intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:18

35
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm nghiên cứu, tìm hiểu, từ đó tìm ra cho mình phương pháp thông qua các môn học, các hoạt động giáo dục, sự trải nghiệm... có hiệu quả cao nhất trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nhằm giúp cho các em - những cô bé, cậu bé vừa rời vòng tay bố mẹ khỏi bỡ ngỡ, biết tự phục vụ bản thân, biết tìm kiếm sự giúp đỡ của bạn bè, biết hợp tác trong nhóm, có những quyết định phù hợp và biết xử lý các tình huống bất lợi các em gặp phải trong cuộc sống, đồng thời xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với gia đình và bạn bè, biết sống an toàn, lành mạnh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học

  1. 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài: Để  nâng cao chất  lượng giáo dục toàn diện thế  hệ  trẻ,  đáp  ứng   nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,  đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo  dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ, đặc biệt là cách tiếp cận  kỹ năng sống, đó là: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và  học để  cùng chung sống. Cùng với các biện pháp để  nâng cao chất lượng  giáo dục toàn diện cho học sinh trong nhà trường, giáo dục kỹ năng sống cho  học sinh là yêu cầu vô cùng quan trọng, một nội dung không thể tách rời của   quá trình giáo dục. Mục đích của quá trình giáo dục kỹ  năng sống là nhằm   trang bị cho học sinh nhưng kỹ năng cơ bản, cần thiết để các em có thể thích   ứng với cuộc sống xã hội thời hiện đại, luôn có những thay đổi trong điều   kiện của một xã hội đang trên đà phát triển và hội nhập. Đặc biệt rèn luyện   kỹ  năng sống cho học sinh được xác định là một trong những nội dung cơ  bản của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích  cực” Với mục tiêu các em không chỉ giỏi về kiến thức mà còn phải được  tôi luyện những kỹ năng sống, qua đó tạo cho các em một môi trường sống  lành mạnh, an toàn, tích cực, vui vẻ để trang bị cho các em vốn kiến thức, kỹ  năng, giá trị sống sau này bước vào đời tự tin hơn. Giáo dục kỹ  năng sống phải được bắt đầu từ  khi trẻ  còn rất nhỏ,  nhất là lứa tuổi tiểu học. Bởi lẽ, bậc tiểu học là “bậc học nền tảng của hệ  thống giáo . dục quốc dân”. Bước vào lớp một là các em hoạt động trong   một môi trường mới. Khi gia nhập cuộc sống nhà trường, các em phải tiến   hành hoạt động học ­ hoạt động nghiêm chỉnh có kỷ cương, nề nếp.  Chuyển  từ  hoạt động chủ  đạo là vui chơi sang hoạt động chủ  đạo là học tập chắc   chắn trẻ  sẽ  không tránh khỏi sự  bỡ  ngỡ. Vì thế  phải chuẩn bị  cho các em  tâm lý sẵn sàng đi học. Việc giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh tiểu học   cũng được bắt đầu ngay từ  những buổi đầu tiên các em đến trường. Nếu   như không được chuẩn bị chu đáo về mặt tâm lý cho trẻ trước khi đi học thì  những buổi đầu tiên đến trường của trẻ  sẽ  xảy ra những tình huống như:  đòi theo bố  mẹ  về  nhà, không dám nói chuyện với bạn bè, thấy thầy cô,  người lạ thì sợ, không dám xin phép cô giáo đi vệ sinh... Vậy làm thế nào để  các em tự tin, biết  ứng xử phù hợp với các tình huống xảy ra trong lớp học  cũng như trong cuộc sống. Đây là một nhiệm vụ quan trọng đối với các thầy 
  2. cô giáo và các bậc phụ huynh vì học sinh tiểu học là giai đoạn đầu tiên hình  thành nhân cách, giúp các em có một kỹ năng sống tốt cho tương lai sau này. Giáo dục kỹ năng sống cho các em học sinh tiểu học là giáo dục cho   các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay   đổi  ở  các em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát   triển toàn diện nhân cách trên cơ sở học sinh có tri thức, giá trị, thái độ và kỹ  năng phù hợp. Với những lý do đó, tôi chọn sáng kiến “Giáo dục kỹ  năng  sống cho học sinh tiểu học” để  đi sâu, nghiên cứu, tìm hiểu, từ  đó tìm ra  cho mình phương pháp thông qua các môn học, các hoạt động giáo dục, sự  trải nghiệm... có hiệu quả  cao nhất trong việc giáo dục kỹ  năng sống cho  học sinh nhằm giúp cho các em ­ những cô bé, cậu bé vừa rời vòng tay bố  mẹ  khỏi bỡ  ngỡ, biết tự  phục vụ  bản thân, biết tìm kiếm sự  giúp đỡ  của   bạn bè, biết hợp tác trong nhóm, có những quyết định phù hợp và biết xử lý  các tình huống bất lợi các em gặp phải trong cuộc sống, đồng thời xây dựng   được mối quan hệ  tốt đẹp với gia đình và bạn bè, biết sống an toàn, lành  mạnh. Vậy kỹ năng sống là gì? Có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Theo tổ  chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên Hợp Quốc: Kỹ  năng sống là năng  lực cá nhân để họ  thực hiện đầy đủ  các chức năng tham gia vào cuộc sống   hàng ngày. Theo UNICEFF: Kỹ  năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ  năng tâm lý  xã hội và giao tiếp cá nhân, giúp cho con người đưa ra những quyết định có   cơ  sở, giao tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ  năng tự  xử  lý và   quản lý bản thân nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Riêng đối với bản thân, qua nghiên cứu tôi nhận thấy: kỹ năng sống   đơn giản là tất cả những điều cần thiếu chúng ta phải biết để thích ứng với   những thay đổi diễn ra hàng ngày trong cuộc sống. Kỹ năng sống được hình  thành thông qua một quá trình sống, rèn luyện, học tập trong gia đình, nhà  trường và ngoài xã hội, hình thành một cách tự  nhiên qua những va chạm,   những trải nghiệm trong cuộc sống và qua giáo dục mà có. Vì vậy, kỹ năng  sống của mỗi người vừa có tính cá nhân, vừa có tính xã hội và chịu  ảnh   hưởng của gia đình, cộng đồng, dân tộc. 1.2. Điểm mới của đề tài: Vấn đề  giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh nói chung và học sinh  tiểu học nói riêng được toàn xã hội quan tâm trăn trở, nhất là trong giai đoạn   hiện nay. Hơn bao giờ  hết, con người cần phải có sự  cảm thông, chia sẻ,   biết giúp đỡ  người khác, biết đối xử  thân thiện với bạn bè, biết phân biệt  cái đúng, cái sai và làm theo cái đúng, ủng hộ cái đúng. Kiên quyết đấu tranh  
  3. với những biểu hiện sai trái, xấu xa, trở thành một con người năng động mà   xã hội đang cần. Trong dạy kỹ năng sống, không có khái niệm “vâng lời”, chỉ có khái  niệm “lắng nghe”, “đồng cảm”, “chia sẻ”. Mục tiêu của giáo dục kỹ năng  sống là rèn luyện các tư duy tích cực, hình thành thói quen tốt thông qua các  hoạt động và bài tập trải nghiệm, chứ không đặt mục đích “rèn nếp” hay  “nghe lời”. Công dân toàn cầu là người biết suy nghĩ bằng cái đầu của mình,  biết phân tích đúng sai, quyết định có làm điều này hay điều khác và chịu  trách nhiệm về điều đó, chứ không tạo ra lớp công dân “chỉ biết nghe lời”. Tuy nhiên đối với sáng kiến này, tôi đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu thông  qua quá trình dạy học, nó chỉ áp dụng cho bậc tiểu học nói chung ­ bậc học  mà tôi đang trực tiếp giảng dạy. Qua quá trình nghiên cứu, tôi nhận thấy sáng kiến mà tôi nghiên cứu   có một số điểm mới như sau: + Giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh tiểu học không chỉ  giới hạn   trong các môn học mà là một quá trình xuyên suốt mọi lúc mọi nơi. Năm học  2016­2017, dạy học theo tài liệu “Sống đẹp” đã thực sự  chú trọng đến giáo  dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học. + Giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh chú trọng đến quá trình trải   nghiệm trong cuộc sống. Bởi vì thông qua sự trải nghiệm mới xuất hiện các  tình huống để các em xử lý, giải quyết. + Giáo dục kỹ năng sống không chỉ ở trong trường học, lớp học mà ở  cả gia đình, xã hội bởi vì môi trường sống của các em ở gia đình ảnh hưởng  rất lớn đến các hành vi trong cuộc sống của các em. Vì vậy phải phối kết  hợp với phụ  huynh về  cách thức giáo dục kỹ  năng sống cho các em. Phụ  huynh phải là tấm gương sáng trong các hành vi, ứng xử để con, em noi theo. * Phạm vi áp dụng đề tài: Đối với học sinh tiểu học, được áp dụng  trong lĩnh vực giáo dục kỹ năng sống.
