intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn Tiếng Việt ở lớp 1

Chia sẻ: Caphesuadathemhanh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:16

90
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Một số biện pháp giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn Tiếng Việt ở lớp 1" đã chú trọng tìm hiểu, khảo sát để phân loại học sinh chưa hoàn thành trong phân môn Tiếng Việt 1, tìm hiểu nguyên nhân học sinh chưa hoàn thành trong phân môn Tiếng Việt 1, từ đó đưa ra số giải pháp giúp đỡ các em chưa hoàn thành trong môn Tiếng Việt 1 nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn Tiếng Việt ở lớp 1

  1. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP ĐỠ HỌC SINH CHƯA HOÀN THÀNH MÔN TIẾNG VIỆT Ở LỚP 1 1. Phần mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài        Trong các bậc học, bậc tiểu học là bậc học có tầm quan trọng trong giáo dục cũng như trong đời sống của xã hội, đòi hỏi người giáo viên cần phải quan tâm và có biện pháp nâng cao chất lượng dạy học. Đổi mới công tác  giáo dục  nâng cao chất lượng, nâng cao chất lượng  phụ  đạo học  sinh chưa hoàn thành  môn học đặc biệt là môn tiếng Việt, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào  tạo, nhằm hoàn thành mục tiêu “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng  nhân tài”.           Nâng cao chất lượng dạy học là việc làm cần thiết, hết sức quan trọng  đối với giáo viên  nhằm hoàn thành chất lượng kế hoạch, nhiệm vụ năm học. Trong  đó không thể  thiếu được công tác phụ  đạo học sinh chưa hoàn  thành của lớp.  Muốn đạt được mục tiêu kế  hoạch năm học đề  ra phải  thông qua hoạt động  chủ yếu của lớp đó là hoạt động dạy và học. Hoạt động dạy học là hoạt động  chính, nó chiếm nhiều thời gian nhất trong hoạt   động chung của  lớp. Đây là  một quá trình thống nhất không thể  tách rời  và có tác dụng hỗ  trợ  lẫn nhau.  Điều này khẳng định vai trò của người  giáo viêncó ảnh hưởng rất lớn đến chất  lượng giáo dục, học tập của học sinh .             Là người giáo viên đang đảm nhận dạy lớp 1 là lớp năm đầu tiên đổi mới  chương trình giáo dục phổ  thông, bản thân tôi  nhận thức  đúng về  tầm quan  trọng  của việc phụ đạo học sinh chưa hoàn thành trong nhà nên  trong quá trình  giảng dạy tôi luôn chú trọng đến việc kèm cặp học sinh chưa hoàn thành trong  giờ học.        Từ những nội dung phân tích trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài :"Một số biện   pháp giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn Tiếng Việt ở  lớp 1". 1.2. Điểm mới của đề tài          Trong những năm qua, tôi thấy chất lượng môn Tiếng Việt  ở  lớp 1 còn  hạn chế. Một số  học sinh vẫn còn khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức về  Tiếng Việt. Số học sinh chưa hoàn thành đó chủ  yếu là đọc chậm, viết chậm, 
  2. tiếp thu chậm. Mà các em không nắm được âm, vần dẫn đến không đọc, viết   được thì  ở  các môn khác các em cũng khó tiếp thu được kiến thức, khó thực   hành các kĩ năng…. Chính vì vậy, học sinh chưa hoàn thành cần được giáo viên   quan tâm. Đề tài "Một số biện pháp giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn   Tiếng Việt  ở  lớp  1"  đã  chú trọng tìm hiểu, khảo sát để  phân loại học sinh   chưa hoàn thành trong phân môn Tiếng Việt 1, tìm hiểu nguyên nhân học sinh  chưa hoàn thành trong phân môn Tiếng Việt 1, từ đó đưa ra số giải pháp giúp đỡ  các em chưa hoàn thành trong môn Tiếng Việt 1 nhằm nâng cao chất lượng dạy   và học. Đó chính là điểm mới của đề tài này.
