Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh hứng thú với môn Khoa học lớp 4
lượt xem 3
download
Sáng kiến “Một số biện pháp giúp học sinh hứng thú với môn Khoa học lớp 4” giúp cho giáo viên nắm được, hệ thống hóa được trục nội dung, thấy được đặc điểm, cấu trúc chương trình môn Khoa học lớp 4. Sáng kiến này sẽ mang đến cho giáo viên một cách nhìn mới trong dạy học môn Khoa học nói chung và Khoa học lớp 4 nói riêng. Từ đó, khơi dậy ở các em sự hứng thú, đam mê môn Khoa học và các môn học khác. Ngoài ra, sáng kiến này còn là tài liệu tham khảo cho các bậc làm cha, làm mẹ trong cách dạy con và kích thích trí thông minh của con, khơi dậy ở các em những khả năng còn “ngủ quên” trong chính con người bé nhỏ của các em.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh hứng thú với môn Khoa học lớp 4
- 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn sáng kiến Khoa học xuất hiện trong hầu hết mọi mặt của cuộc sống, bao gồm khoa học về vật lí, hóa học, sinh học, khoa học cuộc sống, khoa học trái đất… Ở Việt Nam, khoa học thường được quan tâm ở lứa tuổi thanh thiếu niên, ít ai nghĩ đến, quan tâm đến độ tuổi tiểu học và đặc biệt là học sinh tiểu học vùng nông thôn. Các cuộc thi sáng tạo khoa học, các bài thí nghiệm… nghe còn xa vời với các em. Theo nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học thì độ tuổi tiểu học cần phải được định hướng việc nghiên cứu khoa học vì đây là độ tuổi có khả năng quan sát, suy luận… vô cùng nhạy bén và chính là nền tảng vững chắc để tạo điều kiện cho các em có khả năng phát triển năng lực nghiên cứu, sáng chế khoa học trong tương lai. Tuy nhiên cách nhìn nhận của giáo viên, cha mẹ học sinh vẫn còn nhiều điều chưa thấu đáo về khoa học nói chung và học môn Khoa học lớp 4 nói riêng. Ở lớp 1, 2, 3, các em quen với môn Tự nhiên và Xã hội, lên lớp 4, các em bắt đầu học môn Khoa học. Những câu hỏi nghe thật bình thường như “Tại sao có gió?” hay “Mây được hình thành như thế nào?”… lại được giải thích một cách khoa học. Môn Khoa học lớp 4 có rất nhiều nội dung mới mẻ, thiết thực như kiến thức về các chất dinh dưỡng, về âm thanh, ánh sáng, nhiệt độ… Vậy làm thế nào để học sinh tiểu học – những tâm hồn còn non nớt tiếp nhận những kiến thức khoa học một cách dễ dàng và tự nhiên? Đây là một câu hỏi không dễ. Tuy nhiên, tôi chắc chắn một điều rằng làm bất cứ việc gì, học bất cứ môn nào và đặc biệt là môn Khoa học đều cần có niềm đam mê. Vậy làm thế nào để các em có niềm đam mê với môn Khoa học? Như chúng ta đã biết, một trong những nguyên tắc dạy học là đảm bảo tính cảm xúc và tính tích cực. Điểu đó có nghĩa là trong quá trình dạy học phải gây cho người học sự hấp dẫn, hứng thú, lòng ham hiểu biết, thôi thúc con người hành động, cống hiến hết mình góp phần phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất… Hứng thú là một thuộc tính tâm lí nhân cách của con người. Hứng thú có vai trò rất quan trọng trong học tập và làm việc, không có việc gì người ta không làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. M.Gorki từng nói: Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc. Cùng với tự giác, hứng thú làm nên tính tích cực nhận thức, giúp học sinh học tập đạt kết quả cao, có khả năng khơi dậy mạch nguồn của sự sáng tạo.Trong khi đó, việc khảo sát thực tế dạy học ở tiểu học bằng nhiều con đường (lấy phiếu hỏi từ các cấp quản lí giáo dục, từ các giáo viên, các bậc phụ huynh và học sinh, quan sát và làm các đo nghiệm khách quan trên học sinh) đã cho thấy nhiều học sinh tiểu học không có hứng thú trong học tập. Điều này vừa được xem như là một biểu hiện vừa 1
- được xem như một nguyên nhân cơ bản của việc suy giảm chất lượng dạy học ở tiểu học. Những biện pháp tạo hứng thú trong sáng kiến này xuất phát từ 4 luận điểm cơ bản: Một là: Hiệu quả thực sự của việc dạy học là học sinh biết tự học; tự hoàn thiện kiến thức và tự rèn luyện kĩ năng, hai là: Nhiệm vụ khó khăn và quan trọng nhất của giáo viên là làm sao cho học sinh thích học, ba là: Dạy học ở tiểu học phải làm cho học sinh cảm thấy biết thêm kiến thức của mỗi bài học ở mỗi môn học là có thêm những điều bổ ích, lí thú từ một góc nhìn cuộc sống, bốn là: Dạy học môn Khoa học lớp 4 không chỉ giúp học sinh có đầy đủ kiến thức mà còn thôi thúc, nhen nhóm trong các em niềm đam mê học các môn học được xem là khô cứng ở các bậc học tiếp theo và niềm đam mê sáng tạo khoa học. Qua những luận điểm đó, tôi đã chọn sáng kiến: “Một số biện pháp giúp học sinh hứng thú với môn Khoa học lớp 4” để tìm hiểu, nghiên cứu và đã vận dụng trong dạy học môn Khoa học lớp 4 trong những năm gần đây và đã có nhiều biểu hiện đáng mừng. 1.2. Điểm mới của sáng kiến Sáng kiến “Một số biện pháp giúp học sinh hứng thú với môn Khoa học lớp 4” giúp cho giáo viên nắm được, hệ thống hóa được trục nội dung, thấy được đặc điểm, cấu trúc chương trình môn Khoa học lớp 4. Sáng kiến này sẽ mang đến cho giáo viên một cách nhìn mới trong dạy học môn Khoa học nói chung và Khoa học lớp 4 nói riêng. Từ đó, khơi dậy ở các em sự hứng thú, đam mê môn Khoa học và các môn học khác. Ngoài ra, sáng kiến này còn là tài liệu tham khảo cho các bậc làm cha, làm mẹ trong cách dạy con và kích thích trí thông minh của con, khơi dậy ở các em những khả năng còn “ngủ quên” trong chính con người bé nhỏ của các em. Hứng thú và hứng thú với môn Khoa học là đề tài mở, có rất nhiều cách nhìn nhận và rất nhiều phương pháp, giải pháp, biện pháp... Tuy nhiên, một điểm mới nữa trong sáng kiến của tôi là đi vào nội dung cụ thể, đưa ra các biện pháp, cách thức trong từng bài, từng hoạt động, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các biện pháp của giáo viên và kết hợp với các biện pháp của phụ huynh nhằm giúp học sinh hứng thú học môn Khoa học, góp phần phát huy nhiều nhất các năng lực và phẩm chất của học sinh lớp 4. 