  4. 2. PHẦN NỘI DUNG: 2.1 Thực trạng giáo dục kĩ năng sống ở trường tiểu học: Hiện nay, việc rèn kĩ năng sống của các em  ở  trường tiểu học còn  nhiều hạn chế. Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh chuyển biến chậm, các  em hay “nói trước quên sau” và chưa có khả  năng vận dụng những điều đã  học áp dụng vào thực tế. Ví dụ các em đã được học bài đạo đức về nội dung  không bẻ  cành, ngắt lá của cây, hoa nhưng khi đi học về  hoặc đi chơi trên  sân trường, các em vẫn ngắt lá cây, hoa tùy tiện và vứt đầy sân trường. Với học sinh tiểu học, tâm lý độ tuổi cho thấy các em rất hiếu động các   em có nhu cầu hỏi đáp, không muốn bị  áp đặt. Mặt khác, các em một mực  rất tin vào lời nói của thầy cô giáo, thầy cô bảo đọc, bảo chép thì cứ đọc cứ  chép và quá trình  ấy cứ  lặp đi lặp lại dần dần dẫn đến thói quen. Nếu nói  rằng thầy cô giáo không quan tâm đến việc dạy rèn kĩ năng sống là không  đúng, nhưng việc rèn kĩ năng sống  ở  đây là rất hạn chế  nhất là việc lồng  ghép vào tất cả  các môn học cũng như  lồng ghép vào các hoạt động ngoại   khóa giáo và một số viên còn mơ hồ về việc rèn kĩ năng sống cho học sinh.  Kỹ năng sống của học sinh lớp một rất hạn chế, phần đa các em chưa  biết tự phục vụ bản thân, chưa biết tự chuẩn bị cho mình các đồ dùng trước   khi đến lớp. Chưa nhận ra được những việc không nên làm, những việc nên  tránh đối với bản thân; chưa biết xử lý các tình huống khi gặp khó khăn như  làm bài không được hay không hiểu bài; bố  mẹ  quên đón; bị  đau khi đang  học; bị lạc đường...  Đối với học sinh các lớp trên các lớp trên các kỹ  năng: nghe, đọc, nói,   viết là những kỹ năng cần thiết phục vụ cho quá trình học tập nhưng các em   chưa có nhiều lắm. Khi hoạt động nhóm chưa biết hợp tác với các bạn trong  nhóm chỉ cho rằng mình tự làm được bài là đủ. Nhiều em yếu chưa biết tìm  kiếm sự giúp đỡ của bạn bè, của thầy cô giáo hoặc từ bố mẹ để giải quyết  các nội dung bài học. Các em còn tỏ ra lúng túng khi gặp người lạ hoặc thầy  cô giáo hỏi, hoặc ai đó chúc mừng, tặng quà thì chưa biết đối đáp một cách   lịch sự.  Kỹ  năng ra quyết định/xử  lý một số  tình huống không tốt. Chưa biết  tập trung lắng nghe người khác nói, chưa biết chọn bạn phù hợp để hợp tác  cùng giải quyết các công việc.  Học sinh bây giờ rất ít có ước mơ, hoài bão chính đáng, không biết đề  ra cho mình mục tiêu để phấn đấu. Các em chưa biết sắp xếp công việc một 
  5. cách khoa học, sử  dụng thời gian hợp lý, giờ  nào việc đó. Đặc biệt các em   hiện nay ít quan tâm đến người khác, thấy bạn khó khăn thì không giúp đỡ,  xa lánh những bạn khiếm khuyết... Phần lớn các em chỉ  thích hưởng thụ, lười lao động, không chịu trách  nhiệm về việc làm của mình. Tôi đã từng chứng kiến một nhóm các em em  làm đổ  chiếc xe đạp dựng cạnh bên đường nhưng không em nào dựng lên.  Khi ăn quà xong các em liền vứt bao bì ngay xuống đất. Các em cũng chưa biết cách bảo vệ bản thân như không nên đi qua các   quãng đường vắng, tối một mình, không chơi các trò chơi thiếu lành mạnh,  ăn các thức ăn chưa rõ nguồn gốc, hết hạn sử dụng... Các em thích nói chuyện trong giờ học, chưa thật sự tập trung, rất ngại   tiếp xúc với thầy cô, ít tham gia các hoạt động học tập. Sự  tập trung chú ý  của học sinh  ở lớp chưa cao, thiếu bền vững, các em rất ngại tham gia các  hoạt động nhóm, ngại suy nghĩ để  tìm ra hướng giải quyết vấn đề. Khó  khăn nhất là trong giao tiếp với bạn bè thiếu kiểm soát trong ngôn ngữ . Học   sinh nữ thì thích chơi theo nhóm, có sự phân biệt trong mối quan hệ bạn bè,   các em còn nổi cáu khi bạn chọc ghẹo...  Tôi cho rằng những thực trạng trên không phải thuộc về  bản chất các  em. Nếu được giáo dục tốt, các em nhận ra được lẽ  phải thì chắc chắn các  em sẽ thay đổi. * Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. Qua điều tra tôi thấy nhìn chung các em đều tốt, ngây thơ, hồn nhiên,  vẫn tinh nghịch và đáng yêu lắm. Các em đều mong muốn mình trở  thành   con ngoan, trò giỏi, sau này lớn lên giúp ích cho đất nước, gia đình. Song ở  lứa tuổi này bắt đầu hình thành những hành vi cá nhân, tính cách và nhân  cách. Các em có nhiều ước mơ, hoài bão và thích tìm tòi, khám phá, nhưng do  chưa hiểu biết sâu xa về  xã hội, đặc biệt là do các em chưa được trang bị  những kĩ năng sống cần thiết nên thường chưa làm chủ được hành vi ứng xử  của mình dẫn tới dễ bị lôi kéo vào các việc tiêu cực trong cuộc sống.  Một nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là phần lớn bây giờ  mỗi  gia đình chỉ có một đến hai con. Vì vậy con cái là thứ  quý báu, được nuông  chiều. Bố mẹ, ông bà đều làm thay từ  khâu chuẩn bị áo quần, sách vở, đưa  đón đi học vì vậy nhiều em có tư  tưởng  ỷ  lại, chỉ  thích hưởng thụ, không  biết tự  chăm lo cho bản thân. Mong muốn của bố  mẹ  là con cái phải học  thật giỏi và ăn thật nhiều để  bố  mẹ vui lòng còn những công việc khác thì   không cần thiết lắm. Ví dụ như tham gia sinh hoạt Đội, các câu lạc bộ, văn 
