intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 giải toán có lời văn dạng “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó

Chia sẻ: Caphesuadathemhanh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:19

71
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đề tài này là đưa ra một số biện pháp giúp giáo viên và học sinh khắc phục những khó khăn trong quá trình dạy và học khi giải toán có lời văn dạng “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”. Những phương pháp giải dạng toán:” Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 giải toán có lời văn dạng “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó

  1. PHẦN I:MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Trong hệ thống các môn học ở tiểu học, Toán có một vị trí đặc biệt quan  trọng. Không có ai có thể phủ nhận khả năng ứng dụng rộng rãi kiến thức toán  học vào cuộc sống. Vì thế  việc dạy và  học Toán thế  nào để  thu hút sự  quan  tâm của mọi giáo viên, học sinh, các bậc phụ huynh và của toàn xã hội. Nó là   bộ môn khoa học nghiên cứu có hệ thống, phù hợp với hoạt động nhận thức tự  nhiên của con người. Môn Toán còn là môn học rất cần thiết để  học các môn  học khác, nhận thức thế giới xung quanh để hoạt động có hiệu quả trong thực   tiễn. Môn Toán có khả  năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện phương  pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận logic, thao tác tư  duy cần thiết để  nhận  thức thế giới hiện thực như: trừu tượng hóa, khái quát hóa, khả năng phân tích   tổng hợp, so sánh, dự  đoán, chứng minh. Môn Toán còn góp phần giáo dục lý  trí và những đức tính tốt như: trung thực, cần cù, chịu khó, ý thức vượt khó  khăn, tìm tòi sáng tạo và nhiều kỹ năng tính toán cần thiết để  con người phát  triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong thời   đại mới.           Có thể nói dạy học toán chủ yếu là dạy các hoạt động toán học và hoạt   động toán ở tiểu học chủ yếu là thông qua giải toán. Giải toán là “ hòn đá thử   vàng” của việc dạy học toán. Qua giải toán, người học được rèn luyện tư duy  một cách tích cực, linh hoạt. Nó yêu cầu người giải phải huy động toàn bộ các  kiến thức, kỹ năng vào các tình huống khác nhau để giải quyết rất năng động,  sáng tạo. Việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong dạy học giải  toán giúp cho người dạy và người học phát huy cao khả năng vốn có của bản   thân giúp đạt hiệu quả cao hơn trong dạy học nói chung và dạy học môn Toán  lớp 4 nói riêng.         Nội dung môn Toán ở  Tiểu học được cấu trúc theo kiểu vòng tròn đồng   tâm. Cùng với việc phát triển vòng số với 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia, học  sinh được làm quen dần với giải các bài toán có lời văn . Ở lớp 1, 2, 3 học sinh   làm quen với các dạng toán đơn: " nhiều hơn, ít hơn, gấp số lần, kém số lần", .   Phải đến năm học lớp 4 và lớp 5, học sinh được học thêm các bài toán có lời   văn với nhiều dạng khác nhau, tìm số trung bình cộng, tìm hai số khi biết tổng   (hiệu) và tỉ số của 2 số đó... Trong đó có dạng toán " Tìm hai số khi biết tổng   và hiệu của 2 số  đó". Cũng như  các dạng toán khác, khi giải dạng toán này  học sinh thường lúng túng khi nhận dạng toán, phân tích bài toán cũng như vận   dụng phương pháp giải, từ  đó dẫn đến giải những bài toán chưa đúng do  không tìm ra được phép tính và lời giải đúng cho câu hỏi của bài toán.           Vậy làm thế nào để học sinh không bị nhầm lẫn giữa các dạng toán và   biết cách xác lập mối quan hệ giữa các dữ  liệu của bài toán, tìm ra cách giải,  1
  2. phép tính và lời giải đúng cho bài toán, đó là điều tôi thường trăn trở, suy nghĩ.  Với sự say mê dạy toán, giải toán ở Tiểu học và mong muốn giúp học sinh có   kỹ  năng nhận dạng toán, phân tích bài toán, biết lựa chọn phương pháp giải   phù hợp cho từng bài toán thuộc dạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của   hai số đó. Đó chính là lý do tôi chọn đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh   lớp 4  giải toán có lời văn dạng “Tìm hai số  khi biết tổng và hiệu của hai   số đó. 2. Đóng góp mới của đề tài.          Biết được nguyên nhân học sinh thường mắc lỗi khi giải toán có lời văn   dạng “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”.         Đưa ra một số biện pháp giúp giáo viên và học sinh khắc phục những khó   khăn trong quá trình dạy và học khi giải toán có lời văn dạng “Tìm hai số  khi  biết tổng và hiệu của hai số đó”.          Những phương pháp giải dạng toán:” Tìm hai số  khi biết tổng và hiệu   của hai số đó”. 2
