giáo viên nên dùng những thuật   ngữ đơn giản, dễ hiểu trong khi giảng bài.  ­Cập nhập thông tin liên quan đến phương pháp giảng dạy Tiếng Anh trong   trường Tiểu học.  ­Bản thân giáo viên luôn luôn tự học tự rèn, liên hệ trao đổi với đồng nghiệp  những kinh nghiệm trong giảng dạy.  ­ Thường xuyên sử  dụng đồ  dùng dạy học, các trang thiết bị  trong phòng   Tiếng Anh. ­ Thực tế cho thấy, phương pháp giáo dục Tiếng Anh theo khuynh hướng  giao  tiếp rất khó áp dụng cho một lớp học có sĩ số  đông. Ngoài việc phải vận dụng có   nghệ thuật phương pháp  giáo dục như đã nêu trên, một tiết học muốn thành công  còn phải phụ thuộc  rất nhiều yếu tố bên ngoài, trong đó cơ sở vật chất, thiết bị và  trình độ học  sinh là những yếu tố cơ bản. Muốn vậy, trước hết giáo viên phải nắm được mục  tiêu của tiết học, nội dung tiết học, phương pháp kiểm tra đánh giá của tiết học.  Ngoài ra, giáo viên  phải hiểu được đặc điểm của học sinh xem họ còn thiếu những  gì để  đạt được mục tiêu của tiết học. Và để  việc giảng dạy Tiếng Anh có hiệu   quả hơn, ngoài việc đổi mới chương trình, phương pháp thì việc cần phải làm ngay  là phân loại trình độ  Tiếng Anh đầu vào của học sinh, chia nhỏ  lớp theo trình độ,  giới hạn sĩ số lớp và phân bổ thời gian dạy hợp lý. 17
  20.  Sau khi tôi áp dụng những phương pháp dạy từ vựng một cách linh hoạt trong  các tiết học, thật  bất ngờ, các em tỏ ra rất háo hức khi được học từ vựng, các em  cởi mở hơn, không còn rụt rè nữa và cũng tham gia bài học tích cực hơn, trong thời  gian gần đây học sinh có nhiều tiến bộ  ở môn Tiếng Anh. Tuy kết quả chưa thật   cao nhưng những tiến bộ   bước đầu giúp tôi hưng phấn hơn trong công tác. Một   điều thật thú vị  là sau giờ  học, đôi lúc tôi bắt gặp các em chỉ  tay vào một vài vật   dụng hoặc sự vật gì trên đường và gọi tên chúng bằng những từ  vựng Tiếng Anh   mà các em đã được học một cách rất vui vẻ và tự nhiên. Qua đó, tôi nhận thấy vốn   từ vựng đã đi sâu vào các em một cách khác nhẹ nhàng và tạo niềm vui hứng khởi   cho các em.  Theo tôi, những phương pháp mà tôi đã áp dụng đã đem lại một hiệu quả nhất  định, giúp học sinh tăng vốn từ cũng những khả năng nhớ lâu lượng từ đó một cách   dễ dàng. PHẦN 3. KẾT LUẬN  1. Kết luận: Là một giáo viên Tiếng Anh Tiểu học tôi luôn trăn trở làm thể nào để dạy cho  học sinh hiểu và nắm chắc kiến thức mà các em không cảm thấy áp lực. Chính vì  vậy tôi thiết nghĩ việc trau dồi phương pháp không phải là của riêng ai mà là vấn   đề  chung cho mọi giáo viên. Cùng một vấn đề  song người thầy phải làm thế  nào  để  nó đơn giản nhất, dễ  hiểu nhất, gây hứng thú nhất khi truyền đạt cho các em,  giúp các em hiểu và khắc sâu kiến thức. Trong các phương pháp dạy học hay của   các bạn đồng nghiệp mà tôi đã học hỏi và qua thực tiễn dạy học tôi muốn góp  phần công sức nhỏ bé của mình trong phương pháp dạy từ vựng Tiếng Anh  ở học   sinh Tiểu học .  Tuy nhiên một phương pháp giáo dục cố định không thể là chìa khoá chung cho  mọi giáo viên mà phải tuỳ thuộc từng hoàn cảnh lớp học, đối tượng học, nội dung  học để mỗi giáo viên cần điều chỉnh các hoạt động giảng dạy hợp lý như  nhà bác  học  Newton  đã từng nói  “Những điều ta biết chỉ  là giọt nước, những điều chưa   18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2