  6. nghệ, thể  dục thể  thao... nhiều gia đình không muốn con mình đi, sợ  mệt.  Họ  có biết đâu kỹ  năng sống của con cái mình hình thành từ  đây, qua tham  gia các hoạt động, qua sự trải nghiệm các em mới va chạm, có va chạm mới  nảy sinh ra tình huống để các em xử lý.  Như  chúng ta thấy, ngoài thời gian học  ở trường ra, các em chỉ  biết  xem ti vi hoặc chơi trò chơi trên máy tính. Đủ  các loại phim các em tha hồ  xem. Đến lớp không biết hòa đồng với bạn bè, thấy các bạn nghèo khó, hoàn   cảnh thì xa lánh, bạn mượn đồ  dùng học tập cũng không muốn cho. Việc   đánh nhau, nói tục, chửi bậy xảy ra nhiều. Các kỹ năng như tương trợ nhau,   giao tiếp, diễn đạt trước đám đông được các thầy cô giáo tích cực hình thành   và củng cố nhưng chưa thể hiện được nhiều. Các em ngày càng thực dụng,   ích kỷ  và lười hoạt động hơn. Một số em cứ  như   ếch ngồi đáy giếng, cứ  gặp việc gì khó là khóc toáng lên để bố mẹ giúp đỡ.  Học sinh bây giờ  rất ít em đọc sách. Mà không đọc sách thì lấy đâu  ra ngôn ngữ để làm giàu vốn từ cho mình nên khi giao tiếp các em thường bí  từ, lúng túng hay trả lời cộc lốc.  Nhiều phụ  huynh còn chiều chuộng con đến mức cho con vừa ăn  cơm vừa chơi điện thoại con mới chịu ăn. Không cho các em tiếp xúc với lao   động, sợ nắng, gió, mệt con mình. Như vậy các em không biết lao động, mà   không biết lao động thì làm sao các em biết quý trọng người lao động. Các  em có trồng cây xanh thì mới biết cách bảo vệ cây xanh, có yêu môi trường   mới biết bảo vệ môi trường.... Một nguyên nhân nữa là môn Hoạt động ngoài giờ lên lớp chưa được  coi trọng lắm. Phần lớn các   giáo viên vẫn mãi mê dạy các kỹ  năng quan   trọng truyền thống như  Toán, Tiếng Việt chiếm nhiều thời gian, giáo viên  chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh   lớp mình đang dạy chỉ  luôn chú trọng đến việc đọc tốt, làm tính tốt, ít tổ  chức cho các em tham quan, trải nghiệm, hoạt động chung với bạn bè để  hình thành các kỹ năng quan trọng như: giao tiếp, hợp tác, chia sẻ, quan tâm  đến bạn bè. Ngoài ra, kỹ năng sống các em có ảnh hưởng rất lớn từ gia đình. Bố  mẹ  chính là tấm gương lớn nhất cho các em soi. Bởi trước khi đến trường  các em có thời gian ở nhà, sống với gia đình nên những nét văn hóa, ứng xử  của các thành viên trong gia đình ảnh hưởng rất nhiều đến các em. Rời trường Mầm non, bước vào trường tiểu học là các em sẽ  trở  thành những người học sinh thực thụ. Các em phải biết tham gia các hoạt   động một cách nghiêm túc theo quy định của nhà trường. Nhưng trong thực   tế các em thường nóng vội không theo quy định, không muốn chờ đến lượt. 
  7. Đặc biệt là các em lớp 1, không biết thực hiện giờ  nào việc đó. Nhiều em   quá nghịch ngợm trong khi một số em lại ngồi thu lu một mình, không biết  thực hiện các nhiệm vụ cô giao, không biết chia sẻ  với bạn bè, thầy cô khi  gặp khó khăn, bởi các em thiếu kỹ năng sống.   2.2. Các giải pháp: Qua nghiên cứu tôi nhận thấy: người giáo viên trực tiếp giảng dạy và  chủ  nhiệm có ảnh hưởng rất lớn đến sự  hình thành và phát triển nhân cách   của các em. Kỹ  năng sống của các em được hình thành thông qua quá trình  học tập, trải nghiệm. Nếu được sự  hướng dẫn, tổ  chức quá trình học tập  hợp lý và sự  đầu tư, chăm chút để  giáo dục kỹ  năng sống qua mỗi bài học,   mỗi hoạt động một cách thường xuyên của người giáo viên thì kỹ năng sống  của các em sẽ được phát triển. Vì thế tôi luôn tìm tòi, vận dụng và thay đổi   các biện pháp trong công tác giảng dạy. Với mong muốn được hiểu, gần  gũi, giúp  đỡ,  định hướng kịp thời cho các em,  được góp một phần kinh  nghiệm nhỏ  bé của mình vào việc giáo dục nhân cách, giáo dục ý thức kỷ  luật, nề  nếp, hình thành các kĩ năng sống cần thiết cho các em thông qua   công tác giảng dạy. Vậy để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả tốt, sau đây  tôi xin đưa ra một số giải pháp: 2.2.1. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học: *Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn Tiếng Việt. Môn Tiếng Việt  ở Tiểu học có nhiệm vụ  hình thành và phát triển ở  học sinh các kỹ năng: nghe, đọc, nói, viết để  học tập và giao tiếp trong các  môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua hoạt động dạy học Tiếng   Việt góp phần rèn luyện thao tác tư duy, mở rộng hiểu biết về tự nhiên, xã  hội và con người. Kỹ  năng sống đặc thù, thể  hiện  ưu thế  của môn Tiếng  Việt là giao tiếp, sau đó là kỹ  năng nhận thức, bao gồm nhận thức thế giới   xung quanh, tự  nhận thức, ra quyết định. Trong sách giáo khoa Tiếng Việt   Tiểu học, có nhiều bài học mà tên gọi của nó đã nói rõ mục tiêu giáo dục các  kỹ  năng giao tiếp xã hội như: Lập danh sách học sinh, Lập thời gian biểu,  Viết tin nhắn, làm biên bản cuộc họp... Như vậy, cơ hội để hình thành kỹ năng sống qua môn học này là rất  lớn nhưng người giáo viên phải hết sức chú ý, đặc biệt là khi soạn bài, trong   từng bài học phải chú ý đến giáo dục kỹ năng sống cho các em. Ví dụ ở phân môn Học vần lớp 1, tất cả các bài đều có phần luyện   nói theo chủ đề như là: Tự giới thiệu; Bé và bạn bè; Mai sau lớn khôn; Vâng   lời cha mẹ; Giúp đỡ cha mẹ; Những người bạn tốt.... 