1.3. Phạm vi nghiên cứu và áp dụng Mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy môn Khoa học lớp 4 tại trường tiểu học tôi đang dạy. Các biện pháp giúp học sinh lớp 4A tại trường chúng tôi hứng thú với môn Khoa học lớp 4. 2
- 2. NỘI DUNG 2.1. Thực trạng của việc dạy và học môn Khoa học tại trường 2.1.1. Nhà trường Nhà trường chưa có điều kiện để làm một phòng thí nghiệm, mô hình, khu vực tham quan… cho học sinh thực hành mỗi khi có thí nghiệm hay hoạt động dạy học cần tham quan thực tế. Nhà trường ít có những cuộc thi sáng tạo các sản phẩm, mô hình... về các chủ đề của môn Khoa học. 2.1.2. Giáo viên Trong quá trình giảng dạy, giáo viên chưa phát huy hết tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Đôi lúc giáo viên còn làm thay cho học sinh mà đáng lẽ ra học sinh phải trực tiếp làm thí nghiệm. Giáo viên chưa chuẩn bị đồ dùng dạy học đủ cho các tiết dạy. Nhiều giáo viên còn dạy “chay” coi nhẹ các thí nghiệm, thực hành, liên hệ thực tế. Trong hoạt động nhóm, đôi lúc giáo viên chưa kiểm tra kịp thời những em thiếu tự giác trong học tập nên những em này ỷ vào bạn và không chịu học. Giáo viên thường gọi em khá, giỏi làm cho nhanh để khỏi mất nhiều thời gian. 2.1.3. Học sinh Trong quá trình học tập, học sinh không chịu tập trung, không chú ý nghe thầy giáo giảng bài, không chịu sưu tầm vật mẫu để làm thí nghiệm, ít phát biểu xây dựng bài. Đa số các em lười đọc sách. Khi giáo viên hỏi các em không chịu trả lời mà ngồi làm việc riêng, mặc dù đó là những câu hỏi sách giáo khoa. Một số em ngại tiếp xúc với thầy, cô giáo, “ giấu dốt” mặc dù không hiểu điều đó nhưng không muốn hỏi, sợ bạn cười... 3
- Học sinh lười học bài phần Cung cấp thông tin ở sách giáo khoa và mục Bạn cần biết, các em không chịu đọc nên không làm bài được. Một số em xem “nhẹ” môn Khoa học, chủ yếu là học Toán và Tiếng Việt. 2.1.4. Phụ huynh Một số phụ huynh đi làm ăn xa để con cho ông, bà ở nhà chăm sóc nên việc học của các em chủ yếu là phó mặc cho giáo viên chủ nhiệm. Ở nhà, các em thiếu sự quan tâm, nhắc nhở và kiểm tra việc học từ phía gia đình. Nhiều phụ huynh mang nặng tư tưởng môn Khoa học là “môn phụ” chủ yếu là học thật giỏi Toán và Tiếng Việt. Do tư tưởng đó, nên một số em lơ là môn Khoa học. Kết quả khảo sát sự hứng thú học môn Khoa học đầu năm học 2017 – 2018 như sau: Không thích Số lượng học Rất thích môn Hơi thích môn môn Khoa Ghi chú sinh khảo sát Khoa học Khoa học học Học sinh lớp 26 3 7 16 4A Kết quả khảo sát môn Khoa học cuối kì 1 năm học 2017 – 2018 như sau: Tổn Điểm 1 Điểm 3 Điểm 5 Môn g số Điểm 7 8 Điểm 9 10 2 4 6 HS Khoa SL % SL % SL % SL % SL % 26 học 0 0 1 3,8 3 11,4 12 46,2 10 38,6 2.2. Giải pháp giúp học sinh hứng thú với môn Khoa học lớp 4 2.2.1. Tìm hiểu trước nội dung môn Khoa học lớp 4 Tôi luôn suy nghĩ rằng, muốn học sinh có hứng thú với môn Khoa học thì chính giáo viên phải thích, phải đam mê môn học đó thì mới có đủ sức để “lôi kéo” các em đến với môn học này. Chính vì thế, khi được phân công dạy lớp 4, tôi tìm tòi và hệ thống lại tất cả nội dung môn Khoa học của cả năm học 4
- để nắm bắt và tìm ra nhiều điều thú vị, nhiều khám phá mới để giúp các em yêu thích môn học này. Khoa học lớp 4 gồm 3 nội dung chính: Con người và sức khỏe, Vật chất và năng lượng, Thực vật và động vật. Cụ thể như sau: + Phần Con người và sức khỏe gồm 18 bài trong đó có 1 bài để ôn tập: TT TÊN BÀI Bài 1 Con người cần gì để sống? Bài 2 Trao đổi chất ở người Bài 3 Trao đổi chất ở người (tiếp theo) Bài 4 Các chất dinh dưỡng có trong thức ăn. Vai trò của chất bột đường Bài 5 Vai trò của chất đạm và chất béo Bài 6 Vai trò của vi ta min, chất khoáng và chất xơ Bài 7 Tại sao cần ăn phối hợp nhiều loại thức ăn? Bài 8 Tại sao cần ăn phối hợp đạm động vật và đạm thực vật? Bài 9 Sử dụng hợp lí các chất béo và muối ăn Bài 10 Ăn nhiều rau và quả chín. Sử dụng thực phẩm sạch và an toàn Bài 11 Một số cách bảo quản thức ăn Bài 12 Phòng một số bệnh do thiếu chất dinh dưỡng Bài 13 Phòng bệnh béo phì Bài 14 Phòng một số bệnh lây qua đường tiêu hóa Bài 15 Bạn cảm thấy thế nào khi bị bệnh? Bài 16 Ăn uống khi bị bệnh Bài 17 Phòng tránh tai nạn đuối nước Bài 18 – 19 Ôn tập: Con người và sức khỏe + Phần Vật chất và năng lượng gồm 35 bài trong đó có 2 bài ôn tập. TT TÊN BÀI Bài 20 Nước có những tính chất gì? Bài 21 Ba thể của nước Bài 22 Mây được hình thành như thế nào? Mưa từ đâu ra? Bài 23 Sơ đồ vòng tuần hoàn của nước trong tự nhiên Bài 24 Nước cần cho sự sống Bài 25 Nước bị ô nhiễm Bài 26 Nguyên nhân làm nước bị ô nhiễm Bài 27 Một số cách làm sạch nước Bài 28 Bảo vệ nguồn nước Bài 29 Tiết kiệm nước Bài 30 Làm thế nào để biết có không khí? Bài 31 Không khí có những tính chất gì? 5
