Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học
lượt xem 9
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm nghiên cứu, tìm hiểu, từ đó tìm ra cho mình phương pháp thông qua các môn học, các hoạt động giáo dục, sự trải nghiệm... có hiệu quả cao nhất trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nhằm giúp cho các em - những cô bé, cậu bé vừa rời vòng tay bố mẹ khỏi bỡ ngỡ, biết tự phục vụ bản thân, biết tìm kiếm sự giúp đỡ của bạn bè, biết hợp tác trong nhóm, có những quyết định phù hợp và biết xử lý các tình huống bất lợi các em gặp phải trong cuộc sống, đồng thời xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với gia đình và bạn bè, biết sống an toàn, lành mạnh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học
- 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài: Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ, đặc biệt là cách tiếp cận kỹ năng sống, đó là: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống. Cùng với các biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh trong nhà trường, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là yêu cầu vô cùng quan trọng, một nội dung không thể tách rời của quá trình giáo dục. Mục đích của quá trình giáo dục kỹ năng sống là nhằm trang bị cho học sinh nhưng kỹ năng cơ bản, cần thiết để các em có thể thích ứng với cuộc sống xã hội thời hiện đại, luôn có những thay đổi trong điều kiện của một xã hội đang trên đà phát triển và hội nhập. Đặc biệt rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh được xác định là một trong những nội dung cơ bản của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” Với mục tiêu các em không chỉ giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện những kỹ năng sống, qua đó tạo cho các em một môi trường sống lành mạnh, an toàn, tích cực, vui vẻ để trang bị cho các em vốn kiến thức, kỹ năng, giá trị sống sau này bước vào đời tự tin hơn. Giáo dục kỹ năng sống phải được bắt đầu từ khi trẻ còn rất nhỏ, nhất là lứa tuổi tiểu học. Bởi lẽ, bậc tiểu học là “bậc học nền tảng của hệ thống giáo . dục quốc dân”. Bước vào lớp một là các em hoạt động trong một môi trường mới. Khi gia nhập cuộc sống nhà trường, các em phải tiến hành hoạt động học hoạt động nghiêm chỉnh có kỷ cương, nề nếp. Chuyển từ hoạt động chủ đạo là vui chơi sang hoạt động chủ đạo là học tập chắc chắn trẻ sẽ không tránh khỏi sự bỡ ngỡ. Vì thế phải chuẩn bị cho các em tâm lý sẵn sàng đi học. Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học cũng được bắt đầu ngay từ những buổi đầu tiên các em đến trường. Nếu như không được chuẩn bị chu đáo về mặt tâm lý cho trẻ trước khi đi học thì những buổi đầu tiên đến trường của trẻ sẽ xảy ra những tình huống như: đòi theo bố mẹ về nhà, không dám nói chuyện với bạn bè, thấy thầy cô, người lạ thì sợ, không dám xin phép cô giáo đi vệ sinh... Vậy làm thế nào để các em tự tin, biết ứng xử phù hợp với các tình huống xảy ra trong lớp học cũng như trong cuộc sống. Đây là một nhiệm vụ quan trọng đối với các thầy
- cô giáo và các bậc phụ huynh vì học sinh tiểu học là giai đoạn đầu tiên hình thành nhân cách, giúp các em có một kỹ năng sống tốt cho tương lai sau này. Giáo dục kỹ năng sống cho các em học sinh tiểu học là giáo dục cho các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay đổi ở các em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách trên cơ sở học sinh có tri thức, giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp. Với những lý do đó, tôi chọn sáng kiến “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học” để đi sâu, nghiên cứu, tìm hiểu, từ đó tìm ra cho mình phương pháp thông qua các môn học, các hoạt động giáo dục, sự trải nghiệm... có hiệu quả cao nhất trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nhằm giúp cho các em những cô bé, cậu bé vừa rời vòng tay bố mẹ khỏi bỡ ngỡ, biết tự phục vụ bản thân, biết tìm kiếm sự giúp đỡ của bạn bè, biết hợp tác trong nhóm, có những quyết định phù hợp và biết xử lý các tình huống bất lợi các em gặp phải trong cuộc sống, đồng thời xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với gia đình và bạn bè, biết sống an toàn, lành mạnh. Vậy kỹ năng sống là gì? Có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Theo tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên Hợp Quốc: Kỹ năng sống là năng lực cá nhân để họ thực hiện đầy đủ các chức năng tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Theo UNICEFF: Kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp cá nhân, giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Riêng đối với bản thân, qua nghiên cứu tôi nhận thấy: kỹ năng sống đơn giản là tất cả những điều cần thiếu chúng ta phải biết để thích ứng với những thay đổi diễn ra hàng ngày trong cuộc sống. Kỹ năng sống được hình thành thông qua một quá trình sống, rèn luyện, học tập trong gia đình, nhà trường và ngoài xã hội, hình thành một cách tự nhiên qua những va chạm, những trải nghiệm trong cuộc sống và qua giáo dục mà có. Vì vậy, kỹ năng sống của mỗi người vừa có tính cá nhân, vừa có tính xã hội và chịu ảnh hưởng của gia đình, cộng đồng, dân tộc. 1.2. Điểm mới của đề tài: Vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nói chung và học sinh tiểu học nói riêng được toàn xã hội quan tâm trăn trở, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Hơn bao giờ hết, con người cần phải có sự cảm thông, chia sẻ, biết giúp đỡ người khác, biết đối xử thân thiện với bạn bè, biết phân biệt cái đúng, cái sai và làm theo cái đúng, ủng hộ cái đúng. Kiên quyết đấu tranh
- với những biểu hiện sai trái, xấu xa, trở thành một con người năng động mà xã hội đang cần. Trong dạy kỹ năng sống, không có khái niệm “vâng lời”, chỉ có khái niệm “lắng nghe”, “đồng cảm”, “chia sẻ”. Mục tiêu của giáo dục kỹ năng sống là rèn luyện các tư duy tích cực, hình thành thói quen tốt thông qua các hoạt động và bài tập trải nghiệm, chứ không đặt mục đích “rèn nếp” hay “nghe lời”. Công dân toàn cầu là người biết suy nghĩ bằng cái đầu của mình, biết phân tích đúng sai, quyết định có làm điều này hay điều khác và chịu trách nhiệm về điều đó, chứ không tạo ra lớp công dân “chỉ biết nghe lời”. Tuy nhiên đối với sáng kiến này, tôi đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu thông qua quá trình dạy học, nó chỉ áp dụng cho bậc tiểu học nói chung bậc học mà tôi đang trực tiếp giảng dạy. Qua quá trình nghiên cứu, tôi nhận thấy sáng kiến mà tôi nghiên cứu có một số điểm mới như sau: + Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học không chỉ giới hạn trong các môn học mà là một quá trình xuyên suốt mọi lúc mọi nơi. Năm học 20162017, dạy học theo tài liệu “Sống đẹp” đã thực sự chú trọng đến giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học. + Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh chú trọng đến quá trình trải nghiệm trong cuộc sống. Bởi vì thông qua sự trải nghiệm mới xuất hiện các tình huống để các em xử lý, giải quyết. + Giáo dục kỹ năng sống không chỉ ở trong trường học, lớp học mà ở cả gia đình, xã hội bởi vì môi trường sống của các em ở gia đình ảnh hưởng rất lớn đến các hành vi trong cuộc sống của các em. Vì vậy phải phối kết hợp với phụ huynh về cách thức giáo dục kỹ năng sống cho các em. Phụ huynh phải là tấm gương sáng trong các hành vi, ứng xử để con, em noi theo. * Phạm vi áp dụng đề tài: Đối với học sinh tiểu học, được áp dụng trong lĩnh vực giáo dục kỹ năng sống.
- 2. PHẦN NỘI DUNG: 2.1 Thực trạng giáo dục kĩ năng sống ở trường tiểu học: Hiện nay, việc rèn kĩ năng sống của các em ở trường tiểu học còn nhiều hạn chế. Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh chuyển biến chậm, các em hay “nói trước quên sau” và chưa có khả năng vận dụng những điều đã học áp dụng vào thực tế. Ví dụ các em đã được học bài đạo đức về nội dung không bẻ cành, ngắt lá của cây, hoa nhưng khi đi học về hoặc đi chơi trên sân trường, các em vẫn ngắt lá cây, hoa tùy tiện và vứt đầy sân trường. Với học sinh tiểu học, tâm lý độ tuổi cho thấy các em rất hiếu động các em có nhu cầu hỏi đáp, không muốn bị áp đặt. Mặt khác, các em một mực rất tin vào lời nói của thầy cô giáo, thầy cô bảo đọc, bảo chép thì cứ đọc cứ chép và quá trình ấy cứ lặp đi lặp lại dần dần dẫn đến thói quen. Nếu nói rằng thầy cô giáo không quan tâm đến việc dạy rèn kĩ năng sống là không đúng, nhưng việc rèn kĩ năng sống ở đây là rất hạn chế nhất là việc lồng ghép vào tất cả các môn học cũng như lồng ghép vào các hoạt động ngoại khóa giáo và một số viên còn mơ hồ về việc rèn kĩ năng sống cho học sinh. Kỹ năng sống của học sinh lớp một rất hạn chế, phần đa các em chưa biết tự phục vụ bản thân, chưa biết tự chuẩn bị cho mình các đồ dùng trước khi đến lớp. Chưa nhận ra được những việc không nên làm, những việc nên tránh đối với bản thân; chưa biết xử lý các tình huống khi gặp khó khăn như làm bài không được hay không hiểu bài; bố mẹ quên đón; bị đau khi đang học; bị lạc đường... Đối với học sinh các lớp trên các lớp trên các kỹ năng: nghe, đọc, nói, viết là những kỹ năng cần thiết phục vụ cho quá trình học tập nhưng các em chưa có nhiều lắm. Khi hoạt động nhóm chưa biết hợp tác với các bạn trong nhóm chỉ cho rằng mình tự làm được bài là đủ. Nhiều em yếu chưa biết tìm kiếm sự giúp đỡ của bạn bè, của thầy cô giáo hoặc từ bố mẹ để giải quyết các nội dung bài học. Các em còn tỏ ra lúng túng khi gặp người lạ hoặc thầy cô giáo hỏi, hoặc ai đó chúc mừng, tặng quà thì chưa biết đối đáp một cách lịch sự. Kỹ năng ra quyết định/xử lý một số tình huống không tốt. Chưa biết tập trung lắng nghe người khác nói, chưa biết chọn bạn phù hợp để hợp tác cùng giải quyết các công việc. Học sinh bây giờ rất ít có ước mơ, hoài bão chính đáng, không biết đề ra cho mình mục tiêu để phấn đấu. Các em chưa biết sắp xếp công việc một
- cách khoa học, sử dụng thời gian hợp lý, giờ nào việc đó. Đặc biệt các em hiện nay ít quan tâm đến người khác, thấy bạn khó khăn thì không giúp đỡ, xa lánh những bạn khiếm khuyết... Phần lớn các em chỉ thích hưởng thụ, lười lao động, không chịu trách nhiệm về việc làm của mình. Tôi đã từng chứng kiến một nhóm các em em làm đổ chiếc xe đạp dựng cạnh bên đường nhưng không em nào dựng lên. Khi ăn quà xong các em liền vứt bao bì ngay xuống đất. Các em cũng chưa biết cách bảo vệ bản thân như không nên đi qua các quãng đường vắng, tối một mình, không chơi các trò chơi thiếu lành mạnh, ăn các thức ăn chưa rõ nguồn gốc, hết hạn sử dụng... Các em thích nói chuyện trong giờ học, chưa thật sự tập trung, rất ngại tiếp xúc với thầy cô, ít tham gia các hoạt động học tập. Sự tập trung chú ý của học sinh ở lớp chưa cao, thiếu bền vững, các em rất ngại tham gia các hoạt động nhóm, ngại suy nghĩ để tìm ra hướng giải quyết vấn đề. Khó khăn nhất là trong giao tiếp với bạn bè thiếu kiểm soát trong ngôn ngữ . Học sinh nữ thì thích chơi theo nhóm, có sự phân biệt trong mối quan hệ bạn bè, các em còn nổi cáu khi bạn chọc ghẹo... Tôi cho rằng những thực trạng trên không phải thuộc về bản chất các em. Nếu được giáo dục tốt, các em nhận ra được lẽ phải thì chắc chắn các em sẽ thay đổi. * Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. Qua điều tra tôi thấy nhìn chung các em đều tốt, ngây thơ, hồn nhiên, vẫn tinh nghịch và đáng yêu lắm. Các em đều mong muốn mình trở thành con ngoan, trò giỏi, sau này lớn lên giúp ích cho đất nước, gia đình. Song ở lứa tuổi này bắt đầu hình thành những hành vi cá nhân, tính cách và nhân cách. Các em có nhiều ước mơ, hoài bão và thích tìm tòi, khám phá, nhưng do chưa hiểu biết sâu xa về xã hội, đặc biệt là do các em chưa được trang bị những kĩ năng sống cần thiết nên thường chưa làm chủ được hành vi ứng xử của mình dẫn tới dễ bị lôi kéo vào các việc tiêu cực trong cuộc sống. Một nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là phần lớn bây giờ mỗi gia đình chỉ có một đến hai con. Vì vậy con cái là thứ quý báu, được nuông chiều. Bố mẹ, ông bà đều làm thay từ khâu chuẩn bị áo quần, sách vở, đưa đón đi học vì vậy nhiều em có tư tưởng ỷ lại, chỉ thích hưởng thụ, không biết tự chăm lo cho bản thân. Mong muốn của bố mẹ là con cái phải học thật giỏi và ăn thật nhiều để bố mẹ vui lòng còn những công việc khác thì không cần thiết lắm. Ví dụ như tham gia sinh hoạt Đội, các câu lạc bộ, văn
- nghệ, thể dục thể thao... nhiều gia đình không muốn con mình đi, sợ mệt. Họ có biết đâu kỹ năng sống của con cái mình hình thành từ đây, qua tham gia các hoạt động, qua sự trải nghiệm các em mới va chạm, có va chạm mới nảy sinh ra tình huống để các em xử lý. Như chúng ta thấy, ngoài thời gian học ở trường ra, các em chỉ biết xem ti vi hoặc chơi trò chơi trên máy tính. Đủ các loại phim các em tha hồ xem. Đến lớp không biết hòa đồng với bạn bè, thấy các bạn nghèo khó, hoàn cảnh thì xa lánh, bạn mượn đồ dùng học tập cũng không muốn cho. Việc đánh nhau, nói tục, chửi bậy xảy ra nhiều. Các kỹ năng như tương trợ nhau, giao tiếp, diễn đạt trước đám đông được các thầy cô giáo tích cực hình thành và củng cố nhưng chưa thể hiện được nhiều. Các em ngày càng thực dụng, ích kỷ và lười hoạt động hơn. Một số em cứ như ếch ngồi đáy giếng, cứ gặp việc gì khó là khóc toáng lên để bố mẹ giúp đỡ. Học sinh bây giờ rất ít em đọc sách. Mà không đọc sách thì lấy đâu ra ngôn ngữ để làm giàu vốn từ cho mình nên khi giao tiếp các em thường bí từ, lúng túng hay trả lời cộc lốc. Nhiều phụ huynh còn chiều chuộng con đến mức cho con vừa ăn cơm vừa chơi điện thoại con mới chịu ăn. Không cho các em tiếp xúc với lao động, sợ nắng, gió, mệt con mình. Như vậy các em không biết lao động, mà không biết lao động thì làm sao các em biết quý trọng người lao động. Các em có trồng cây xanh thì mới biết cách bảo vệ cây xanh, có yêu môi trường mới biết bảo vệ môi trường.... Một nguyên nhân nữa là môn Hoạt động ngoài giờ lên lớp chưa được coi trọng lắm. Phần lớn các giáo viên vẫn mãi mê dạy các kỹ năng quan trọng truyền thống như Toán, Tiếng Việt chiếm nhiều thời gian, giáo viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp mình đang dạy chỉ luôn chú trọng đến việc đọc tốt, làm tính tốt, ít tổ chức cho các em tham quan, trải nghiệm, hoạt động chung với bạn bè để hình thành các kỹ năng quan trọng như: giao tiếp, hợp tác, chia sẻ, quan tâm đến bạn bè. Ngoài ra, kỹ năng sống các em có ảnh hưởng rất lớn từ gia đình. Bố mẹ chính là tấm gương lớn nhất cho các em soi. Bởi trước khi đến trường các em có thời gian ở nhà, sống với gia đình nên những nét văn hóa, ứng xử của các thành viên trong gia đình ảnh hưởng rất nhiều đến các em. Rời trường Mầm non, bước vào trường tiểu học là các em sẽ trở thành những người học sinh thực thụ. Các em phải biết tham gia các hoạt động một cách nghiêm túc theo quy định của nhà trường. Nhưng trong thực tế các em thường nóng vội không theo quy định, không muốn chờ đến lượt.
- Đặc biệt là các em lớp 1, không biết thực hiện giờ nào việc đó. Nhiều em quá nghịch ngợm trong khi một số em lại ngồi thu lu một mình, không biết thực hiện các nhiệm vụ cô giao, không biết chia sẻ với bạn bè, thầy cô khi gặp khó khăn, bởi các em thiếu kỹ năng sống. 2.2. Các giải pháp: Qua nghiên cứu tôi nhận thấy: người giáo viên trực tiếp giảng dạy và chủ nhiệm có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của các em. Kỹ năng sống của các em được hình thành thông qua quá trình học tập, trải nghiệm. Nếu được sự hướng dẫn, tổ chức quá trình học tập hợp lý và sự đầu tư, chăm chút để giáo dục kỹ năng sống qua mỗi bài học, mỗi hoạt động một cách thường xuyên của người giáo viên thì kỹ năng sống của các em sẽ được phát triển. Vì thế tôi luôn tìm tòi, vận dụng và thay đổi các biện pháp trong công tác giảng dạy. Với mong muốn được hiểu, gần gũi, giúp đỡ, định hướng kịp thời cho các em, được góp một phần kinh nghiệm nhỏ bé của mình vào việc giáo dục nhân cách, giáo dục ý thức kỷ luật, nề nếp, hình thành các kĩ năng sống cần thiết cho các em thông qua công tác giảng dạy. Vậy để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả tốt, sau đây tôi xin đưa ra một số giải pháp: 2.2.1. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học: *Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn Tiếng Việt. Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng: nghe, đọc, nói, viết để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua hoạt động dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện thao tác tư duy, mở rộng hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người. Kỹ năng sống đặc thù, thể hiện ưu thế của môn Tiếng Việt là giao tiếp, sau đó là kỹ năng nhận thức, bao gồm nhận thức thế giới xung quanh, tự nhận thức, ra quyết định. Trong sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học, có nhiều bài học mà tên gọi của nó đã nói rõ mục tiêu giáo dục các kỹ năng giao tiếp xã hội như: Lập danh sách học sinh, Lập thời gian biểu, Viết tin nhắn, làm biên bản cuộc họp... Như vậy, cơ hội để hình thành kỹ năng sống qua môn học này là rất lớn nhưng người giáo viên phải hết sức chú ý, đặc biệt là khi soạn bài, trong từng bài học phải chú ý đến giáo dục kỹ năng sống cho các em. Ví dụ ở phân môn Học vần lớp 1, tất cả các bài đều có phần luyện nói theo chủ đề như là: Tự giới thiệu; Bé và bạn bè; Mai sau lớn khôn; Vâng lời cha mẹ; Giúp đỡ cha mẹ; Những người bạn tốt....
- Khi luyện nói, kỹ năng giao tiếp của các em được phát triển. Tuy nhiên không chỉ dừng lại ở phần luyện nói theo chủ đề, giáo viên có thể phát triển cao hơn như tổ chức lớp thành vòng tròn, mỗi thành viên được tự giới thiệu về mình bao gồm: tên gọi, học sinh lớp, địa chỉ gia đình, sở thích cá nhân... Lúc đầu có nhiều em ái ngại, rụt rè, nhưng sau khi các bạn nói hay và được cô khen, các em lại thích nói, nói hăng hái và trôi chảy hơn. Em nào nói hay đều được cả lớp và cô giáo vỗ tay khen ngợi, như vậy các em sẽ hưng phấn và thích được nói nhiều hơn. Ở lớp 5, phân môn Tập làm văn hình thành cho các em kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng tổ chức các hoạt động thông qua các bài tập làm văn như: Liên hoan văn nghệ chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam; Lập chương trình hoạt động về: Hội trại nhân ngày thành lập Đoàn; Triển lãm các chủ đề Bảo vệ môi trường; Quyên góp ủng hộ thiếu nhi và nhân dân các vùng thiên tai; Gặp gỡ, giao lưu với học sinh các trường kết nghĩa... Để lập được chương trình hoạt động chắc chắn các em sẽ gặp khó khăn bởi ngoài trí tưởng tượng yếu, chưa biết sắp xếp công việc khoa học thì một phần quan trọng là các em chưa được tham gia, chưa được trải nghiệm. Như vậy vai trò của giáo viên rất quan trọng, giáo viên sẽ tổ chức cho các em tham gia, trải nghiệm các hoạt động một cách thực thụ. Được trải nghiệm các em mới có thể hình dung hoạt động đó như thế nào và lập kế hoạch, nhưng một số em vẫn chưa lập được kế hoạch hợp lý. Đòi hỏi giáo viên phải hỗ trợ, giúp đỡ, khơi gợi để các em phát triển tư duy sáng tạo. Kỹ năng sống của các em cũng được hình thành rất nhiều qua các bài tập đọc. Ví dụ: + Người ăn xin (TV4), qua bài học này giáo dục cho các em sự cảm thông, chia sẻ đối với những người kém may mắn + Một người chính trực (TV4) giáo dục kỹ năng tự nhận thức bản thân. + Dế mèn bênh vực kẻ yếu (TV2) giáo dục sự cảm thông, chia sẻ + Nỗi dằn vặt của Andrâyca (TV4) giáo dục kỹ năng tự nhận thức bản thân + Trung thu độc lập (TV4) giáo dục kỹ năng đảm nhận trách nhiệm của mình. Ngoài ra các bài tập làm văn như: + Viết thư (TLV4) phát triển kỹ năng giao tiếp và ứng xử lịch sự trong giao tiếp. + Tả ngoại hình nhân vật: Phát triển tư duy sáng tạo, tìm kiếm và xử lý thông tin...
- Như vậy môn Tiếng Việt góp phần hình thành và giáo dục kỹ năng sống cho các em rất lớn. Để đạt được kết quả, đòi hỏi mỗi giáo viên ngoài việc tổ chức các hoạt động để giúp các em lĩnh hội kiến thức thì trong quá trình thiết kế, tổ chức các hoạt động dạy học, phải chú trọng đến hình thành và giáo dục kỹ năng sống cho các em trong tiết học đó, trong bài học đó. * Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn Đạo đức: Bản thân môn Đạo đức đã chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến kỹ năng sống như: kỹ năng giao tiếp, ứng xử với ông bà, cha, mẹ, thầy, cô giáo, bạn bè..., kỹ năng bày tỏ ý kiến của bản thân, kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề phù hợp, kỹ năng giữ vệ sinh cá nhân, kỹ năng tự phục vụ và tự quản lý thời gian, kỹ năng xử lý thông tin và các vấn đề trong đời sống ở trường học, ở cộng đồng. Để giúp các em có những kỹ năng trên thì vai trò của giáo viên rất quan trọng, đặc biệt là việc lựa chọn các phương pháp và hình thức dạy học học phù hợp. Ví dụ bài: Tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước (Đạo đức lớp 3) HĐ1: Cho học sinh tìm hiểu vai trò của nước bằng cách đưa ra một số hình ảnh: Dùng nước tắm giặt, Tưới cây, ăn uống sinh hoạt hàng ngày, một số hình ảnh cánh đồng khô hạn, nứt nẻ do thiếu nước, một số cánh đồng xanh tốt đầy đủ nước... Cho các em quan sát, thu thập thông tin và ghi vào phiếu cá nhân. Trình bày ý kiến và kết luận chung: Nước là nhu cầu cần thiết đối với cuộc sống sinh vật nói chung và con người nói riêng. HĐ2: Bày tỏ ý kiến: Tổ chức cho học sinh bày tỏ ý kiến bằng cách dùng cách thẻ màu xanh (đồng ý), thẻ màu vàng (không đồng ý). Giáo viên chiếu nội dung các hành vi: + Đổ nước thải ra sông, hồ + Tắm cho trâu, bò gần giếng nước ăn + Vứt vỏ chai, lọ thuốc bảo vệ thực vật vào thùng rác riêng + Không vứt rác, vỏ phế liệu xuống sông, hồ, ao + Sử dụng xong để vòi nước chảy mà không khóa Học sinh giơ thẻ để bày tỏ ý kiến đối với mỗi hành vi. Sau khi học sinh bày tỏ mỗi ý kiến, giáo viên trao đổi: Tại sao em đồng tình (không đồng tình) với hành vi này? Em có thể làm gì khi chứng kiến hành vi đó? Giáo viên kết luận tính đúng/sai của các hành vi, việc làm trên đối với môi trường và sau đó chốt lại.
- Cuối tiết học, giáo viên dặn dò các em về nhà tìm hiểu việc sử dụng và bảo vệ nước tại gia đình, địa phương sau đó thu thập thông tin, ghi nhanh vào phiếu để tiết sau báo cáo. Với cách tổ chức hình thức dạy học và sử dụng phương pháp dạy học phù hợp. Học sinh sẽ tự nhận thức tầm quan trọng của nước và hành vi đúng/sai để bảo vệ nguồn nước. Các em sẽ nhớ mãi vai trò của nước và biết cách bảo vệ nguồn nước. * Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn Tự nhiên và xã hội. Môn Tiếng Việt giúp các em phát triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng cảm thông, chia sẻ, tự nhận thức bản thân, biết tìm kiếm thông tin. Môn Đạo đức giúp các em phát triển kỹ năng ứng xử có văn hóa, nhận thức các hành vi đúng/sai và có quyết định đúng đắn, phù hợp... thì ở môn Tự nhiên và xã hội giúp các em phát triển kỹ năng quan sát, nêu nhận xét, thắc mắc, biết đặt câu hỏi và diễn đạt sự hiểu biết của bản thân về các sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội. Đặc biệt môn học này giúp các em xây dựng quy tắc giữ vệ sinh, không ăn những thức ăn quá hạn, không rõ nguồn gốc, bảo vệ sức khỏe và giữ an toàn cho bản thân, gia đình, cộng đồng, yêu quê hương, trường lớp và có thái độ thân thiện với thiên nhiên. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu giáo dục kỹ năng sống qua môn học, giáo viên phải biết thiết kế các hoạt động học và tổ chức hình thức dạy học hợp lý. Làm thể nào học sinh tự tìm ra những việc làm đúng/sai, cách ứng xử phù hợp nhất. Ví dụ: Bài: Phòng bệnh béo phì (khoa học 4) HĐ1: Giáo viên cho học sinh hoạt làm việc theo nhóm 4, yêu cầu các nhóm trao đổi và vẽ tranh những trẻ em bị béo phì. Các nhóm trưng bày sản phẩm, đại diện một nhóm mô tả đặc điểm của trẻ bị béo phì. Giáo viên tóm tắt ý kiến và nêu ba dấu hiệu chính của trẻ bị béo phì: + Có cân nặng hơn mức trung bình so với chiều cao và tuổi là 20% + Có những lớp mỡ trên vú, cánh tay và cằm + Bị hụt hơi khi gắng sức HĐ2: Yêu cầu các nhóm liệt kê những bất lợi của người béo phì Các nhóm nêu, sau đó giáo viên kết luận, nêu ba điểm chính của người bị béo phì: + Mất thoải mái trong cuộc sống + Giảm hiệu suất lao động và sự lanh lợi trong cuộc sống + Có nguy cơ bị bệnh tim mạch và huyết áp cao, bệnh tiểu đường... HĐ 3: Tìm hiểu nguyên nhân và cách phòng bệnh béo phì.
- Cho học sinh thảo luận theo cặp đôi, quan sát các hình vẽ ở sách để tìm ra nguyên nhân và cách phòng bệnh theo các câu hỏi gợi ý: + Nguyên nhân nào dẫn đến bệnh béo phì + Làm thế nào để phòng bệnh béo phì + Cần làm gì khi bản thân hoặc người thân của mình có nguy cơ mắc bệnh béo phì? Các nhóm trao đổi theo gợi ý, trình bày và giáo viên chốt lại. Có thể tổ chức trò chơi xử lý tình huống: Trên đường đi học về, em nhìn thấy một em bé béo phì bị một nhóm bạn trêu chọc. Trong tình huống đó em xử lý như thế nào? Qua cách xử lý tình huống của học sinh, giáo viên có thể khắc sâu thêm: béo phì không những có nguy cơ tiềm ẩn các bệnh tật mà còn ảnh hưởng đến thẩm mỹ, thường bị bạn bè trêu chọc. 2.2.2. Giáo dục kỹ năng sống thông qua dạy học theo tài liệu “Sống đẹp”. Để thành công trong cuộc sống, các em học sinh không chỉ cần có tri thức khoa học mà còn cần có các kĩ năng ứng xử phù hợp với các tình huống của cuộc sống và có lối sống đẹp. Dạy học theo tài liệu Sống đẹp từ lớp 1 đến lớp 5 theo từng chủ đề nhằm giúp các em hình thành các năng lực, phẩm chất như: Tự phục vụ, tự quản; Giao tiếp, hợp tác; Giải quyết vấn đề trong học tập, cuộc sống…; Tích cực tham gia hoạt động giáo dục; Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm; Trung thực, kỉ luật, đoàn kết; Yêu gia đình, bạn bè và những người khác; yêu trường, lớp, quê hương, đất nước;… Các loại hình hoạt động trong sách rất đa dạng, phong phú như: viết, vẽ, chơi trò chơi, đóng kịch, xử lí tình huống,… và đều được sắp xếp theo tiến trình 4 giai đoạn: trải nghiệm, kết nối, thực hành, vận dụng. Mỗi tháng, GVTPT phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lựa chọn chủ đề phù hợp để tổ chức các hoạt động chung theo từng khối lớp với nhiều hình thức phong phú tạo hứng thú cho HS: Rung chuông vàng, hái hoa dân chủ, phóng viên nhỏ...giúp các em tự tin, phát triển nhiều kĩ năng sống cho bản thân, học siinh được trải nghiệm, vận dụng kiến thức đã học vào các tình huống thực tế. Như vậy, tài liệu Sống đẹp là tài liệu giáo dục kỹ năng sống rất hữu ích, là một cẩm nang rất cần thiết để hình thành các kỹ năng sống cho các em. Giáo viên dạy phải đầu tư thời gian, phương pháp và thiết kế tổ chức