  3. 2. Phần nội dung 2.1. Thực trạng dạy và học môn Tiếng Việt lớp 1         Trong những năm gần đây, đa số  phụ  huynh đã quan tâm đến việc học  tập của con cái thể hiện ở việc tham gia họp phụ huynh đầu năm đầy đủ, đóng   góp những ý kiến trong việc trao đổi tình hình học sinh giữa giáo viên chủ  nhiệm với phụ huynh.         Cơ sở vật chất trường học ngày càng khang trang, hiện đại, sạch sẽ, môi   trường học tập thân thiện. Nhà trường nói chung và giáo viên nói riêng luôn  quan tâm đến học sinh, đặc biệt là học sinh chưa hoàn thành.        Các em học sinh được trang bị  đầy đủ  sách vở, đồ  dùng học tập và đã  nhận thức được việc học rất quan trọng, có lợi cho bản thân. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy rằng các em  học sinh chưa hoàn thành là những học sinh cá biệt chưa chuyên tâm vào việc   học, chưa chăm học, không hứng thú với môn học, không tập trung lâu dẫn đến  tình trạng các em không nắm được kiến thức.         Một số  phụ  huynh quan tâm đến việc học tập của con cái nhưng chưa   nắm được cách học của con. Bên cạnh đó, cũng còn một số  phụ  huynh mải lo   làm ăn, buôn bán, phó mặc con cái cho nhà trường, chưa quan tâm đến con cái,  chưa tạo điều kiện tốt để con em học tập, vui chơi, chưa quản lý con em mình  lúc ở nhà.         Một phần nhỏ các em đi học muộn giờ, mang sách vở  không đầy đủ, …  dẫn đến các em không chú tâm vào việc học.
  4.           Một phần nhỏ học sinh chưa hoàn thành do thụ động, nhút nhát trong giờ  học, thiếu sự ham học, làm cho các em không phát huy hết được khả năng học  tập của mình. Những điều này có  ảnh hưởng rất lớn đến việc học của học  sinh, đặc biệt là học sinh lớp 1, các em còn quá nhỏ chưa có ý thức tự giác trong  việc học.           Ở  lứa tuổi học sinh tiểu học tính tò mò phát triển, các em thường ham  thích cái mới, cái lạ. Dễ nhàm chán trong các hoạt động kéo dài, không thay đổi   hình thức. Nếu chúng ta những người làm công tác giáo dục biết quan tâm tạo   sự  ham thích cho các em trong học tập, trong các hoạt động  ở  trường, lớp thì  mới có động lực thúc đẩy việc học, nâng cao được khả  năng tiếp thu, và thực   hành các kĩ năng, kĩ xảo mà chúng ta cung cấp cho các em từ đó các em học tập   có tiến bộ.         Ở  lứa tuổi học sinh tiểu học tâm sinh lý các em rất hiếu động, hay bắt  chước, dễ thích nghi với môi trường sinh hoạt ở trường, lớp. Đây là điều kiện   tốt để giáo viên tạo sự hứng thú cho các em. Nếu hàng ngày khi đến trường các   em được thầy cô ân cần chỉ bảo. Trong học tập các em được hoạt động nhóm,  chơi các trò chơi học tập thì các em sẽ ham học hơn từ đó các em sẽ học tập có  tiến bộ hơn.         Ở  lứa tuổi lớp 1, là lớp đầu tiên của bậc Tiểu học. Để  làm quen với   chương trình Tiếng Việt 1, các em còn nhiều bỡ ngỡ với việc đọc, viết. Các em  còn phải nắm được cách phát âm, cách phân tích vần, cách ghép vần, tìm tiếng   mới dựa trên vần vừa học. Một trong những mục tiêu quan trọng mà môn Tiếng  Việt  ở  Tiểu học cần hướng đến là hình thành và phát triển  ở  học sinh các kĩ  năng hoạt động ngôn ngữ: nghe, nói, đọc, viết. Đó là những kĩ năng cơ bản, nền  tảng giúp các em học tốt môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác trong nhà  trường phổ thông. Đọc thông, viết thạo là một trong những kĩ năng cơ bản của  học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng. Việc học sinh đọc   thông, viết thạo được là điều rất khó khăn với những học sinh chưa hoàn thành.   Điều đó đòi hỏi người giáo viên phải có những biện pháp cụ  thể  phù hợp để  giúp đỡ học sinh của mình.