- Bài 32 Không khí gồm những thành phần nào? Bài 33 – 34 Ôn tập và kiểm tra học kì 1 Bài 35 Không khí cần cho sự cháy Bài 36 Không khí cần cho sự sống Bài 37 Tại sao có gió? Bài 38 Gió nhe, gió mạnh. Phòng chống bão Bài 39 Không khí bị ô nhiễm Bài 40 Bảo vệ bầu không khí trong sạch Bài 41 Âm thanh Bài 42 Sự lan truyền âm thanh Bài 43 Âm thanh trong cuộc sống Bài 44 Âm thanh trong cuộc sống (tiếp theo) Bài 45 Ánh sáng Bài 46 Bóng tối Bài 47 Ánh sáng cần cho sự sống Bài 48 Ánh sáng cần cho sự sống (tiếp theo) Bài 49 Ánh sáng và việc bảo vệ đôi mắt Bài 50 Nóng, lạnh và nhiệt độ Bài 51 Nóng, lạnh và nhiệt độ (tiếp theo) Bài 52 Vật dẫn nhiệt và vật cách điện Bài 53 Các nguồn nhiệt Bài 54 Nhiệt cần cho sự sống Bài 55 – 56 Ôn tập: Vật chất và năng lượng + Phần Thực vật và động vật có 11 bài trong đó có 2 bài ôn tập TT TÊN BÀI Bài 57 Thực vật cần gì để sống? Bài 58 Nhu cầu nước của thực vật Bài 59 Nhu cầu chất khoáng của thực vật Bài 61 Nhu cầu không khí của thực vật Bài 62 Động vật cần gì để sống? Bài 63 Động vật ăn gì để sống? Bài 64 Trao đổi chất ở động vật Bài 65 Quan hệ thức ăn trong tự nhiên Bài 66 Chuỗi thức ăn trong tự nhiên Bài 67 – 68 Ôn tập: Thực vật và động vật Bài 69 – 70 Ôn tập và kiểm tra cuối năm Qua cấu trúc trên, chúng ta thấy nội dung về Vật chất và năng lượng chiếm một nửa chương trình môn Khoa học lớp 4. Qua những nội dung tôi đã nêu ra, chúng ta thấy bước sang lớp 4, các em đã bắt đầu bước vào chặng đường nghiên cứu khoa học với những vấn đề xung quanh cuộc sống của con 6
- người. Đặc biệt là nội dung vật chất và năng lượng có rất nhiều bài cần có dụng cụ, thiết bị, máy móc, phòng thí nghiệm để dạy và học. Thật mới mẻ nhưng cũng có nhiều nội dung khó, cần sự đào sâu suy nghĩ, tìm phương pháp, biện pháp hay giúp học sinh nắm bắt tất cả các kiến thức khoa học một cách nhẹ nhàng, tự nhiên mà không bị áp lực. Nắm được nội dung môn Khoa học lớp 4 giúp giáo viên có cái nhìn tổng thể, đưa ra những biện pháp hữu hiệu cho việc dạy học môn học này trong toàn năm học. Nội dung chương trình môn Khoa học lớp 4 có sự thay đổi rõ nét theo chiều hướng tích cực, các bài học đều có tranh ảnh minh họa đẹp, rõ nét, gắn liền với nội dung bài học và thực tế xung quanh. Giáo viên cần tận dụng triệt để các dữ liệu của sách, hiểu được ý đồ của từng bài. Chính những việc đó giúp giáo viên có biện pháp “gây nghiền” học sinh trong các tiết dạy của mình. 2.2.2. Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, theo định hướng phát triển năng lực của học sinh So với các phương pháp truyền thống như đọc chép, ngồi chăm chú nghe giảng thì việc sử dung các phương pháp dạy học tích cực, theo định hướng phát triển năng lực áp dụng trong môn Khoa học lớp 4 giúp học sinh hứng thú hơn nhiều. Chính vì vậy trong các tiết dạy tôi đã linh hoạt vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học mới theo một cách nhìn mới tức là đưa học sinh vào trong hoạt động, không phải học sinh chỉ lĩnh hội đầy đủ kiến thức là được mà cần sử dụng, vận dụng những kiến thức, kĩ năng, thái độ vào trong hoạt động, trong cuộc sống. Ngoài việc khai thác sự lí thú trong chính nội dung dạy học, hứng thú của học sinh còn được hình thành và phát triển nhờ các phương pháp, thủ pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với sở thích của các em. Đó chính là cách tổ chức dạy học dưới dạng các trò thi đố, các trò chơi, tổ chức hoạt động sắm vai, tổ chức hoạt động học theo nhóm, tổ chức dạy học dự án, tổ chức dạy học ngoài không gian lớp học… Sau đây, tôi xin trình bày một số biện pháp theo hướng phát triển năng lực để góp phần tăng thêm hứng thú cho từng tiết học. 2.2.2.1. Dạy học theo nhóm Dạy học theo nhóm là hình thức dạy học đưa học sinh vào môi trường học tập tích cực. Hoạt động nhóm góp phần hình thành các mối quan hệ qua lại trong học sinh, đem lại bầu không khí đoàn kết, tin tưởng, hiểu nhau, đem lại cho tiết học sôi nổi, đầy hứng thú. Đa số các tiết dạy tôi đều sử dụng biện pháp chia nhóm 2, nhóm 4, nhóm 6... Giáo viên cần có sự chuẩn bị kĩ càng từ việc làm thử thí nghiệm trước khi lên lớp đến cách tổ chức, giao việc để tránh gây lộn xộn, hoặc học sinh không nắm bắt được yêu cầu kiến thức của lớp học. Muốn vậy, giáo viên cần chú ý: 7
- + Mệnh lệnh đưa ra rõ ràng, ngắn gọn. + Giao việc cụ thể cho từng nhóm. + Phân công nhiệm vụ cho các em. Trong nhóm thường có các thành phần: + Nhóm trưởng: Quản lí chỉ đạo, điều khiển nhóm hoạt động. + Thư kí nhóm: Ghi chép lại kết quả công việc của nhóm sau khi đạt được sự đồng tình của nhóm. + Báo cáo viên: Trình bày trước lớp kết quả công việc của nhóm. + Các thành viên trong nhóm có trách nhiệm tham gia tích cực vào các hoạt động của nhóm (mỗi nhóm chỉ nên có khoảng 4 đến 6 em). Ví dụ: Bài 21: Ba thể của nước Hoạt động 2: Nước ở thể khí Giáo viên đã yêu cầu học sinh chuẩn bị dụng cụ ở trên bàn học sinh: 1 cái cốc, 1 cái đĩa. Giáo viên nêu câu hỏi: Nước tồn tại ở những thể (trạng thái) nào? Sau đó yêu cầu học sinh hoạt động theo nhóm 4 để làm thí nghiệm, ghi ra các nhận xét mà học sinh quan sát được. Học sinh đổ một ít nước nóng vào cốc. Đợi 1 phút rồi thành viên trong nhóm lật đĩa ra. Nhóm trưởng hỏi ý kiến các thành viên. Các thành viên cho ý kiến và thống nhất để thư kí nhóm ghi lại các ý kiến: “ Nước bám trên mặt đĩa Do hơi nước nóng bốc lên, Nhiệt độ cao làm nước chuyển thành thể khí”. Trong lúc đó giáo viên xuống giúp đỡ các nhóm còn lúng túng. Giáo viên yêu cầu học sinh trình bày. Yêu cầu các nhóm khác nhận xét. Giáo viên kết luận: Hoạt động 1 giúp chúng ta thấy được Nước tồn tại ở thể lỏng. Qua thí nghiệm của các nhóm ở hoạt động 2 này, chúng ta thấy Nhiệt độ cao làm nước bay hơi. Đó chính là thể khí (thể hơi) của nước. 2.2.2.2. Thực hành, thí nghiệm Qua mục 2.1.1, chúng ta thấy rằng môn Khoa học lớp 4 có số lượng các tiết thực hành, thí nghiệm rất nhiều. Người xưa từng nói “Trăm nghe không bằng một thấy” quả thật không sai. Nếu như trước đây, học sinh xem các thí nghiệm trong sách giáo khoa và phỏng đoán kết quả, tôi nhận thấy tiết học thật nhàm chán, các thông tin thu được tạo cảm giác “giả tạo” cho các em. Học sinh không hề hứng thú với cách dạy này. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn thay đổi, sắp xếp thời gian, phân bố công việc cho các em thật cụ thể để các em chuẩn bị đồ dùng, thí nghiệm trước khi lên lớp. Các em rất thích thú khi được chính tay mình làm thí nghiệm. Ví dụ: Bài : Tại sao có gió (trang 74) Hoạt động 1: Tìm hiểu nguyên nhân gây ra gió. 8
- Mục tiêu : Học sinh làm thí nghiệm để nhận ra không khí chuyển động tạo thành gió. Giải thích đuợc nguyên nhân gây ra gió. Cách tiến hành: Buớc 1: Tổ chức hướng dẫn. Giáo viên yêu cầu một số nhóm nêu các đồ dùng đã có để làm thí nghiệm theo sự hướng dẫn của giáo viên.(Tương tự hình 4 trang 74 SGK). + Đặt mẫu hương đã tắt lửa nhưng còn bốc khói duới ống B, khép kín hai nửa hộp. Dự đoán khói sẽ bay qua ống nào? Giải thích. + Làm thí nghiệm và quan sát khói để kiểm tra đự đoán khói bay vào ống nào? + Tiếp tục đặt một cây nến đang cháy dưới ống A, khép kín hai nửa hộp lại. Dự đoán khói sẽ bay qua ống nào? Giải thích. + Làm thí nghiệm và quan sát khói để kiểm tra đự đoán khói bay vào ống nào. Bước 2: Các nhóm tiến hành làm thí nghiệm theo các buớc trên. + Giáo viên hướng dẫn cho các nhóm còn lúng túng. Bước 3: Báo cáo và phân tích kết quả thí nghiệm. + Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích kết quả thí nghiệm như sau: So sánh kết quả thí nghiệm với dự đoán ban đầu (giống và khác nhau như thế nào?) ? Vì sao khi đặt thêm cây nến dưới ống A thì khói bay ra qua ống A? ? Phần nào của hộp có không khí nóng? Tại sao? (phần A có không khí nóng do có ngọn nến cháy). ? Phần nào của hộp có không khí lạnh? Tại sao? (phần B) Khói bay từ ống B sang ống A và ra ngoài qua ống A, như vậy khói bay theo chiều hướng nhiệt độ không khí như thế nào?( Khói bay theo chiều từ không khí lạnh đến nơi không khí nóng). ? Từ kết quả trên ta rút ra kết luận gì? Từ kết quả trên cho thấy: không khí chuyển động từ nơi lạnh đến nơi nóng. Sự chênh lệch nhiệt độ của không khí là nguyên nhân gây ra sự chuyển động của không khí. Không khí chuyển động tạo thành gió 2.2.2.3. Đóng vai Đây là phương pháp thường dùng trong môn Tiếng Việt, tuy nhiên trong các bài dạy Khoa học, đặc biệt là phần Con người và sức khỏe, tôi thường 9
- cho các em đóng vai và hiệu quả thật đáng mừng. Các em rất hào hứng và đưa ra nhiều cách giải quyết thật sáng tạo và nhớ được kiến thức lâu. Ví dụ: Bài Phòng một số bệnh do thiếu chất dinh dưỡng trang 26 Sau khi học xong kiến thức mới, tôi cho các em tình huống rồi yêu cầu các em đóng vai tập làm bác sĩ: nhóm 1 tư vấn cho bệnh nhân bị còi xương, nhóm 2 tư vấn bệnh nhân bị mờ mắt, nhóm 3 tư vấn cho bệnh nhân bị bướu cổ, nhóm 4 tư vấn giúp cho bệnh nhân bị suy dinh dưỡng, nhóm 5 tư vấn giúp cho bệnh nhân bị thiếu chất đạm, nhóm 6 tư vấn giúp cho bệnh nhân bị thiếu chất bột đường. Sau khi chuẩn bị, các em phân công người làm bệnh nhân, người làm bác sĩ, người làm người nhà, thảo luận và đưa ra những lời tư vấn chữa các bệnh vừa học xong, các em đã tập làm bác sĩ và tư vấn rất sáng tạo, thêm được nhiều chi tiết hay ngoài các câu trong sách giáo khoa. Giờ học tràn đầy niềm vui và hứng thú. 2.2.2.4. Tổ chức trò chơi học tập Trong thực tế dạy học, giờ học nào tổ chức trò chơi cũng đều gây được không khí học tập hào hứng, thoải mái, vui nhộn. Nghiên cứu cho thấy, trò chơi học tập có khả năng kích thích hứng thú và trí tưởng tượng của trẻ em, kích thích sự phát triển trí tuệ của các em. Môn Khoa học lớp 4 cũng không ngoại lệ. Đa số các tiết học đều có trò chơi phù hợp. Chính những trò chơi đã đem lại niềm vui học tập. Muốn có một trò chơi vừa vui vừa thực hiện đầy đủ nhiệm vụ học tập cần suy nghĩ và chuẩn bị luật chơi, cách thức chơi một cách khoa học. Ví dụ: Bài Vai trò của chất đạm và chất béo (trang 12) Cuối tiết học, để củng cố bài, tôi tổ chức trò chơi Ai là Lê Quý Đôn. Luật chơi là lớp chia thành 2 đội, mỗi đội cử ra 3 bạn để chơi. Giáo viên nêu câu hỏi và học sinh trả lời bằng cách ghi đáp án vào bảng con, thời gian suy nghĩ là 10 giây. Học sinh nào trả lời sai thì học sinh khác trong nhóm đó sẽ cứu trợ. Sau 10 câu hỏi từ dễ đến khó, nhóm nào trả lời đúng, ít cứu trợ nhất sẽ giành chiến thắng. Ai trả lời đúng 10 câu hỏi, không cần cứu trợ thì được đội mũ tặng biệt danh Lê Quý Đôn. Câu hỏi thường thuộc dạng trắc nghiệm 4 đáp án. Câu hỏi 1: Hôm nay, chúng ta học bài gì? A. Chất béo B. Vai trò của chất béo C. Chất đạm D. Vai trò của chất đạm và chất béo Câu hỏi 2: Thức ăn nào sau đây chứa nhiều chất đạm? A. Cơm B. Bắp cải C. Thịt bò D. Cà rốt Câu hỏi 3: Thức ăn nào sau đây không chứa nhiều chất đạm? 10