  8. Khi luyện nói, kỹ  năng giao tiếp của các em được phát triển. Tuy   nhiên không chỉ dừng lại ở phần luyện nói theo chủ đề, giáo viên có thể phát  triển cao hơn như tổ chức lớp thành vòng tròn, mỗi thành viên được tự  giới   thiệu về  mình bao gồm: tên gọi, học sinh lớp, địa chỉ  gia đình, sở  thích cá   nhân... Lúc đầu có nhiều em ái ngại, rụt rè, nhưng sau khi các bạn nói hay và   được cô khen, các em lại thích nói, nói hăng hái và trôi chảy hơn. Em nào nói  hay đều được cả  lớp và cô giáo vỗ  tay khen ngợi, như vậy các em sẽ  hưng  phấn và thích được nói nhiều hơn. Ở  lớp 5, phân môn Tập làm văn hình thành cho các em kỹ  năng lập  kế hoạch, kỹ năng tổ chức các hoạt động thông qua các bài tập làm văn như:   Liên hoan văn nghệ chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam; Lập chương trình  hoạt động về: Hội trại nhân ngày thành lập Đoàn; Triển lãm các chủ đề Bảo   vệ môi trường; Quyên góp  ủng hộ  thiếu nhi và nhân dân các vùng thiên tai;  Gặp gỡ, giao lưu với học sinh các trường kết nghĩa... Để  lập được chương trình hoạt động chắc chắn các em sẽ  gặp khó  khăn bởi ngoài trí tưởng tượng yếu, chưa biết sắp xếp công việc khoa học   thì một  phần quan trọng là các em chưa được tham gia, chưa  được trải  nghiệm. Như vậy vai trò của giáo viên rất quan trọng, giáo viên sẽ  tổ  chức   cho các em tham gia, trải nghiệm các hoạt động một cách thực thụ. Được  trải nghiệm các em mới có thể  hình dung hoạt động đó như  thế  nào và lập   kế  hoạch, nhưng một số  em vẫn chưa lập được kế  hoạch hợp lý. Đòi hỏi   giáo viên phải hỗ trợ, giúp đỡ, khơi gợi để các em phát triển tư duy sáng tạo. Kỹ năng sống của các em cũng được hình thành rất nhiều qua các bài  tập đọc. Ví dụ: + Người ăn xin (TV4), qua bài học này giáo dục cho các em sự  cảm   thông, chia sẻ đối với những người kém may mắn + Một người chính trực (TV4) giáo dục kỹ  năng tự  nhận thức bản  thân. + Dế mèn bênh vực kẻ yếu (TV2) giáo dục sự cảm thông, chia sẻ + Nỗi dằn vặt của An­drây­ca (TV4) giáo dục kỹ năng tự nhận thức   bản thân + Trung thu độc lập (TV4) giáo dục kỹ  năng đảm nhận trách nhiệm  của mình. Ngoài ra các bài tập làm văn như:  + Viết thư   (TLV4)  phát triển kỹ  năng giao tiếp và  ứng xử  lịch sự  trong giao tiếp. + Tả ngoại hình nhân vật: Phát triển tư duy sáng tạo, tìm kiếm và xử  lý thông tin...
  9. Như  vậy môn Tiếng Việt góp phần hình thành và giáo dục kỹ  năng   sống cho các em rất lớn. Để đạt được kết quả, đòi hỏi mỗi giáo viên ngoài   việc tổ chức các hoạt động để  giúp các em lĩnh hội kiến thức thì trong quá  trình thiết kế, tổ chức các hoạt động dạy học, phải chú trọng đến hình thành   và giáo dục kỹ năng sống cho các em trong tiết học đó, trong bài học đó. * Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh  thông qua môn Đạo đức: Bản thân môn Đạo đức đã chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến   kỹ năng sống như: kỹ  năng giao tiếp,  ứng xử  với ông bà, cha, mẹ, thầy, cô  giáo, bạn bè..., kỹ năng bày tỏ ý kiến của bản thân, kỹ năng ra quyết định và  giải quyết vấn đề phù hợp, kỹ năng giữ vệ sinh cá nhân, kỹ năng tự phục vụ  và tự quản lý thời gian, kỹ năng xử lý thông tin và các vấn đề trong đời sống  ở trường học, ở cộng đồng. Để giúp các em có những kỹ năng trên thì vai trò   của giáo viên rất quan trọng, đặc biệt là việc lựa chọn các phương pháp và  hình thức dạy học học phù hợp. Ví dụ bài: Tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước (Đạo đức lớp 3) HĐ1: Cho học sinh tìm hiểu vai trò của nước bằng cách đưa ra một  số  hình  ảnh: Dùng nước tắm giặt, Tưới cây, ăn uống sinh hoạt hàng ngày,   một số  hình  ảnh cánh đồng khô hạn, nứt nẻ  do thiếu nước, một số  cánh   đồng xanh tốt đầy đủ nước... Cho các em quan sát, thu thập thông tin và ghi vào phiếu cá nhân. Trình bày ý kiến và kết luận chung: Nước là nhu cầu cần thiết đối  với cuộc sống sinh vật nói chung và con người nói riêng. HĐ2: Bày tỏ  ý kiến: Tổ chức cho học sinh bày tỏ  ý kiến bằng cách  dùng cách thẻ màu xanh (đồng ý), thẻ màu vàng (không đồng ý). Giáo viên chiếu nội dung các hành vi: + Đổ nước thải ra sông, hồ + Tắm cho trâu, bò gần giếng nước ăn + Vứt vỏ chai, lọ thuốc bảo vệ thực vật vào thùng rác riêng + Không vứt rác, vỏ phế liệu xuống sông, hồ, ao + Sử dụng xong để vòi nước chảy mà không khóa Học sinh giơ  thẻ để  bày tỏ  ý kiến đối với mỗi hành vi. Sau khi học  sinh bày tỏ mỗi ý kiến, giáo viên trao đổi: Tại sao em đồng tình (không đồng tình) với hành vi này? Em có thể làm gì khi chứng kiến hành vi đó? Giáo viên kết luận tính đúng/sai của các hành vi, việc làm trên đối  với môi trường và sau đó chốt lại.