  5.       Kết quả  khảo sát chất lượng môn Tiếng Việt sau   6  tuần đầu năm học  2020­2021 của lớp tôi giảng dạy như sau: HTT HT CHT TS Môn SL % SL % SL % 32 Tiếng  10 31,3  13 40,6  9 28,1  Việt 2.2. Một số biện pháp giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn Tiếng  Việt lớp 1        Để  giảm tối đa tỉ  lệ  học sinh chưa hoàn thành và đạt được chất lượng  trong việc giáo dục thì việc giúp đỡ  học sinh chưa hoàn thành là việc làm cần  thiết của mỗi giáo viên. Chính vì lẽ đó tôi đã thực hiện một số biện pháp sau: 2.2.1. Giáo dục ý thức học tập cho học sinh       Ngay từ đầu năm nhận lớp, ngoài việc tìm hiểu tình học tập của các em,  tôi đã chú ý hiểu được từng đối tượng học sinh về tính tình, sở thích …và hoàn  cảnh gia đình của mỗi em.       Sau khi tìm hiểu kĩ tình hình của lớp tôi đã đề ra quy định về nề nếp học   tập như sau:       ­ Đi học đều, không đi học muộn, không nghỉ học, nếu nghỉ học phải xin   phép thầy, cô giáo.       ­ Chuẩn bị đầy đủ sách, vở, đồ dùng học tập khi lên lớp.           ­ Tham gia phát biểu xây dựng bài.       ­ Học bài làm bài đầy đủ khi đến lớp.       ­ Chăm chú nghe giảng, tích cực tự giác trong học tập, trong thảo luận.        ­ Đề ra một số nội quy trong học tập như:        +  Trưởng ban học tập    là người điều động các bạn sao cho thật nhanh   ngay ngắn. Vào giờ  truy bài mỗi ngày, yêu cầu các bạn lấy sách ra đọc bài, ôn  lại những bài đã học trong tuần qua.       + Trong khi học các em phải đảm bảo trật tự, không phát biểu chung cả  lớp. Còn trong khi chơi các em cũng phải tuân thủ luật chơi; không la lớn không  
  6. đập bàn, phải biết trao đổi hợp tác với bạn để hoàn thành nhiệm vụ của cô giáo  .       + Mỗi buổi sinh hoạt lớp cả  lớp cùng nhận xét các bạn học tốt, nhóm  học tốt để tuyên dương kịp thời, nhóm chưa tốt tiếp tục cố gắng trong tuần tới. Dần dần đưa các em vào nề  nếp tự  quản, tự  học. Bên cạnh đó, tôi thường  xuyên nhận xét bài trả  bài đầy đủ  để  nắm được tình hình sức học của các em   kịp thời uốn nắn, giúp các các em thấy được lỗi của mình từ đó có hướng khắc  phục.       Ngoài ra, tôi còn quy định các kí hiệu trong từng tiết học:       + Cách lấy đồ dùng học tập theo đúng kí hiệu S,V,B.       + Cách giơ bảng, hạ bảng.       + Kí hiệu đọc trơn, phân tích.          + Kí hiệu hoạt động nhóm 2, nhó 4...       + Trong khi giáo viên hướng dẫn viết hay đọc mẫu bài thì học sinh phải   theo dõi vào bài học.        ­ Rèn cho học sinh thói quen đọc bài nối tiếp để giúp học sinh chú ý trong  giờ học.       ­ Giáo viên nhận xét chung cả lớp, tuyên dương những học sinh ngoan và  tặng phần thưởng cho các em như hoa, cờ, bút.... Nhắc nhở những em chưa tiến  bộ cần biết học tập các bạn học tốt.           Để  làm tốt được những việc trên không thể  ngày một ngày hai, do vậy   người giáo viên thật sự phải có các tâm, có lòng yêu trẻ, yêu nghề  thì mới đạt   hiệu quả trong việc “trồng người”. Tóm lại, nếu giáo viên xây dựng tốt nề nếp  học tập thì hiệu quả phụ đạo rất cao, học sinh tiếp thu đầy đủ kiến thức. 2.2.2. Xây dựng môi trường học tập thân thiện.        Sau khi được phân công phụ trách lớp tôi đã tiến hành:        ­ Tìm hiểu lý lịch, của từng học sinh. Nhận xét mối quan hệ giữa các em   trong lớp với nhau. Từ  đó có những chuẩn bị  cho kế  hoạch phân chia các đối  tượng vào các nhóm, tổ  với nhau. Từ  chỗ  chia tổ  nhóm với nhau sẽ  tạo mối   ràng buộc lẫn nhau. Vì vậy mà các em sẽ quan tâm và giúp đỡ lẫn nhau hơn và  thực hiện tốt các yêu cầu mà giáo viên đề ra.
  7.        ­ Giải thích cho các em hiểu các khẩu hiệu trong lớp mang ý nghĩa quan  trọng, mang tính giáo dục cao: “ Dạy tốt, học tốt”, “mỗi ngày đến trường là  một niềm vui”; Năm điều Bác Hồ dạy”,…        ­ “Tủ sách thân thiện” là kết quả đóng góp của phụ huynh, học sinh, giáo  viên, có sự giúp đỡ của nhà trường và địa phương tạo điều kiện cho các em  ham đọc sách, mở rộng hiểu biết, phát triển khả năng đọc. Tôi nhắc nhở các em  phải gọn gàng, sắp xếp khoa học, sạch đẹp ,dễ  sử dụng.        ­ Tôi trao đổi, hỏi han các em về  gia đình, về  sở  thích của các em.  Tạo  được không khí thoải mái trong giờ học, luôn gần gũi, yêu thương học sinh để  có mối quan hệ thân thiện với học sinh.        ­ Sắp xếp chỗ ngồi hợp lí cho từng học sinh,  ưu tiên học sinh bị  cận thị,   học sinh nhỏ  bé ngồi trên, xen kẽ  giữa các em nam và nữ…. Phân công tổ  trưởng quản lí tổ viên, Chủ tịch hội đồng , phó chủ tịch hội động tự quản phụ  trách chung. Xây dựng đôi bạn cùng tiến sao cho học sinh trong từng bàn có thể  giúp đỡ  nhau trong học tập.  Theo sát biểu hiện của các em, từ  giờ  học, giờ  chơi, để nâng đỡ các em.        ­ Không nghiêm khắc quá và cũng không được buông lỏng đối với các em.  Răn đe, khuyên nhủ nhưng cũng khoan dung độ lượng.        ­  Tôi luôn kiểm tra và dò bài với các em.  Khen ngợi động viên kip thời  bằng những lời nói thân mật, gần gũi như: “Hôm nay em đã đọc được rồi, mai  em hãy đọc to hơn nữa nhé!’’.        ­ Nhắc các em trong lớp biết tôn trọng nhau, chia sẽ  thông cảm với bạn   như: chia sẻ  đồ  dùng học tập, quan tâm an  ủi bạn hơn, cho bạn mượn bút khi  bạn hết mực, …        ­ Gặp và bàn với phụ  huynh  để  phụ  huynh nhận thức rõ và có trách   nhiệm đối với con cái. Tạo được mối quan hệ gần gũi với phụ huynh học sinh,   để từ  đó có được thông tin hai chiều giữa phụ huynh học sinh với giáo viên và  ngược lại.        ­ Không khí lớp học xanh, sạch, đẹp, an toàn, thân thiện là yếu tố  rất  quan trọng góp phần thu hút trẻ đến trường, đến lớp, góp thêm cho lớp học một  luồng không khí thân thiện, thoải mái, sinh động, hăng say trong giờ học. 2.2.3. Khảo sát, phân loại đối tượng học sinh chưa hoàn thành.
  8.        Học sinh chưa hoàn thành trong môn Tiếng Việt 1, thường là: chưa đọc  được, đọc chậm, phát âm sai, nhớ kém, viết sai, viết chậm, viết không đúng, … do các em tiếp thu chậm, nhút nhát, chưa chú ý trong giờ học, hay quên sách vở,  đồ dung học tập. Từ đó tôi xem xét, phân loại những học sinh chưa hoàn thành  để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng. Sau khi được phân công phụ  trách lớp, tôi đã khảo sát và phân loại học sinh   chưa hoàn thành  ở  môn Tiếng Việt theo các nhóm nguyên nhân chủ  yếu như  sau:         + Nhóm 1: Chưa đọc được, đọc chậm, phát âm sai ­ Nhóm này có 2 em.        + Nhóm 2: Viết sai, viết chậm, viết không đúng ­ Nhóm này có 4 em.         +Nhóm 3: Đọc chậm, viết sai, nhớ kém, chưa chú ý trong giờ học  ­ Nhóm  này có 3 em.        Dựa vào kết quả trên, tôi đã lập danh sách cụ thể để có kế hoạch giúp đỡ  kịp thời. Lập sổ  theo dõi quá trình giúp đỡ  các em chưa hoàn thành theo từng   tháng. 2.2.4. Xây dựng kế hoạch giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành.       ­ Khi nắm được nguyên nhân dẫn đến học sinh học chưa hoàn thành về  môn Tiếng Việt của từng em, tôi đã lập kế hoạch và tiền hành giúp đỡ  các em  cụ thể cho từng tuần, từng tháng như sau:       * Ví dụ:  Nội dung giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành tháng 9: KẾ HOẠCH GIÚP ĐỠ HỌC SINH CHƯA HOÀN THÀNH  (Tháng 10) Thời  Nội dung Biện pháp gian   Vần: ao, eo, au, âu, êu,iu,ưu,  ­ Rèn đọc cho học sinh. Tuần 7 iêu,yêu,ươu. ­ Trò chơi thi đua tìm tiếng chứa âm      Tiếng, từ:   phao, chèo, rau,  cầu ao, lều ,diều vừa ôn, phân tích tiếng. ­ Rèn viết cho học sinh. Tuần 8    Vần; an, ăn,  ­ Rèn đọc cho học sinh. ân,on,ôn,ơn,en,ên,un,in,yên,iê ­ Trò chơi thi đua tìm tiếng chứa âm  n,uôn,ươn  vừa ôn, phân tích tiếng.
  9.  Tiếng, từ: bàn, con,sên, biển  ­   Rèn   viết   cho   học   sinh,   ôn   luật  yến, chuồn vượn chính tả. Cứ tiếp tục như vậy, cho các tháng tiếp theo và nội dung giúp đỡ các em  phải có sự  củng cố  lại những kiến thức đã học  ở  các buổi học trước và tập  trung chủ yếu vào đọc thông, viết thạo, và nắm chắc được luật chính tả.        ­ Tôi dành thời gian giúp đỡ các em chủ yếu vào các buổi học chính khóa,  các buổi học tăng cường trong tuần sáng thứ hai ,sáng thứ tư, các buổi truy bài  đầu giờ.        ­ Cuối mỗi tuần, đều có các bài kiểm tra theo dõi kết quả học tập của các   em.    2.2.5. Hướng dẫn học sinh chưa hoàn thành học tập        Trong thực tế, mỗi học sinh có khả  năng ghi nhớ  khác nhau. Vì vậy, tôi   đã khảo sát để nắm bắt được khả năng của các em, xác định được những kiến  thức và cách ghi nhớ  kiến thức sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.   Tôi đã có những biện pháp giúp đỡ các em cụ thể như sau:        * Đối với những em chưa hoàn thành về phần đọc:        ­  Với mục đích là lấp lỗ  hổng về  kiến thức cho học sinh, các em phải  được đọc đi đọc lại nhiều lần các âm, cách ghép tiếng và cách phân tích để các  em ghi nhớ. Việc củng cố các âm đã học thực hiện đồng thời với việc âm mới.   Tôi đã sử dụng một cái bảng phụ riêng để ghi các âm mỗi buổi học bài mới vào   đó. Hàng ngày, vào các buổi truy bài đầu giờ, các buổi phụ  đạo, tôi dành thời   gian cho các em ôn lại các âm hoặc vần, tiếng hoặc từ đã học qua bảng thống   kê nhằm giúp các em củng cố lại các âm, vần đã học trong tuần.        ­ Ngoài ra, để  tránh nhàm chán cho các em, tôi đã kết hợp với bạn đội  viên trực 15 phút đầu giờ để cho các em chơi trò chơi. (theo như kế hoạch)        Ví dụ: Tuần 7: Các em củng cố các âm như: nh, o, ô, ơ, p, ph.        Đặc biệt, tôi chú trọng đến việc đánh vần và phát âm, cách ghép vần của   các em. Vì nếu các em đọc đúng, biết cách ghép vần. Khi các em đã nhớ  được  
  10. thì tôi tổ  chức cho các em luyện đọc trôi chảy thông qua các hình thức thi đọc  trước lớp, thi đọc trong nhóm, trò chơi.        Ví dụ:  Trò chơi: Ong tìm nhụy ­ giúp học sinh thuộc các âm vần đã học. + Trên mỗi cánh hoa tôi ghi một  âm hay vần  đã học hay mới học ( iêu,  ui.iên,on,in,âu,un,eo.....)  còn nhụy hoa là những âm học hay quên.           + Cô có 2 bông hoa trên những cánh hoa có các vần  là những chướng ngại vật,  còn các em là những chú Ong. Các chú Ong có nhiệm vụ vượt qua các chướng  ngại vật để tìm nhụy cho mình.         + Học sinh lên bảng chọn cho mình một cánh hoa, rồi đọc to thẻ  của  mình cho cả lớp nghe, sau đó ghép với âm ở giữa, đọcphân tích , đọc trơn tiếng  vừa tìm được (ưu tiên những em đọc chậm và chưa hoàn thành).         * Lưu ý: Sau khi học sinh chơi xong, giáo viên nhận xét, động viên và có   thể  yêu cầu ghép thêm một số  tiếng mới như:  trấu, trèo, trùn, … để  khắc sâu  bài học.        + Bên cạnh đó, tôi luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các em và cho   các em luyện đọc lại từ sai nhiều lần.        ­ Cuối mỗi tuần tôi kiểm tra đã nhận thấy rằng: Các em đều nắm được   các vần đã ôn nhưng một số  vần khó thì có em chưa nhớ được. Tôi lại tiếp tục  cho các em củng cố vào buổi học tiếp theo.        * Đối với các em chưa hoàn thành về phần viết:
  11.        ­ Để giúp các em yếu tiếp thu những kiến thức vừa sức với các em, tôi đã  căn cứ  vào yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của từng bài, xây dựng nội dung  phụ đạo giúp các em củng cố cách viết các âm, vần mà các em chưa nắm được.         ­ Tôi đã hướng dẫn lại cách viết các âm, vần và yêu cầu các em mỗi ngày   viết khoảng 1/2 trang vở các âm hoặc vần, đã học trong  kế  hoạch. Với các âm   khó tôi hướng dẫn cặn kẽ lại cho các em.        Sau đó, vào giờ học cuối tuần, tôi đọc cho học sinh viết một số âm, vần  thường hay sử dụng nhiều để các em ghi nhớ.        ­ Bên cạnh đó, cần củng cố  về  các luật chính tả  bằng cách cho các em   nhắc nhiều lần, gặp bài nào có liên quan đến luật chính tả, tôi đều cho các em   nhắc lại ngay để nắm chắc luật chính tả khi viết tiếng.   Ngoài ra, tôi cho các em viết thêm vào các tiết ôn luyện Tiếng Việt. Các  em sẽ có một vở  riêng để luyện viết.        ­ Trong quá trình thiết kế  bài học, tôi luôn cân nhắc các mục tiêu đề  ra   nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh chưa hoàn thành được củng cố  và  luyện tập phù hợp.         ­ Sau mỗi tuần học tôi cũng đã kiểm tra, nhận xét kịp thời, để đánh giá sự  tiến bộ của các em.        ­ Khi các em đã nắm được các âm, vần thì tôi cho các em có chọn tiếng,   từ  để  luyện viết thêm. Gợi mở, tạo hứng thú cho các em bằng cách chơi trò   chơi chọn tiếng, từ để viết.        * Đối với những em chưa hoàn thành cả về phần đọc và viết:        Trong các tiết ôn luyện Tiếng Việt tôi cho các em ngồi theo nhóm.         + Tôi tập trung nhiều thời gian cho đối tượng này để  giúp các em hiểu  bài, nắm chắc kiến thức tại lớp, lấy lại kiến thức cũ.         + Tôi dành cho những em này được đọc nhiều hơn, chú ý để  hướng dẫn  các em đọc, viết cặn kẽ, tỉ mỉ hơn.        ­ Trên lớp, tôi thường xuyên khảo sát, phân loại đối tượng học sinh để  nắm được những em hoàn thành tốt, hoàn thành và chưa hoàn thành.        ­ Ông cha ta đã dạy: “Học thầy không tày học bạn”. Đúng thế, trẻ dạy trẻ  ngôn ngữ dễ hòa đồng với nhau, nên tôi ra quy định để các em cố gắng hơn cứ  một học sinh hoàn thành tốt giúp đỡ một bạn học sinh chưa hoàn thành.
  12.        + Trong tuần nhóm nào tiến bộ  đọc viết tốt nhóm đó được tặng cờ  thi  đua. Yêu cầu các bạn hoàn thành tốt luân phiên giúp đỡ các bạn chưa hoàn thành   cùng tiến bộ.         + Tổ chức thi đua giữa các nhóm, nếu nhóm bạn nào có tiến bộ  thì biểu  dương cả nhóm đó và tặng cờ thi đua vào tiết sinh hoạt cuối tuần.         + Các nhóm trưởng có nhiệm vụ nhắc nhở, kiểm tra việc học bài, làm bài   của các bạn và báo cáo với cô giáo chủ nhiệm vào cuối mỗi buổi học.  Như vậy Hội đồng tự quản và các bạn hoàn thành tốt thường xuyên trao  đổi công việc, tổng kết tuần cũng như  lên kế  hoạch cho tuần mới vào ngày  cuối tuần cùng với giáo viên chủ nhiệm lớp.        Cuối mỗi tuần, tôi kiểm tra các em. Đối với âm, vần khó các em chưa  nắm được  tôi lại tiếp tục cho các em củng cố vào tiết ôn luyện tiếp theo.  2.2.6. Phối hợp với phụ huynh học sinh        Sau khi khảo sát chất lượng, tôi nắm số lượng học sinh chưa hoàn thành   để có kế hoạch giúp đỡ các em. Tôi lập danh sách học sinh chưa hoàn thành và  chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết dạy, trong các  tiết ôn  luyện Tiếng Việt. Tôi còn chú trọng vào việc phối hợp với gia đình giáo  dục ý thức học tập của học sinh.        Do hiện nay, một số phụ huynh luôn gò ép việc học của con em mình, sự  áp đặt và quá tải sẽ  dẫn đến chất lượng không cao. Tôi đã phân tích, đề  nghị  với phụ huynh cần phải:        ­ Theo dõi và kiểm tra bài vở của con em mình.        ­ Giúp đỡ các em trong quá trình học tập ở nhà, phải có thời gian biểu cho  học sinh        ­ Đôn đốc, động viên con em đi học chuyên cần.        ­ Có sự kiểm tra và chuẩn bị cho con em trước khi đến trường.        ­ Thường xuyên liên hệ với giáo viên chủ nhiệm lớp để nắm được tình  hình học tập của con em mình, từ đó giáo viên chủ nhiệm cùng trao đổi với phụ  huynh để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự  quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn  lên.
  13. ­ Hàng tuần tôi trao đổi với phụ  huynh học sinh để  xem cách học  ở  nhà  của các em như thế nào, nếu thấy cần thiết thì tôi đưa ra biện pháp giúp đỡ. 2.3. Kết quả Sau thời gian nghiên cứu và áp dụng các biện pháp trên, chất lượng môn  Tiếng Việt tại lớp tôi giảng dạy đã có sự tiến bộ rõ rệt. Học sinh đã nắm chắc  các âm vần, đọc khá tốt các bài tập đọc, viết đúng chính tả   và nắm chắc luật   chính tả...  Kết quả khảo sát chất lượng môn Tiếng Việt cuối  học kỳ II như sau: HTT HT CHT TS Môn SL % SL % SL % Tiếng  32 Việt 20  62,2  12 37,5   0  0  Tóm lại, để  hoàn thành nhiệm vụ  trọng trách người giáo viên chúng ta  phải quyết tâm khắc phục tháo gỡ  những khó khăn vướng mắc trong quá trình  giảng  dạy.  Tạo  được  bầu  không  khí  trong  lớp  luôn  thoái  mái  ,vui  tươi   để  trường lớp thực sự  trở thành  ngôi nhà thứ hai của các em . 
  14. 3. Phần kết luận. 3.1. Ý nghĩa của đề tài        Việc giúp đỡ  học sinh chưa hoàn thành là một quá trình liên tục, không  ngừng nghỉ. Nếu thấy các em có sự  tiến bộ  mà đã vội dừng lại việc phụ  đạo   hoặc lơ là thì các em sẽ dễ bị hổng kiến thức vì thực chất sự tiến bộ đó là kết   quả  nhất thời, chưa thật bền vững. Ngoài ra, để  giúp đỡ  học sinh chưa hoàn  thành, đòi hỏi người giáo viên phải phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể  và gia  đình học sinh để có thể trực tiếp bàn bạc biện pháp rèn luyện các em một cách   tốt nhất.        Khi dạy cho các em tuyệt đối không được nôn nóng, phải kiên trì, bình   tĩnh, khéo léo, tránh xúc phạm các em, phải từng bước dẫn dắt các em đi từ  những kiến thức dễ, cơ bản, vừa sức các em. Luôn tạo một không khí học tập  thật thoải mái, nhẹ nhàng và phải kịp thời động viên các em nếu thấy các em có  sự  cố  gắng, có sự  tiến bộ  dù là rất nhỏ  nhằm kích thích sự  hưng phấn, ham   học, ham tìm tòi của các em.        Việc giúp đỡ  học sinh chưa hoàn thành không phải là khó. Để  nâng cao   hiệu quả việc giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành đạt chất lượng người giáo viên   cần:        ­ Đầu năm phải khảo sát, xây dựng kế  hoạch, nội dung, cách thức thực  hiện một cách cụ  thể. Cần đầu tư  thời gian xây dựng cho các em nền nếp tự  quản ngay từ đầu năm để tạo ý thức học tập tốt. Động viện khích lệ  học sinh  chưa hoàn thành kịp thời.        ­ Việc tổ  chức giúp đỡ  học sinh chưa hoàn thành phải kết hợp với hình   thức vui chơi nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải, nặng   nề. Đổi mới phương pháp giảng dạy, cách nghĩ cách làm, cách nhìn đối với học 
  15. sinh, tạo cho học sinh được học tập rèn luyện trong một bầu không khí vui tươi  cởi mở, lành mạnh, bước đầu kích thích sự  hứng thú ham thích, tự  tin, chủ  động.        ­ Sự quan tâm của gia đình, kết hợp chặt chẽ cùng giáo viên chủ  nhiệm,  tạo mối quan hệ hai chiều.         ­ Giáo viên cần có sự  nhiệt tình, cởi mở, gần gũi đối với tất cả  các học   sinh trong lớp. 3.2. Kiến nghị        Để  làm tốt việc giúp đỡ  học sinh chưa hoàn thành góp phần nâng cao  hiệu quả trong giảng dạy đòi hỏi phải có sự nỗ lực từ nhiều phía.       * Đối với nhà trường:         Cần thường xuyên quan tâm hỗ  trợ  những em có hoàn cảnh khó khăn  thường là những em học sinh chưa hoàn thành, để các em đạt kết quả học tập  tốt hơn.      * Đối với giáo viên chủ nhiệm:         ­ Cần nắm bắt được thực trạng học sinh lớp mình. Lớp gồm bao nhiêu  em học sinh hoàn thành tốt, bao nhiêu em hoàn thành, bao nhiêu em chưa hoàn   thành, bao nhiêu em học sinh cá biệt, hoàn cảnh gia đình, tính cách của các em ra  sao để từ đó có kế hoạch và nội dung phụ đạo phù hợp.         ­ Làm tốt công tác tham mưu với ban giám hiệu nhà trường để nhận được   sự chỉ đạo kịp thời.         ­ Bản thân giáo viên chủ nhiệm phải là người nhiệt tình, tâm huyết, giúp  đỡ các em.        * Đối với gia đình:        Các bậc phụ huynh học sinh phải thật sự quan tâm đến việc học tập của   các em, nhắc nhở  các em chuẩn bị  bài thật chu đáo trước khi đến lớp, phụ  huynh cũng có thể kiểm tra lại kiến thức của con em mình qua tập vở, qua các  bài học của các em để từ đó có thể hướng dẫn giúp đỡ các em những phần các   em chưa nắm vững hay đã quên.          Trên đây là một số biện pháp nhằm giúp đỡ  học sinh chưa hoàn thành  ở  môn Tiếng Việt 1 được thực nghiệm trong quá trình dạy học của tôi. Trong quá 
  16. trình nghiên cứu không thể  tránh khỏi những thiếu sót nên tôi rất mong nhận   được sự  đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và cấp trên để  đề  tài này của tôi  được hoàn thiện hơn. Trân trọng cảm ơn !                                     
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2