- A. Đậu phụ B. Tôm C. Đậu nành D. Rau muống Câu hỏi 4: Thức ăn nào sau đây chứa nhiều chất béo? A. Dầu ăn B. Cà chua C. Dứa D. Xoài Câu hỏi 5: Thức ăn nào sau đây không chứa nhiều chất béo? A. Trứng B. Mỡ lợn C. Lạc D. Vừng Câu hỏi 6: Chất đạm giúp gì cho cơ thể của em? A. Cung cấp năng lượng B. Duy trì nhiệt độ cơ thể C. Xây dựng và đổi mới cơ thể D. Hấp thụ các vi – ta min A, D, E, K Câu hỏi 7: Chất béo giúp gì cho cơ thể của em? A. Cung cấp năng lượng B. Duy trì nhiệt độ cơ thể C. Xây dựng và đổi mới cơ thể D. Hấp thụ các vi – ta min A, D, E, K Câu hỏi 8: Có ý kiến cho rằng: Ăn nhiều tôm, cua, cá, thịt càng nhiều càng tốt. Theo em, ý kiến đó đúng hay sai? A. Đúng vì đây toàn là thức ăn có nhiều chất bổ. B. Sai vì ăn nhiều sẽ thừa đạm gây ra các bệnh nguy hiểm. Câu hỏi 9: Vì sao khi chế biến món Ớt Đà Lạt người ta thường cho thêm dầu ăn? A. Vì để nhanh béo B. Vì dầu ăn giúp hấp thụ vi ta min A C. Vì để dễ ăn C. Vì để cho đẹp Câu hỏi 10: Có ý kiến cho rằng: Ăn nhiều món có nhiều dầu ăn càng tốt cho sức khỏe. Theo em ý kiến đó đúng hay sai? A. Đúng vì dầu ăn giúp cơ thể hấp thụ các vi – ta min A, D, E, K B. Sai vì ăn nhiều sẽ dầu ăn gây ra các bệnh nguy hiểm. 2.2.2.5. Dạy học theo các kĩ thuật dạy học tích cực Hiện nay, theo định hướng mới dạy học phải phát triển năng lực và phẩm chất người học. Vì vậy, khi dạy Khoa học cần sử dụng nhiều kĩ thuật dạy học tích cực nhằm giúp học sinh hứng thú, tạo không khí sôi nổi trong lớp như kĩ thuật khăn trải bàn, bàn tay nặn bột, KLWH, Đọc tích cực, Viết tích cực… Sau đây tôi xin đưa ra một tiết dạy vận dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực: 11
- Ví dụ: Bài Không khí có những tính chất gì? I. Mục tiêu: Quan sát và làm thí nghiệm để phát hiện ra một số tính chất của không khí: trong suốt, không màu, không vị, không hình dạng nhất định; không khí có thể bị nén lại và giãn ra. Nêu được ví dụ về việc ứng dụng một số tính chất của không khí trong đời sống: bơm xe, …. * Kĩ năng sống: thu thập tài liệu, quan sát, hợp tác… * Năng lực: tự học, hợp tác, tìm hiểu tự nhiên II. Chuẩn bị: HS: bóng bay với hình dạng khác nhau, cốc thủy tinh trong, chai nhựa với các hình dạng khác nhau, bơm kim tiêm. ( Chuẩn bị theo nhóm) III. Các hoạt động dạy học: Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh A. Khởi động KT bài: Làm thế nào để biết có không khí? GV ghi mỗi câu hỏi vào mỗi bông hoa, yêu cầu học sinh chọn hoa và trả lời câu hỏi. Tìm VD chứng tỏ không khí có ở xung quanh ta HS tr ả lời và không khí có trong những chỗ rỗng ở mọi vật. Lớp không khí bao quanh Trái đất được gọi là gì? * Nhận xét, khen ngợi. B. Bài mới: Cho học sinh chơi trò chơi Thi thổi bóng. Luật chơi: Lớp chai thành 2 đội, mỗi đội sẽ thổi một số quả bóng có nhiều hình dạng khác nhau. Đội nào thổi được nhiều, đội đó giành chiến thắng. * Chúng ta đều biết, trong các quả bóng này có HS tr ả lời. chứa không khí. Vậy không khí có hình dạng nhất định không? KL: Không khí không có hình dạng nhất định. 12
- Vậy không khí còn có tính chất gì? Chúng ta cùng học bài Không khí có những tính chất gì? HĐ1: Phát hiện một số tính chất của không khí *Mục tiêu: Sử dụng các giác quan và làm thí nghiệm để nhận biết tính chất của không khí B1: Tình huống xuất phát GV đưa ra trước lớp một chai nhựa trong rỗng, nút bịt kín và hỏi: Làm thế nào để biết được trong chai có không khí hay không? Các cách sau HS theo dõi đây có được không: nhìn, ngửi, nếm, cân lên, ...? B2: Bộc lộ hiểu biết ban đầu của HS GV yêu cầu HS : Ghi lại những hiểu biết ban HS tìm, ghi l ại những hiểu đầu của mình vào vở ghi chép khoa học về tínhbi ết ban đầu của mình vào chất của không khí ; Sau đó thảo luận nhóm 6 , vở ghi chép khoa học, bảng ghi kết quả thảo luận vào bảng nhóm.( Bằng lời nhóm. hoặc hình vẽ). VD: + Có thể nhìn/, ngửi,/ nếm để biết được có KK trong chai hay không vì KK có màu,/ mùi,/ vị. + Có thể cân để biết có KK trong chai hay không. + Không thể nhìn,/ ngửi,/ nếm để biết được có không khí trong chai hay không. + Có thể dìm chai xuống nước rồi mở nút chai ra,.. GV tập hợp thành các nhóm biểu tượng ban HS đề xuất câu hỏi đầu. VD: B3: Đề xuất câu hỏi, phương án tìm tòi :+ Không khí có mùi gì? HD HS đề xuất câu hỏi liên quan đến tính + Không khí có vị gì? chất của không khí. + Chúng ta có thể nhìn thấy không khí được không? + Không khí có vị gì? + Không khí có vị không? +Chúng ta có thể bắt được không khí không? + Không khí có giãn nở 13