  10. Cuối tiết học, giáo viên dặn dò các em về nhà tìm hiểu việc sử dụng   và bảo vệ nước tại gia đình, địa phương sau đó thu thập thông tin, ghi nhanh   vào phiếu để tiết sau báo cáo. Với cách tổ  chức hình thức dạy học và sử  dụng phương pháp dạy  học phù hợp. Học sinh sẽ tự nhận thức tầm quan trọng của nước và hành vi   đúng/sai để bảo vệ nguồn nước. Các em sẽ nhớ mãi vai trò của nước và biết   cách bảo vệ nguồn nước. * Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn Tự nhiên và xã hội. Môn Tiếng Việt giúp các em phát triển kỹ  năng giao tiếp, kỹ  năng  cảm thông, chia sẻ, tự  nhận thức bản thân, biết tìm kiếm thông tin. Môn   Đạo đức giúp các em phát triển kỹ  năng  ứng xử  có văn hóa, nhận thức các   hành vi đúng/sai và có quyết định đúng đắn, phù hợp... thì ở môn Tự nhiên và  xã hội giúp các em phát triển kỹ năng quan sát, nêu nhận xét, thắc mắc, biết   đặt câu hỏi và diễn đạt sự hiểu biết của bản thân về các sự vật, hiện tượng   đơn giản trong tự  nhiên và xã hội. Đặc biệt môn học này giúp các em xây  dựng quy tắc giữ vệ sinh, không ăn những thức ăn quá hạn, không rõ nguồn  gốc, bảo vệ sức khỏe và giữ an toàn cho bản thân, gia đình, cộng đồng, yêu   quê hương, trường lớp và có thái độ thân thiện với thiên nhiên. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu giáo dục kỹ năng sống qua môn học,  giáo viên phải biết thiết kế các hoạt động học và tổ chức hình thức dạy học   hợp lý. Làm thể nào học sinh tự tìm ra những việc làm đúng/sai, cách ứng xử  phù hợp nhất. Ví dụ: Bài: Phòng bệnh béo phì (khoa học 4) HĐ1: Giáo viên cho học sinh hoạt làm việc theo nhóm 4, yêu cầu các   nhóm trao đổi và vẽ tranh những trẻ em bị béo phì. Các nhóm trưng bày sản phẩm, đại diện một nhóm mô tả  đặc điểm  của trẻ bị béo phì. Giáo viên tóm tắt ý kiến và nêu ba dấu hiệu chính của trẻ bị béo phì: + Có cân nặng hơn mức trung bình so với chiều cao và tuổi là 20% + Có những lớp mỡ trên vú, cánh tay và cằm + Bị hụt hơi khi gắng sức HĐ2: Yêu cầu các nhóm liệt kê những bất lợi của người béo phì Các nhóm nêu, sau  đó giáo viên kết luận, nêu ba  điểm chính của  người bị béo phì: + Mất thoải mái trong cuộc sống + Giảm hiệu suất lao động và sự lanh lợi trong cuộc sống + Có nguy cơ bị bệnh tim mạch và huyết áp cao, bệnh tiểu đường... HĐ 3: Tìm hiểu nguyên nhân và cách phòng bệnh béo phì.
  11. Cho học sinh thảo luận theo cặp đôi, quan sát các hình vẽ ở sách để  tìm ra nguyên nhân và cách phòng bệnh theo các câu hỏi gợi ý: + Nguyên nhân nào dẫn đến bệnh béo phì + Làm thế nào để phòng bệnh béo phì + Cần làm gì khi bản thân hoặc người thân của mình có nguy cơ mắc   bệnh béo phì? Các nhóm trao đổi theo gợi ý, trình bày và giáo viên chốt lại. Có thể tổ chức trò chơi xử lý tình huống: Trên đường đi học về, em nhìn thấy một em bé béo phì bị một nhóm  bạn trêu chọc. Trong tình huống đó em xử lý như thế nào? Qua cách xử  lý tình huống của học sinh, giáo viên có thể  khắc sâu  thêm: béo phì không những có nguy cơ  tiềm  ẩn các bệnh tật mà còn  ảnh  hưởng đến thẩm mỹ, thường bị bạn bè trêu chọc.       2.2.2. Giáo dục kỹ năng sống thông qua dạy học theo tài liệu “Sống   đẹp”.    Để thành công trong cuộc sống, các em học sinh không chỉ cần có tri  thức khoa học mà còn cần có các kĩ năng ứng xử phù hợp với các tình huống   của cuộc sống và có lối sống đẹp. Dạy học theo tài liệu  Sống đẹp từ lớp 1  đến lớp 5 theo từng chủ đề nhằm giúp các em hình thành các năng lực, phẩm  chất như: Tự phục vụ, tự quản; Giao tiếp, hợp tác; Giải quyết vấn đề trong  học tập, cuộc sống…; Tích cực tham gia hoạt động giáo dục; Tự  tin, tự  trọng, tự  chịu trách nhiệm; Trung thực, kỉ  luật, đoàn kết; Yêu gia đình, bạn  bè và những người khác; yêu trường, lớp, quê hương, đất nước;… Các loại hình hoạt động trong sách rất đa dạng, phong phú như: viết,  vẽ, chơi trò chơi, đóng kịch, xử  lí tình huống,… và đều được sắp xếp theo  tiến trình 4 giai đoạn: trải nghiệm, kết nối, thực hành, vận dụng.             Mỗi tháng, GV­TPT phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lựa chọn chủ  đề  phù hợp để  tổ  chức các hoạt động chung theo từng khối lớp với nhiều   hình thức phong phú tạo hứng thú cho HS: Rung chuông vàng, hái hoa dân   chủ, phóng viên nhỏ...giúp các em tự  tin, phát triển nhiều kĩ năng sống cho   bản thân, học siinh được trải nghiệm, vận dụng kiến thức đã học vào các  tình huống thực tế. Như vậy, tài liệu Sống đẹp là tài liệu giáo dục kỹ năng sống rất hữu   ích, là một cẩm nang rất cần thiết để  hình thành các kỹ  năng sống cho các  em. Giáo viên dạy phải đầu tư  thời gian, phương pháp và thiết kế  tổ  chức  