  3. PHẦN II: NỘI DUNG I. Thực trạng việc dạy và học  môn Toán lớp 4 ở trường tôi. 1. Thuận lợi: Công tác dạy và học môn toán  ở  trường tôi luôn được sự  quan tâm chỉ  đạo sát sao của Phòng Giáo dục và Ban giám hiệu nhà trường. Nhà trường thường mở các chuyên đề để giáo viên dự giờ, trao đổi kinh   nghiệm lẫn nhau trong đó có môn Toán. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn,  trường đều tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi tháo gỡ  những vướng mắc  trong chuyên môn. Trong các buổi sinh hoạt khối giáo viên cũng có điều kiện   trình bày những khó khăn, vướng mắc trong công tác giảng dạy để mọi người  cùng nhau tháo gỡ. Ban giám hiệu năng động nhiệt tình, luôn tư  vấn cho giáo viên những   phương pháp dạy học tích cực. Ngay từ  đầu năm học, Nhà trường đã tổ  chức họp phụ  huynh cuộc để  phổ  biến cho phụ  huynh hiểu rõ về  tầm quan trọng của học môn Toán. Để  từ  đó   phụ  huynh tạo điều kiện cho con em mình, mua đầy đủ  các loại sách giáo  khoa, tài liệu tham khảo và phối hợp với Nhà trường để việc học tập của học   sinh đạt kết quả tốt. Nhà trường luôn tạo mọi điều kiện có thể để công việc dạy và học Toán   có chất lượng như có kế hoạch giảng dạy cụ thể và kiểm tra chất lượng học  sinh giữa kì, cuối kì  để  có biện pháp điều chỉnh hợp lí; cung cấp đầy đủ  tài  liệu cho học sinh và giáo viên trong công tác dạy và học môn Toán. Có những  biện pháp động viên, khuyến khích học sinh và giáo viên  hoàn thành nhiệm vụ  tốt tạo động lực thúc đẩy công việc có hiệu quả tốt.       Giáo viên ham học hỏi, nhiệt tình đóng góp ý kiến giúp đỡ  lẫn nhau, sẵn   sàng chia sẻ những hiểu biết về chuyên môn để cùng nhau tiến bộ.       Giáo viên có tâm huyết với nghề, luôn yêu thương học sinh. Các em học   sinh có đầy đủ  sách giáo khoa, vở  bài tập, đồ  dùng học tập phục vụ  cho môn  Toán. Đa số  học sinh chăm ngoan, hiếu học, ham học hỏi, ham tìm tòi khám  phá cái mới , có tư duy về toán tốt. Phần lớn phụ huynh quan tâm đến việc học của con em mình.           2. Khó khăn:          2.1. Đối với giáo viên: 3
  4. Môn toán là môn học khô khan và trừu tượng nên giáo viên gặp nhiều  khó khăn khi lựa chọn các hình thức dạy học phù hợp với trình độ  nhận thức   của các em. Giáo viên đôi khi vận dụng chưa nhịp nhàng, linh hoạt các hình thức tổ  chức dạy học nên chưa gây hứng thú cho học sinh tích cực học tập. 2.2. Đối với phụ huynh học sinh:            Sự quan tâm của phụ huynh học sinh còn hạn chế đồng thời nhiều học   sinh chưa có điều kiện học tập  ở nhà. Do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn  nên rất nhiều gia đình phụ  huynh phải đi làm ăn xa, việc học tập  ở  nhà, mua  sắm tài liệu tham khảo cho học sinh còn ít. Do vậy, có sự ảnh hưởng đến chất  lượng học tập của các em. 2.3. Đối với học sinh: Học sinh lớp 4 kĩ năng tìm hiểu bài và xác lập mối quan hệ giữa các dự  kiện đề bài toán còn nhiều hạn chế. Tư duy của các em chủ yếu dựa vào đặc điểm trực quan. Thế nhưng, ở  môn toán, nhất là toán có lời văn lại cần nhiều đến tư duy trừu tượng, nên học  sinh lúng túng, gặp nhiều khó khăn, thậm chí không làm được các bài toán giải. Một số em chưa hứng thú, chưa tích cực tham gia vào giờ  học nên chưa  hiểu bài dẫn đến không làm được bài. Năm học 2019 ­ 2020, tôi được phân công dạy lớp 4. Lớp tôi chủ nhiệm   có 25 học sinh. Phần lớn học sinh lớp tôi là con nông dân, bố mẹ đi làm ăn xa.  Điều kiện kinh tế  gia đình còn gặp nhiều khó khăn nên các em chưa thực sự  được bố  mẹ quan tâm đúng mức. Một số  phụ huynh không quan tâm đến con   cái, tất cả  mọi việc học của con đều phó mặc cho Nhà trường. Điều đó  ảnh   hưởng rất lớn đến việc học tập của các em. Nhất là với môn Toán, số  lượng   học sinh yếu còn nhiều, chất lượng học tập chưa cao, có những học sinh  không hiểu được đề  toán nên làm cho có, dẫn đến kết quả  là chưa giải được   bài toán.       3. Những thành quả đã đạt được.  ­ HS hiểu được yêu cầu đề bài, giải được bài toán có lời văn dạng tìm hai số  khi biết tổng và hiệu của hai số đó. ­ HS có hứng thú khi giải bài toán có lời văn dạng “Tìm hai số khi biết tổng   và hiệu của hai số đó”.      4. Những tồn tại cần khắc phục.         Qua kết quả kiểm tra nội dung  giải bài toán dạng” Tìm hai số khi biết   tổng và hiệu của hai số đó”. Tôi thấy, chất lượng bài làm của các em không  tốt. Trong đó có ít em làm đúng cả  bài, một số  em chưa đặt đúng lời giải bài  toán dẫn đến làm sai câu lời giải, có em làm sai phép tính, nhiều em chưa giải  được bài toán. 4
  5.    5. Nguyên nhân của những tồn tại.          Qua quá trình dạy học nhiều năm ở Tiểu học, được trực tiếp thâm nhập  vào quá trình học toán của học sinh nhất là học sinh lớp 4; tôi nhận thấy đa   phần những hạn chế trong kĩ năng giải toán có lời văn dạng: “ Tìm hai số khi   biết tổng và hiệu của hai số  đó” của học sinh bắt nguồn từ  những nguyên  nhân sau:        a) Về phía học sinh: ­ Học sinh chưa ham mê học toán. ­ Học sinh không biết phân tích bài toán và nhận dạng bài toán. ­ Học sinh không xác định được đâu là tổng, hiệu, số lớn, số bé trong bài  toán. ­ Học sinh không có phương pháp giải phù hợp. ­ Do các em chưa đọc kĩ đề  bài, chưa biết tập trung vào những dự  kiện trọng  tâm của đề toán, không chịu phân tích đề toán khi đọc đề. ­ Học sinh chưa có kĩ năng phân tích và tư  duy khi gặp những bài toán phức   tạp. Hầu hết các em làm theo khuôn mẫu của những dạng bài cụ  thể  mà các   em thường gặp trong sách giáo khoa, khi gặp bài toán đòi hỏi tư duy, suy luận  một chút các em không biết cách phân tích dẫn đến lười suy nghĩ. Một số  em   biết tìm ra phép tính đúng nhưng khi đặt lời giải thì còn lúng túng và có khi đặt  lời giải cho bài toán chưa hợp lý. ­  Khi giải xong bài toán, đa số học sinh bỏ qua bước kiểm tra lại bài, dẫn đến  nhiều trường hợp sai sót đáng tiếc do tính nhầm, do chủ quan. Ngoài ra, còn có   những trường hợp học sinh hiểu bài nhưng còn lúng túng trong cách trình bày  nhất là với các bài toán giải có lời văn phức tạp.      b) Về phía giáo viên: ­ Giáo viên chưa thực sự quan tâm đến dạy giải toán. ­ Giáo viên chưa có phương pháp rèn kĩ năng giải toán cho học sinh. II. Các biện pháp giúp học sinh lớp 4 nắm vững phương pháp giải toán có  lời văn dạng: “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”. 