- không? GV tổng hợp các câu hỏi phù hợp: +Chúng ta có thể nuốt được + Không khí có màu, có mùi, có vị không? không khí không? + Không khí có thể bị nén lại hoặc bị giãn ra +Vì sao không khí có nhi ều không? mùi khác nhau?... B4: Thực hiện phương án tìm tòi, khám phá. Ghi dự đoán vào vở. Y/C HS viết dự đoán vào vở Nêu dự đoán của em. ề xuất phương án HD HS đề xuất phương án tìm tòi, khám phá. Đ (HS có thể đề xuất nhiều phương án, GV hướng (Làm thí nghiệm) dẫn HS lựa chọn phương án: Làm thí nghiệm) Làm thí nghiệm đã đề xuất. Cho HS tiến hành làm thí nghiệm để kiểm tra dự đoán: * Để trả lời câu hỏi: Không khí có màu, có mùi, có vị không? Có thể làm thí nghiệm: Sử dụng một cốc thủy tinh rỗng. HS tiến hành sờ, ngửi, quan sát phần rỗng của cốc, HS có thể dùng thìa múc không khí trong cốc để nếm. (HS Kết luận: Không khí trong suốt, không có màu, không có mùi và không có vị) GV có thể xịt nước hoa hoặc dầu gió vào không khí để HS hiểu mùi thơm ấy không phải là mùi của không khí. *Để trả lời câu hỏi: Không khí có bị nén lại và giãn ra không, có thể làm thí nghiệm: Sử dụng chiếc bơm tiêm. Bịt kín đầu dưới của bơm tiêm bằng 1 ngón tay. Nhấc bittông lên để Không khí tràn vào đầy thân bơm. Dùng tay ấn đầu trên của chiếc bơm, bittông của chiếc bơm tiêm sẽ đi xuống, thả tay ra, bittông sẽ di chuyển về vị trí ban đầu. ( KL: Không khí bị nén lại và bị giãn ra). Trình bày thí nghiệm, nêu kết luận B5: Kết luận kiến thức Tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả sau khi đã tiến hành thí nghiệm. 14
- Kết luận chung : Không khí không màu, không mùi, không vị; Không khí không có hình dạng nhất định; Không khí có thể bị nén lại và bị giãn ra. HS tự so sánh để khắc sâu. HD HS so sánh lại với các suy nghĩ ban đầu của mình ở B2 để khắc sâu kiến thức. HĐ2: Nêu 1 số ví dụ về việc ứng dụng 1 số tính chất của không khí trong đời sống. Yêu cầu HS thực hiện kĩ thuật trình bày 1 phút H: Hãy nêu ví dụ về việc ứng dụng một số tính HS nêu chất của không khí trong đời sống? VD: Làm bơm kim tiêm, bơm xe, ... C. Củng cố, dặn dò H: Không khí có những tính chất gì ? Yêu cầu HS viết nhanh vào giấy những điều các HS nêu. em vừa học được. HS lấy VD Dặn HS: Chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm cho bài Không khí gồm những thành phần nào ? 2.2.2.6. Tổ chức dạy học ngoài trời Dạy học ngoài trời giúp HS tìm hiểu rất nhiều kiến thức, kĩ năng từ cuộc sống. Dạy học ngoài trời là một hình thức tổ chức dạy học có nhiều lợi thế để phát triển năng lực giao tiếp cho HS, một năng lực cần thiết cho tất cả mọi môn học. Dạy học ngoài trời tạo điều kiện để HS quan sát thiên nhiên, chơi các trò chơi… nhằm gây hứng thú, sự tích cực học tập cho các em. Ví dụ: Bài Ánh sáng cần cho sự sống (tiếp theo) (trang 94) Khi dạy bài này, tôi cho các em ra ngoài trời, các em rất dễ chịu và thích thú khi được tiếp xúc với không gian thoáng đãng và ánh sáng dưới bóng cây. 2.2.3. Sử dụng các thiết bị, máy móc, đồ dùng trực quan Đồ dùng trực quan cũng là một phương tiện hỗ trợ hiệu quả giúp học sinh dễ tiếp thu kiến thức. Đồ dùng trực quan phải đảm bảo tính khoa học, tính thẫm mĩ và tính sư phạm thì mới hấp dẫn và mang tính hiệu quả. Với môn Khoa học, hình ảnh càng sống động, càng thật thì hiệu quả hứng thú học tập càng cao. Trong các tiết dạy, tôi luôn cố gắng tìm các hình ảnh, bài hát, đoạn video phù hợp nhất cho bài dạy. Tùy vào thực tế ở trường và địa 15
- phương để chuẩn bị đồ dùng cho phù hợp. Một số tiết dạy cần hiệu ứng âm thanh, hình ảnh để thu hút sự chú ý của học sinh. Ví dụ 1: Bài Không khí bị ô nhiễm Dạy bài này, tôi cho học sinh được xem một đoạn phim thời sự về thông tin không khí bị ô nhiễm. Tuy nhiên, không nên quá lạm dụng vào đồ dùng dạy học, sử dụng phải đúng lúc, đúng nơi, đúng chỗ, dùng xong giáo viên nên cất ngay để tránh gây mất tập trung cho các em. Ví dụ 2: Bài Nhiệt cần cho sự sống (trang 108). Học sinh sưu tầm ảnh về các loài động vật. Học sinh làm việc theo nhóm: Phân loại tranh ảnh động vật sưu tầm theo sự phân bố của chúng trên trái đất như sau: + Động vật sống ở xứ lạnh, băng tuyết quanh năm. + Động vật sống ở vùng ôn đối. + Động vật sống ở sứ lạnh, băng tuyết quanh năm. + Động vật sống ở vùng ôn đối. + Động vật sống ở vùng nhiệt đối. + Động vật sống ở vùng sa mạc. Nhận xét các vùng khí hậu (có nhiều động vật sinh sống hoặc động vật sinh sống). Trên cơ sở tranh sưu tầm, học sinh tự rút ra kết luận về vai trò của nhiệt đối với đời sống động vật. Học sinh cần tận dụng tối đa kênh hình và kênh chữ trong SGK để làm tài liệu học tập, vì đây là nguồn tri thức để các khai thác phát hiện ra kiến thức mới, ngoài ra nó còn là nhiệm vụ chỉ dẫn các hoạt động học tập. Học sinh cần vận dụng những kiến thức trên sách, báo, trên ti vi,... để có thêm những hiểu biết phục vụ cho bài học. (Ví dụ : Khuyến khích các em xem các chương trình thế giới động vật, các em có thêm những kiến thức phù hợp với bài học: Động vật ăn gì để sống?) 2.2.4. Tạo tâm thế bình yên ngay từ lúc bắt đầu tiết học Hứng thú là một thuộc tính tâm lí mang tính đặc thù cá nhân. Hứng thú có tính lựa chọn. Đối tượng của hứng thú chỉ là những cái cần thiết, có giá trị, có sức hấp dẫn với cá nhân. Vậy vấn đề gì thu hút sự quan tâm, chú ý tìm hiểu của các em? Trả lời được câu hỏi này nghĩa là người giáo viên đã sống cùng với đời sống tinh thần của các em, biến đổi những nhiệm vụ học tập khô khan phù hợp với những mong muốn, nhu cầu, sở thích, nguyện vọng (tất nhiên là phải tích cực, chính đáng) của học sinh. Hứng thú học tập trước hết 16