  12. các hoạt động học phù hợp có thể trong lớp, ngoài trời, tham quan...theo mỗi   bài học để đạt được hiệu quả cao. 2.2.3. Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. Nếu như qua các môn học các em được hình thành kỹ năng giao tiếp,  phát triển tư duy, kỹ năng tự nhận thức, ra quyết định, cảm thông, chia sẻ...  thì hoạt động ngoài giờ  lên lớp rèn luyện cho các em các kỹ  năng cơ  bản,   phù hợp với lứa tuổi như: kỹ  năng giao tiếp, kỹ  năng tổ  chức hoạt động   chung cùng nhau, biết phối hợp với mọi người cùng hoạt động, cùng tham  gia, trải nghiệm... Vậy để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua các hoạt động ngoài   giờ lên lớp đạt hiệu quả. Theo tôi chúng ta cần tổ chức cho học sinh một số  hoạt động sau:          ­ Tổ chức Đêm hội trăng rằm: các em phấn khởi được cùng vui hội với  các hoạt động bày trí mâm cỗ, rước đèn, phá cỗ, xem múa lân hấp dẫn từ đó  phát triển kĩ năng cần thiết cho HS.         ­ Ngoại khóa Tiếng Anh có sự tham gia của người nước ngoài thực sự  giúp học sinh phát huy năng lực giao tiếp và tương tác. Học sinh có một sân  chơi Anh ngữ  vô cùng bổ  ích và lý thú, giúp cho các em cởi mở  hơn, tự  tin   hơn.         ­ Tổ  chức “Ngày hội học sinh Tiểu học" với các hoạt động như: văn  nghệ, gian hàng trưng bày, em tập làm kinh doanh, trạng nguyên nhỏ  tuổi  lớp 3,4,5 bằng hình thức Rung chuông vàng, trò chơi dân gian, nết chữ­nết   người   đã   tạo   ra   sân   chơi   lớn   cho   các   em   tham   gia,   học   sinh   được   trải  nghiệm, phát triển các mặt năng lực phẩm chất cần thiết cho các em trong  cuộc sống.          ­ Hoạt động vui chơi giải trí, văn nghệ, TDTT: Vui chơi giải trí là nhu   cầu thiết yếu của trẻ, đồng thời là quyền lợi của trẻ  em.   Nó là một hoạt  động có ý nghĩa giáo dục to lớn đối với học sinh  ở  trường tiểu học. Hoạt   động này làm thỏa mãn tinh thần cho trẻ em sau những giờ học căng thẳng,  góp phần rèn luyện một số  phẩm chất như  tính tổ  chức kỷ  luật, tinh thần   trách nhiệm, lòng nhân ái. Để  tổ  chức có hiệu quả  giáo viên phải biết phối   hợp với Tổng phụ  trách tạo sân chơi cho các em. Thiết kế  các hoạt động   phù hợp:  + Tháng 8, 9: là lúc các em mới vào học, để tạo hứng thú cho các em,  chúng ta nên tổ  chức các trò chơi dân gian như  đơn giản như  kéo co, mèo  đuổi chuột, nhảy bao bố... trò chơi này vừa giải trí nhưng vừa kết nối tình  
  13. cảm giữa các bạn trong lớp, trong đội, trong trường. Các em có dịp làm quen   với nhau khi được xếp vào một đội, một nhóm cùng chơi. + Tháng 10, 11: Những tháng này có các ngày kỷ niệm: 20/10, 20/11.  Để  giúp các em vừa giải trí, vừa ôn lại ngày kỷ  niệm lớn chúng ta tổ  chức  hội thi hát dân ca hay hát hò khoan, khuyến khích các em sáng tác, đặt lời  mới theo chủ đề về ngày Nhà giáo Việt Nam, về quê hương, đất nước, mái   trường. Qua hội thi giúp các em phát triển kỹ  năng giao lưu cũng như  tình  yêu quê hương đất nước. + Tháng 12, 01: Là nững tháng các em đã học được nhiều kiến thức.  Để  giúp các em tự  khẳng định mình chúng ta nên tổ  chức hội thi “Rung  chuông vàng” hay “Trạng nguyên nhỏ  tuổi”. Hội thi vừa thu hút những tài  năng của trường vừa gây không khí hào hứng, giúp các em tự  khẳng định  mình, cũng như phát triển kỹ năng nhận thức. Tháng 2, 3: Đây là những tháng có các ngày kỷ  niệm trọng đại. Tôi   nghĩ giáo viên nên phối hợp với Tổng phụ  trách tổ  chức cho các em tham   quan, dã ngoại một số nơi trong địa bàn, thăm các di tích lịch sử, giúp đỡ các   bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh, người tàn tật...Để giáo dục các em  có trách nhiệm với quê hương, đất nước và phải luôn nhớ  ơn những người  đã có công với nước. + Tháng 4 , 5: Tổ chức các hội thi tài năng: như hội thi cắm hoa, diễn   thuyết về  một số  chủ  đề  như: Nhà sử  học nhỏ  tuổi, Chúng em yêu khoa   học, ngoại ngữ... Đây là đỉnh điểm thăng hoa của năm học, nhằm chọn ra   những tài năng xuất sắc, là tấm gương sáng của trường. Từ đây hình thành ở  các em lòng đam mê hiếu học cũng như phát hiện các tài năng để giúp đỡ. ­  Hoạt động lao động công ích: Đây là một loại hình đặc trưng của hoạt động ngoài giờ  lên lớp.  Thông qua lao động công ích các em gắn bó với đời sống xã hội. Lao động   công ích sẽ giúp trẻ hiểu thêm về giáo trị lao động. Có lao động các em mới   yêu người lao động, quý các sản phẩm người lao động làm ra. Vì vậy phải  thường   xuyên   tổ   chức   các   em   các   hoạt   động   như   vệ   sinh   lớp   học,   sân  trường, chăm sóc bồn hoa, trồng cây xanh để các em được tiếp xúc, làm quen  với lao động. Chúng ta cũng biết, hiện nay học sinh rất ít được tham gia lao  động nhưng đây là hoạt động thực sự  cần thiết giúp các em thích nghi với  cuộc sống xung quanh. Các em sẽ  được rèn luyện sự  nhanh nhẹn khi cầm  chiếc chổi quét nhà, có tinh thần hợp tác với nhau khi cùng nhổ  cỏ, tưới   nước. Sau này dù có rơi vào hoàn cảnh khắc nghiệt nào thì các em vẫn có  thể tồn tại được. Đó là nhờ các em biết lao động.         ­ Tham quan du lịch cảnh đẹp trong và ngoài tỉnh: 