1. Đối với Giáo viên và Học sinh.  + Đối với học sinh lớp 4, đặc biệt là một số  em học lực trung bình ­ yếu còn  thụ  động, rụt rè trong giao tiếp. Chính vì vậy, tôi đã đề  ra một số  biện pháp  như sau: ­ Để các em mạnh dạn hơn tự tin khi phát biểu, trả lời câu hỏi người giáo viên  cần phải luôn luôn gần gũi, khuyến khích các em giao tiếp. 5
  6. ­ Khích lệ  học sinh tạo hứng thú khi học tập. Đặc điểm chung của học sinh  Tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế  chê các em trong học tập, rèn  luyện. Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý từng học sinh mà cứ  quá  khen sẽ không có tác dụng kích thích. Đối với những em chậm tiến bộ,thường   rụt rè, tự ti. Vì vậy, tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi các em trả  lời hoặc lên  bảng làm bài. Chỉ  cần các em có một “tiến bộ  nhỏ” là tôi tuyên dương ngay,  để từ  đó các em sẽ  cố  gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự  tin hơn. Đối với những  em học khá, giỏi phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt tôi mới  khen. Chính sự  khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học sinh sẽ  có  tác dụng khích lệ các em trong học tập.         Để  giờ  học có hiệu quả  thì đòi hỏi tôi phải đổi mới phương pháp dạy   học:” Lấy học sinh làm trung tâm”, hướng tập trung vào học sinh, học sinh là  người hoạt động tích cực tự  tìm tòi, khám phá để phát hiện ra kiến thức mới.  Thông qua các hoạt động các em sẽ lĩnh hội kiến thức và nhớ rất lâu.        Để giúp học sinh lớp 4 giải toán có lời văn dạng:  “ Tìm hai số khi biết   tổng và hiệu “  thành thạo, tôi luôn luôn chú ý rèn luyện kỹ  năng nghe, nói,  đọc, viết cho các em bởi vì đọc thông, viết thạo là yếu tố “ đòn bẩy” giúp học  sinh hiểu rõ đề và tìm cách giải bài toán một cách hợp lý, chính xác          Trong một tiết dạy để  đạt hiệu quả  cao đòi hỏi người giáo viên phải  chuẩn bị tốt. Sự chuẩn bị càng tốt thì hiệu quả càng cao.Vì vậy, giáo viên phải  nắm vững yêu cầu của từng loại bài để có thao tác linh hoạt và khắc sâu kiến   thức từng dạng bài tập cho học sinh.         Khuyến khích học sinh tham gia giải toán qua mạng. Mua sách, báo nhi   đồng để tập giải các bài toán để phát huy thêm kiến thức cho các em.        Giáo viên cần kể cho học sinh nghe về những nhà toán học nổi tiếng trên   thế  giới, những tấm gương học giỏi toán ở  trường, ở  huyện, tỉnh,…để  từ  đó  các em có niềm say mê với môn toán. 2. Đối với phụ huynh học sinh.     Để thực hiện tốt cuộc vận động Hai không của ngành giáo dục và giúp cho  phụ  huynh có biện pháp phù hợp trong việc giáo dục con cái, tôi đã tổ  chức   gặp gỡ các bậc cha mẹ học sinh vào đầu năm học để  trao đổi với phụ  huynh   học sinh về những yêu cầu cần thiết giúp các em học tập  tốt như: Mua sách  vở, đồ dùng học tập, cách hướng dẫn các em tự học ở nhà. Yêu cầu phụ huynh  dành thời gian quan tâm nhắc nhở  các em có cách học tập  ở  nhà vào những  ngày nghỉ. 3. Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung về  các bước giải  bài toán có lời văn dạng tổng – hiệu. 6
  7.            Mỗi bài toán các em có làm tốt được hay không đều phụ thuộc vào các   phương pháp giải toán được vận dụng vào mỗi bước giải. Cho nên chúng ta   hướng dẫn học sinh nắm được các phương pháp giải toán như sau:           Bước 1: Đọc kỹ đề bài.           Có đọc kỹ đề  bài toán, học sinh mới tập trung suy nghĩ về ý nghĩa nội  dung của bài toán và đặc biệt chú ý đến câu hỏi bài toán ( yêu cầu của bài toán   là gì ?). Cần rèn cho học sinh chưa hiểu đề toán thì chưa tìm cách giải.                       Khi giải bài toán thì học sinh phải đọc đề toán ít nhất 3 lần, mục đích   để giúp các em nắm được 3 yếu tố cơ bản. Những “dự kiện” là những cái đã  cho, đã biết trong đầu bài; “ những ẩn số” là những cái chưa biết và cần tìm và  những “điều kiện” là quan hệ giữa các dự kiện với ẩn số.            Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán giúp học sinh hiểu một số từ ngữ quan   trọng nói lên những tình huống toán học bị  che lấp như: nhiều hơn, ít hơn,  tổng, hiệu,…Nếu  trong bài toán từ nào mà học sinh chưa hiểu ý nghĩa và nội   dung của từ  đó. Phải tập cho HS có thói quen tự  tìm hiểu đề  toán qua việc   phân tích những điều đã cho và xác định được những điều phải tìm. Để  làm  được điều đó cần hướng sự tập trung suy nghĩ của học sinh vào những từ quan   trọng của đề  toán, từ  nào chưa hiểu hết ý nghĩa thì phải tìm hiểu hết ý nghĩa  của từ đó.  Bước 2: Tóm tắt đề toán.       Sau khi đọc kĩ đề  toán, các em biết lượt bớt một số  câu chữ  làm cho bài   toán gọn lại. Nhờ đó mà có mối quan hệ giữa cái đã cho và số phải tìm hiện rõ   hơn, các em có thể tóm tắt được một đề toán và biết cách nhìn vào tóm tắt đó  để nhắc lại đề toán.       Tóm tắt bài toán chính là trình bày lại một cách ngắn gọn, cô đọng phần đã  cho và phần phải tìm của bài toán để làm rõ trọng tâm của bài toán, thể hiện rõ   bản chất toán học của bài toán, được thể  hiện dưới dạng câu văn ngắn gọn   hoặc dưới dạng sơ đồ đoạn thẳng,… Bước 3: Phân tích bài toán.           Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập phân tích đề bài để tìm ra cách  giải bài toán. Thiết lập trình tự giải và lựa chọn phép tính  giải thích hợp. Cho  nên  ở  bước này, Giáo viên cần sử  dụng phương pháp phân tích và tổng hợp,  thiết lập cách tìm hiểu, phân tích bài toán dưới dạng các câu hỏi thông thường: ­ Bài toán cho biết gì? ­ Bài toán hỏi gì? ­ Muốn tìm cái đó ta cần biết gì? 7
  8. ­ Cái này biết chưa? ­ Còn cái này thì sao? ­ Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào?        Hướng dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em   nắm kĩ hơn, tự các em giải được bài toán. Bước 4: Trình bày bài giải.            Giáo viên cho học sinh trình bày bài giải theo hình thức (nói hoặc viết).   Sau đó, yêu cầu HS quan sát, nhận xét về cách trình bày bài làm. Bên cạnh đó,  tôi thường xuyên nhận xét bài và sửa lỗi cho những học sinh trình bày chưa  đẹp, tuyên dương trước lớp những học sinh làm đúng, trình bày đẹp. Bước 5: Kiểm tra lại bài giải.          Qua quá trình học sinh giải toán, chúng ta dễ  dàng nhận thấy rằng HS  thường coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số  hay tìm được câu trả  lời.   Khi giáo viên hỏi để khẳng định lại kết quả thì các em còn lúng túng. Vì vậy,  việc kiểm tra, đánh giá kết quả  là không thể  thiếu khi giải toán và phải trở  thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi kiểm tra lại bài giải, chúng ta  cần hướng dẫn các bước sau; ­ Đọc lời giải. ­ Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lý yêu cầu của bài chưa, các câu  văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa. ­ Thử lại kết quả vừa tính từ bước đầu tiên. ­ Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa. ­Đối với học sinh khá ­ giỏi, giáo viên có thể  hướng các em nhìn lại  toàn bộ  bài giải, tập phân tích cách giải, động viên các em tìm cách  giải khác, tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ  độc lập của học sinh. 4.  Hướng dẫn học sinh giải các bài toán có lời văn dạng “Tìm hai số khi  biết tổng và hiệu của hai số đó”  có thể phân thành các dạng bài tập như  sau: Dạng 1: Các bài toán cơ bản của dạng toán: 1. Kiến thức cần ghi nhớ: Khi giải các bài toán có lời văn, các em phải nhận dạng được dạng toán cơ  bản đã học, trong dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số  đó”  các em phải phân tích được số  liệu trong bài toán: tổng, hiệu, hai số  phải tìm  và vận dụng công thức để giải toán. Bài toán:   Tổng của hai số là 70. Hiệu của hai số đó là 10. Tìm hai số đó ? 8
  9.     Giáo viên hướng dẫn học sinh các bước giải như sau: Bước 1: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài và cho biết:  +  Bài toán cho biết gì? ­ Tổng của hai số: 70 ­  Hiệu của hai số: 10 + Bài toán yêu cầu tìm gì? ­ Tìm hai số (số bé và số lớn)    Hai số phải tìm có số bé và số lớn vì hai số này có hiệu bằng 10. Bước 2:  Giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ  đồ  đoạn   thẳng. Bước 3: Phân tích bài toán * Cách thứ nhất: Phân tích: Nhìn vào sơ đồ ta thấy, nếu bớt 10 đơn vị ở số lớn thì được hai lần   số bé và hai lần số bé là:   70 – 10 = 60 Để tìm số bé ta lấy:        60 : 2 = 30 Tìm số lớn:                  70 – 30 = 40                     hoặc         30 + 10 = 40  Bước 4: Trình bày bài giải :  Bài giải: Hai lần số bé là: 70 – 10 = 60 Số bé là : 60 : 2 = 30 Số lớn là: 30 + 10 = 40                     Đáp số: Số bé: 30                                     Số lớn: 40 Bước 5: Kiểm tra lại bài giải: Thử lại: Tổng của hai số phải tìm là: 30 + 40 = 70. Hiệu hai số đó là: 40 – 30 = 10. Như vậy kết quả hai số phải tìm trong bài toán đã đúng.   Rút ra công thức: Số bé = (Tổng ­ Hiệu) : 2   * Cách thứ hai: 9
  10.  Phân tích: Nhìn vào sơ đồ ta thấy, nếu thêm 10 đơn vị vào số bé thì được hai  lần số lớn và hai lần số lớn là: 70 + 10 = 80 Để tìm số lớn ta lấy:          80 : 2 = 40 Tìm số bé:                       70 – 40 = 30.                                 ( hoặc 40 ­ 10 = 30) Trình bày bài giải: Bài giải: Hai lần số lớn là: 70 +10 = 80 Số lớn là : 80 : 2 = 40 Số bé là: 40 ­ 10 = 30                                                                   Đáp số: Số lớn: 40                                                                                Số bé: 30  Rút ra công thức: Số lớn = (Tổng + Hiệu) : 2  Ghi nhớ: Hai cách giải dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai  số đó” Cách 1: Tìm số bé trước                     Số bé = (Tổng – Hiệu) : 2                      Số lớn = Tổng – số bé         hoặc     Số lớn = số bé + hiệu Cách 2 :  Tìm số lớn trước                       Số lớn = (Tổng + Hiệu) : 2                       Số bé = Tổng – số lớn       hoặc       Số bé = số lớn – hiệu Ghi chú: Khi làm bài, học sinh có thể  giải bài toán bằng một trong hai cách   trên. Mặt khác cần phải hướng dẫn học sinh sau khi tìm được kết quả rồi thử  lại xem tổng và hiệu của hai số đó có như dữ kiện bài toán cho không. 2. Một số ví dụ minh họa: Ví dụ 1: Tuổi bố và tuổi con cộng lại được 58 tuổi. Bố  hơn con 38 tuổi. Hỏi   bố bao nhiêu tuổi, con bao nhiêu tuổi ? Hướng dẫn học sinh đọc và phân tích các số liệu trong bài toán. Tổng: 58 tuổi Hiệu: 38 tuổi Tuổi con là số bé, tuổi bố là số lớn. Lựa chọn cách giải phù hợp, để khi tính được nhanh, chính xác. Đối với bài toán này nên chọn cách 1 giải nhanh hơn vì 58 ­ 38 = 20 (số  tròn   chục) trong quá trình giải có thể nhẩm được kết quả Bài giải Tuổi con là: (58 – 38) : 2 = 10 (tuổi)        Tuổi bố là:         58 – 10 = 48 (tuổi) Đáp số: Con : 10 tuổi ; Bố: 48 tuổi 10
  11. Ví dụ 2 : Một lớp học có 26 học sinh. Số học sinh trai nhiều hơn số học sinh  gái là 4 em. Hỏi lớp học đó có bao nhiêu học sinh trai, bao nhiêu học sinh gái?  Hướng dẫn: Đối với bài tập này, sau khi các em xác định được dạng toán thì  các em chọn cách 2 để giải là tốt hơn vì 26 + 4 = 30 (số tròn chục) Bài giải Số học sinh trai có là: (26 + 4 ) : 2 = 15 (em)                                Số học sinh gái có là:       26 – 15 = 11 (em)                                Đáp số: Lớp học đó có 15 học sinh trai và 11 học sinh gái.        Đối với các bài toán ở dạng 1, các em dễ nhận biết vì có tổng, có hiệu rõ   ràng học sinh vận dụng ngay công thức của dạng toán để tính kết quả.      Tuy nhiên, cần rèn tính cẩn thận cho học sinh là sau khi tìm được kết quả  cần thử lại với kết quả đó có phù hợp dữ kiện của bài toán không (tức là thử  lại tổng và hiệu của hai số phải tìm)       Khi kĩ năng giải dạng toán này đã ở mức độ thành thạo, với các bài toán cơ  bản (“tổng”; “hiệu” đã cho một cách tường minh), các em có thể không cần vẽ  sơ đồ khi trình bày bài giải.      Tuy nhiên, để  rèn luyện tính linh hoạt và sáng tạo của tư  duy, người ta sẽ  tăng mức độ  phức tạp của bài toán bằng cách cho  ẩn “tổng” hoặc “hiệu”.  Muốn giải bài toán, học sinh cần xác định đúng “tổng”  và “hiệu”.  Dạng  2    : Các bài tập cần tìm tổng trước khi áp dụng cách giải của dạng   toán cơ bản. 1. Kiến thức cần ghi nhớ :         Khi đọc bài toán, sau khi phân tích số liệu các em phải phát hiện được bài  toán cho biết những gì, phải tìm gì?  và để giải quyết bài toán đó cần áp dụng  cách giải toán ở dạng toán cơ bản nào. Trong nhóm các bài tập này, trước khi   vận dụng cách giải của dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai   số đó” thì các em thêm một bước là tìm tổng của hai số đó đã. 2. Các ví dụ : Ví dụ 1 :Một thửa ruộng hình chữ nhật có chu vi là 240 m. Biết chiều dài hơn   chiều rộng 8 m.Tính diện tích thửa ruộng đó?           Hướng dẫn học sinh đọc và phân tích các số liệu trong bài toán. Bài toán cho biết: Chu vi 240 m Chiều dài hơn chiều rộng 8 m (Đây là hiệu hai số đo) Bài toán hỏi: Tính diện tích thửa ruộng. Phân tích: Muốn tính được diện tích cần phải cố số đo chiều dài và chiều rộng   mà Muốn tính số  đo chiều dài và chiều rộng thì dựa vào dạng toán “Tìm hai   số khi biết tổng và hiệu của hai số đó.” ở đây mới có hiệu chưa có tổng của  hai số phải tìm vậy chúng ta tính tổng của hai số đó dựa vào chu vi. Các bước giải: Tính nửa chu vi (Tổng của chiều dài và chiều rộng) 11
  12. Tính chiều dài và chiều rộng Tính diện tích Bài giải: Nửa chu vi thửa ruộng hình chữ nhật là: 240 : 2 = 120 (m) Chiều dài thửa ruộng là:                (120 + 8 ) : 2 = 64 (m) Chiều rộng thửa ruộng là:                     120 – 64 = 56 (m) Diện tích thửa ruộng là:                          64 x 56 = 3584 (m2)                                      Đáp số: 3584  m2 Ví dụ 2: Trung bình cộng tuổi mẹ và tuổi Lan hiện nay là 21 tuổi. Biết mẹ sinh   Lan khi mẹ 28 tuổi. Tính tuổi Lan hiện nay. Hướng dẫn: Học sinh đọc và phân tích các số  liệu trong bài toán. Từ đó nhận  ra dạng bài toán “Tìm hai số  khi biết tổng và hiệu của hai số  đó”  ở  đây cần   phải tính tổng số tuổi hai mẹ con rồi mới áp dụng công thức để giải. Mặt khác  bài toán chỉ yêu cầu tìm một số (tuổi Lan là số bé) chứ không tìm cả hai số. Lập luận: Mẹ  sinh Lan khi mẹ  28 tuổi tức là Hiệu số  tuổi hai mẹ  con là 28  tuổi. Tính tổng số tuổi hai mẹ con bằng trung bình cộng nhân 2. Bài giải Tổng số tuổi hai mẹ con là: 21 x 2 = 42 (tuổi) Tuổi Lan hiện nay là: (42 – 28) : 2 = 7 (tuổi) Đáp số : Lan 7 tuổi Lưu ý: Đối với bài toán cho biết trung bình cộng hai số  và hiệu hai số  là số  chẵn thì có thể tính nữa hiệu rồi tính số bé lấy trung bình cộng trừ đi nữa hiệu. Ví dụ  3: Mẹ  hơn con 28 tuổi. Biết ba năm nữa tổng số  tuổi hai mẹ con là 50  tuổi. Hỏi hiện nay con bao nhiêu tuổi? Phân tích Bài toán cho biết : Hiệu số tuổi : 28 Tổng số tuổi  ba năm nữa là: 50 Bài toán hỏi: Tuổi con hiện nay? Lưu ý: Đối với các bài toán tuổi thì hiệu số tuổi của mẹ và con ở các giai đoạn  luôn luôn không đổi. Muốn tính tuổi con hiện nay cần phải dựa vào công thức tìm số  bé của dạng  toán “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó.” ở đây mới có hiệu số  tuổi của mẹ và con chưa có tổng số tuổi của mẹ và con hiện nay vậy chúng ta  phải tính tổng số tuổi của mẹ và con hiện nay dựa vào tổng số tuổi của mẹ và  con ba năm nữa. Mặt khác mỗi năm thì con thêm 1 tuổi, mẹ cũng thêm 1 tuổi. Các bước giải: Tính tổng số tuổi hiện nay của hai mẹ con. Tính tuổi con ? Bài giải: Tổng số tuổi hai mẹ con hiện nay là: 50 – (2 x 3) = 44 (tuổi) 12
  13. Tuổi con hiện nay là: (44 ­ 28) : 2 = 8 (tuổi) Đáp số: 8 tuổi          Tuy nhiên với mỗi bài toán học sinh có thể có nhiều cách giải khác nhau như bài này có thể tính tuổi con sau ba năm nữa là: (50 ­ 28): 2 = 11(tuổi) rồi tính tuổi con hiện nay: 11 – 3 = 8 (tuổi)           Nhưng muốn chọn cách giải nào thì cũng cần xác định đúng dạng toán  cơ  bản đã học để  vận dụng đúng phương pháp giải toán có lời văn một cách   khoa học và ghi nhớ kiến thức một cách vững bền hơn  Ví dụ 4: Nam nhiều hơn Tùng 34 viên bi. Nếu Tùng có thêm 24 viên và Nam   có thêm 15 viên thì tổng số bi của hai bạn là 125 viên. Tính số bi của mỗi bạn? Hướng dẫn: Đối với bài toán này sau khi học sinh xác định được dạng toán cơ  bản “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”.Giáo viên gợi ý để học  sinh biết tính tổng số bi thực có của hai bạn rồi áp dụng công thức để tính số  bi mỗi bạn Bài giải Tổng số bi của hai bạn có là: 125 – 24 – 15 = 86 (viên) Số bi của Nam có là: (86 + 34): 2 = 60 (viên) Số bi của Tùng có là: 86 – 60 = 26 (viên) Đáp số: Nam có 60 viên bi ; Tùng có 26 viên bi Ví dụ 5. Hai tổ công nhân dệt được 300 m vải. Nếu tổ một dệt thêm 30 m vải  và tổ hai bớt 10 m vải thì hai tổ  dệt được số  vải bằng nhau. Tính số  vải mỗi  tổ dệt được? Hướng dẫn: Đối với bài toán này sau khi học sinh xác định được dạng toán cơ  bản “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”.Giáo viên gợi ý để học  sinh nhận biết cách giải tương tự  bài toán trên nhưng  ở  bài toán này: Nếu tổ  một dệt thêm 30 m vải và tổ hai bớt 10 m vải thì hai tổ dệt được số  vải bằng   nhau (tức là khi đó hiệu bằng 0).Vậy chúng ta tính tổng mới rồi lấy tổng mới   chia 2 thì được số  vải mỗi tổ  sau khi thêm, bớt từ  đó tính số  vải mỗi tổ  ban  đầu.  Bài giải Nếu tổ một dệt thêm 30 m vải và tổ hai bớt 10 m vải thì mỗi tổ dệt được là  (300 + 30 – 10) = 160 (m) Số vải tổ một dệt được là: 160 – 30 = 130 (m) Số vải tổ hai dệt được là: 300 – 130 = 170 (m) Đáp số: Tổ một dệt được 130 m                                                      Tổ hai dệt được 170 m 3. Đối với các bài toán ở dạng 2 này các em cần phải phân tích số  liệu và xác  định được dạng toán số  liệu cho đã có hiệu còn ẩn đi tổng. Vậy trước khi áp   dụng cách giải của dạng toán này cần phải tìm tổng hai số  rồi cần xác định   đúng số phải tìm số nào là số lớn, số nào là số bé để vận dụng ngay công thức  của dạng toán để giải. 13
  14. Cách tính tổng trong nhóm bài tập này là: ­ Nếu bài toán cho trung bình cộng hai số phải tìm thì tính tổng hai số lấy trung   bình cộng nhân 2. ­ Nếu bài toán cho biết chu vi hình chữ  nhật thì tính tổng chiều dài và chiều   rộng lấy chu vi chia 2. ­ Nếu bài toán cho giả thiết một hay hai số phải tìm thêm hay bớt thì tính tổng   mới cộng thêm hay trừ đi số thêm hay bớt đó. Lưu ý : Có khi bài toán chỉ cần tìm số lớn hoặc số bé như ở ví dụ 2, 3. Dạng 3: Các bài tập cần tìm hiệu trước khi áp dụng cách giải của bài toán   cơ bản. 1. Kiến thức cần ghi nhớ: Khi gặp các bài toán này, sau khi phân tích số liệu các em phải phát hiện được  bài toán cho biết những gì, phải tìm gì? và để  giải quyết bài toán đó cần áp   dụng cách giải toán  ở  những dạng toán cơ  bản nào. Trong nhóm các bài tập   này, trước khi vận dụng cách giải của dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng và   hiệu của hai số đó” thì các em thêm một bước là tìm hiệu của hai số đó đã. 2. Một số ví dụ minh họa: Ví dụ 1 : Tìm hai số tự nhiên liên tiếp biết tổng của chúng bằng 379. Hướng dẫn: Học sinh đọc và phân tích các số liệu trong bài toán.từ đó nhận ra   dạng bài toán “Tìm hai số  khi biết tổng và hiệu của hai số  đó .”  ở  đây cần  phải tính hiệu hai số rồi mới áp dụng công thức để giải. Bài giải Hai số tự nhiên liên tiếp có hiệu bằng 1 Số bé là: (379 ­ 1): 2 = 189 Số lớn là: 189 + 1 = 190 Đáp số : hai số phải tìm là: 189 và 190  Ví dụ 2: Tổng của hai số chẵn là 164, biết giữa chúng có 4 số lẻ. Tìm hai số? Tương tự ví dụ 1 , bài này cần tìm hiệu hai số chẵn phải tìm rồi áp dụng công  thức của dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó” để giải        Giáo viên cần hướng dẫn để học sinh nhận thấy giữa 4 số lẻ có 3 khoảng   cách bằng 2 và có hai khoảng cách từ  số  chẵn đến số  lẻ, mỗi khoảng cách  bằng 1 Bài giải: Hiệu hai số chẵn phải tìm là: (4 ­ 1) x 2 + 1 x 2 = 8 Số bé là: (164 ­ 8) : 2= 78 Số lớn là: 164 – 78 = 86 Đáp số: hai số chẵn phải tìm là: 78 và 86 Nhận xét: Hiệu hai số  phải tìm là 8 mà 8 = 4 x 2 (4 số  chẵn  ở giữa hai số lẻ  phải tìm) 14
  15. Lưu ý: Từ việc hướng dẫn học sinh tìm hiệu trong bài toán này giáo viên khéo  léo gợi cho học sinh biết cách tính hiệu hai số trong các trường hợp ở giữa hai  số có nhiều số hơn (nhiều hơn 4 số) khó có thể vẽ được sơ đồ như bài này. Ví dụ 3: Tổng hai số là 568. Tìm số lớn biết rằng khi xoá chữ số 5 ở hàng cao   nhất của số lớn thì ta được số bé. Hướng dẫn: Học sinh đọc và phân tích các số liệu trong bài toán. từ đó nhận ra  dạng bài toán “Tìm hai số  khi biết tổng và hiệu của hai số  đó”  ở  đây cần  phải tính hiệu hai số rồi mới áp dụng công thức để giải. Số lớn có 3 chữ số và chữ số hàng trăm là 5 Hiệu hai số là 500 (có thể phân tích thêm để thuyết phục học sinh hơn là nếu   số lớn là 5ab thì số bé là ab và hiệu hai số là 5ab – ab = 500) Bài giải: Hiệu hai số là 500 Số bé là: (568 ­ 500) : 2 = 34 Số lớn là 534 (Chỉ cần thêm 5 vào hàng trăm) Đáp số: Hai số phải tìm là: 34 và 534 Nhận xét: Chữ số 5 ở hàng trăm nên hiệu là 500 vậy tìm hiệu hiệu hai số phải   xác định chữ  số  bị xóa (hoặc viết thêm vào bên trái của số bé) tương ứng với   vị trí hàng nào trong số đó thì hiệu hai số có giá trị tương ứng. 3. Đối với các bài toán ở dạng 3 này các em cần phải phân tích số  liệu và xác  định được dạng toán số  liệu cho đã có tổng hai số  còn ẩn đi hiệu hai số  phải  tìm. Thường bắt gặp ở các bài toán tìm số (số tự nhiên, số chẵn, số lẻ) mà học   sinh thường hay làm sai trong các bài tập ở dạng này. Cách tính hiệu trong một số bài tập nhóm này là: ­ Hai số tự nhiên liên tiếp có hiệu là 1. ­ Hai số chẵn (hoặc hai số lẻ) liên tiếp có hiệu bằng 2. Dạng 4: Các bài tập liên quan. 1. Kiến thức cần ghi nhớ : Khi gặp các bài toán này, sau khi phân tích số liệu các em phải phát hiện được  bài toán cho biết những gì, phải tìm gì? và để  giải quyết bài toán đó cần áp   dụng cách giải toán  ở  những dạng toán cơ  bản nào. Trong nhóm các bài tập   này, các yếu tố cho biết trong bài toán có liên quan đến dạng toán “Tìm hai số   khi biết tổng và hiệu của hai số  đó” các em cần đọc phân phân tích số  liệu  để nhận dạng đúng dạng toán để áp dụng cách giải phù hợp. 2. Một số ví dụ minh họa: Ví dụ  1: Mẹ  hơn Thái 30 tuổi. Đến năm 2012 tổng số  tuổi của hai mẹ  con   bằng 46 tuổi. Như vậy mẹ sinh Thái vào năm nào ? Hướng dẫn: Học sinh đọc và phân tích các số liệu trong bài toán.từ đó nhận ra   dạng bài toán “Tìm hai số  khi biết tổng và hiệu của hai số  đó” .  ở  đây cần  phải tính thêm mẹ sinh Thái vào năm nào? 15
  16. Bài giải: Năm 2012 Số tuổi của Thái là: (46 ­ 30) : 2 = 8 (tuổi) Năm mẹ sinh Thái là: 2012 – 8 = 2004 Đáp số: Mẹ sinh Thái năm 2004. Ví dụ  2: Hai thùng có tất cả  50 lít dầu. Nếu đổ  12 lít từ  thùng thứ  nhất sang   thùng thứ hai thì số dầu ở hai thùng bằng nhau. Tính số dầu có ở mỗi thùng? Hướng dẫn: Phân tích số  liệu học sinh cần hiểu được Nếu đổ  12 lít từ  thùng   thứ nhất sang thùng thứ hai thì Tổng số  dầu ở hai thùng không đổi (vẫn là 50  lít) và khi đó số dầu ở hai thùng bằng nhau (tức là hiệu bằng 0) Bài giải: Nếu đổ 12 lít từ thùng thứ nhất sang thùng thứ hai thì số dầu ở mỗi thùng là 50 : 2 = 25 (lít) Số dầu ở thùng thứ nhất có là: 25 + 12 = 37 (lít) Số dầu ở thùng thứ hai có là: 50 – 37 = 13 (lít) Đáp số: Thùng thứ nhất có: 37 lít dầu Thùng thứ hai có: 13 lít dầu Ví dụ 3: Hai thùng dầu đựng 345 lít dầu. Nếu chuyển 30 lít dầu từ  thùng thứ  nhất sang thùng thứ hai thì thùng thứ hai sẽ nhiều hơn thùng thứ nhất 5 lít dầu.   Tính số dầu có ở mỗi thùng? Hướng dẫn: Phân tích số liệu học sinh cần hiểu được Nếu chuyển 30 lít dầu  từ  thùng thứ  nhất sang thùng thứ  hai thì Tổng số  dầu  ở  hai thùng không đổi  (vẫn là 345 lít) bài toán này khác bài toán trên là hiệu số  dầu thùng thứ  hai so  với thùng thứ nhất là 5 lít. Chúng ta nên dựa vào số liệu dầu sau khi chuyển để  tính số dầu  ở một thùng rồi tính số  dầu ban đầu (thường thì học sinh hay tìm   cách tính hiệu số  dầu  ở  hai thùng lúc đầu, việc làm này hay dẫn đến tính sai  hiệu và bài toán tìm sai kết quả) Bài giải: Nếu chuyển 30 lít dầu từ thựng thứ nhất sang thùng thứ hai thì thùng thứ nhất   có số dầu là:                        (345 ­ 5) : 2 = 170 (lít) Thùng thứ nhất có số dầu là: 170 + 30 = 200 (lít) Thùng thứ hai có số dầu là: 345 – 200 = 145 (lít) Đáp số: Thùng thứ nhất có 200 lít ;  Thùng thứ hai có 145 lít Ví dụ 4: Cho một số có hai chữ số, tổng của hai chữ số bằng 10. Nếu đổi vị trí  hai chữ số cho nhau thì số đã cho giảm 36 đơn vị. Tìm số đó? Hướng dẫn: Phân tích số  liệu học sinh cần hiểu đây là bài toán có dạng liên  quan. Ta cần tìm tổng số phải tìm và số mới dựa vào tổng hai chữ số. Số phải   tìm là số lớn. Bài giải Gọi số phải tìm là ab. Đổi vị trí hai chữ số cho nhau ta có số ba. Theo bài ra ta  có: ab – ba = 36 vì a + b = 10 nên ab + ba = 110 16
  17. Vậy số phải tìm là: (110 + 36) : 2 = 73 Thử lại: 73 – 37 = 36 Tóm lại: Trong quá trình  học sinh giải toán có lời văn thường bộc lộ  rõ yếu   điểm như:  một số  em không tóm tắt được các dự  kiện trong bài toán, không  xác   định   được   dạng   toán   gì   đã   học   hoặc   xác   định   đúng   dạng   toán   nhưng   thường giải theo một cách rập khuôn cho nên trong quá trình dạy học chúng ta   nên hướng dẫn, gợi ý để  học sinh có các cách giải khác nhau và nhanh chóng   tìm đúng kết quả tuy nhiên cần tránh tình trạng học sinh đoán mò kết quả . III. Kết quả thực hiện đề tài.           Sau một thời gian nghiên cứu là một năm và dạy cho học sinh lớp 4 các  bài toán liên quan đến  dạng “Tìm hai số  khi biết tổng và hiệu của hai số   đó” kết quả cho thấy khá khả quan: ­ Giáo viên đã củng cố  cho học sinh vững chắc hơn các kiến thức thực hiện   các dạng toán cơ bản, điển hình của dạng toán. Khi các em hiểu kiến thức một  cách có hệ  thống, từ  đó vận dụng vào từng dạng bài tập một cách dễ  dàng.  Giải được các bài tập khó mà không vướng mắc, không lúng túng. Khi học  sinh nhận biết dạng toán cơ  bản đã học, phân chia bài toán theo dạng và có   cách giải phù hợp thì việc tham gia giải toán nhanh và có kết quả chính xác. ­ Ngoài ra các em còn rất hứng thú và yêu thích học toán, nhất là các bài toán  liên quan đến các dạng toán có lời văn dạng tìm hai số  khi biết tổng và hiệu,  nhiều em có kỉ năng, kỉ xảo giải toán tốt. Kết quả cụ thể: Sau khi học sinh được luyện tập nhiều các bài tập ở các nhóm   bài tập thuộc dạng “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó” các em đã  làm bài tập có sự tiến bộ rõ rệt:   Kết quả: Sai  Sai  Số  Đúng  câu  phép  Sai  Ghi chú Lớp lượng  cả bài lời  tính cả bài bài giải SL % SL % SL % SL % 4 25 17 68 4 16 4 16 0 0       Qua kết quả kiểm tra, bản thân tôi nhận thấy rằng học sinh đã có sự tiến bộ  rõ rệt khi giải toán có lời văn dạng tổng – hiệu. HS làm đúng cả  bài chiếm tỉ  lệ cao 17 em; 4 em làm sai câu lời giải và 4 em làm sai phép tính.     Ngoài ra, nhờ áp dụng các phương pháp giải bài bài toán có lời văn mà khi  thực hành giải toán các em cũng ít mắc sai sót hơn. Thể hiện qua các bài kiểm   tra cuối học kì 1 và cuối năm. Đa số  các em đều nhận ra dạng toán, trình bày  được bài giải, chỉ một số em tính toán chưa cẩn thận nên làm chưa chính xác. 17
  18.           PHẦN III: KẾT LUẬN 1. Ý nghĩa của sáng kiến.      Vấn đề giải toán ở Tiểu học hiện nay đang là một vấn đề  đáng quan tâm   trong công tác giáo dục. Từ  việc nghiên cứu dạy giải toán có lời văn dạng   “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”, tôi nhận thấy thông qua hoạt  động giải toán đã tạo ra cho học sinh thói quen suy nghĩ, tính toán một cách   khoa học rèn luyện cho các em năng lực tư duy suy luận lô ­ gic, phát triển trí   tuệ. Hình thành cho các em lòng say mê, hứng thú học toán.     Ý nghĩa của đề tài còn thể hiện một số bài học kinh nghiệm như sau: 1. Đối với giáo viên và học sinh: Giáo viên phải thường xuyên đọc các tài liệu  tham khảo về  đổi mới phương pháp dạy học. Có sổ  tích lũy ghi lại những   thành công, hạn chế  qua tiết dạy, tìm được nguyên nhân cơ  bản của những  thành công hay tồn tại đó. Với đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học: dễ  nhớ song lại dễ quên, tư duy trực quan, do đó giáo viên cần cho học sinh được   luyện tập nhiều, các bài cần có hệ thống, bài trước làm cơ sở hướng giải cho   bài sau, các bài tập cần được nâng khó dần. 2.Đối với phụ  huynh học sinh:   Ph¶i cã nhËn thøc ®óng tÇm quan träng cña  viÖc häc tËp tõ ®ã ®Ó  chuẩn bị  chu đáo các điều kiện như  sách giáo khoa,   sách tham khảo, vở bài tập cho học sinh, tạo cho học sinh có thời gian học tập,  có góc học tập riêng để các em học tập tốt hơn. 3. HS phải nắm chắc phương pháp chung về các bước giải bài toán có lời văn   dạng tổng – hiệu. Để  giúp học sinh lớp 4 làm tốt một số bài toán dạng “Tìm   hai số  khi biết tổng và hiệu của hai số  đó”  để  vận dụng vào giải toán có  hiệu quả. Tôi đã nghiên cứu, đọc nhiều tài liệu, sách tham khảo để phân thành   các nhóm bài tập cụ thể của dạng toán. Hướng dẫn học sinh cách giải bài tập  18
  19. ở  mỗi nhóm, chốt lại cách tìm tổng hai số  hay hiệu hai số  trong một số  bài  toán còn ẩn đi tổng hay hiệu. Sau đó sắp xếp các bài toán đó theo hệ thống từ  dễ đến khó, từ đơn giản đến nâng cao. Cho học sinh luyện tập thành thạo rồi  vận dụng vào giải toán bước đầu cho thấy học sinh đã tìm kết quả  nhanh và   chính xác. 4. GV cần phải hướng dẫn học sinh biết cách giải các bài toán có lời văn dạng   tổng – hiệu. Dạy các bài tập về giải toán có lời văn dạng “Tìm hai số khi biết   tổng và hiệu của hai số đó” đòi hỏi học sinh phải huy động phối hợp nhiều  kiến thức, kĩ năng khác về  môn toán như  nắm chắc dạng toán cơ  bản, các  phương pháp giải toán, thử lại kết quả. Để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ giáo viên   phải phối hợp nhiều phương pháp trong giảng dạy đặc biệt coi trọng việc  phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Người giáo viên chỉ là  người gợi mở dẫn dắt để học sinh tự tìm ra cách giải. Dạy cho học sinh cách  quan sát, phân tích các dữ  kiện của đề  bài, tìm hiểu mối liên hệ  giữa các dữ  kiện, cách suy luận lô gic để bài giải chặt chẽ.          Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân, trong thời gian qua tôi   đã áp dụng và thu được những kết quả  khả  quan. Kính mong các đồng chí   đồng nghiệp tham khảo và đóng góp thêm để sáng kiến kinh nghiệm ngày càng  hoàn thiện hơn, nhằm góp phần nâng cao chất lượng môn Toán. Xin chân thành cảm ơn!                        19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2