- được tạo ra bằng cách làm cho học sinh ý thức được lợi ích của việc học để tạo động cơ học tập. Với mỗi bài học cụ thể, giáo viên cần giúp cho học sinh nhận ra tính lợi ích của một nội dung nào đó. Ví dụ khi dạy bài Gió nhẹ, gió mạnh. Phòng chống bão để học sinh thấy được ích lợi của việc học bài này giáo viên cần cho các em hiểu rằng Vấn đề biến đổi khí hậu đang diễn ra từng ngày, từng giờ. Miền Trung của chúng ta năm nào cũng gánh chịu hàng chục cơn bão lớn nhỏ. Vậy chúng ta phải làm gì? Học bài này sẽ giúp các em hiểu vì sao có bão, phòng chống bão như thế nào. Đó chính là những điều lí thú trong tiết học ngày hôm nay. Bên cạnh đó, tạo không gian lớp học sạch sẽ, thoáng mát, đẹp cũng giúp hoc sinh hứng thú hơn. Ví dụ: Sau khi dạy bài Các chất dinh dưỡng có trong thức ăn, học sinh có thể tập hợp hết những bảng dán hình ảnh các loại thức ăn sưu tầm của học sinh vào một bảng lớn có phân loại các nhóm thức ăn treo ở góc học tập của lớp. Nhờ đó học sinh sẽ luôn nhớ bài học mỗi lần nhìn vào góc học tập và lớp học sẽ sinh động hơn. Thỉnh thoảng nên thay đổi không gian trong tiết học cũng làm tăng hứng thú học tập. 2.2.5 Xây dựng môi trường thân thiện giữa thầy và trò, trò và trò Bên cạnh việc tác động vào nội dung và phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, việc thiết lập được mối quan hệ hợp tác tích cực tốt đẹp giữa thầy và trò, giữa các trò cũng sẽ tạo hứng thú cho học sinh. Hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn cùng với một bầu không khí thân ái hữu nghị trong giờ học sẽ tạo ra sự hứng thú cho cả thầy và trò. Bởi vì, học là hạnh phúc không chỉ vì những lợi ích mà nó mang lại, mà hạnh phúc còn nằm ngay trong chính sự học. Việc chú trọng vào mặt thành công của trẻ đòi hỏi giáo viên phải xây dựng các nhiệm vụ dạy học sao cho bảo đảm để các em có những thành công chắc chắn đầu tiên chứ không phải là những “thất bại cay đắng” đầu tiên. Giáo viên phải thường xuyên tìm hiểu học sinh muốn việc học diễn ra như thế nào, cái gì làm các em thích, cái gì làm các em không thích để có thể tổ chức quá trình dạy học như các em mong đợi. Để tạo hứng thú cho học sinh, người giáo viên tiểu học cần biết tổ chức quá trình dạy học theo một chiến lược lạc quan: Chú trọng vào mặt thành công của trẻ. Đồng thời, cần tập cho mình có một cách nhìn: Học sinh tiểu học em nào cũng ngoan, em nào cũng giỏi, em nào cũng cố gắng. Chỉ có em này ngoan, giỏi, cố gắng nhiều hơn, em kia ngoan, giỏi, cố gắng ít hơn mà thôi. Giáo viên tiểu học phải có một phẩm chất đặc biệt, biết cách cư xử đặc biệt với học sinh. Đó là thái độ nâng đỡ, khích lệ, thông cảm, chú trọng vào mặt thành công của các em. Đó là khả năng biết tự kiềm chế, khả năng đồng cảm với học sinh, khả năng làm việc kiên trì tỉ mỉ. Đó là khả năng biết tổ chức quá trình dạy học một cách nhẹ nhàng tự nhiên không gây căng thẳng cho học sinh. Cũng cần phải biết tỏ ra ngạc nhiên, vui sướng, cần phải tôn trọng những sáng tạo của học sinh, dù rất nhỏ. 17
- Trong mỗi chúng ta, ai cũng có niềm vui hay nỗi buồn thì học sinh cũng vậy. Mỗi ngày các em đến trường đều mang những tâm trạng khác nhau. Nếu bài hôm đó khó tiếp thu hay nét mặt các em thể hiện sự mệt mỏi. Chính vì vậy, bên cạnh việc giáo dục có mục đích, tính kỉ luật ý thức trách nhiệm cho học sinh, chúng ta phải tổ chức cho học sinh có một cuộc sống ở trường thật hấp dẫn, thoải mái, gần gũi, tạo được nhiều niềm vui, phấn khởi sao cho học sinh mỗi ngày đến trường có nhiều niềm vui. Học sinh tiểu học rất thích khen và được khen. Nếu hôm ấy, các em học có tiến bộ, làm bài tập tốt thì tôi tặng cho các em một lời khen. Chẳng hạn: Con học có tiến bộ, cô rất vui hoặc con giỏi quá! Con giỏi lắm!...Như vậy, các em sẽ rất thích. Khi các em mắc phải lỗi lầm hoặc học hành chưa tiến bộ, tôi thường dùng những lời nói nhẹ nhàng nhằm khuyến khích các em là chính. Tránh chê bai hay dùng những từ ngữ nặng nề, khó nghe khiến các em sợ hãi, căng thẳng dẫn đến chán học. 2.2.6. Đổi mới quan niệm và cách thức kiểm tra, đánh giá môn Khoa học lớp 4 Thông tư 30, cùng với thông tư 22 ra đời, giúp tôi hiểu rằng trước đây một trong những nguyên nhân khiến học sinh không thích học là do cách đánh giá bằng điểm của chúng ta đúng nhưng chưa vì sự tiến bộ của học sinh một cách mạnh mẽ. Từ khi có thông tư này, tôi đã hiểu và có cách đánh giá học sinh lạc quan hơn. Hãy khen các em dù sự tiến bộ đó là rất nhỏ. Những em học giỏi cũng khen, những em học trung bình cũng có những điểm đáng khen. Nghĩa là chúng ta cần giúp hOọc sinh đạt được thành công trong học tập sẽ tạo ra hứng thú và niềm say mê học tập của học sinh. Chỉ có thành công (chứ không phải là những thất bại cay đắng), niềm tự hào về thành công, cảm giác xúc động khi thành công mới là nguồn gốc thật sự của ham muốn học hỏi. 2.2.7. Liên hệ, trao đổi với phụ huynh để giúp học sinh hứng thú khám phá khoa học và tích cực tiếp thu kiến thức Học sinh về nhà tiếp xúc và ảnh hưởng từ sự giáo dục của gia đình rất nhiều. Vấn đề là làm cách nào có thể truyền cảm hứng yêu thích khoa học cho học sinh? Sau nhiều đắn đo tôi quyết định trao đổi với phụ huynh một cách chân tình, cởi mở. Và chính sự mạnh dạn này tôi mới nhận ra là cha mẹ các em cũng hiểu ra được nhiều điều. Hiện nay công nghệ thông tin khá hiện đại, tôi chỉ cần viết nội dung rồi gửi mail hoặc gửi liên kết các bài báo hay cho phụ huynh tham khảo cũng là một cách trao đổi. Một số khác tôi trực tiếp tới nhà và trao đổi các nội dung cần thiết một cách cô đọng nhất. Tôi xin trình bày một vài nội dung tôi đã trao đổi với phụ huynh: Cha mẹ nên tạo điều kiện cho con thực hành các trải nghiệm gần với khoa học. Trẻ tiếp cận trải nghiệm này từ khi còn học Tiểu học sẽ giúp con tò mò, yêu thích tìm hiểu và nuôi dưỡng tinh thần “Em yêu khoa học”. 18