  14. Đây là hoạt động giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho các em,   giúp các em biết được cảnh đẹp thiên nhiên. Bồi dưỡng khả  năng cảm thụ  cái đẹp, thưởng thức và giữ gìn nét đẹp của thiên nhiên, góp phần bồi dưỡng  năng lực học môn Tiếng Việt. Qua đó giáo dục kiến thức môi trường cho   các em, giúp các em có hành động đúng với môi trường mình đang sống.         ­ Tham quan cơ sở sản xuất, nhà máy xí nghiệp trên địa bàn:  Hoạt động này giúp các em được tiếp xúc với thực tế sau khi học các   bài Tập đọc, TN­XH, Kỹ  thuật, GD địa phương… Đồng thời là việc làm  giáo dục hướng nghiệp cho các em, sớm bồi dưỡng lòng yêu lao động, biết  quý   thành   quả   của   người   lao   động,   giáo   dục   lòng   yêu   quê   hương,   định  hướng cho ước mơ, chí hướng xây dựng quê hương.       ­ Tham quan di tích lịch sử, bảo tàng, nhà truyền thống:  Tổ  chức được hoạt động này sẽ  giáo dục cho các em lòng tự  hào  truyền thống quê hương, truyền thống dân tộc. Đồng thời giáo dục các em  biết phát huy truyền thống dân tộc, biết giữ giữ  gìn, tôn tạo các khu di tích  lịch sử, nhà bảo tàng. Giúp các em hiểu được nét đẹp truyền thống của dân   tộc được lưu giữ  lại đó là do sự  đúc rút của ông cha truyền lại từ  đời này   sang đời khác, nhiệm vụ của chúng ta là phải giữ gìn và phát huy nét đẹp đó. 2.2.4. Giáo dục kỹ năng sống thông qua đổi mới phương pháp dạy học Đổi mới phương pháp dạy học không phải là thay đổi hoàn toàn các   phương pháp cũ bằng các phương pháp mới mà là sự  vận dụng phối hợp   linh hoạt giữa các phương pháp dạy học và hình thức tổ chức lớp học. Dạy hoc theo nhóm là hình thức tổ chức dạy học mà học sinh có cơ hội   phát triển nhiều kỹ  năng sống như  hợp tác, chia sẻ, các làm việc khoa học,  tự học...   Dạy học theo nhóm là hình thức tổ  chức dạy học mà tất cả  các học   sinh của nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ nhất định trong một thời gian nhất   định. Nhóm trưởng nhận nhiệm vụ từ giáo viên, điều hành hoạt động nhóm  và báo cáo kết quả  học tập của nhóm mình với giáo viên. Nói là học theo  nhóm nhưng trước hết học sinh phải tự  học, tự  trải nghiệm, khám phá,   nghiên cứu tài liệu để  có những hiểu biết cá nhân về  việc học tập, sau đó  chia sẻ cặp đôi với bạn bên cạnh, nói cách nghĩ, cách làm cho bạn nghe, tiếp  thu những góp ý của bạn để điều chỉnh ý kiến, kết quả của mình. Sau khi chia sẻ cặp đôi, học sinh tự tin báo cáo kết của của mình trước  nhóm. Các thành viên trong nhóm nhận xét phần trình bày của bạn. Đây cũng 
  15. là dịp các em thể  hiện ý kiến cá nhân của mình. Các thành viên trong nhóm  đều được báo cáo, nhận xét, ai cũng được tham gia vào công việc chung,  không ai đứng ngoài cuộc, không ai làm thay. Hoạt động nhóm làm cho từng thành viên được bộc lộ những suy nghĩ,  hiểu biết, thái độ  của mình. Qua đó đươc tập thể  uốn nắn,  điều chỉnh.  Trong nhóm nhỏ  mỗi cá nhân đều phải nỗ  lực, không thể   ỷ  lại vào người  khác. Toàn nhóm phải phối hợp với nhau để  đạt được mục tiêu chung. Kết   quả làm việc của từng nhóm trước lớp sẽ tạo một không khí thi đua giữa các  nhóm, đóng góp tích cực vào kết quả chung của bài học. Học theo nhóm giúp các em được tập thể uốn nắn, điều chỉnh. Qua đó  phát triển tình bạn, năng lực hợp tác, năng lực trình bày, nghiên cứu, ý thức  tổ  chức kỷ  luật, tinh thần tương trợ  và cao hơn nữa là làm cho từng thành  viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội. Như vậy đòi hỏi khi thiết kế bài dạy giáo viên phải đầu tư để tổ  chức   hoạt động học phù hợp. Tổ  chức cho học sinh biết tự  học, tự  vận dụng.   Làm cho học sinh biết hợp tác, chia sẻ. Phải tập cho học sinh học cách thức  đi tới sự  hiểu biết, học phong cách độc lập, sáng tạo, linh hoạt trong nhận  thức và hành động. 2.2.5. Phối kết hợp với phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng sống cho   các em Đây là hình thức thường làm nhưng lại đạt hiệu quả  rất cao trong các  hoạt động. Việc giáo viên tích cực giao lưu với phụ huynh giúp giáo viên dễ  dàng nắm bắt tình hình của các em, hiểu được tính cách, hoàn cảnh sống của  các em từ đó đề ra các biện pháp phù hợp cũng như cách tác động, phối hợp  với phụ huynh trong việc rèn luyện đúng phương pháp. Nhận thức được tầm quan trọng của biện pháp này, tôi thường trao đổi,  tuyên truyền phụ  huynh hiểu những việc nên và không nên đối với các em  để  giúp các em có kỹ  năng sống tốt, có kỹ  năng tự  bảo vệ  bản thân, tự  tin  trong cuộc sống. Tôi nói rõ cho phụ hunh biết: trẻ con luôn bắt chước người   lớn và cha mẹ các em là những người lớn gần gũi nhất. Vì vậy các bậc làm  cha làm mẹ  đừng vô tình bỏ  qua những cơ  hội đơn giản và thuận lợi hàng  ngày để hướng dẫn con những thói quen tốt để rồi sau đó lại bắt các em mất  thời gian học lại những điều này ở một nơi khác với những người xa lạ. Cha  mẹ  hãy chú ý giúp các em hình thành những kỹ  năng sống tốt như  kỹ  năng  giao tiếp xã hội để tự khám phá, đánh giá bản thân mình và người khác và là  tấm gương sáng nhất đẻ  trẻ  noi theo từ  lời ăn tiếng nói đến cử  chỉ, hành  động, giao tiếp với người xung quanh...
  16. VD: Bố mẹ hãy cho phép các em vui chơi bày biện đồ chơi theo theo ý   thích của mình, đừng bao giờ cấm đoán hay la mắng. Điều quan trọng là hãy   để các em tự thu dọn đồ chơi sau khi chơi xong. Bố mẹ có thể cùng con thu  dọn nhưng tuyệt đối không bao giờ được làm thay. Khi đi học, bố  mẹ cứ  tự  để  cho con mình chuẩn bị  đồ  dùng, chỉ  kiểm   tra và chỉ  ra những đồ  dùng còn thiếu để  các em bổ  sung, và nhắc các em   hôm sau phải chuẩn bị đầy đủ, không được chuẩn bị thay, hôm sau tiếp tục   kiểm tra việc chuẩn bị đồ dùng của con cái. Trong các dịp lễ  tết cha mẹ nên tạo cơ  hội khuyến khích các em tham  gia dọn dẹp trang hoàng nhà cửa, phụ ông bà lau lá để gói bánh chưng, trang   trí cây đào, cây quất, đi chợ tết mua sắm cùng mẹ…Ngoài ra, bố mẹ hãy lựa   chọn những chương trình trên truyền hình phù hợp và bổ  ích với các em để  cả nhà cùng xem, khi xem khuyến khích các em nói lên suy nghĩ cảm xúc của  mình về những điều mà mình vừa được xem. Tôi cũng tuyên truyền với phụ huynh quan sát những biểu hiện của các  em trong điều kiện và tình huống tự  nhiên hàng ngày như  quan sát xem các  em có tự  tin và tự  nhiên khi giao tiếp với mọi người hay không? Có thích   tham gia dã ngoại hay tham gia các nhóm sinh hoạt không? Có tự nhiên sáng  tạo khi học các bài học không? Ccó lễ  phép trong cách nói năng với người   lớn hay không?… để từ đó có biện pháp rèn luyện và giáo dục . Điều tôi luôn tâm niệm với các bậc phụ  huynh là: Chúng ta hãy dành  nhiều thời gian hơn cho việc dạy các em nên người, không nên chỉ chạy theo  các giá trị hiện thực như học vấn hay tiền bạc mà còn phải chỉ  cho các em   thấy những giá trị  của tâm hồn, mà điều này đang rất cần đối với các em   học sinh tiểu học ­ lứa tuổi các em chập chững tập làm người lớn. Nhờ  có sự  phối kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên với phụ  huynh mà tôi  thấy học sinh lớp tôi rất mạnh dạn, tự  tin và hầu hết các em có kỹ  năng  sống cần thiết theo độ tuổi. 2.3. Những kết quả đạt được: Từ  những cố  gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự  đồng thuận hợp tác của các bạn đồng nghiệp, sự   ủng hộ  tích cực của các   bậc cha mẹ học sinh đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy các  kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết quả sau: 100% các em năng động, mạnh dạn và tự  tin, 100% học sinh được rèn  luyện khả năng sẵn sàng học tập ở trường đạt hiệu quả.
  17. 85% học sinh đã có thói quen lao động tự  phục vụ, được rèn luyện kỹ  năng tự lập; kỹ năng nhận thức; kỹ năng vận động nhỏ, linh hoạt trong các  hoạt động hàng ngày 90% học sinh được rèn kỹ  năng tự  kiểm soát bản thân, phát triển óc  sáng tạo, tính tự  tin thông qua các hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục và các   môn học. 100% trẻ  được rèn luyện kỹ  năng xã hội, kỹ  năng về  cảm xúc, giao   tiếp, chung sống hòa bình, thân thiện, biết chia sẻ. 90% trẻ biết được các việc làm để bảo vệ sức khỏe, chăm sóc bản thân  như: không ăn các thức ăn không rõ nguồn gốc, ăn chín uống sôi, không đi   một mình nơi hoang vắng... Hàng tháng có đánh giá kiểm tra chất lượng sau mỗi chủ  đề  đối với  từng học sinh: + Mạnh dạn, tự tin: 90% + Kỹ năng hợp tác: 95% + Kỹ năng giao tiếp: 88% + Kỹ năng tự lập, tự phục vụ: 85% + Lễ phép: 100% + Kỹ năng vệ sinh: 95% + Kỹ năng thích khám phá, học hỏi: 85% + Kỹ năng tự kiểm soát bản thân: 90% Ở  lớp các em biết đoàn kết, giúp đỡ  bạn yếu hơn trong nhóm mình,  biết phân công nhau lao động, vệ sinh, chăm sóc bồn hoa lớp mình xanh tốt,  chia sẻ, giúp đỡ bạn khó khăn hơn. Đặc biệt là các em biết đoàn kết, hỗ trợ  nhau khi tôi quan sát các em tham gia các trò chơi hay các hoạt động, biết   kiềm chế  bản thân trong khi xử  lý các tình huống với bạn bè, điều mà bản  thân tôi cũng như nhiều phụ huynh rất mong muốn. Các em cởi mở, thân thiện, gần gũi với tôi hơn, đã chủ  động nói rõ  những vướng mắc của mình và tìm sự  hỗ  trợ, giúp đỡ. Điều đó làm tôi rất   hài lòng. Các em cũng rất có trách nhiệm trong việc làm của mình. Nếu một bạn  nào trong lớp, trong trường có những hành vi chưa tốt như  vứt rác, hái hoa,   bẻ cành hay nói tục mà chưa tự nhận trách nhiệm cho bản thân thì các em đã   thắc mắc, kiến nghị, yêu cầu bạn đó phải tự nhận lỗi của mình và hứa sửa   chữa.
  18. Ý thức bảo vệ  của công, biết trang trí và lớp học, trường học thân  thiện, chăm đọc sách và tham gia giao lưu các hội thi do Đội, nhà trường tổ  chức và đều đạt kết quả cao. (Giải nhất hội thi Trạng nguyên nhỏ tuổi) 3. KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của đề tài:  Để  giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh thì người giáo viên giữ  một   vai trò rất quan trọng, nhất là giáo viên trực tiếp giảng dạy và chủ  nhiệm.  Từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng, đề  xuất và thể  nghiệm, đề  tài  có ý nghĩa, tác dụng thiết thực trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh  góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong trường Tiểu học. Ý nghĩa của đề tài còn thể hiện ở các giải pháp và bài học sư phạm như sau: 1. Giáo dục kĩ năng sống thông qua các môn học: Tiếng Việt, Đạo đức,  TNXH.... 2. Giáo dục kĩ năng sống thông qua dạy học theo tài liệu “Sống đẹp”. 3. Giáo dục kĩ năng sống thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. 4. Giáo dục kĩ năng sông thông qua đổi mới phương pháp dạy học. 5. Phối kết hợp với phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng sống cho các em. 3.2. Kiến nghị, đề xuất:  + Đối với giáo viên: ­ Để phù hợp với giai đoạn hiện nay tôi nghĩ mỗi giáo viên tự mình cần   đổi mới nội dung, phương pháp dạy học. ­ Cần nắm vững phương pháp, nghệ  thuật sư  phạm, hiểu được đặc  điểm tâm lí, trình độ hiểu biết, vốn sống của học sinh tiểu học  ­ Biết tổ chức quản lí việc học tập của học sinh nhằm hình thành tính   tích cực, tự lập, tự giác hoàn thành nhiệm vụ. ­ Có kế hoạch cụ thể để phối kết hợp giữa gia đình với các hoạt động  của trường tạo sự đồng bộ nhịp nhàng trong quá trình giáo dục học sinh.  ­ Tạo cơ  hội cho trẻ  có nói, suy nghĩ, thể  hiện nhu cầu, bộc lộ  cảm   xúc...Từ  đó có biện pháp tạo mối quan hệ  giữa gia đình – nhà trường ­ xã  hội.  ­ Kết hợp chặt chẽ với Ban giám hiệu nhà trường và giáo viên bộ môn. + Đối với nhà trường ­ TPT Đội: Nhà trường cần tăng cường tổ  chức những buổi sinh hoạt ngoại khóa  với nhiều hình thức phong phú lôi cuốn các em ham thích hoạt động. Tạo  điều kiện cho các em đi tham quan các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch  sử...
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2