intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh tiểu học trong giờ học Tiếng Anh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:30

23
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là giúp học sinh hiểu bài, yêu thích môn học và đưa ra một số phương pháp làm thế nào để gây hứng thú học tập cho các em học sinh tiểu học. Từ đó nhằm góp phần hoàn thiện, bổ sung và nâng cao kiến thức cho học sinh theo phương pháp học tập tích cực, cải tiến phương pháp mới trong quá trình dạy Tiếng Anh cấp Tiểu học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh tiểu học trong giờ học Tiếng Anh

  1.                                                   MỤC LỤC Nội dung Trang 1. Lời giới thiệu. 2 2. Tên sáng kiến. 3 3. Tác giả sáng kiến. 3 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến. 3 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến. 3 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu. 3 7. Mô tả bản chất của sáng kiến. 3 8. Những thông tin cần được bảo mật: Không có 23 9. Các điều kiện để áp dụng sáng kiến.  23 10. Lợi ích thu được khi áp dụng sáng kiến. 24 11. Danh sách những tổ  chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử  sáng  27 kiến. TÀI LIỆU THAM KHẢO 29 1
  2. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu. Trong xu thế hội nhập quốc tế của đất nước, Tiếng Anh là một môn học   quan trọng đang được mọi ngành, mọi nghề, mọi lĩnh vực và mọi người quan  tâm. Trong số khoảng 780 thứ tiếng trên thế giới hiện nay thì tiếng Anh chính  là ngôn ngữ  chính thức của hơn 53 quốc gia và vùng lãnh thổ, là ngôn ngữ  chính thức của khối E.U và là ngôn ngữ  thứ  3 được nhiều người sử  dụng  nhất chỉ  sau tiếng Trung Quốc và Tây Ban Nha (do sự  chênh lệch về  dân số  các quốc gia sử dụng), tiếng Anh được sử dụng như là ngôn ngữ thứ hai ở rất  nhiều quốc gia trên thế  giới trong đó có Việt Nam. Ngoài ra, có tới hơn 1 tỷ  trang Web sử dụng tiếng Anh, thật kinh ngạc khi chỉ cần học một ngôn ngữ là  có thể khai thác hầu hết kho tri thức  ấy. Những phần mềm thông dụng nhất  trên thế giới, những mạng xã hội nổi tiếng nhất, những cổng thông tin phong  phú nhất, ... tất cả  đều được viết bằng tiếng Anh. Vì vậy, học tiếng Anh  cũng là điều kiện quan trọng để  chúng ta có thể  tiếp cận, cập nhật những   nguồn tri thức từ khắp thế giới. Trong xã hội hiện đại, bên cạnh sự du nhập mạnh mẽ của các nền khoa   học công nghệ cao còn có sự du nhập đa dạng và phong phú của các nền văn   hóa của các nước trên thế giới. Như vậy làm thế nào để có thể tiếp cận được   với những tiến bộ về khoa học kỹ thuật hiện đại cũng như việc tiếp thu một  cách có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các dân tộc trên thế  giới, đồng  thời giữ  gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, không có con đường nào khác là   phải đào tạo cho thế hệ trẻ Việt Nam vốn kiến thức về ngoại ngữ nói chung   và tiếng Anh nói riêng là điều hết sức cần thiết. Nhưng ai cũng biết rằng các  ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng là một môn học khó. Vì thế, một  vấn đề  đặt ra là làm thế  nào để  nâng cao chất lượng đào tạo bên cạnh việc  thúc đẩy hứng thú, khơi gợi niềm say mê học tập tiếng Anh nơi học sinh   đang và sẽ không ngừng thu hút sự quan tâm của nhiều giáo viên có tâm huyết   trong nghề.  Vấn đề  này cũng đã được đề  cập đến trong một số  công trình  nghiên cứu của một số nhà giáo, các bài viết trên Tạp chí giáo dục, trang web   của một số các thầy cô giáo, cũng như không ít những quyển sách tham khảo  2
  3. của nhiều tác giả nổi tiếng. Các công trình đó đã tạo cơ sở, nền móng cả về  mặt lí luận và thực tiễn để  tôi hoàn thành đề  tài nghiên cứu “Một số  biện   pháp gây hứng thú học tập cho học sinh tiểu học trong giờ  học Tiếng   Anh”. 2. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh   tiểu học trong giờ học Tiếng Anh”. 3. Tác giả sáng kiến. ­ Họ và tên: Kim Thị Việt Chinh ­ Địa chỉ: Trường Tiểu học Hội Hợp A ­ Thành phố Vĩnh Yên  ­ Điện thoại: 0912855816                   Email: kimvietchinh@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Kim Thị  Việt Chinh – Giáo viên trường Tiểu học Hội Hợp A­ Thành   phố Vĩnh Yên – Tỉnh Vĩnh Phúc. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:   Sáng kiến được áp dụng trong ngành giáo dục; môn Tiếng Anh  ở   bậc Tiểu học. Tôi nghiên cứu đề  tài này nhằm mục đích rút ra kinh nghiệm để  có thể  áp dụng  ở  trường chúng tôi và một số  trường trong thành phố  với mục đích   cuối cùng là giúp học sinh hiểu bài, yêu thích môn học và đưa ra một số  phương pháp làm thế  nào để  gây hứng thú học tập cho các em học sinh tiểu   học. Từ  đó nhằm góp phần hoàn thiện, bổ  sung và nâng cao kiến thức cho   học sinh theo phương pháp học tập tích cực, cải tiến phương pháp mới trong  quá trình dạy Tiếng Anh cấp Tiểu học. Bên cạnh đó với một mong muốn  giúp giáo viên có một số phương pháp trong việc huy động học sinh tham gia   các hoạt động giao tiếp trên lớp nhằm đáp được yêu cầu về đổi mới phương   pháp, hướng học sinh vào đúng trọng tâm yêu cầu của từng tiết học và thu hút  học sinh trong quá học tập, đem lại hiệu quả cao. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Ngày 15 tháng 9 năm 2016 7. Mô tả bản chất của sáng kiến. 7.1. Cơ sở lý luận. 3
  4. * Tầm quan trọng của việc gây hứng thú cho học sinh trong giờ  học  Tiếng Anh.  Tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho   việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trong các trường tiểu học   hiện nay,Tiếng Anh được đưa vào giảng dạy như  là một ngoại ngữ  cơ  bản,  là môn học độc lập. Trong những năm gần đây đã có rất nhiều những cuộc thi   tiếng Anh dành cho học sinh tiểu học như: cuộc thi IOE, Olympic ti ếng Anh,   Violympic Toán – Tiếng Anh ... . Cũng như  những môn học khác, môn tiếng   Anh được xây dựng nhằm cung cấp những tri thức ban đầu về  ngôn ngữ  nước ngoài, giúp học sinh có một công cụ  giao tiếp mới ngoài tiếng mẹ  đẻ,  bước đầu phát triển khả  năng nhận biết, tư  duy có phê phán và các kĩ năng   tiền ngôn ngữ  trong quá trình thực hành giao tiếp tiếng Anh dưới bốn hình  thức nghe, nói, đọc, viết. Ngoài ra, việc học tiếng Anh còn giúp học sinh hình   thành năng lực diễn đạt ý tưởng cá nhân một cách tự tin, độc lập và sáng tạo. Muốn học sinh tiểu học tốt môn tiếng Anh thì người giáo viên không chỉ  truyền đạt kiến thức một cách dập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập   một cách thụ động, mà cần phải gây hứng thú học tập cho các em bằng cách  lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập. Xuất phát từ những vấn   đề này, tôi cho rằng tổ chức các hoạt động tương tác trong mỗi bài học đặc  biệt là ở phần khởi động (Kiểm tra bài cũ) sẽ góp phần quan trọng trong việc   tạo sự  tập trung của học sinh vào chủ  đề  chính của bài học hoặc phần  ứng  dụng để  giúp học sinh củng cố  lại và ghi nhớ  kiến thức sâu sắc hơn. Bên  cạnh đó, chúng ta có thể lồng ghép sử  dụng các hoạt động vào các khâu giới  thiệu và thực hành ngữ liệu mới để tránh việc gây nhàm chán cho học sinh khi  phải lặp đi lặp lại những mẫu câu cho thuần thục. Việc nghiên cứu và vận  dụng hợp lý các hoạt động tương tác vào mỗi bài dạy sẽ  góp phần tích cực  đến thành công của tiết học.  7.2. Cơ sở thực tiễn Trong một vài năm gần đây Bộ  GD&ĐT mới có nhiều sự  thay đổi nội   dung chương trình sách giáo khoa mới và sự  chỉ  đạo về  việc dạy học theo   phương pháp cải tiến đổi mới. Thực tế  còn nhiều giáo viên bị   ảnh hưởng   những  phương  pháp  dạy  học  cũ;  chưa  khuyến  khích   được  khả   năng  chủ  động, tích cực của học sinh; chưa khai thác tối đa các kênh hình trong sách  4
  5. giáo khoa, cũng như  việc sử  dụng kết hợp nhiều thủ  thuật dạy học khác  nhau. Dẫn đến hiệu quả học thấp, không tạo được hứng thú học tập cho học   sinh. Mặc dù chương trình học tiếng Anh cấp Tiểu học được xây dựng dựa  vào nhu cầu của xã hội Việt Nam và đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu   học nên về  mặt nội dung rất thú vị, hấp dẫn và gần gũi với đời sống hàng  ngày của các em. Trên thực tế thì tiếng Anh tiểu học vẫn là một môn học tự  chọn cho nên ngoài những cá nhân thực sự yêu thích môn học này thì vẫn còn   một số  bộ  phận học sinh vẫn chưa thực sự  chú trọng và chưa có ý thức tự  giác, ham muốn học tập cho nên dẫn đến thực trạng chất lượng học sinh học   môn tiếng Anh chưa cao. Các em không có môi trường để giao tiếp hàng ngày  nên chóng quên từ đó dẫn đến tiếp thu chậm, lực học của các em không đồng  đều. Chỉ có một số học sinh phát triển các kĩ năng tương đối, còn đa phần các   em chưa có khả  năng tiếp thu và vận dụng vào thực tiễn cuộc sống.  Ở  lứa   tuổi tiểu học các em thường rất hiếu động, ham hiểu biết cái mới nhưng các  em lại chóng chán, nhanh quên. Từ  thực tế  trên, tôi nhận thấy để  nâng cao chất lượng học tập của các   em thì điều đầu tiên người giáo viên phải làm là tạo cho học sinh sự hứng thú,   ham muốn học tập, tạo sự  tò mò và muốn biết được những điều mình sắp   được học. Học sinh cần được tham gia tích cực và chủ  động vào môi trường   giao tiếp đa dạng với các hoạt động tương tác như  trò chơi, bài hát, bài đọc  nhịp, kể  chuyện… dưới sự  hướng dẫn của giáo viên để  hình thành các kĩ  năng ngôn ngữ, tạo không gian học tập nhẹ  nhàng, thú vị  và hấp dẫn cho   người học. 7.3. Thực trạng của vấn đề. 7.3.1. Đặc điểm tình hình. a. Thuận lợi:  ­ Học sinh Tiểu học với bản chất hồn nhiên sẵn sàng tham gia vào các   hoạt động của giờ học khi đã bị cuốn hút vào các hoạt động. ­ Học sinh luôn được phụ huynh học sinh và giáo viên quan tâm, giúp đỡ  trong quá trình học tập.  5
  6. ­ Giáo viên được học tập, trao đổi kinh nghiệm từ  đồng nghiệp qua các  buổi hội giảng, trao đổi kinh nghiệm, chuyên đề.  ­ Được sự  quan tâm, hỗ  trợ  của Ban giám hiệu nhà trường, tổ  chuyên  môn và đồng nghiệp.   ­ Học sinh được làm quen với công nghệ  thông tin, các em sớm được  tiếp xúc với máy tính, với mạng Internet và thu nhận được nhiều thông tin từ  đây. b. Khó khăn :  ­ Tiếng Anh là một môn học mới và rất khó đối với học sinh Tiểu học.   Hơn nữa đối với học sinh nông thôn mọi điều kiện tiếp xúc và gần gũi thực   tế  xung quanh còn hạn chế.  Ở  lứa tuổi này, còn một số  học sinh phát âm  Tiếng Việt chưa được chuẩn. ­ Phần lớn các em học sinh chưa chú tâm và đầu tư cho môn ngoại ngữ,   chuẩn bị  bài một cách sơ  sài. Trong các giờ  học, đa số   các em  thường thụ  động, thiếu sự  linh hoạt, ngại việc đọc ­ nói Tiếng Anh và ít tham gia phát  biểu để tìm hiểu bài học. ­ Hoạt động luyện nói thường được thực hiện theo cặp, nhóm nên lớp   học dễ ồn ào mất trật tự. Giáo viên không bao quát hết được tất cả học sinh   nên một số  em cá biệt lợi dụng cơ hội nói chuyện bằng Tiếng Việt hay làm   việc riêng. Giáo viên không thể phát hiện và sửa hết lỗi của các em học sinh. ­ Nhà trường chưa có phòng chức năng riêng phục vụ cho việc học ngoại   ngữ. Vì vậy việc tổ chức các hoạt động học tập trong tiết học gặp nhiều khó  khăn. ­ Các trang thiết bị, đồ dùng dạy học chưa phong phú và chưa hiện đại. ­ Đa số phụ huynh học sinh chưa nhận ra được tầm quan trọng của việc   học Tiếng Anh đối với con em họ. Để  khắc phục những khó khăn trên, đòi hỏi giáo viên phải có phương   pháp sư  phạm tốt, chủ  động sáng tạo, luôn cải tiến phương pháp luyện tập  bằng nhiều hình thức khác nhau, nhiều dạng bài tập khác nhau phù hợp cho  từng nội dung bài học để gây hứng thú và động viên tất cả học sinh nhiệt tình  luyện tập thực hành hoạt động giao tiếp. 6
  7. 7.3.2. Quy mô trường lớp năm học 2016 – 2017. ­ Năm học 2016­ 2017 nhà trường có 496 học sinh chia làm 18 lớp  ­ Tổng số CBQL, Giáo viên và nhân viên là 24 người trong đó có 02 giáo  viên tiếng Anh. ­ 100%  các lớp học tiếng Anh. Trong đó 4 lớp 3; 4 lớp 4 và 2 lớp 5 học   chương trình mới của BGD 4tiết/ tuần; 4 lớp 1 và 4 lớp 2 học bộ sách I learn   my Phonics( khuyến khích các em làm quen với tiếng Anh). 7.3.3. Thực trạng việc dạy và học môn Tiếng Anh tại nhà trường.  ­ Hiện tại nhà trường đã và đang thực hiện giảng dạy môn tiếng Anh 4   tiết/tuần.  ­ Dần hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng chủ yếu: Nghe ­   Nói­ Đọc ­ Viết. Trong đó chú trọng đặc biệt là kĩ năng nghe và nói nhằm   nâng cao năng lực thực hành giao tiếp tiếng Anh mọi lúc, mọi nơi một cách tự  tin nhất, tạo tiền đề,  hứng thú,  lòng say mê và khả năng khám phá ngôn ngữ  mới để lên bậc học trên các em sẽ học tốt hơn.  ­ Qua nhiều năm giảng dạy và bồi dưỡng học sinh ở trường tiểu học, tôi   nhận thấy có một số  học sinh rất yêu thích môn học, các em rất năng động,  chủ động và tích cực trong các hoạt động học tập nhưng chủ yếu là học sinh  khá và giỏi. Bên cạnh đó, đối tượng học sinh yếu còn rất nhiều, các em chậm   tiếp thu các kiến thức mà giáo viên truyền đạt, thụ  động học tập, các em rụt  rè, xấu hổ, ngại thực hành nói trên lớp. Ngoài ra còn có những đối tượng học  sinh cá biệt thiếu ý thức học tập, các em thường mất trật tự, làm việc riêng  trong lớp, không chú ý nghe giảng, thậm chí không ghi chép bài ở trên lớp và   không làm bài tập ở nhà. Đây là một khó khăn lớn đối với giáo viên giảng dạy   bộ  môn và đặc biệt là môn tiếng Anh vì thời gian giảng dạy và tiếp xúc với   các em trên lớp không nhiều. ­ Có rất nhiều những ý kiến từ những người trực tiếp giảng dạy khi nói  đến việc áp dụng một số  biện pháp như  tổ  chức trò chơi, dạy các bài hát ...  vào các giờ  học tiếng Anh. Một số giáo viên cho rằng những hoạt động này  rất tốn thời gian mà bài học thì dài, không đủ thời gian để tổ chức hoặc ngại  tổ  chức vì đôi khi phải chuẩn bị nhiều đồ  dùng hoặc lớp học sẽ   ồn ào, làm  ảnh hưởng đến các lớp học khác. Có những giáo viên cũng tổ chức nhưng lại   7
  8. chưa biết cách sắp xếp và quản lí các hoạt động dẫn đến mất thời gian mà   không hiệu quả.   ­ Việc khắc phục tâm lý ngại đổi mới và thay đổi quan niệm và thói  quen dạy học là việc không đơn giản.Vì vậy, trong thời gian qua chất lượng  dạy học môn tiếng Anh chưa được như mong muốn. Câu hỏi đặt ra là làm thế  nào để  nâng cao chất lượng môn tiếng Anh và tạo ra sự  say mê, hứng thú  trong học tập của học sinh là một câu hỏi cho mỗi giáo viên chúng ta. Chính   mục tiêu đó mà tôi đã thử  áp dụng sáng kiến “Một số  biện pháp gây hứng   thú học tập cho học sinh tiểu học trong giờ  h ọc Ti ếng Anh”   để  tạo ra  động lực thúc đẩy niềm đam mê học ngoại ngữ của học sinh nhằm nâng cao   chất lượng học tập môn tiếng Anh. Dưới đây là kết quả  tôi làm khảo sát trước khi thực hiện áp dụng sáng  kiến trong khối lớp 4, 5 tại trường tiểu học Hội Hợp A. Bảng 1: Thống kê mức độ yêu thích môn Tiếng Anh. Mức độ yêu thích môn Tiếng Anh Khối Sĩ số Rất thích Thích Bình thường Ghét/ Sợ lớp SL % SL % SL % SL % 4 99 10 10.1 15 15,2 54 54,5 20 20,2 5 68 6 8.8 8 11,8 40 58,8 14 20,6 Tổng 167 16 9,6 23 13,8 94 56,3 34 20,3 Nhìn vào bảng thống kê cho ta thấy số  lượng học sinh sợ  học bộ  môn  Tiếng Anh còn chiếm tỷ  lệ  rất cao. Điều đó chứng tỏ  rằng học sinh chưa   cảm thấy hứng thú với việc học và thực hành tiếng Anh Bảng 2: Tổng hợp kết quả đánh giá học sinh. (Tổng hợp theo 4 kỹ năng) Khối Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu 8
  9. lớp SL % SL % SL % SL % 4 99 12 12.1 20 20,2 47 47,5 20 20,2 5 68 8 11,8 14 20,6 36 52,9 10 14,7 Tổng 167 20 12,0 34 20,4 83 49,6 30 18,0 Qua  bảng thống kê cho ta thấy chất lượng học sinh yếu còn rất cao, tỉ  lệ học sinh trung bình còn nhiều, tỉ lệ khá giỏi vẫn chưa cao. * Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên Học sinh lười học, ngại học, nhút nhát, thiếu tự tin, chưa có động cơ học   tập đúng đắn và phương pháp học tập phù hợp Phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa phù hợp, giáo viên chưa quan  tâm hết các đối tượng học sinh. Do gia đình chưa động viên kịp thời và quan tâm đúng mức....  Giáo viên ngại đổi mới, năng khiếu hạn chế, ngại sáng tạo, thiếu linh  hoạt, thiếu kinh nghiệm thậm chí là lòng yêu nghề, yêu trẻ... Từ  thực tế  trên, là người trực tiếp giảng dạy môn tiếng Anh, tôi đã cố  gắng suy nghĩ tìm tòi, học hỏi các biện pháp hay để nâng cao chất lượng học   tập của bộ  môn mình giảng dạy. Qua quan sát trong quá trình giảng dạy và   kinh nghiệm đứng lớp, tôi thấy các em học sinh tiểu học chưa có ý thức tự  giác học tập cao,  các em còn ham chơi hơn ham học, tò mò, thích cái mới lạ  nhưng lại mau chán. Vì vậy mà tôi đã mạnh dạn thay đổi phương pháp học  cho các em, vừa chơi vừa học, tạo cho các em không khí học tập nhẹ  nhàng   thoải mái, từ  đó các em tiếp thu kiến thức một cách chủ  động và vận dụng  kiến thức vào luyện tập và củng cố một cách tự nhiên nhất. Vì thế, các em sẽ  phát huy hết được khả  năng của mình, tạo ra không khí vui vẻ, hào hứng và  các em sẽ  bị lôi cuốn vào hoạt động học tập một cách tự  nhiên. Từ  đó, hiệu  quả dạy học sẽ được cải thiện. Tôi đã mạnh dạn quyết định nghiên cứu về  các biện pháp gây hứng thú  học tập cho học sinh trong các tiết học môn tiếng Anh để từ đó có động cơ đi   9
  10. tìm tòi nghiên cứu những phương pháp dạy học mới, hay, phù hợp với việc  dạy và học  trong trường học của mình. 7.4. Giải quyết vấn đề 7.4.1.Tại sao phải gây hứng thú học tập cho học sinh trong giờ học tiếng   Anh? 7.4.1.1. Khái niệm * Hứng thú Theo từ  điển Bách khoa tiếng Việt: "Hứng thú là hình thức biểu hiện  tình cảm và nhu cầu nhận thức của con người nhằm ý thức một cách hào  hứng về  nục đích hoạt động, nhằm tìm hiểu sâu hơn, phản ánh đầy đủ  hơn   đối tượng trọn đời sống hiện thực" và " hứng thú tạo nên  ở  chủ  thể  khát  vọng tiếp cận và đi sâu vào đối tượng, làm nảy sinh cảm xúc tích cực (hài   lòng, phấn khởi, yêu thích ...), nâng cao mức tập trung, chú ý và khả năng làm  việc. Khi được làm việc phù hợp với hứng thú, dù phải vượt qua khó khăn,   con người vẫn cảm thấy thoải mái và đạt kết quả cao". Trong tâm lý học, theo X. A. Ananhin: "Hứng thú là một hiện tượng độc  lập trong đời sống tâm lý cá nhân". Không tán thành với ý kiến này, một số  nhà tâm lý học Xô Viết lại cho rằng hứng thú là: "nhu cầu đã được nhận   thức". Trong khi đó, một số người coi hứng thú là thái độ  nhận thức, một số  coi là sự chú ý và gần đây đa số các nhà tâm lý học lại có xu hướng thiên về  định nghĩa: "Hứng thú là thái độ nhận thức của cá nhân đối với hiện thực".... Từ những khái niệm về hứng thú như trên, tôi nhận thấy rằng hứng thú  là thái độ  lựa chọn đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó vừa có ý   nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng đem lại niềm thích thú, khoái cảm  cho cá nhân đó trong quá trình hoạt động. Hứng thú biểu hiện ở  sự tập trung  chú ý cao độ, ở say mê hấp dẫn bởi nội dung hoạt động. * Học tập  Học tập là quá trình học và luyện tập những kiến thức tiếp thu được của  người học một cách tự giác, tích cực. * Hứng thú học tập 10
  11. Hứng thú học tập là thái độ yêu thích đặc biệt của học sinh đối với việc  học tập, được thể  hiện qua nhiều mức độ  như: sự  chú ý tập trung, sự  ham  thích và cao nhất là niềm đam mê đối với một đối tượng trong quá trình học.   Đối với mức độ của hứng thú, học sinh ở những lứa tuổi khác nhau có những  biểu hiện khác nhau, nhưng ở cấp tiểu học đa số  các em đều chỉ  thể  hiện ở  mức chú ý, tập trung, rất ít học sinh đạt tới mức độ đam mê do các em chưa ý  thức được những lợi ích của việc học tập. Do đó, thiết nghĩ mỗi người giáo  viên tiểu học phải là một người đưa đường bền bỉ, là người bạn đồng hành   của tất cả các em trên con đường đi tìm niềm đam mê đối với tri thức. Hơn ai   hết, giáo viên tiểu học phải coi trọng việc bồi dưỡng hứng thú học tập cho   các em ngay từ những buổi học đầu tiên, những bài học đầu tiên. Đây là một   quá trình lâu dài và đòi hỏi sự khéo léo trong nghệ thuật sư phạm. *Hứng thú học tập môn tiếng Anh. Hứng thú học tập môn Tiếng Anh là xu hướng tâm lý của học sinh có   nhu cầu đúng đắn về học tập môn này. Học sinh có hứng thú học tập thường  chú ý cao độ  trong học tập trên lớp và ngoài giờ; thường xuyên say mê rèn   luyện các kỹ  năng nghe, nói, đọc, viết; tích cực vận dụng vào giao tiếp và   cuộc sống; đam mê tìm hiểu nghiên cứu; không ngừng nâng cao trình độ  học  tiếng Anh. Chính vì vậy, khi học sinh có được hứng thú trong học tập thì việc học  tập tốt môn học này sẽ  không phải là trở  ngại lớn đối với các em. Do đó,  khơi dậy sự hứng thú học tập cho học sinh là việc làm cần thiết và rất quan  trọng của người giáo viên. 7.4.1.2. Vai trò của hứng thú đối với việc học tập môn tiếng Anh Hàng loạt các công trình nghiên cứu sinh lý học cho thấy rằng khả năng  tiềm tàng của bộ óc trong hoạt động trí tuệ của con người còn lâu mới được   sử dụng hết. Thực tế, chỉ khoảng 10 – 15% khả năng đó được sử  dụng và do  vậy dẫn đến sự  khác biệt về  khả  năng trí tuệ  mà ta có thể  nhận thấy giữa   người này và người khác. Điều này không hẳn phụ thuộc vào bản tính sinh lý  của họ mà chủ yếu là vào những ảnh hưởng khác nhau của môi trường và sự  giáo dục. Thực tế, trong trường học cũng vậy, khi tiếp nhận những tác động  bên ngoài (sự giảng dạy, môi trường học tập,...) một cách tích cực, các em dễ  bộc lộ  tính tích cực nhận thức và cố  gắng lĩnh hội bài. Ngược lại, nếu tác   11
  12. động bên ngoài là tiêu cực thì tính tiêu cực nhận thức của các em sẽ được bộc  lộ. Chính vì thế, vấn đề  đặt ra cho mỗi giáo viên là phải hình thành  ở  học  sinh tâm trạng tích cực đối với học tập và khêu gợi những kích thích bên trong  của sự  tích cực nhận thức. Hay nói cách khác, khi vận dụng những phương   pháp và thủ thuật giảng dạy nào đó, giáo viên phải quan tâm, đầu tư sao cho   chúng có tác dụng xúc cảm cần thiết và làm cho chúng vừa trở nên những tài  liệu dễ  hiểu, sinh động hơn vừa để  kích thích tâm trạng bên trong của học  sinh đối với học tập. Không phải ngẫu nhiên mà nhà tâm lý học L. I. Boogiôvich đã viết rằng:   "tuyệt đại đa số  học sinh kém thường có thái độ  tiêu cực đối với học tập".  Điều này có nghĩa là nếu chúng ta muốn học sinh chăm chú nghe giảng thì   việc chỉ nêu tên chủ  đề  của tiết học và thông báo những vấn đề  cơ  bản của  bài giảng là chưa đủ. Cần phải gây cho học sinh một tâm tư  xúc động tích  cực có liên quan trực tiếp với lòng mong muốn hoạt động nhận thức. Do đó,   không thể thiếu được yếu tố gây hứng thú cho hoạt động nhận thức của học  sinh. Khi hoạt động nhận thức của học sinh dựa trên cơ sở hứng thú, nó sẽ trở  nên hào hứng, thoải mái và dễ dàng. Khi đó, học sinh không cần đến sự động  viên bên ngoài đối với học tập mà làm việc với sức mạnh của sự say mê bên  trong nhằm đáp  ứng nguyện vọng của bản thân. Việc gây hứng thú  ở  học  sinh sẽ  giúp các em có cảm giác niềm vui sướng của thành công, tin tưởng   vào sức mình, vào khả năng vượt qua những khó khăn thử thách. Dẫu biết rằng sự  hứng thú có  ảnh hưởng mạnh mẽ  tới sự  thành công   của hoạt động dạy và học nhưng trong thực tế dạy học có những yếu tố gây  mất  hứng thú  hay chưa khơi dậy  được sự  hứng thú học tập  ở  học sinh.   Nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng này?  Do không hiểu bài:  Không hiểu bài, các em sẽ  thấy khó khăn, và khi   thấy khó khăn thì học sinh sẽ không thể nắm bắt được, vì không thể nắm bắt   được nên các em cảm thấy mọi thứ  đều tù mù, không rõ ràng và vô hướng.  Do đó, các em đương nhiên không thể  có hứng thú học và kết quả  học tập   luôn đi xuống là điều dễ hiểu. Đây là một hiện tượng không hiếm gặp trong   bối cảnh giáo dục hiện nay, khi mà việc học đơn thuần ở lớp không thể  đáp   12
  13. ứng đủ được nhu cầu tương đương với trình độ của mỗi học sinh do sĩ số lớp  quá đông. Không những thế, tác động từ môi trường cũng có ảnh hưởng nhất  định tới kết quả học tập của mỗi học sinh. Để giải quyết được vấn đề  này,  đối với từng học sinh, ta phải có những phương án cụ thể thích hợp. Do phương pháp giảng dạy: Đôi khi không có hứng thú học tập cũng  bắt nguồn từ  phương pháp giảng dạy. Chúng ta cần phải ý thức lại vấn đề  này. Giáo viên phải là người gợi mở, dẫn dắt và phải tạo được sự  hứng thú   trong việc tiếp thu kiến thức của học sinh. Với một giáo viên lúc nào cũng  nghiêm khắc, khô khan thì đương nhiên khó có thể tạo hứng thú học tập cho   các em, mà thay vào đó chỉ là tâm lý sợ  sai mà các em luôn phải duy trì trong  suốt giờ học. Không những thế, ngày nay các giáo viên còn mắc một lỗi phổ  biến  khiến các em không hứng thú học đó là: thiếu tính sáng tạo trong giảng dạy.  Khi phải học bởi kiểu giảng dạy chỉ có đọc và chép thì chắc hứng thú của các   em đều chìm vào giấc ngủ từ khi nào rồi. Vấn đề này đòi hỏi sự cải thiện rất   nhiều từ đội ngũ giáo viên. Vậy làm thế nào để khắc phục tình trạng trên? Từ việc đọc, tìm hiểu và   nghiên cứu các thông tin trên các trang web, sách tham khảo, kinh nghiệm của  đồng nghiệp và bài học từ  chính quá trình giảng dạy của mình, tôi đã mạnh  dạn chia sẻ một số biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh trong các giờ  học tiếng Anh như sau: 7.4.2. Một số biện pháp gây hứng thú học tập môn tiếng Anh 7.4.2.1. Các hoạt động dạy học phải phù hợp với trình độ nhận thức của   từng đối tượng học sinh và cụ thể là phải phù hợp với từng học sinh Trong mỗi lớp học đều có đầy đủ  trình độ  học sinh: học sinh khá, giỏi   và những học sinh yếu kém. Những học sinh khá, giỏi sẽ hiểu và tiếp thu bài   nhanh hơn những học sinh yếu kém. Nếu các hoạt động dạy học chỉ  hướng   đến học sinh khá, giỏi thì các em còn lại sẽ ngơ ngác, không theo kịp; ngược  lại nếu chỉ  hướng đến học sinh yếu kém thì các học sinh khá, giỏi sẽ  cảm  thấy nhàm chán. Vì vậy, khi đưa ra các hoạt động trên lớp, giáo viên cần nói   rõ nội dung, đưa ra các yêu cầu không quá khó đến mức làm nản lòng học   sinh nhưng vẫn có thách thức  ở  mức độ  nào đó để  học sinh cố  gắng giải   quyết và cảm thấy hứng thú hơn khi hoàn thành tốt các yêu cầu đặt ra. Qua  13
  14. từng tiết học như thế sẽ giúp học sinh có lòng tự tin học tập rồi dần dần sẽ  phát huy được tính tích cực học tập đồng đều ở tất cả học sinh. 7.4.2.2. Sử dụng có hiệu quả dụng cụ trực quan  Các dụng cụ trực quan là các phương tiện không thể thiếu để kích thích  tinh thần chú ý của học sinh  vì các phương tiện trực quan giúp học sinh hiểu   sâu hơn về  từ  vựng, mẫu câu, cách sử  dụng từ, ... . thông qua các vật thật,   tranh ảnh, biểu đồ, ... sẽ giúp các em nhận thức tốt và ghi nhớ nhanh hơn, lâu  bền hơn. 7.4.2.3. Sử dụng trò chơi ngôn ngữ Theo các tài liệu nghiên cứu về  phương pháp giảng dạy tiếng Anh tiểu  học, trò chơi không chỉ là hoạt động để  lấp khoảng trống về  thời gian trong   các tiết học mà nó còn có một giá trị  giáo dục rất lớn. Trong thực tế, trẻ em   thường hiếu động nên các em thường có khuynh hướng dễ  nhàm chán nếu   nội dung bài học được trình bày đơn điệu, tẻ nhạt. Được vui chơi khi học là   nguyện vọng rất chính đáng và tha thiết của đa số  học sinh. Vì vậy việc sử  dụng trò chơi trong các tiết học tiếng Anh có thể giúp cho việc học ngôn ngữ  của học sinh trở lên hiệu quả và hứng thú hơn. * Trò chơi giúp mở rộng và củng cố từ vựng Để  tránh việc cung cấp từ  mới cho học sinh một cách dập khuôn máy  móc, không sinh động, chúng ta có thể lồng ghép từ mới vào các trò chơi. Từ  đó giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu hơn các từ mà học sinh đã học. Một số  trò chơi thông dụng và dễ  tổ  chức mà giáo viên có thể  sử  dụng  linh hoạt trong các tiết dạy của mình như: * Network Giáo viên chia lớp học thành các nhóm nhỏ  hoặc thành 3 hoặc 4 nhóm,   cung cấp cho học sinh từ  chủ  đề  lên bảng, cho học sinh 2 – 3 phút để  thảo   luận trong nhóm về  các từ  có liên quan, sau đó 1 đại diện của các nhóm lên  viết bảng cùng một lúc trong khoảng thời gian qui định, nhóm nào viết được  nhiều từ đúng hơn sẽ giành chiến thắng. E.g. Unit 12. What does your father do?. ( Tiếng Anh 4 tập 2) 14
  15. Khi kiểm tra phần từ vựng về nghề nghiệp, tôi sẽ cho học sinh chơi trò   chơi Network. farmer JOBS nurse                                                                                              teacher                                               doctor            Trò chơi này rất dễ  chơi và có thể  tổ  chức  ở  rất nhiều bài học trong  chương trình tiếng Anh tiểu học như: Unit 8. School Things, Unit 11. My   Family, Unit 18. Colours, … trong chương trình Tiếng Anh lớp 3;Unit 3: Days;  Unit 4: Months; Unit 8; subjects ;Unit 11. Daily Activities, Unit 12. Jobs, Unit  13. Favourite Food and Drink, Unit 17: Clothes; Unit 19. Zoo Animals, …..  trong chương trình Tiếng Anh lớp 4. …. * Jumple words.         Giáo viên cần chuẩn bị các tấm bìa giấy hoặc các tấm thẻ đã viết các từ  nhưng chữ  cái đã bị  xáo trộn (tùy theo trình độ  học sinh và số  lượng từ  của  bài để giáo viên có thể chọn từ dễ hay khó, nhiều hay ít từ).  Giáo viên co thể  chia lớp thành 2 nhóm A và B, trong khoảng thời gian   nhất định (ví dụ: 30 giây) các nhóm phải đưa ra các từ đúng hoàn chỉnh, nhóm  nào có đáp án nhanh và chính xác sẽ  được tính điểm. Khi kết thúc trò chơi,   giáo viên tổng kết, nhóm nhiều điểm hơn sẽ thắng cuộc. E.g. Unit 18. What will the weather be like tomorrow?     ( Ti ếng Anh 5­   tập 2) ­ Mục đích là ôn lại cho học sinh các từ  mới về  mùa: summer, winter,  spring, autumn. ­ Giáo viên chuẩn bị  sẵn 4 từ và viết mỗi chữ  cái của 4 từ  này lên một   tấm thẻ.  ­ Giáo viên xáo trộn  và lần lươtj đưa ra các từ    + R E S M U M + N T W E R I 15
  16. + S N G I P R + N A U M U T ­ Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm, lần lượt đưa ra các từ đã bị xáo trộn. ­  Trong khoảng thời gian 30 giây, nhóm nào sắp xếp đúng và nhanh nhất   được giáo viên cho  điểm. Sau khi chơi hết các từ  mà giáo viên đã chuẩn bị,   giáo viên tổng kết điểm, nhóm nào nhiều điểm hơn sẽ thắng cuộc. Trò chơi này có thể  được thay thế  với Jumple sentences để  ôn lại cho  học sinh các cấu trúc câu mà các em đã được học( bằng cách xáo trộn các từ  trong câu). Trò chơi này có thể được áp dụng trong các bài học nhất là các bài   ôn tập. * Bingo     ­ Học sinh nhắc lại khoảng 10­15 từ các em đã học. Giáo viên viết các từ  đó lên bảng.     ­ Mỗi em chọn 5 từ bất kì trên bảng.     ­ Giáo viên đọc các từ trên bảng nhưng không theo thứ tự.     ­ Học sinh đánh dấu () vào từ đã chọn khi nghe giáo viên đọc từ đó.     ­ Học sinh nào có cả 5 từ đã dược đánh dấu () hô to “Bingo”. * Hang man ­ Gạch những đường gạch ngắn lên bảng. mỗi gạch tượng trưng cho một  mẫu tự trong từ. Ví dụ: Nếu muốn cho học sinh đoán từ “ monkey” thì gạch 6  gạch lên bảng (_ _ _ _ _ _).Giáo viên đưa ra các gợi ý, học sinh lần lượt đoán  các mẫu tự có trong từ. Nếu mỗi lần học sinh đoán sai giáo viên gạch một  gạch (theo thứ tự trong hình vẽ). Nếu học sinh đoán sai 8 lần thì bị thua. Giáo  viên giải đáp từ gợi ý.                 __ 1__             2                    3             5       6                4 7 8 16
  17. * Noughts and Crosses ­ Giải thích với học sinh rằng trò chơi này cũng giống như trò chơi “ cờ  ca rô” ở Việt Nam nhưng chỉ cần 3 “0” hoặc 3 “x” trên một hàng ngang, dọc,  đường chéo là thắng.     ­ Kẻ 9 ô vuông trên bảng, mỗi ô có chứa một từ (hoặc một tranh vẽ). E.g. Unit 1. What’s your address? (Tiếng Anh 5 tập 1).  52 Ba trieu Street South Road the second floor of Hanoi  Tower Green Avenue Hoa Binh Lane 42 Hai Ba Trung Street Lieu Giai Street High Street City Tower ­ Làm mẫu một câu với học sinh sử dụng một từ bất kỳ trong các ô: Where do you live?  I live in 52 Ba trieu Street .     ­ Chia học sinh làm hai nhóm: một nhóm là nought (0) và một nhóm là  crosses (X).     ­ Các nhóm lần lượt chọn từ trong ô và đặt câu hỏi và trả lời. Nhóm nào   đặt đúng sẽ được một 0 hay một X. Ngoài ra còn có rất nhiều các trò chơi ngôn ngữ khác mà giáo viên có thể  sử dụng linh hoạt trong các tiết dạy của mình. 7.4.2.4. Sử dụng âm nhạc trong giờ học tiếng Anh  Điều quan trọng khi dạy tiếng Anh cho trẻ em  là giáo viên phải thực sự  sáng tạo để  có thể  duy trì sự  hứng thú của học sinh đối với môn học. Có  nhiều phương pháp khác nhau để  tạo hứng thú cho học sinh khi dạy các kĩ   năng như  dạy đoạn hội thoại, dạy từ  vựng và dạy mẫu câu. Sử  dụng âm   nhạc là một phương pháp hữu ích để giúp quá trình học tiếng Anh trở nên vui  vẻ  và đầy hào hứng. Âm nhạc có thể  giúp thay đổi bầu không khí trong lớp  học một cách nhanh chóng. Thường xuyên lắng nghe các bài hát tiếng Anh và  hát cùng bạn bè, thầy cô sẽ  giúp các em nhớ  bài học tốt hơn, góp phần nâng   17
  18. cao vốn từ  vựng, mẫu câu và các kĩ năng nghe, nói, phát âm. Trong quá trình   dạy học và qua nghiên cứu tài liệu, tôi xin chia sẻ một số cách để  vận dụng   âm nhạc vào các bài học như sau: * Giới thiệu ngữ liệu mới Chuẩn bị: Giáo viên chọn các bài hát tiếng Anh có liên quan đến chủ đề  mà học sinh sẽ học. Phương thức tiến hành: cho học sinh nghe các bài hát tùy theo chủ  đề  của mỗi bài học, yêu cầu học sinh thảo luận và đoán nội dung bài hát. Sau khi   học sinh phát biểu thì giáo viên sẽ dẫn dắt vào bài mới. Ngoài ra giáo viên có  thể  sử  dụng bài hát để  dạy từ  vựng và mẫu câu nếu như  các ngữ  liệu này  xuất hiện trong lời bài hát. E.g.  Tên bài hát Chủ đề Từ vựng Mẫu câu Transportation  means of  bicycle, helicopters,  Number + means of  counting song transport cars, boats, airplanes transport (áp dụng cho  unit 3­ tiếng  Anh 5­tập 1) Daily   Routines  Daily  wake up, wash my face I + V + .... Song activities brush my teeth, comb  (Unit 3.  – tiếng  my hair, eat breakfast,   Anh 4 tập 1) go to school * Củng cố kiến thức  Chuẩn bị: các bài hát tiếng Anh theo chủ đề, giấy, bút màu hoặc bút chì. Phương thức tiến hành: phát cho mỗi học sinh một tờ giấy và một số bút  màu. Khi nghe bài hát hoặc bài chant học sinh sẽ  viết một số  từ  nghe được   trong bài hát ra giấy hoặc vẽ những bức tranh theo chủ đề mà họ  nghe được.  Sau 20 đến 30 giây giáo viên dừng nhạc, học sinh sẽ ngừng viết hoặc vẽ để  kiểm tra. Giáo viên có thể trình chiếu bài hát cho học sinh soát lỗi các từ hoặc  cho học sinh miêu tả về bức tranh mà họ vẽ. 18
  19. E.g. Cho học sinh nghe bài “Row, Row, Row Your  Boat” học sinh sẽ vẽ  một bức tranh có hình ảnh người đang chèo thuyền và miêu tả  về  bức tranh.   Hoặc đối với bài hát “Head, Shoulders, Knees and Toes”  học sinh sẽ viết lại   các từ chỉ bộ phận cơ thể xuất hiện trong bài hát. Giáo viên có thể yêu cầu học sinh hành động theo các câu có trong bài hát. E.g. The song " What Can You Do?" có các cụm từ như: I can swim, I can  ride a bike, I can read, etc. * Chuyển tiếp các hoạt động Chuẩn bị: một số bài hát vui nhộn. Phương thức tiến hành: Khi học sinh thực hành một nhiệm vụ  nào đó  đặc biệt là hoạt động nói thì lớp học sẽ  rất  ồn ào. Vấn đề  đặt ra cho giáo   viên là làm sao để học sinh ổn định và tập trung chuyển sang hoạt động khác.  Trong trường hợp này thì giáo viên có thể  bắt nhịp cho lớp hát một bài hát   hoặc mở  một số  bài hát vui nhộn để  thu hút sự  chú ý của học sinh khi kết   thúc một hoạt động. Ngoài ra trong lúc học sinh đang thực hành luyện tập,  giáo viên có thể dùng bài hát để giới hạn thời gian hoàn thành nhiệm vụ. Như  vậy khi bài hát kết thúc học sinh sẽ tự giác ngừng lại và chú ý lắng nghe sự  chỉ dẫn của giáo viên.  * Rèn luyện kĩ năng nghe: Chuẩn bị: bài hát với khoảng 8­10 chỗ trống cần điền từ. Phương thức tiến hành: Học sinh sẽ  nghe bài hát và hoàn thành một số  chỗ trống trong lời bài hát. Sau khi nghe 2 lần thì học sinh sẽ lần lượt đưa ra   đáp án và giáo viên sẽ  cho nghe lại bài hát và kiểm tra. Chú ý không nên để  trống quá nhiều từ chỉ khoảng 8­10 là đủ. Với những bài khó và nhiều từ mới   giáo viên có thể cung cấp các từ còn thiếu trong hộp từ để cho học sinh nghe   và lựa chọn đẽ dàng hơn. 7.4.2.5. Sử dụng các bài chant trong giờ học tiếng Anh Đọc nhịp hiểu một cách đơn giản là giống như đọc thơ, đọc các câu văn  có ngữ  điệu, có phách. Sử  dụng các bài chant sẽ  tạo cơ  hội cho người học   sản sinh ngôn ngữ  một cách tự  nhiên, giúp họ  tiếp thu và vận dụng các mẫu   câu dễ dàng hơn và đặc biệt là rèn luyện kĩ năng đọc lưu loát, phát âm và ngữ  19
  20. điệu. Người học được tiếp xúc với nhịp điệu và âm điệu một cách tự  nhiên,   như vậy khi nói họ sẽ giữ được bản chất tự nhiên vốn có của ngôn ngữ.  E.g. Unit 10. When will Sports Day be?? (Tiếng Anh 5 tập 1). Để giúp các em ôn tập và mở rộng vốn từ về các môn thể thao, bên cạnh   đó lại ôn tập được vốn từ  về  các bộ  phận cơ  thể, giáo viên có thể  cho học   sinh chant và vỗ tay theo nhịp bài chant sau Soccer, football, baseball, golf (repeat) Touch your head, touch your shoulders Touch your knees, touch your toes! Basketball, ice hockey, rugby, field hockey (repeat) Touch your eyes, touch your ears Touch your mouth, touch your nose! Volleyball, badminton, ping pong, tennis (repeat) Say hello, say hello wave your hands and say hello! Giáo viên có thể  để  học sinh tự  tìm tòi, phát hiện và tiếp thu kiến thức  thông qua việc tự sáng tạo ra các bài chant liên quan đến các chủ  đề  của bài  học. Giáo viên chỉ  đóng vai trò hướng dẫn. Đó là mục tiêu trọng tâm trong  việc giúp học sinh ghi nhớ tốt bài học của mình.  7.4.2.6. Sử dụng phương pháp kể chuyện trong dạy tiếng Anh Học   sinh   tiểu   học   rất   ham   mê   đọc   truyện   bởi   vì   những   câu   truyện  thường có nội dung thú vị  và hấp dẫn; đưa học sinh đi vào một thế  giới tốt   đẹp; giúp các em có sự  hiểu biết rộng hơn về cuộc sống, về bản thân và về  những người xung quanh. Kể  chuyện là một phương thức độc đáo giúp học  sinh phát triển nhận thức, sự  sáng tạo và trí tưởng tượng phong phú. Thông  qua hoạt động kể  chuyện, học sinh sẽ  có nhiều cơ  hội để  tiếp thu nguồn tri   thức dồi dào và luyện tập kĩ năng nói lưu loát. Khi học sinh biết được nội  dung câu truyện thì họ có thể sử dụng kiến thức đó để vận dụng và phát triển   khả năng sử dụng ngoại ngữ bằng cách là tường thuật lại nội dung chính của   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2