- Một là, Thay đổi tư duy tiếp cận khoa học: Khái niệm “khoa học” thường gợi cho trẻ Tiểu học hiểu về các con số, dữ liệu, các bài toán phức tạp hoặc các bảng thiết kế chi tiết. Chính điều này làm con trẻ ngán ngại theo đuổi Khoa học. Thậm chí, học sinh các cấp lớn hơn cũng ngại khoa học vì cách tiếp cận sai lầm này. Với học sinh trong độ tuổi Tiểu học, thí nghiệm khoa học, khái niệm khoa học nên “dễ thương hóa”, “đơn giản hóa”. Thay cho các con số khô khan, những thiết bị thí nghiệm có vẻ nghiêm túc, bạn nên cho con tham gia vào các trò chơi. Bông hoa cúc trắng cắm vào lọ nước màu, để qua đêm sẽ nhuộm màu hoa là thí nghiệm đơn giản về hiện tượng thẩm thấu. Hai thanh nam châm cùng chiều thì đẩy nhau, khác chiều thì hút vào nhau… Có rất nhiều thí nghiệm vui nhộn và thú vị mà cha mẹ có thể hướng dẫn con “chơi”. Khoan hãy nhồi cả tủ sách khoa học cho trẻ, con sẽ sợ và trốn tránh khoa học. Cứ cho con chơi vui vẻ và tự nhiên khám phá. Khi khoa học đủ hấp dẫn, con sẽ chủ động tìm kiếm sách đọc để lý giải những thắc mắc của mình. Chính những thay đổi của cha mẹ sẽ góp phần thúc đẩy học sinh học tốt môn Khoa học tại lớp. Độ tuổi tiểu học rất cần sự hỏi han, quan tâm của mẹ cha. Chính vì vậy mà ngay khi vào đầu năm học, bản thân tôi đã trao đổi ngay với phụ huynh ngay. Nhiều phụ huynh đã “ngã ngửa” và “học hỏi” thêm nhiều điều về cách tiếp cận khoa học, đặc biệt là khoa học lớp 4. Có nhiều phụ huynh muốn phô – tô sách Khoa học lớp 4 để bày cho con mình. Từ đó, tôi nhận thấy mình đã đi đúng hướng. 19
- Hai là, “Phòng thí nghiệm” ngay tại nhà: Các công việc nhà như giặt giũ, nấu nướng, quét nhà… tất cả đều là khoa học. Cha mẹ nên cho con vào bếp cùng mình, vừa dạy con làm bếp vừa truyền đạt kiến thức khoa học cho con. Trẻ Tiểu học học hỏi tốt nhất qua các trải nghiệm mắt thấy tai nghe. Trẻ tự tin quan sát, ngửi, nếm và bắt tay làm giúp con hiểu về khoa học dễ hơn. Ví dụ: Khi đặt chiếc chảo nóng lên bếp, nhỏ vài giọt nước vào lòng chảo, ít phút sau chảo khô. Vậy những giọt nước đi đâu mất? Đó chính là sự bay hơi. Vì sao quần áo phơi ngoài chỗ thoáng nắng lại mau khô hơn phơi trong nhà? Vì nhiệt độ cao hơn thì sự bay hơi nhanh hơn. Cho muối vào ly nước lọc và khuấy cho đến khi tan, đó chính là một trong những tính chất của nước. Khi nấu ăn, tại sao lại dùng miếng vải hay giấy để bắc nồi lên? Vì đó là những vật cách nhiệt… Chính những phút giây trò chuyện cùng con, cha mẹ sẽ giúp các con nhớ lâu, thích thú với công việc và tìm hiểu khoa học. Ba là, Giải thích khoa học khi đưa con đi chơi: Vào ngày rảnh rỗi hoặc vào mùa hè, cha mẹ và con cái có thể cùng nhau thực hiện chuyến khám phá thiên nhiên quanh nhà. Cả nhà cùng thu thập mẫu đá, mảnh vỏ sò hoặc cây cối làm thành bộ sưu tập thiên nhiên…. Bạn sẽ thấy thiên nhiên tác động tích cực đến việc sự phát triển của trẻ nhiều thế nào. Đưa con đến vườn bách thảo, cha mẹ có thể chỉ cho con hiểu về quá trình quang hợp của cây xanh. Con sẽ hào hứng khám phá đời sống các loại côn trùng, các loại thực vật trong thế giới tự nhiên. Bạn cũng có thể đưa con cùng đến các triển lãm khoa học, hoặc các hội trại sáng tạo. Tất cả sẽ góp phần giúp con hứng thú với khoa học. Trẻ con có động lực học và chơi khi có bạn bè chơi cùng. Cha mẹ có thể tổ chức cho con khám phá bên ngoài cùng bạn bè, anh chị em, trẻ càng vui và hào hứng hơn. Bốn là, Bồi đắp tư duy sáng tạo cho con: Chấp nhận sự sáng tạo của con, cha mẹ gần như phải chấp nhận sự… quái dị và lập dị, nghĩa là không hề giống ai. Đồng hành cùng con, bất chấp những ý kiến trái chiều của những người xung quanh, miễn sao việc sáng tạo của con không gây hại cho ai. Trẻ dần dà sẽ biết kết hợp thao tác quan sát với phân tích, liên tưởng, khái quát và đưa ra được những phương án giải quyết vấn đề hợp lí và khôn ngoan. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 440 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 221 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt dạng bài tập tìm hình ảnh so sánh trong phân môn luyện từ và câu lớp 3
27 p | 170 | 24
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 192 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 176 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 123 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 168 | 14
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp giáo viên lớp 1 dạy tốt Hoạt động trải nghiệm theo chủ đề ở trường Tiểu học Thanh Liệt
39 p | 25 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 164 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 103 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 129 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 148 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp huấn luyện chạy cự ly ngắn cho học sinh
14 p | 96 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục tại Trường Tiểu học Ngọc Lâm đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông
9 p | 60 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm cho học sinh trường Tiểu học Cổ Đô
40 p | 15 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn