intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy học theo hướng tích cực hóa trong tiết học Nói và nghe lớp 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:22

7
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số biện pháp dạy học theo hướng tích cực hóa trong tiết học Nói và nghe lớp 2" nhằm góp phần nhỏ sức lực của mình vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Nói và nghe để tìm ra biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong tiết học Nói và nghe môn Tiếng Việt lớp 2.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy học theo hướng tích cực hóa trong tiết học Nói và nghe lớp 2

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ TRƯỜNG TIỂU HỌC NGŨ HIỆP ---------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC THEO HƯỚNG TÍCH CỰC HÓA TIẾT HỌC NÓI VÀ NGHE LỚP 2 Môn : Tiếng Việt Cấp học : Tiểu học Tên Tác giả : Thái Thanh Ngân Đơn vị công tác: Tiểu học Ngũ Hiệp Chức vụ : Giáo viên NĂM HỌC: 2021 - 2022
  2. MỤC LỤC Mục lục Trang Mở đầu. 1 1. Lý do chọn đề tài. 1 2. Mục đích nghiên cứu. 1 3. Đối tượng nghiên cứu 1 4. Nhiệm vụ nghiên cứu. 2 5. Phương pháp nghiên cứu. 2 Nội dung 3 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài. 3 1.1. Cơ sở lí luận 3 1.2. Cơ sở thực tiễn. 3 2. Nội dung chương trình Nói và nghe lớp 2 4 3. Thực trạng dạy và học 5 3.1. Những thuận lợi 5 3.2. Những khó khăn 5 4. Biện pháp giúp học sinh học tốt Nói và nghe ở lớp 2. 6 4.1. Nghiên cứu đắc trưng tiết học Nói và nghe 6 4.2. Ứng dụng linh hoạt Công nghệ thông tin và dạy Nói và nghe 6 lớp 2. 4.3. Chuẩn bị đồ dùng học tập cho tiết Nói và nghe 8 4.4. Sử dụng linh hoạt nhiều hình thức Nói và nghe khác nhau 8 4.5. Tổ chức các hoạt động khuyến khích tính tích cực của học 11 sinh 4.6. Thường xuyên trau dồi cho học sinh kĩ năng Nói và nghe 12 5. Giáo án thực nghiệm 13 6. Kết quả 18 Kết luận 19 1. Những kết luận được rút ra từ đề tài. 19 2. Khuyến nghị. 19 2.1. Đối với cấp trên 19 2.2. Đối với GV 19
  3. 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Có một câu châm ngôn nói rằng: “Dù đã dắt ngựa đến bờ sông cũng không thể bắt nó uống nước được”. Vấn đề học tập của trẻ cũng vậy. Dù có bắt được chúng ngồi ngay ngắn học tập nhưng nếu không thích thú, trẻ không thể học tốt . Chính vì vậy ngoài việc truyền đạt kiến thức cho học sinh của người thầy, tôi nghĩ rằng mình cần phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động. Học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép sẽ đạt được kết quả tốt. Môn Tiếng Việt là môn học có nhiều phân môn và chiếm nhiều thời gian học tập của học sinh nhất. Tuy nhiên, trong môn Tiếng Việt, Nói và nghe được nhìn nhận với tầm quan trọng đặc biệt, vì nó mang tính thực hành cao và góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu chung của môn Tiếng Việt nói riêng, của bậc Tiểu học về các mặt nói chung. Tiết học Nói và nghe luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với Tập đọc và Tập làm văn. Nó có sự gắn bó không chỉ ở sự phân bố giờ học mà còn ở nội dung dạy, thể hiện rõ quan điểm tích hợp, tạo ra một phong cách mới trong dạy học. Tiết học Nói và nghe bồi dưỡng tâm hồn, phát triển tư duy, ngôn ngữ, kỹ năng nghe, nói, kể và khả năng giao tiếp cho trẻ. Thông qua giờ Nói và nghe, các em sẽ được cung cấp thêm những kiến thức văn học, kiến thức cuộc sống, được rèn luyện khả năng ghi nhớ, óc tưởng tượng, khả năng tư duy, lô gíc chính xác, khả năng chú ý, khả năng thông hiểu ngôn ngữ, tăng vốn từ, rèn kỹ năng nói và kể chuyện trước đám đông một cách tự nhiên, thành thạo, sáng tạo với tác phong kể của mình. Từ việc hình thành, rèn luyện kỹ năng nghe, nói phát triển các năng lực ngôn ngữ, năng lực diễn đạt, sáng tạo trong lời kể, đến bồi dưỡng kiến thức giáo dục tư tưởng tình cảm cho các em, năng lực tư duy, mở rộng tâm hồn, rèn luyện thói quen hứng thú đọc sách, truyện chú ý quan sát tranh, chú ý nghe bạn kể và nhớ lại nội dung câu chuyện kể sao cho sinh động hấp dẫn, đạt kết quả cao trong giờ Nói và nghe quả thật không đơn giản. Nó đòi hỏi người giáo viên phải tìm tòi cải tiến phương pháp sao cho có nhiều hình thức phù hợp lôi cuốn học sinh say mê hứng thú học tập, không buồn tẻ nhàm chán. Trong quá trình giảng dạy ở trường Tiểu học, tôi cho rằng tiết Nói và nghe là tiết dạy khó rất cần người giáo viên đầu tư thời gian, sức lực, trí tuệ để tiết dạy có hiệu quả. Dựa vào phương pháp tích cực hoá các hoạt động của người học, trong đó người thầy giáo đóng vai trò là người tổ chức các hoạt động của học sinh, đều được hoạt động, đều được bộc lộ mình và được phát triển ( lấy học sinh làm trung tâm) tôi đã thực hiện đề tài “Một số biện pháp dạy học theo hướng tích cực hóa trong tiết học Nói và nghe lớp 2”. 2. Mục đích nghiên cứu: Qua đề tài này, tôi muốn góp phần nhỏ sức lực của mình vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Nói và nghe để tìm ra biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong tiết học Nói và nghe môn Tiếng Việt lớp 2. 3. Đối tượng nghiên cứu:
  4. 4 Áp dụng những biện pháp dạy học theo hướng tích cực hóa trong tiết học Nói và nghe lớp 2 ở bậc Tiểu học đối với học sinh lớp 2E trường Tiểu học Ngũ Hiệp 4. Nhiệm vụ nghiên cứu: 4.1. Nghiên cứu một số vấn đề lí luận, các vấn đề có liên quan đến nội dung và phương pháp dạy học Nói và nghe lớp 2. 4.2. Phân tích những tồn tại, những vướng mắc của giáo viên và học sinh khi dạy và học phân môn Nói và nghe lớp 2 ở trường Tiểu học. 4.3. Đưa ra một số Biện pháp dạy học theo hướng tích cực hóa trong tiết học Nói và nghe lớp 2 từ đó nâng cao chất lượng học các môn học khác. 5. Phương pháp nghiên cứu: 5.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận: đọc tài liệu, các giáo trình có liên quan đến đề tài nghiên cứu để phân tích và tổng hợp các vấn đề dạy Nói và nghe ở Tiểu học,sách giáo khoa, sách giáo viên sách tham khảo phương pháp dạy học môn Tiếng Việt 5.2. Phương pháp quan sát: Thông qua những giờ dạy của đồng nghiệp, những giờ thực hành của giáo viên và học sinh. 5.3. Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm: Tìm hiểu thực tế qua khảo sát rút ra vấn đề cơ bản nhất giúp cho việc nghiên cứu 5.4. Phương pháp thực nghiệm và điều tra: tìm hiểu thực trạng việc dạy và học phân môn Nói và nghe nói riêng và các môn học khác nói chung.
  5. 5 NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài : 1.1. Cơ sở lý luận : Đổi mới phương pháp dạy học là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học được thể hiện đậm nét trong chương trình mới ở chỗ: Chương trình Tiểu học mới tập trung vào cách dạy học, đặc biệt là giúp học sinh biết cách học và có nhu cầu tự học, khuyến khích dạy học cá nhân và dạy học hợp tác để phát triển năng lực theo tốc độ học, khả năng của từng học sinh. Trong mục tiêu giáo dục và giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học, tiết học Nói và nghe bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, trau dồi những tri thức về cuộc sống và bồi dưỡng vốn văn học cho học sinh. Ngoài ra nó còn nhằm nâng cao năng lực trí tuệ, đồng thời rèn luyện cho các em khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ, rèn trí tưởng tượng, óc phán đoán, khả năng ghi nhớ, năng khiếu thẩm mỹ, hình thành ở trẻ em nhiều phẩm chất tốt đẹp, rất cần thiết cho nhu cầu phát triển ở lứa tuổi này. Chính vì vậy tiết Nói và nghe đòi hỏi giáo viên vừa biết kể chuyện hấp dẫn, vừa biết dạy cho học sinh tập nói, tập kể chuyện và phát triển ngôn ngữ, bước đầu tập dùng ngôn ngữ của bản thân để diễn tả (tập kể chuyện). Qua mỗi tiết Nói và nghe, học sinh được tiếp xúc với một văn bản truyện kể khá lý thú, cảm nhận được nội dung và thu hoạch được những bài học bổ ích... nhưng điều quan trọng hơn là các em học được cách dùng từ ngữ, câu văn để diễn đạt một ý, liên kết các ý trong một đoạn, một bài. Đây chính là yêu cầu rèn kỹ năng nói cho học sinh. Việc hình thành cho học sinh lớp 2 nói riêng, học sinh Tiểu học nói chung kĩ năng Nói và nghe tốt là rất quan trọng. Học tốt Nói và nghe, học sinh bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản và thiết thực về dùng từ ngữ, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh học tốt phần Tập làm văn của các lớp trên. 1.2. Cơ sở thực tiễn : Kể chuyện là khả năng sử dụng ngôn ngữ ở dạng nói có tính nghệ thuật. Rèn kĩ năng nói cho học sinh nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dưỡng mà chương trình đề ra là một việc làm không dễ dàng, đòi hỏi giáo viên phải có sự đầu tư về thời gian và sự phối hợp chặt chẽ giữa các phân môn như phân môn Luyện từ và câu, phân môn Tập đọc và Tập làm văn. Nói và nghe không phải là phân môn duy nhất có nhiệm vụ rèn kĩ năng nói. Vì vậy chương trình Tiếng Việt tạo ra một quan hệ mật thiết giữa Nói và nghe với luyện đọc, luyện tập về câu và từ là một việc làm khoa học. Trong giờ Nói và nghe, hầu như học sinh được phát huy tối đa khả năng nói của mình. Ngoài ra, để hình thành kĩ năng Nói và nghe cho học sinh còn phụ thuộc vào phương pháp, hình thức tổ chức của giáo viên. Nói và nghe trong chương trình Tiểu học đã đưa vào những phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp cho việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh. Một trong những lý do khiến trẻ rất thích giờ Nói và nghe là các em được kể lại câu chuyenej. Các nhà nghiên cứu cho thấy rằng: trẻ có nhu cầu rất lớn trong việc giao lưu với bạn, san sẻ những thu nhận mới lạ của mình.Vì được kể lại cho cô, cho bố mẹ, ông bà … nghe là một nhu cầu của học sinh Tiểu học. Để giúp các em thỏa mãn nhu cầu đó, ngoài việc vận dụng những hiểu biết về ngôn ngữ, lý thuyết sản sinh lời
  6. 6 nói, giáo viên cần giúp học sinh vận dụng những hiểu biết về văn học, vận dụng năng lực cảm thụ văn học để lựa chọn cho mình giọng kể phù hợp. Việc dạy cho học sinh kể chuyện chính là quá trình giáo viên khơi dậy sự hiểu biết và cảm nhận của các em về người, vật và cuộc sống xung quanh. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy để học sinh biết cách tổ chức câu, ý sao cho lô gic, cách sử dụng từ chính xác và hay khi kể một câu chuyện. Trong quá trình dạy học nhiều năm, tôi thấy nhiềug giáo viên rất ngại dạy thao giảng môn học này, bởi lẽ dạy cho học sinh biết kể một câu chuyện hay rất khó vì phải chau chuốt cho học sinh từng câu, từng từ, phải nắm vững ngữ pháp Tiếng Việt, từ ngữ phải phong phú…, từ những nguyên nhân đó mà một số giáo viên chưa hứng thú dạy thao giảng phân môn Kể chuyện. Chính vì thế mà chất lượng kể chuyện của học sinh chưa cao (kể cả học sinh lớp lớn). Ngược lại, nếu giáo viên có phương pháp và biện pháp dạy kể chuyện đặc biệt chú trọng đổi mới phương pháp dạy học, có tâm huyết với nghề sẽ giúp các em có hứng thú học và biết kể chuyện tốt hơn. 2. Nội dung chương trình phân môn Nói và nghe lớp 2 Trong 2 học kì năm học lớp 2, HS được học 31 tiết Nói và nghe. Nội dung Nói và nghe ở lớp 2 là kể lại những câu chuyện đã học trong các bài tập đọc 2 tiết. Trong cấu trúc SGK Tiếng Việt lớp 2, các câu chuyện được phân bố như sau: Thể loại Số lượng Tên truyện (Chủ đề) Kể lại câu chuyện 24 Niềm vui của Bi và Bống Em có xinh không? Chú đỗ con Cậu bé ham học Bữa ăn trưa Họa mi, vẹt và quạ Búp bê biết khóc Hai anh em Sự tích cây vú sữa Bà cháu Ánh sáng của yêu thương Chuyện bốn mùa Hồ nước và mây Chiếc đèn lồng Sự tích cây khoai lang Cảm ơn họa mi Sự tích cây thì là Hạt giống nhỏ Lớp học viết thư Cảm ơn anh Hà mã Mai An Tiêm Bóp nát quả cam
  7. 7 Thể loại Số lượng Tên truyện (Chủ đề) Thánh Gióng Chuyện quả bầu Những ngày hè của em Ngôi trường của em Nói theo chủ đề 4 Bảo vệ môi trường Nói về quê hương, đất nước em 3. Thực trạng dạy và học: 3.1. Thuận lợi: Tất cả học sinh được sự quan tâm chăm sóc chu đáo của gia đình; học sinh có đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập. Các em đều được kế thừa truyền thống hiếu học của gia đình, được sự quan tâm của các lực lượng giáo dục ở địa phương. Giáo viên có lòng nhiệt tình, luôn tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu đáp ứng kịp thời nhiệm vụ dạy học; quan tâm đến mọi đối tượng học sinh. Trong chương trình Giáo dục phổ thông mới, các bài Nói và nghe đưa nội dung các câu chuyện gần gũi, tranh ảnh sinh động, tính thẩm mĩ cao giúp học sinh tương tác, nhớ chi tiết câu chuyện. 3.2. Khó khăn. Trong những năm vừa qua hầu hết giáo viên vẫn còn bị ảnh hưởng theo lối dạy Nói và nghe theo chương trình cũ, giờ Nói và nghe giáo viên kể mẫu xong chỉ đặt các câu hỏi như: Câu chuyện này có mấy nhân vật? Là những nhân vật nào? Để cho các em nhớ lại cốt truyện, sau đó là để các em kể lại theo đoạn và cả câu chuyện. Với hình thức dạy Nói và nghe như vậy nhiều khi học sinh không thể nắm bắt được cốt truyện ngay trên lớp, trừ một số em đã đọc truyện đó ở nhà một hai lần. Do đó hạn chế kỹ năng kể lại và nhận xét bạn kể của các em. Điều đó cũng ảnh hưởng đến việc rèn khả năng nghe, nói cho học sinh. Khi tổ chức các hoạt động dạy trong giờ Nói và nghe chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo, năng động của học sinh. Chưa linh hoạt khi xử lí các tình huống có vấn đề khi dạy giờ Nói và nghe. Ở phân môn Nói và nghe trong bộ Sách giáo khoa không có quyển Truyện kể dùng riêng cho các giờ Nói và nghe. Trên lớp, học sinh chỉ kể lại hoặc dựng lại dưới hình thức hoạt cảnh những câu chuyện đã học trong tiết Đọc đầu tiên trong tuần. Trong quá trình dạy học giáo viên chưa động viên kịp thời học sinh, chưa giúp các em nhập hồn vào các nhân vật khi kể dẫn đến giờ học hiệu quả chưa cao. Việc chuẩn bị bài của học sinh chưa chu đáo, tình trạng học sinh không nắm được yêu cầu, nội dung câu chuỵên cần kể còn hạn chế. Giáo viên chưa gọi các em học sinh hay rụt rè, ngại nói và diễn đạt kém lên kể thường xuyên. Từ đó dẫn đến học sinh chưa phân biệt được các mức độ: kể được bằng lời trong văn bản, kể bằng lời của mình, kể bằng lời trong câu chuyện. Các em diễn đạt chưa lưu loát, chưa biết thay đổi giọng phù hợp với nội dung câu chuyện,
  8. 8 chưa biết sử dụng điệu bộ, cử chỉ hỗ trợ cho lời kể. Vì vậy chưa phát huy được khả năng nói của học sinh trong giờ học Nói và nghe. Năm học 2021 – 2022, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, học sinh học chủ yếu qua hình thức trực tuyến từ tháng 9/2021 đến tháng 4/2022. Tiết học Nói và nghe thực hiện qua hình thức học trực tiếp, học sinh và giao viên tương tác qua màn hình nhỏ. Vì vậy, tính tương tác của học sinh chưa cao, hạn chế trong việc giao tiếp cũng như diễn đạt của học sinh. 4. Biện pháp dạy học phân môn Nói và nghe lớp 2: 4.1.Nghiên cứu đặc trưng phân môn Nói và nghe. Tiết Nói và nghe như tên gọi là đặc trưng kể chứ không phải đọc hay là giảng, là làm bài tập. Khi dạy người giáo viên phải biết hướng dẫn các em kể lại bằng ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ. Biết vận dụng vào các tranh vẽ để nhớ lại nội dung từng đoạn của câu chuyện. Do Nói và nghe có tính chất tổng hợp nên tiết Nói và nghe yêu cầu cầu các em rèn luyện. - Kĩ năng ghi nhớ. - Kĩ năng Nói và nghe và kĩ năng nói trước đông người. - Kĩ năng đóng vai theo nội dung truyện. Trong các kĩ năng, kĩ năng Nói và nghe là một kĩ năng có tính chất tổng hợp kĩ năng nói và kĩ năng diễn cảm. Muốn nói, muốn viết, khi nói, khi viết phải diễn tả ý của mình sao cho trung thành, sáng sủa, chặt chẽ, chính xác và hay. 4.2. Ứng dụng linh hoạt Công nghệ thông tin và dạy Nói và nghe lớp 2. 4.2.1. Soạn bài giảng điện tử sử dụng phần mềm PowerPoint. Nếu trước đây, giáo viên dạy Nói và nghe cho học sinh chỉ thông qua tranh, ảnh rồi kể cho học sinh câu chuyện thì chưa thực sự thu hút, gây hứng thú cho học sinh nhưng khi đưa các câu chuyện vào sử dụng phần mềm PowerPoint, dùng những hiệu ứng, âm thanh lồng ghép thì thực sự kích thích được tính tò mò, ham hiểu biết và chăm chú lắng nghe của trẻ. Với khả năng trình chiếu thuận lợi và giao diện đẹp, tạo ra được hình ảnh, âm thanh và trò chơi rất hấp dẫn nên PowerPoint rất được ưa chuộng trong việc ứng dụng vào giảng dạy phân môn Nói và nghe. Bài giảng điện tử là một hệ thống có tổ chức bài trên lớp mà ở đó toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học đều được chương trình hóa do giáo viên điều khiển thông qua môi trường multimedia do máy tính tạo ra. Cũng có thể hiểu bài giảng điện tử là những tệp tin có chứa chức năng truyền tải nội dung giáo dục đến học sinh. Có thể nói việc dạy học có sử dụng bài giảng điện tử đã giúp cho GV đỡ vất vả hơn nhiều. Thay bằng thao tác hướng dẫn, các thao tác gắn đồ dùng lên bảng. GV chỉ cần kích chuột lên là có. Dạy bằng bài giảng điện tử còn tránh được tình trạng cháy giáo án do quá nhiều thao tác gắn và tháo đồ dùng dạy học. Mặt khác, khi sử dụng bài giảng điện tử, giáo viên có thể thiết kế như sách giáo khoa, không cần in tranh ảnh tốn tiền, mất thời gian mà hình ảnh nhỏ lại, không rõ nét như khi đưa lên màn hình lớn. Bên cạnh đó, thực tế cho thấy quy trình dạy một tiết Nói và nghe ở tiểu học khá dài. Ngoài mục tiêu chính của tiết Nói và nghe là đáp ứng nhu cầu được nghe và kể lại ở trẻ em, phát triển ngôn ngữ, đặc biệt là kĩ năng nghe - nói, thì học sinh còn phải hiểu được nội dung của câu chuyện đó. Bởi vậy, việc ứng dụng phần mềm PowerPoint 2010 vào thiết kế bài giảng điện tử cho tiết học Nói
  9. 9 và nghe sẽ giúp cho giáo viên tiết kiệm được nhiều thời gian viết bảng, có thêm thời gian để rèn cho học sinh các kĩ năng đọc, sửa lỗi phát âm cũng như tìm hiểu nội dung bài học. Trên cơ sở của việc tìm hiểu những đặc điểm của phần mềm PowerPoint, các đặc trưng Nói và nghe của phân môn, tâm sinh lí của HS Tiểu học nhận thấy: Với nhiều tính năng vượt trội và thông minh, PowerPoint 2010 rất phù hợp cho việc ứng dụng để thiết kế bài giảng, tạo ra các hình ảnh, file phim, nhạc, hiệu ứng thông minh. Hình ảnh một số Slide PowerPoint bài Sự tích cây vú sữa – Tuần 15. Hình ảnh một số Slide PowerPoint bài nói theo chủ đề “Bảo vệ môi trường – Tuần 26.
  10. 10 Hơn nữa, đây là phần mềm dễ sử dụng, mọi giáo viên có thể thao tác đơn giản trên PowerPoint 2010 để tạo ra những gì mình cần cho một bài học như: - Tạo slide - Tạo tiêu đề - Chèn hình ảnh, âm thanh, phim, hộp texbox, chữ nghệ thuật… - Tạo hiệu ứng cho từng đối tượng và cho các slide - Thiết kế bài tập trò chơi - Trình chiếu…. Đặc biệt chủ yếu học hình thức trực tuyến, toàn bộ các tiết học phân môn Nói và nghe đều được giáo viên sử dụng phần mềm Powerpoint 2010 để dễ dàng truyền tải bài giảng, hình ảnh, video tới học sinh. Vì vậy, việc ứng dụng phần mềm PowerPoint 2010 trong thiết kế bài giảng điện tử trong phân môn Nói và nghe là hoàn toàn phù hợp, đảm bảo được tính khoa học và tính sư phạm trong dạy học. 4.2.2. Sử dụng phần mềm Window Movie Maker. Ngoài sử dụng phần mềm Powerpoint, một công cụ soạn giáo án điện tử khá tiện ích với giáo viên đó là Phần mềm Window Movie Maker. Phần mềm này có sẵn trong chương trình Window nhưng không phải ai cũng chú ý tới nó. Các bạn chỉ cần nhấp chuột vào Start/ Program/Window Movie Maker, biểu tượng là một cuộn phim. Phần mềm này cho phép làm giáo án như những đoạn phim. Người soạn có thể đưa tranh ảnh, video, âm thanh, chữ viết vào bài giảng của mình và làm hiệu ứng cho chúng thật sống động. Giáo viên muốn tự ghi âm giọng kể truyện ngọt ngào của mình để lồng vào đoạn phim? Thật đơn giản, các bạn chỉ cần kích vào biểu tượng cái Micro và làm theo chỉ dẫn mà thôi. Không những thế các bạn còn có thể dễ dàng in xao giáo án của mình ra đĩa VCD để dạy trên tivi mà không cần phải ra hiệu Converter. Phần mềm Widown Movie Maker rất tiện ích trong việc đưa những câu chuyện thành video sống động, thu hút học sinh. 4.3. Chuẩn bị đồ dùng học tập cho tiết Nói và nghe. 4.3.1. Tranh . Tranh ảnh là đồ dùng trực quan có thể được sử dụng trong bất kì một môn học nào. Giáo viên sử dụng tranh vẽ để minh hoạ cho nội dung truyện, làm cho lời kể mẫu của mình sinh động và hấp dẫn hơn. Còn hình thức Nói và nghe theo tranh của chương trình mới thì hoàn toàn khác hẳn. Vì vậy, giáo viên phải chuẩn bị đầy đủ tranh vẽ để thể hiện nội dung, diễn biến câu chuyện. Học sinh dựa vào tranh vừa là phương tiện trợ giúp trí nhớ một cách đắc lực, vừa là công cụ làm cho việc thể hiện lại câu chuyện một cách sinh động và hấp dẫn. Đa số các câu chuyện đều được kể theo tranh, mỗi bức tranh sẽ tương ứng với nội dung của một đoạn truyện, thường thì mỗi câu chuyện có 4 bức tranh minh hoạ. Với hình thức dạy học trực tuyến, tôi chuẩn bị thật kĩ tranh minh họa được sử dụng từ dữ liệu trên sách mềm trên trang web: hanhtrangso.nxbgd.vn đưa vào Powerpoint giúp học sinh dễ quan sát, dễ nhớ chi tiết câu chuyện. 4.3.2. Chuẩn bị một số dụng cụ hoá trang sắm vai đơn giản cho mỗi nhân vật.
  11. 11 Dụng cụ hoá trang góp phần quan trọng trong việc gây hứng thú cho học sinh kể và gây sự chú ý theo dõi của người xem. Chỉ cần thay đổi mội vài kiểu dáng nho nhỏ cũng đã tạo được niềm hứng khởi cho bạn được đóng vai kể rất lớn. Với hình thức dạy học trực tuyến, để chuẩn bị dụng cụ hóa trang, tôi giao học sinh về nhà chuẩn bị các hình ảnh các con vật giống các nhân vật trong câu chuyện, gắn lên thanh giấy bìa tạo thành mũ đội nhằm phân vai. Việc làm này cũng được học sinh thích thú, chuẩn bị trước giờ học. 4.4. Sử dụng linh hoạt nhiều hình thức Nói và nghe khác nhau: 4.4.1. Hình thức Nói và nghe theo tranh. Nói và nghe theo tranh là hình thức giáo viên chuẩn bị sẵn tranh thể hiện nội dung, diễn biến câu chuyện để học sinh kể chuyện dựa vào tranh. Tranh là phương tiện hỗ trợ đắc lực cho quá trình kể lại câu chuyện của học sinh. Tranh ở đây cũng là đồ dùng dạy học song không để giới thiệu, để kết thúc câu chuyện mà học sinh dựa vào đó mà thuật lại chi tiết câu chuyện. Nói và nghe theo tranh là hình thức hấp dẫn, lôi cuốn học sinh theo dõi, tham gia. Tranh ảnh giúp cho học sinh có những biểu hiện cụ thể về nhân vật, là điểm tựa để học sinh nhớ diễn biến, tình tiết chuyện. Học sinh hình dung ra cốt truyện, diễn biến phục vụ cho việc kể. Khi kể lại chuyện theo tranh, giáo viên hướng dẫn học sinh theo các bước: - Sắp xếp theo thứ tự từng đoạn. - Chỉ từng tranh ứng với đoạn nào của câu chuyện. - Nội dung từng bức tranh là gì ? - Quan sát tranh và cho biết tranh vẽ gì ? Nhân vật chính là ai ?... - Chỉ từng tranh vẽ trong tranh kể chứ không phải kể theo trí nhớ, thuộc lòng trong sách giáo khoa. Với học sinh, giáo viên có thể kể mẫu, sau đó yêu cầu học sinh vừa kể vừa chỉ vào bức tranh kể lại từng đoạn câu chuyện hoặc cả câu chuyện. Hình thức Nói và nghe theo tranh là hình thức hay hấp dẫn cuốn hút học sinh, phát huy khả năng quan sát, óc tưởng tượng, phát huy tính tích cực học sinh trong giờ học. Trong việc sử dụng tranh ảnh cho tiết Nói và nghe, ngoài yêu cầu về thời điểm đúng lúc, đúng chỗ còn có yêu cầu về chất lượng tranh ảnh. Tranh vẽ phải rõ nét, màu sắc hài hoà gây ấn tượng và kích thích hứng thú của học sinh. Giờ Nói và nghe theo tranh được cả giáo viên và học sinh đều thích thú, học sinh thì thích xem tranh minh hoạ còn giáo viên có thời gian quan sát học sinh, để đánh giá sáng tạo của học sinh trong giờ Nói và nghe. Năm học 2021-2022, dưới hình thức dạy học trực tuyến, toàn bộ tranh ảnh, tôi sử dụng tranh ảnh trên trong sách mềm, học liệu trên trang web: hanhtrangso.nxbgd.vn để đưa vào Powerpoint để giảng dạy. Tranh ảnh của bộ sách rất sinh động, bắt mắt giúp học sinh dễ quan sát, nắm được các nhân vật, chi tiết gần gũi với câu chuyện một cách dễ dàng. 4.4.2. Nói và nghe theo dàn ý cho sẵn Học sinh lớp 2 năng lực nghe và ghi nhớ còn hạn chế nên khi giáo viên kể lần một có khi các em chưa nhớ được nội dung, diễn biến, tình tiết, hình ảnh chính của câu chuyện.
  12. 12 Nói và nghe theo dàn ý cho sẵn là hình thức học sinh dựa vào gợi ý của giáo viên đưa ra để kể lại câu chuyện. Hệ thống gợi ý nhằm mục đích giúp cho học sinh tái hiện lại từng chi tiết câu chuyện để kể. Hệ thống dàn ý đưa ra phải rõ ràng, dễ hiểu, có nội dung, không nên đưa những câu hỏi rườm rà, phức tạp gây khó khăn cho học sinh khi kể. Dựa vào hệ thống dàn ý cho sẵn học sinh chủ động hình thức kể của bản thân mình để giờ học gây hứng thú hơn. Giáo viên ghi hệ thống dàn ý cho sẵn vào bảng phụ đính bên trái, bên phải bảng ghi ý chính câu trả lời, học sinh dựa vào câu hỏi và phần trả lời để kể. * Giáo viên lưu ý học sinh: Khi Nói và nghe theo dàn ý cho sẵn, hệ thống câu hỏi là điểm tựa để các em nhớ được nội dung câu chuyện và kể lại được chứ không phải trả lời câu hỏi đó. Yêu cầu học sinh dựa vào hệ thống câu hỏi cho sẵn trên bảng kể từng đoạn sau đó kể toàn bộ câu chuyện. Nói và nghe theo gợi ý cho sẵn là hình thức kể dễ nhất, vì nội dung diễn biến câu chuyện đã được ghi trên bảng. Hình thức kể này phù hợp với học sinh trung bình. Câu chuyện do học sinh kể có hấp dẫn hay không phụ thuộc vào kĩ năng Nói và nghe của từng học sinh. Em nào học khá có thể nhìn hệ thống câu hỏi mà kể được rất hay, song cũng có em còn lúng túng giáo viên nên cố gắng hạn chế việc quát mắng trừng phạt trong giờ học. Làm như vậy học sinh bớt lúng túng, bình tĩnh, hứng thú học. 4.4.3. Phân vai diễn lại một đoạn hoặc cả câu chuyện. Trong phương pháp Nói và nghe ở tiểu học nói chung, dạy Nói và nghe lớp 2 nói riêng, không phải chuyện nào cũng được áp dụng hình thức kể chuyện bằng tranh, kể bằng hệ thống dàn ý cho sẵn. Có những hình thức trên rất khó kể, không toát lên ý nghĩa của truyện. Đó là những câu chuyện chỉ toàn đối thoại giữa hai hoặc nhiều nhân vật. Vì vậy, nên kết hợp hình thức kể chuyện phân vai diễn lại một đoạn hoặc cả câu chuyện. Như vậy, mỗi học sinh đảm nhiệm một vai diễn, phải nói kịp thời đúng vai, đúng lời nhân vật. ở trình độ cao hơn cả nhóm phải phối hợp ăn ý, nhẹ nhàng mỗi em thực sự nhập vai, lời nói biểu cảm, kết hợp với cử chỉ động tác. Bằng cách này câu chuyện sẽ trở thành một cảnh kịch sinh động… Hấp dẫn, thú vị, thể hiện sự sáng tạo riêng của mỗi em. Trong trường hợp chuyện có câu đối thoại, có những câu phải giữ nguyên lời nhân vật nhưng có những câu không cần giữ nguyên, chỉ cần nói theo ý hiểu của mình miễn là diễn đạt đúng ý là được. Kể lại chuyện như vậy giúp học sinh thoải mái, không lo sợ “ không thuộc” phát huy được tính tích cực học tập của học sinh trong giờ học. 4.4.4. Hướng dẫn học sinh tóm tắt toàn bộ câu chuyện bằng vài câu văn ngắn gọn. Trong giờ Nói và nghe, ngoài việc nắm bắt được toàn bộ nội dung, tình tiết câu chuyện quan trọng hơn học sinh phải tóm tắt được cốt truyện. Như vậy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tóm tắt và ghi nhớ cốt truyện. Nội dung của câu chuyện sẽ được các em ghi nhớ theo các ý như dàn bài của một bài tập làm văn và trong quá trình kể các em dễ dàng tái hiện lại chuyện theo thứ tự lô gích,
  13. 13 tránh tình trạng học thuộc câu chuyện để rồi kể lại như đọc một bài văn thuộc lòng, quên một từ hoặc một câu là quên cả đoạn luôn. Trong quá trình hướng dẫn học sinh tóm tắt truyện, cần cho các em thấy tóm tắt không phải là bỏ đi một số câu văn, hay một vài chi tiết mà phải biết khái quát đoạn truyện, cả câu truyện bằng một câu văn ngắn gọn, cũng có khi chỉ là câu nhận định, câu kể có tính thông báo. Khi tóm tắt nên phát hiện những chi tiết cơ bản nhất, phục vụ cho việc thể hiện nội dung của đoạn chuyện hoặc cả câu chuyện, dựa vào số thứ tự mà tác giả đã phân chia sẵn để tóm tắt từng đoạn rồi mới đến tóm tắt cả truyện. Lưu ý: Tóm tắt câu chuyện là việc làm rất khó, nghĩa là học sinh phải sáng tạo, người giáo viên cần tế nhị và quan niệm đúng mức về kể sáng tạo. Kể một cách tự nhiên, giọng kể và điệu bộ thích hợp, làm cho câu chuyện trở nên sống động. Biết dựa vào câu chuyện trong chừng mực vừa phải một số câu chữ của bản thân, làm cho câu chuyện thêm cụ thể. Không yêu cầu học sinh phải thêm thắt các tình tiết, các nhân vật không có trong nguyên bản, cũng không khuyến khích học sinh thay các từ ngữ mà được tác giả đã lựa chọn rất chính xác bằng các từ ngữ khác; không coi việc học sinh kể thuộc lòng câu chuyện là thiếu sáng tạo. Vấn đề đặt ra không phải là cần học sinh kể sao cho khác nguyên văn, mà học sinh biết kể một cách sinh động như sống với câu chuyện, chứ như không kể như đọc văn bản truyện. 4.5. Tổ chức các hoạt động khuyến khích tính tích cực của học sinh. 4.5.1. Tổ chức cho học sinh khởi động vào đầu tiết học. Vào bài bằng hình thức khởi động vừa tạo không khí dễ chịu giữa cô và trò, vừa khơi dậy những kiến thức có sẵn của học sinh có liên quan cần thiết đến câu chuyện sắp kể. Giáo viên chỉ cần cho học sinh làm khởi động đơn giản như trò chơi " Xem hành động đoán nhân vật". Hoặc khởi động bằng cách thi sắp xếp tranh đúng và nhanh theo trình tự câu chuyện hay thi tìm những bài thơ, bài hát, bài văn liên quan đến nội dung câu chuyện. 4.5.2. Thường xuyên tổ chức hoạt động nhóm trong mỗi tiết Nói và nghe. Đây là phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh, học sinh cùng tranh luận, hợp tác để giải quyết vấn đề. Tổ chức cho học sinh luyện kể theo nhóm là luyện cho tất cả học sinh đều được kể chỉ trong một thời gian ngắn và tạo cho những học sinh có tính e ngại khắc phục dần dần, từ chỗ kể cho 3- 4 bạn nghe rồi dần dần sẽ mạnh dạn kể cho nhiều người nghe. Giáo viên tiến hành cho học sinh kể theo nhóm trong hoạt động 1( kể từng đoạn câu chuyện theo tranh), yêu cầu trưởng nhóm phân công mỗi em kể một đoạn chuyện. Nên chia nhóm nhỏ 4 em là hợp lý nhất. Nên sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh sao cho các đối tượng học sinh xen kẽ nhau: + Học sinh nam với học sinh nữ. + Học sinh mạnh dạn tự tin với học sinh nhút nhát, tự ti.
  14. 14 + Học sinh có khả năng diễn đạt tốt, năng khiếu Nói và nghe hay với học sinh có khả năng diễn đạt yếu, không có khả năng Nói và nghe. Khi học trực tuyến, tôi thường xuyên chia nhóm 4 ( chế độ Breakout trong Zoom) để học sinh được thảo luận trong hoạt động trao đổi rút ra nội dung tranh và luyện kể từng đoạn trong câu chuyện. 4.5.3. Thường xuyên tạo không khí thi đua giữa các cá nhân và giữa các nhóm với nhau. Trong quá trình cho học sinh kể thi trong nhóm giáo viên cho điểm từng em. Kết quả của “ cá nhân” này được cộng lại dùng làm thành tích cho tập thể bằng điểm số thi đua giữa các nhóm. Như vậy sẽ làm cho các đối tượng phải cố gắng chăm chỉ, đồng thời tạo cho mỗi em trong nhóm luôn phát huy hết khả năng của mình để không bị liên quan đến kêt quả xấu của cả nhóm. Khi học trực tuyến, không chỉ trong tiết học mà sau tiết học, tôi cho học sinh quay lại video học sinh kể câu chuyện và gửi lên trang padlet để học sinh cùng bình chọn và được giáo viên gửi sticker. 4.5.4. Khuyến khích, động viên, hướng dẫn học sinh Nói và nghe. Tác phong của giáo viên là yếu tố quan trọng trong việc tiếp xúc, tổ chức học tập và truyền thụ kiến thức cho học sinh. Giáo viên cần gần gũi, nhẹ nhàng và trực tiếp theo dõi giúp đỡ các em với thái độ niềm nở, nhất là đối với môn Nói và nghe thì vấn đề này giáo viện lại càng đặc biệt quan tâm hơn vì trong mỗi tiết Nói và nghe thường có không ít em có thói quen rụt rè , ngại nói sẽ nói nhỏ và nói ấp a ấp úng, diễn đạt kém. Nhưng lúc này nếu giáo viên có nét mặt nhăn nhó, khó chịu thì lại càng cho các em rụt rè hơn và thậm chí còn hoảng rợ không nhớ đến nội dung chuyện và lần sau sẽ không dám nữa. Nếu khi kể nối tiếp đoạn trong nhóm những học sinh trung bình không nhớ được nội dung thì giáo viên nhẹ nhàng gợi mở cho học sinh những câu hỏi gợi ý. 4.6. Thường xuyên trau dồi cho học sinh kĩ năng Nói và nghe. 4.6.1. Luyện Nói và nghe phân biệt lời nhân vật trong mỗi truyện thông qua 2 tiết Đọc đầu tuần Ở bước luyện đọc lại ở tiết 2 của tiết Đọc, đầu tuần giáo viên cần tiến hành luyện cho học sinh đọc diễn cảm trong bước luyện đọc phân vai. Việc này có vai trò rất quan trọng trong việc luyện cho học sinh kể phân vai, học sinh biết kể giọng phù hợp với từng nhân vật trong truyện và giúp học sinh dễ thuộc nội dung câu chuyện, thuộc lời của mỗi nhân vật hơn. Trước hết giáo viên cho học sinh luyện đọc phân vai theo cá nhân( mỗi em đọc một vai nhân vật) sau đó đọc phân vai theo nhóm. Cuối cùng cho học sinh thi đọc phân biệt giọng từng nhân vật trong truyện. 4.6.2. Luyện kể kết hợp giữa ánh mắt với động tác, cử chỉ, điệu bộ. Ánh mắt của người kể có vai trò rất quan trọng trong khi kể chuyện, nó là yếu tố cơ bản để làm cho người kể tạo dựng được câu chuyện có hồn. Nếu biết kết hợp hài hoà giữa ánh mắt với động tác, điệu bộ, cử chỉ thì câu chuyện kể mới sống động, mới thu hút được người xem. Muốn làm được điều này đòi hỏi người kể phải nhập vai, phải hoà mình vào câu chuyện. Vì vậy người kể phải hiểu rõ tâm trạng vui buồn, hay tức giận, của mỗi nhân vật trong từng đoạn chuyện, trong cả câu chuyện. Học sinh cần tìm hiểu về mỗi quan hệ giữa các nhân vật
  15. 15 trong truyện với nhau. Muốn vậy, để thành công cho mỗi tiết dạy Nói và nghe thì sau 2 tiết học đọc, giáo viên cần dặn dò học sinh về nhà đọc kĩ bài và tìm hiểu tính cách của từng nhân vật để chuẩn bị cho tiết học Nói và nghe nếu tiết học đó sử dụng nội dung của bài đọc. 4.6.3. Thực hiện sắm vai phải thường xuyên và tổ chức có khoa học. Bất cứ lúc nào có người dự giờ hay không có người dự giờ, bài học nào phù hợp với phương pháp đóng vai thì tổ chức cho học sinh sắm vai. Từ đó trở thành thói quen và các em sẽ quen dần cách đóng vai. Tuy thời gian đầu sẽ khó khăn vì các em còn nhỏ sau dần các em sẽ quen và sẽ trở thành nhu cầu học tập. Giáo viên không cung cấp trước lời nói của nhân vật, để các em tự tìm lấy. Giáo viên không bày sẵn các tình huống mà để các em dựa vào câu chuyện xử lý các tình huống đó. Với tiết Nói và nghe theo chủ đề, giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh tìm hiểu trước về chủ đề luyện nói. 4.6.4. Luyện cho học sinh kể có sáng tạo. Đây quả là một yêu cầu tương đối khó đối với học sinh lớp 2, nhưng nếu giáo viên đã làm tốt các phương pháp trên, việc học sinh kể chuyện có sáng tạo trở nên dễ dàng. Câu chuyện kể không những trở nên sinh động hơn mà còn làm giàu thêm vốn từ cho học sinh. Đặc biệt đối với những câu chuyện kể có yêu cầu kể phân vai dựng lại câu chuyện thì điều này lại là yếu tố hết sức quan trọng. Để luyện được cho học sinh biết kể sáng tạo đòi hỏi giáo viên phải có hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt tỉ mỉ, đồng thời trong quá trình học sinh kể giáo viên yêu cầu học sinh theo dõi bạn kể phải tìm ra được những chi tiết nào sáng tạo trong lời kể, trong điệu bộ, trong cử chỉ,... của bạn. 5. Giáo án thực nghiệm BÀI DẠY: BÀI 31 - ÁNH SÁNG CỦA YÊU THƯƠNG NÓI VÀ NGHE: KỂ CHUYỆN “ÁNH SÁNG CỦA YÊU THƯƠNG” I.YÊU CẦU CẦN ĐẠT: - Nhận biết được các sự việc và trình tự các sự việc trong tranh minh họa câu chuyện Ánh sáng của yêu thương. - Nêu đúng các sự việc trong từng tranh minh họa câu chuyện Ánh sáng của yêu thương. - Kể lại được 1 - 2 đoạn của câu chuyện dựa vào tranh. - Hình thành và phát triển năng lực văn học. - Có tinh thần hợp tác khi làm việc nhóm. - Vận dụng kiến thức vào cuộc sống hàng ngày. - Bồi dưỡng tình yêu thương mẹ và người thân trong gia đình. II. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC: - GV: Máy tính, máy chiếu, giáo án điện tử, bộ tranh cho hoạt động 2 (BT2). - HS: Sách giáo khoa, vở viết III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC: T Hoạt động của GV Hoạt động của HS G
  16. 16 1. Khởi động: Tổ chức cho HS hát bài hát về mẹ HS hát hoặc về gia đình 2’ 2. Kết nối: - Dẫn dắt từ bài hát: tình cảm gia đình/tình yêu đối với mẹ luôn là tình cảm mà mỗi chúng ta đều trân trọng. Ở bài đọc tiết trước các em đã được tìm hiểu về tình yêu của nhà bác học Ê – đi – xơn với mẹ qua câu câu chuyện Ánh sáng của yêu thương. Hôm nay, chúng Ghi vở tên bài ta sẽ cùng kể lại câu chuyện đó qua tiết học luyện nói và nghe nhé. (ghi bảng 7’ tên bài) 3. Khám phá: - 1 HS đọc yêu cầu// đọc thầm. a. Hoạt động 1: Quan sát tranh và - Lắng nghe nói về các sự việc trong từng tranh - GV đưa nội dung BT 1. Gọi 1 em đọc yêu cầu BT. - Nhấn mạnh yêu cầu: Quan sát tranh, nói về sự việc trong từng tranh. (gạch chân trên Slide) - Để giúp các em nói được về các sự việc trong từ tranh cô tổ chức cho các - 1 em đọc// lớp đọc thầm. em làm việc theo nhóm 4 dự theo các - HS làm việc nhóm 4. câu hỏi gợi ý sau (bấm hiệu ứng câu - Đại diện các nhóm trình bày hỏi): từng tranh theo gợi ý. + Tranh vẽ gì? - Nhóm khác nhận xét – bổ + Trong tranh có những ai? sung + Mọi người đang làm gì? - Nói theo y/c. + Mỗi tranh muốn nói về sự việc gì? - Nhận xét bạn - Gọi HS đọc câu hỏi gợi ý. Tranh 1: Mẹ ốm nằm trên - Yêu cầu HS làm việc nhóm 4. giường. Ê- đi- xơn lo lắng ngồi - GV gọi đại diện các nhóm trình bày bên mẹ. kết quả thảo luận. Tranh 2: Ê- đi- xơn chạy đi tìm bác sĩ. - GV nhận xét, động viên HS. Tranh 3: Bác sĩ tiến hành phẫu thuật cho mẹ Ê- đi – xơn. - Gọi 1,2 HS nói về sự việc trong cả 4 Tranh 4: Ê- đi- xơn mang về tranh. tấm gương lớn. - GV nhận xét, động viên HS - 1 em đọc//đọc thầm
  17. 17
  18. 18 6. Kết quả. Sau một quá trình nghiên cứu và thực hiện các phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa trong phân môn Nói và nghe lớp 2, tôi đã thu được kết quả cụ thể như sau: Xếp loại Thời gian Học sinh Học sinh Học sinh chưa biết kể kể tốt biết kể SL % SL % SL % Đầu năm 12 25,5% 23 48,9% 10 25,6% Sĩ số : 47 Cuối năm 28 60,9% 15 31,9% 3 8,2% Sĩ số : 46 Nhận xét Thời gian Yêu thích Không yêu thích môn học môn học SL % SL % Đầu năm 26 50% 21 50% Sĩ số : 47 Cuối năm 46 100% 0 0% Sĩ số : 46 Giáo viên đã tích cực bồi dưỡng vững vàng hơn về chuyên môn, nắm chắc quy trình giảng dạy, phương pháp giảng dạy. Học sinh học tập tích cực, hứng thú chủ động trong việc lĩnh hội tri thức, không khí lớp học sôi nổi hào hứng, học sinh hứng thú với mỗi tiết Nói và nghe. Học sinh tiến bộ rõ rệt về diễn đạt, vốn từ phong phú hơn, không còn rụt rè, tự ti khi kể lại câu chuyện như trước. Hầu hết các em đều kể rất tốt, lưu loát, biết thay đổi giọng kể phù hợp với nội dung câu chuyện, bước đầu biết sử dụng điệu bộ, cử chỉ để hỗ trợ cho lời kể. Khi kể, các em biết thay thế, thêm bớt các từ ngữ làm cho câu chuyện sinh động hơn. Hầu hết học sinh đã biết trước được nội dung của câu chuyện nên có rất nhiều thời gian để rèn kĩ năng nói cho học sinh. Đặc biệt khi dùng dàn ý hoặc câu hỏi, rất ít em phải nhìn vào dàn ý đó để kể lại. Trước sự tiến bộ của các em, tôi rất vui mừng và tiếp tục áp dụng những biện pháp trên trong suốt quá trình tổ chức các hoạt động dạy học và tôi đã đem kinh nghiệm này để chia sẻ với các đồng nghiệp vào các buổi sinh hoạt chuyên môn của khối để mọi người cùng đóng góp ý kiến, sàng lọc và thống nhất áp
  19. 19 dụng các phương pháp dạy học giúp học sinh yêu thích và tích cực hơn trong các giờ Nói và nghe.
  20. 20 KẾT LUẬN 1. Những kết luận được rút ra từ đề tài: Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học hướng tới phát huy tính tích cực của học sinh, tôi đã rút ra những bài học sau: – Giáo viên cần nắm vững kiến thức trong toàn cấp học với phân môn Nói và nghe cũng như các môn học khác. – Các phương pháp dạy học rất đa dạng bao gồm cả phương pháp truyền thống và phương pháp mới. Mỗi phương pháp có ưu, nhược điểm riêng nên giáo viên cần sử dụng phối hợp các phương pháp sao cho phù hợp với nội dung bài, đặc điểm học sinh. – Giáo viên có thể vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học theo cá nhân, nhóm, lớp; ở trong hoặc ngoài phòng học. Tổ chức các trò chơi học tập để khuyến khích học sinh tích cực hoạt động, lĩnh hội kiến thức. – Ngoài ra đồ dùng dạy học là phương tiện dạy học không thể thiếu trong những tiết dạy. Vì vậy, khi sử dụng giáo viên cần linh hoạt để phát huy hết tác dụng. – Giáo viên cần khéo léo sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, các hình thức tổ chức, dẫn dắt học sinh đạt được mục tiêu hoạt động. Đặc biệt cần động viên, khuyến khích học sinh thường xuyên để giúp học sinh tự tin hơn. 2. Khuyến nghị: 2.1. Đối với cấp trên: – Tổ chức nhiều chuyên đề “Đổi mới phương pháp dạy học” hơn nữa để giáo viên cùng học tập. – Khuyến khích giáo viên sử dụng giáo án điện tử, phương pháp dạy học tích cực trong quá trình giảng dạy. – Trang bị thêm một số tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh. – Nhà trường cùng địa phương tạo điều kiện cơ sở vật chất cho các em học tập tốt hơn. 2.2. Đối với giáo viên : – Thường xuyên tìm tòi học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, nghiên cứu các tài liệu, sách giáo khoa… để nâng cao tay nghề. – Thường xuyên kiểm tra đánh giá việc đọc của học sinh và ghi nhận kết quả học tập của các em dù là một tiến bộ rất nhỏ. 2.3. Đối và phụ huynh: – Thường xuyên quan tâm tới việc học của các em, khuyến khích các em tìm tòi thêm nhiều những câu chuyện hay rồi kể lại những gì đã đọc. - Kết hợp chặt chẽ với nhà trường để tạo điều kiện cho các em học tập được tốt hơn. Khi đã phát huy tính tích cực của học sinh thì việc dạy phân môn Nói và nghe không còn là khó khăn với giáo viên. Với mỗi người thầy, ngoài chuyên môn tốt còn cần có tâm với nghề, luôn say mê tìm tòi để hướng đến sự phát triển toàn diện của học sinh. Trong quá trình nghiên cứu, thực nghiệm, tôi đã cố gắng tìm đọc tài liệu dạy học của bộ môn cũng như học hỏi các đồng nghiệp. Tuy nhiên sáng kiến cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2