- các hoạt động học phù hợp có thể trong lớp, ngoài trời, tham quan...theo mỗi bài học để đạt được hiệu quả cao. 2.2.3. Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. Nếu như qua các môn học các em được hình thành kỹ năng giao tiếp, phát triển tư duy, kỹ năng tự nhận thức, ra quyết định, cảm thông, chia sẻ... thì hoạt động ngoài giờ lên lớp rèn luyện cho các em các kỹ năng cơ bản, phù hợp với lứa tuổi như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổ chức hoạt động chung cùng nhau, biết phối hợp với mọi người cùng hoạt động, cùng tham gia, trải nghiệm... Vậy để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp đạt hiệu quả. Theo tôi chúng ta cần tổ chức cho học sinh một số hoạt động sau: Tổ chức Đêm hội trăng rằm: các em phấn khởi được cùng vui hội với các hoạt động bày trí mâm cỗ, rước đèn, phá cỗ, xem múa lân hấp dẫn từ đó phát triển kĩ năng cần thiết cho HS. Ngoại khóa Tiếng Anh có sự tham gia của người nước ngoài thực sự giúp học sinh phát huy năng lực giao tiếp và tương tác. Học sinh có một sân chơi Anh ngữ vô cùng bổ ích và lý thú, giúp cho các em cởi mở hơn, tự tin hơn. Tổ chức “Ngày hội học sinh Tiểu học" với các hoạt động như: văn nghệ, gian hàng trưng bày, em tập làm kinh doanh, trạng nguyên nhỏ tuổi lớp 3,4,5 bằng hình thức Rung chuông vàng, trò chơi dân gian, nết chữnết người đã tạo ra sân chơi lớn cho các em tham gia, học sinh được trải nghiệm, phát triển các mặt năng lực phẩm chất cần thiết cho các em trong cuộc sống. Hoạt động vui chơi giải trí, văn nghệ, TDTT: Vui chơi giải trí là nhu cầu thiết yếu của trẻ, đồng thời là quyền lợi của trẻ em. Nó là một hoạt động có ý nghĩa giáo dục to lớn đối với học sinh ở trường tiểu học. Hoạt động này làm thỏa mãn tinh thần cho trẻ em sau những giờ học căng thẳng, góp phần rèn luyện một số phẩm chất như tính tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, lòng nhân ái. Để tổ chức có hiệu quả giáo viên phải biết phối hợp với Tổng phụ trách tạo sân chơi cho các em. Thiết kế các hoạt động phù hợp: + Tháng 8, 9: là lúc các em mới vào học, để tạo hứng thú cho các em, chúng ta nên tổ chức các trò chơi dân gian như đơn giản như kéo co, mèo đuổi chuột, nhảy bao bố... trò chơi này vừa giải trí nhưng vừa kết nối tình
- cảm giữa các bạn trong lớp, trong đội, trong trường. Các em có dịp làm quen với nhau khi được xếp vào một đội, một nhóm cùng chơi. + Tháng 10, 11: Những tháng này có các ngày kỷ niệm: 20/10, 20/11. Để giúp các em vừa giải trí, vừa ôn lại ngày kỷ niệm lớn chúng ta tổ chức hội thi hát dân ca hay hát hò khoan, khuyến khích các em sáng tác, đặt lời mới theo chủ đề về ngày Nhà giáo Việt Nam, về quê hương, đất nước, mái trường. Qua hội thi giúp các em phát triển kỹ năng giao lưu cũng như tình yêu quê hương đất nước. + Tháng 12, 01: Là nững tháng các em đã học được nhiều kiến thức. Để giúp các em tự khẳng định mình chúng ta nên tổ chức hội thi “Rung chuông vàng” hay “Trạng nguyên nhỏ tuổi”. Hội thi vừa thu hút những tài năng của trường vừa gây không khí hào hứng, giúp các em tự khẳng định mình, cũng như phát triển kỹ năng nhận thức. Tháng 2, 3: Đây là những tháng có các ngày kỷ niệm trọng đại. Tôi nghĩ giáo viên nên phối hợp với Tổng phụ trách tổ chức cho các em tham quan, dã ngoại một số nơi trong địa bàn, thăm các di tích lịch sử, giúp đỡ các bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh, người tàn tật...Để giáo dục các em có trách nhiệm với quê hương, đất nước và phải luôn nhớ ơn những người đã có công với nước. + Tháng 4 , 5: Tổ chức các hội thi tài năng: như hội thi cắm hoa, diễn thuyết về một số chủ đề như: Nhà sử học nhỏ tuổi, Chúng em yêu khoa học, ngoại ngữ... Đây là đỉnh điểm thăng hoa của năm học, nhằm chọn ra những tài năng xuất sắc, là tấm gương sáng của trường. Từ đây hình thành ở các em lòng đam mê hiếu học cũng như phát hiện các tài năng để giúp đỡ. Hoạt động lao động công ích: Đây là một loại hình đặc trưng của hoạt động ngoài giờ lên lớp. Thông qua lao động công ích các em gắn bó với đời sống xã hội. Lao động công ích sẽ giúp trẻ hiểu thêm về giáo trị lao động. Có lao động các em mới yêu người lao động, quý các sản phẩm người lao động làm ra. Vì vậy phải thường xuyên tổ chức các em các hoạt động như vệ sinh lớp học, sân trường, chăm sóc bồn hoa, trồng cây xanh để các em được tiếp xúc, làm quen với lao động. Chúng ta cũng biết, hiện nay học sinh rất ít được tham gia lao động nhưng đây là hoạt động thực sự cần thiết giúp các em thích nghi với cuộc sống xung quanh. Các em sẽ được rèn luyện sự nhanh nhẹn khi cầm chiếc chổi quét nhà, có tinh thần hợp tác với nhau khi cùng nhổ cỏ, tưới nước. Sau này dù có rơi vào hoàn cảnh khắc nghiệt nào thì các em vẫn có thể tồn tại được. Đó là nhờ các em biết lao động. Tham quan du lịch cảnh đẹp trong và ngoài tỉnh:
- Đây là hoạt động giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho các em, giúp các em biết được cảnh đẹp thiên nhiên. Bồi dưỡng khả năng cảm thụ cái đẹp, thưởng thức và giữ gìn nét đẹp của thiên nhiên, góp phần bồi dưỡng năng lực học môn Tiếng Việt. Qua đó giáo dục kiến thức môi trường cho các em, giúp các em có hành động đúng với môi trường mình đang sống. Tham quan cơ sở sản xuất, nhà máy xí nghiệp trên địa bàn: Hoạt động này giúp các em được tiếp xúc với thực tế sau khi học các bài Tập đọc, TNXH, Kỹ thuật, GD địa phương… Đồng thời là việc làm giáo dục hướng nghiệp cho các em, sớm bồi dưỡng lòng yêu lao động, biết quý thành quả của người lao động, giáo dục lòng yêu quê hương, định hướng cho ước mơ, chí hướng xây dựng quê hương. Tham quan di tích lịch sử, bảo tàng, nhà truyền thống: Tổ chức được hoạt động này sẽ giáo dục cho các em lòng tự hào truyền thống quê hương, truyền thống dân tộc. Đồng thời giáo dục các em biết phát huy truyền thống dân tộc, biết giữ giữ gìn, tôn tạo các khu di tích lịch sử, nhà bảo tàng. Giúp các em hiểu được nét đẹp truyền thống của dân tộc được lưu giữ lại đó là do sự đúc rút của ông cha truyền lại từ đời này sang đời khác, nhiệm vụ của chúng ta là phải giữ gìn và phát huy nét đẹp đó. 2.2.4. Giáo dục kỹ năng sống thông qua đổi mới phương pháp dạy học Đổi mới phương pháp dạy học không phải là thay đổi hoàn toàn các phương pháp cũ bằng các phương pháp mới mà là sự vận dụng phối hợp linh hoạt giữa các phương pháp dạy học và hình thức tổ chức lớp học. Dạy hoc theo nhóm là hình thức tổ chức dạy học mà học sinh có cơ hội phát triển nhiều kỹ năng sống như hợp tác, chia sẻ, các làm việc khoa học, tự học... Dạy học theo nhóm là hình thức tổ chức dạy học mà tất cả các học sinh của nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ nhất định trong một thời gian nhất định. Nhóm trưởng nhận nhiệm vụ từ giáo viên, điều hành hoạt động nhóm và báo cáo kết quả học tập của nhóm mình với giáo viên. Nói là học theo nhóm nhưng trước hết học sinh phải tự học, tự trải nghiệm, khám phá, nghiên cứu tài liệu để có những hiểu biết cá nhân về việc học tập, sau đó chia sẻ cặp đôi với bạn bên cạnh, nói cách nghĩ, cách làm cho bạn nghe, tiếp thu những góp ý của bạn để điều chỉnh ý kiến, kết quả của mình. Sau khi chia sẻ cặp đôi, học sinh tự tin báo cáo kết của của mình trước nhóm. Các thành viên trong nhóm nhận xét phần trình bày của bạn. Đây cũng
- là dịp các em thể hiện ý kiến cá nhân của mình. Các thành viên trong nhóm đều được báo cáo, nhận xét, ai cũng được tham gia vào công việc chung, không ai đứng ngoài cuộc, không ai làm thay. Hoạt động nhóm làm cho từng thành viên được bộc lộ những suy nghĩ, hiểu biết, thái độ của mình. Qua đó đươc tập thể uốn nắn, điều chỉnh. Trong nhóm nhỏ mỗi cá nhân đều phải nỗ lực, không thể ỷ lại vào người khác. Toàn nhóm phải phối hợp với nhau để đạt được mục tiêu chung. Kết quả làm việc của từng nhóm trước lớp sẽ tạo một không khí thi đua giữa các nhóm, đóng góp tích cực vào kết quả chung của bài học. Học theo nhóm giúp các em được tập thể uốn nắn, điều chỉnh. Qua đó phát triển tình bạn, năng lực hợp tác, năng lực trình bày, nghiên cứu, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tương trợ và cao hơn nữa là làm cho từng thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội. Như vậy đòi hỏi khi thiết kế bài dạy giáo viên phải đầu tư để tổ chức hoạt động học phù hợp. Tổ chức cho học sinh biết tự học, tự vận dụng. Làm cho học sinh biết hợp tác, chia sẻ. Phải tập cho học sinh học cách thức đi tới sự hiểu biết, học phong cách độc lập, sáng tạo, linh hoạt trong nhận thức và hành động. 2.2.5. Phối kết hợp với phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng sống cho các em Đây là hình thức thường làm nhưng lại đạt hiệu quả rất cao trong các hoạt động. Việc giáo viên tích cực giao lưu với phụ huynh giúp giáo viên dễ dàng nắm bắt tình hình của các em, hiểu được tính cách, hoàn cảnh sống của các em từ đó đề ra các biện pháp phù hợp cũng như cách tác động, phối hợp với phụ huynh trong việc rèn luyện đúng phương pháp. Nhận thức được tầm quan trọng của biện pháp này, tôi thường trao đổi, tuyên truyền phụ huynh hiểu những việc nên và không nên đối với các em để giúp các em có kỹ năng sống tốt, có kỹ năng tự bảo vệ bản thân, tự tin trong cuộc sống. Tôi nói rõ cho phụ hunh biết: trẻ con luôn bắt chước người lớn và cha mẹ các em là những người lớn gần gũi nhất. Vì vậy các bậc làm cha làm mẹ đừng vô tình bỏ qua những cơ hội đơn giản và thuận lợi hàng ngày để hướng dẫn con những thói quen tốt để rồi sau đó lại bắt các em mất thời gian học lại những điều này ở một nơi khác với những người xa lạ. Cha mẹ hãy chú ý giúp các em hình thành những kỹ năng sống tốt như kỹ năng giao tiếp xã hội để tự khám phá, đánh giá bản thân mình và người khác và là tấm gương sáng nhất đẻ trẻ noi theo từ lời ăn tiếng nói đến cử chỉ, hành động, giao tiếp với người xung quanh...
- VD: Bố mẹ hãy cho phép các em vui chơi bày biện đồ chơi theo theo ý thích của mình, đừng bao giờ cấm đoán hay la mắng. Điều quan trọng là hãy để các em tự thu dọn đồ chơi sau khi chơi xong. Bố mẹ có thể cùng con thu dọn nhưng tuyệt đối không bao giờ được làm thay. Khi đi học, bố mẹ cứ tự để cho con mình chuẩn bị đồ dùng, chỉ kiểm tra và chỉ ra những đồ dùng còn thiếu để các em bổ sung, và nhắc các em hôm sau phải chuẩn bị đầy đủ, không được chuẩn bị thay, hôm sau tiếp tục kiểm tra việc chuẩn bị đồ dùng của con cái. Trong các dịp lễ tết cha mẹ nên tạo cơ hội khuyến khích các em tham gia dọn dẹp trang hoàng nhà cửa, phụ ông bà lau lá để gói bánh chưng, trang trí cây đào, cây quất, đi chợ tết mua sắm cùng mẹ…Ngoài ra, bố mẹ hãy lựa chọn những chương trình trên truyền hình phù hợp và bổ ích với các em để cả nhà cùng xem, khi xem khuyến khích các em nói lên suy nghĩ cảm xúc của mình về những điều mà mình vừa được xem. Tôi cũng tuyên truyền với phụ huynh quan sát những biểu hiện của các em trong điều kiện và tình huống tự nhiên hàng ngày như quan sát xem các em có tự tin và tự nhiên khi giao tiếp với mọi người hay không? Có thích tham gia dã ngoại hay tham gia các nhóm sinh hoạt không? Có tự nhiên sáng tạo khi học các bài học không? Ccó lễ phép trong cách nói năng với người lớn hay không?… để từ đó có biện pháp rèn luyện và giáo dục . Điều tôi luôn tâm niệm với các bậc phụ huynh là: Chúng ta hãy dành nhiều thời gian hơn cho việc dạy các em nên người, không nên chỉ chạy theo các giá trị hiện thực như học vấn hay tiền bạc mà còn phải chỉ cho các em thấy những giá trị của tâm hồn, mà điều này đang rất cần đối với các em học sinh tiểu học lứa tuổi các em chập chững tập làm người lớn. Nhờ có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên với phụ huynh mà tôi thấy học sinh lớp tôi rất mạnh dạn, tự tin và hầu hết các em có kỹ năng sống cần thiết theo độ tuổi. 2.3. Những kết quả đạt được: Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận hợp tác của các bạn đồng nghiệp, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ học sinh đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy các kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết quả sau: 100% các em năng động, mạnh dạn và tự tin, 100% học sinh được rèn luyện khả năng sẵn sàng học tập ở trường đạt hiệu quả.
- 85% học sinh đã có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ năng nhận thức; kỹ năng vận động nhỏ, linh hoạt trong các hoạt động hàng ngày 90% học sinh được rèn kỹ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính tự tin thông qua các hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục và các môn học. 100% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội, kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp, chung sống hòa bình, thân thiện, biết chia sẻ. 90% trẻ biết được các việc làm để bảo vệ sức khỏe, chăm sóc bản thân như: không ăn các thức ăn không rõ nguồn gốc, ăn chín uống sôi, không đi một mình nơi hoang vắng... Hàng tháng có đánh giá kiểm tra chất lượng sau mỗi chủ đề đối với từng học sinh: + Mạnh dạn, tự tin: 90% + Kỹ năng hợp tác: 95% + Kỹ năng giao tiếp: 88% + Kỹ năng tự lập, tự phục vụ: 85% + Lễ phép: 100% + Kỹ năng vệ sinh: 95% + Kỹ năng thích khám phá, học hỏi: 85% + Kỹ năng tự kiểm soát bản thân: 90% Ở lớp các em biết đoàn kết, giúp đỡ bạn yếu hơn trong nhóm mình, biết phân công nhau lao động, vệ sinh, chăm sóc bồn hoa lớp mình xanh tốt, chia sẻ, giúp đỡ bạn khó khăn hơn. Đặc biệt là các em biết đoàn kết, hỗ trợ nhau khi tôi quan sát các em tham gia các trò chơi hay các hoạt động, biết kiềm chế bản thân trong khi xử lý các tình huống với bạn bè, điều mà bản thân tôi cũng như nhiều phụ huynh rất mong muốn. Các em cởi mở, thân thiện, gần gũi với tôi hơn, đã chủ động nói rõ những vướng mắc của mình và tìm sự hỗ trợ, giúp đỡ. Điều đó làm tôi rất hài lòng. Các em cũng rất có trách nhiệm trong việc làm của mình. Nếu một bạn nào trong lớp, trong trường có những hành vi chưa tốt như vứt rác, hái hoa, bẻ cành hay nói tục mà chưa tự nhận trách nhiệm cho bản thân thì các em đã thắc mắc, kiến nghị, yêu cầu bạn đó phải tự nhận lỗi của mình và hứa sửa chữa.
- Ý thức bảo vệ của công, biết trang trí và lớp học, trường học thân thiện, chăm đọc sách và tham gia giao lưu các hội thi do Đội, nhà trường tổ chức và đều đạt kết quả cao. (Giải nhất hội thi Trạng nguyên nhỏ tuổi) 3. KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của đề tài: Để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thì người giáo viên giữ một vai trò rất quan trọng, nhất là giáo viên trực tiếp giảng dạy và chủ nhiệm. Từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng, đề xuất và thể nghiệm, đề tài có ý nghĩa, tác dụng thiết thực trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong trường Tiểu học. Ý nghĩa của đề tài còn thể hiện ở các giải pháp và bài học sư phạm như sau: 1. Giáo dục kĩ năng sống thông qua các môn học: Tiếng Việt, Đạo đức, TNXH.... 2. Giáo dục kĩ năng sống thông qua dạy học theo tài liệu “Sống đẹp”. 3. Giáo dục kĩ năng sống thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. 4. Giáo dục kĩ năng sông thông qua đổi mới phương pháp dạy học. 5. Phối kết hợp với phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng sống cho các em. 3.2. Kiến nghị, đề xuất: + Đối với giáo viên: Để phù hợp với giai đoạn hiện nay tôi nghĩ mỗi giáo viên tự mình cần đổi mới nội dung, phương pháp dạy học. Cần nắm vững phương pháp, nghệ thuật sư phạm, hiểu được đặc điểm tâm lí, trình độ hiểu biết, vốn sống của học sinh tiểu học Biết tổ chức quản lí việc học tập của học sinh nhằm hình thành tính tích cực, tự lập, tự giác hoàn thành nhiệm vụ. Có kế hoạch cụ thể để phối kết hợp giữa gia đình với các hoạt động của trường tạo sự đồng bộ nhịp nhàng trong quá trình giáo dục học sinh. Tạo cơ hội cho trẻ có nói, suy nghĩ, thể hiện nhu cầu, bộc lộ cảm xúc...Từ đó có biện pháp tạo mối quan hệ giữa gia đình – nhà trường xã hội. Kết hợp chặt chẽ với Ban giám hiệu nhà trường và giáo viên bộ môn. + Đối với nhà trường TPT Đội: Nhà trường cần tăng cường tổ chức những buổi sinh hoạt ngoại khóa với nhiều hình thức phong phú lôi cuốn các em ham thích hoạt động. Tạo điều kiện cho các em đi tham quan các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử...
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2238 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 434 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 216 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 168 | 14
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 65 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn