Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt phần từ loại
lượt xem 8
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm để học sinh nắm vững kiến thức về từ, tạo nền tảng cho việc phát triển và sử dụng ngôn ngữ ngày một phong phú thì việc dạy nội dung từ loại là một vấn đề không thể xem nhẹ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt phần từ loại
- 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài: Ở bậc tiểu học, môn Tiếng Việt có một vai trò hết sức quan trọng trong thực tiễn đời sống, học tập. Con người chủ yếu giao tiếp bằng ngôn ngữ. Việc dạy cho học sinh nghe, nói, đọc, viết ở tiểu học là việc dạy giao tiếp bằng ngôn ngữ. Vì vậy, ở tiểu học môn Tiếng Việt được dạy và học thông qua rất nhiều phân môn khác nhau : Học vần, Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập làm văn. Mỗi phân môn đều có mục đích và nhiệm vụ riêng của nó, song có một điểm chung là hình thành và phát triển bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết thông qua hoạt động giao tiếp cho học sinh. Bên cạnh những kiến thức được truyền tải, những kĩ năng được hình thành qua môn học, theo tôi điều vô cùng quan trọng đó là giúp học sinh hiểu ngôn ngữ trong giao tiếp một cách đúng, linh hoạt. Để đạt được điều này, học sinh phải học tập nhiều phân môn trong đó có phân môn Luyện từ và câu. Việc dạy Luyện từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hóa làm phong phú vốn từ của học sinh, cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về từ và câu; rèn cho học sinh kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các kiểu câu để thực hiện việc diễn đạt tư tưởng, tình cảm của mình, đồng thời có khả năng hiểu và sử dụng các kiểu câu của người khác nói ra trong hoàn cảnh giao tiếp nhất định. Luyện từ và câu có vai trò hướng dẫn học sinh trong việc nghe, nói, đọc, viết, phát triển ngôn ngữ và trí tuệ. Trong thực tế dạy và học tại trường tiểu học không ít giáo viên và học sinh cho rằng dạy và học Luyện từ và câu là rất khó. Dạy cho học sinh nắm vững về từ loại lại càng khó hơn nhiều. Đặc biệt, từ năm học 2011 – 2012 thực hiện theo công văn số 5842/ BGDĐT VP ngày 1 tháng 9 năm 2011 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc Hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học Giáo dục phổ thông nên nội dung dạy học đã được điều chỉnh. Nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau. Mỗi nội dung đòi hỏi một phương pháp thích hợp. Các kĩ năng giao tiếp không thể hình thành và phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn học sinh phát triển tốt các kĩ năng này, học sinh phải được hoạt động trong môi trường giao tiếp dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Những tư tưởng, tình cảm và nhân cách tốt đẹp chỉ có thể được hình thành chắc chắn thông qua sự rèn luyện trong thực tế. Vì vậy, dạy phân môn Luyện từ và câu như thế nào cho tốt quả là khó khăn cho không ít giáo viên. Vì sao vậy? Nguyên nhân thì có rất nhiều song chúng ta phải công nhận khả năng của từ Tiếng Việt là vô cùng phong phú. Là giáo viên tiểu học, bản thân tôi có nhiều trăn trở, làm thế nào để học sinh tiếp thu, nắm chắc về từ loại. Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, suy nghĩ và tìm tòi, bản thân tôi đã rút ra được những kinh nghiệm cho bản thân. Vì thế, tôi viết sáng kiến kinh nghiệm : "Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt phần từ loại"
- 1.2. Điểm mới của sáng kiến: Các biện pháp trong sáng kiến đáp ứng hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Đặc biệt là dạy học phát huy tính tích cực của học sinh và dạy học phù hợp với các đối tượng học sinh. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng a) Về phía giáo viên: Để học sinh nắm vững kiến thức về từ, tạo nền tảng cho việc phát triển và sử dụng ngôn ngữ ngày một phong phú thì việc dạy nội dung từ loại là một vấn đề không thể xem nhẹ. Trên thực tế, nhiều giáo viên cứ theo sách hướng dẫn hoàn thành đầy đủ các bài tập và coi như thế là xong mà chưa chú ý đến việc các em đã vận dụng bài học đó như thế nào. Đó cũng là lí do mà khiến nhiều học sinh khi lên lớp 5 vẫn thấy kiến thức về từ loại còn mới mẻ. Thực tế cho thấy, giáo viên gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng và đã có những nhầm lẫn khi giảng dạy nội dung này. Sở dĩ như vậy là do khi xét từ loại cho những từ cụ thể, giáo viên thường dựa vào nghĩa chứ không nắm hết các dấu hiệu hình thức từ loại mà nghĩa của từ loại không phải lúc nào cũng dễ xác định. Một từ cụ thể chỉ sự vật hay hoạt động, trạng thái hay đặc điểm, tính chất không phải lúc nào cũng có thể tìm ra ngay được. Sự khác nhau về nghĩa hay có dấu hiệu hình thức đi kèm như thế nào đôi khi giáo viên cũng không nắm được. Nội dung dạy học Luyện từ và câu có không ít giáo viên còn máy móc vận dụng các phương pháp dạy truyền thống và chưa chú ý tới việc điều chỉnh nội dung dạy học phù hợp với đối tượng học sinh theo vùng, miền, lớp học. Điều này có ảnh hưởng tới chất lượng học sinh. b) Về phía học sinh: Qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 4, tôi nhận thấy học sinh rất hay nhầm lẫn giữa động từ hoặc tính từ. Nhiều khi, học sinh không xác định được danh từ, động từ, tính từ vì chưa hiểu rõ bản chất của các từ loại ấy. Có em nhầm lẫn giữa từ loại này với từ loại khác...Việc xác định sai từ loại sẽ dẫn đến học sinh dùng từ đặt câu sai trong khi nói hoặc viết. Tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học sinh vào thời điểm tháng 12 năm 2019 (cùng một bài tập xác định từ loại cho học sinh của lớp tôi chủ nhiệm năm học trước, kết quả khảo sát của học sinh như sau): Đề bài Tìm danh từ , động từ, tính từ trong các câu văn sau: Buổi chiều, xe dừng lại ở một thị trấn nhỏ. Nắng phố huyện vàng hoe. Những em bé Hmông mắt một mí, những em bé Tu Dí, Phù Lá cổ đeo móng hổ, quần áo sặc sỡ đang chơi đùa trước sân. Kết quả
- Hoàn thành Hoàn thành Chưa HT Sĩ tốt Lớ Năm học số p TL TL TL HS SL SL SL (%) (%) (%) 2019 2020 4B 27 4 14,8 18 66.7 5 18.5 Từ chất lượng khảo sát của học sinh ở trên tôi nhận thấy : chất lượng của học sinh chưa cao. Tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và ứng dụng một số biện pháp giúp học sinh lớp 4B học tốt phần từ loại . 2.2. Các biện pháp thực hiện: Biện pháp 1: Dạy cho học sinh nắm vững các khái niệm theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Từ loại được phân chia thành rất nhiều loại đó là: danh từ, động từ, tính từ, đại từ chỉ ngôi, số từ, phụ từ, quan hệ từ (hư từ), tình thái từ, ...Song ở Tiểu học phần từ loại chỉ học về các thực từ : Danh từ, động từ, tính từ, đại từ. Ở lớp 4, có thể khái quát phần từ loại bằng sơ đồ sau: Từ loại Danh từ Động từ Tính từ Trong các nhóm danh từ, động từ, tính từ lại tiếp tục được chia nhỏ ra các tiểu loại như sau: * Danh từ: Danh từ Danh từ riêng Danh từ chung DTchỉ tên DT chỉ DT chỉ DT chỉ DT chỉ hiện người địa danh người vật tượng
- Học sinh thường xác định đúng các danh từ riêng vì nó có dấu hiệu chính tả rõ ràng (Danh từ chỉ tên người, tên địa lí Việt Nam, tên người, tên địa lí nước ngoài được phiên âm Hán Việt thì viết hoa chữ cái đầu mỗi tiếng. Tên người, tên địa lí nước ngoài được phiên âm quốc tế thì viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phận và giữa các tiếng trong một bộ phận có dấu gạch ngang). Vì vậy, tôi tập trung hướng dẫn học sinh cách xác định danh từ chung. * Động từ : Động từ Động từ chỉ hoạt động Động từ chỉ trạng thái * Tính từ: Tính từ Tính từ chỉ đặc điểm Tính từ chỉ tính chất của sự vật, hoạt động, trạng thái, ... Như vậy, để dạy cho học sinh lớp 4 nắm được những kiến thức về các khái niệm từ loại, chúng ta cần đặt khái niệm trong hệ thống chương trình để xác định rõ vị trí của nó. Muốn dạy đạt theo chuẩn kiến thức kĩ năng và chương trình giảm tải giáo viên cần : + Nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy. + Định hướng rõ phương pháp dạy học tiết học đó. + Cho học sinh được thực hành và làm việc Tự các em sẽ là người rút ra các khái niệm (Dạy theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh)
- + Hướng dẫn học sinh làm bài theo hệ thống để học sinh luyện tập thực hành các kiến thức đã học nhưng cần chú ý tới tất cả các đối tượng học sinh. Ví dụ cụ thể ở các bài dạy như sau: Ví dụ 1: Khi dạy bài Danh từ (Tiếng Việt 4 Tập 1 Trang 52, 53) trong sách giáo khoa đã viết danh từ là : Danh từ là từ chỉ sự vật (người, vật, hiện tượng, khái niệm hoặc đơn vị). Tuy nhiên, thực hiện chương trình giảm tải học sinh chỉ cần chỉ ra danh từ là từ chỉ sự vật: chỉ người, vật, hiện tượng. Phần Luyện tập ( phần III) học sinh không phải làm. Trong khi phần Nhận xét viết như sau: * Tìm các từ chỉ sự vật trong đoạn thơ sau: Mang theo truyện cổ tôi đi Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa Con sông chảy có rặng dừa nghiêng theo Đời cha ông với đời tôi Như còn sông với chân trời đã xa Chỉ còn truyện cổ thiết tha Cho tôi nhận mặt ông cha của mình. (Lâm Thị Mỹ Dạ) * Xếp các từ em vừa tìm được vào các nhóm thích hợp: Từ chỉ người: ông cha, ... Từ chỉ vật: sông, ... Từ chỉ hiện tượng: mưa, ... Từ chỉ khái niệm: cuộc sống, ... Từ chỉ đơn vị: cơn,... Như vậy, giáo viên chỉ hướng dẫn học sinh làm bài tập 1 và chia các từ tìm được ở bài tập 1 vào ba nhóm (Từ chỉ người, từ chỉ vật, từ chỉ hiện tượng) Khi áp dụng chương trình giảm tải, nhiều giáo viên đã rất lúng túng khi học sinh chọn ra các từ chỉ vật ở bài tập 1 bao gồm cả các từ : cuộc sống, tiếng, xưa. Vì vậy học sinh đã xếp các từ ấy vào nhóm từ "danh từ chỉ vật". Thực tế thì các từ đó là danh từ chỉ khái niệm. Để khắc phục được điều này tôi đã thực hiện các hoạt động chính ở phần bài mới như sau: Giáo viên: Em hãy nêu các từ chỉ các sự vật xung quanh lớp học của chúng ta? + Học sinh lấy ví dụ : bàn, ghế, bảng, bút, cô giáo, học sinh, cửa sổ, ... Giáo viên cầm trên tay viên phấn và hỏi: Tên vật này là gì ? (HS : viên phấn, cục phấn). Giáo viên : Các từ các em vừa nêu trên đó chính là các từ chỉ tên gọi của các sự vật. Em hãy lấy ví dụ một số từ chỉ tên gọi của các sự vật khác mà em biết? + Học sinh: nhãn, xà cừ, chó, mèo, lợn, ngôi nhà, gió, mưa, sóng, ...
- Giáo viên ghi bảng tất cả các từ các em tìm được. Giáo viên: Các từ các em tìm được rất nhiều, chúng ta sẽ chia các từ ấy vào các nhóm sau : + Từ chỉ người: + Từ chỉ vật: + Từ chỉ hiện tượng: Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm 4 để tự các em xếp vào các nhóm. Học sinh có thể xếp đúng và có thể xếp chưa đúng nhưng giáo viên chỉ đi kiểm tra và hướng dẫn thêm chứ không cho đáp án ngay. Sau khi học sinh nắm chắc các từ chỉ sự vật về người, vật, hiện tượng tôi cho học sinh làm bài tập 1, 2 phần nhận xét (theo chương trình giảm tải). Kết quả cho thấy học sinh nắm rất chắc các từ chỉ tên gọi của các sự vật gồm ( từ chỉ người, từ chỉ vật, từ chỉ hiện tượng). Từ đó, giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra ghi nhớ một cách dễ dàng và các em nhớ rất bền. Ví dụ 2: Khi dạy bài Động từ ( Tiếng Việt 4 Tập 1 Trang 93, 94), tôi đã tiến hành các bước phần bài mới như sau: Gọi 2 học sinh đọc bài tập 1 phần nhận xét. Cho học sinh thảo luận nhóm 4 bài tập 2. Ghi kết quả thảo luận vào phiếu: Nội dung phiếu Em hãy đọc lại đoạn văn ở bài tập 1 và trả lời câu hỏi sau: Tìm các từ : + Chỉ hoạt động của anh chiến sĩ: + Chỉ hoạt động của thiếu nhi: Chỉ trạng thái của các sự vật: + Dòng thác: + Lá cờ: Học sinh thảo luận và đưa ra kết quả như sau: Kết quả thảo luận Tìm các từ : + Chỉ hoạt động của anh chiến sĩ: nhìn, nghĩ. + Chỉ hoạt động của thiếu nhi: thấy Chỉ trạng thái của các sự vật: + Dòng thác: đổ, chạy + Lá cờ: bay Giáo viên nêu: Các từ nêu trên chỉ hoạt động, chỉ trạng thái của người, của vật. Đó là các động từ.Vậy động từ là gì? (Học sinh nêu nội dung ghi nhớ trang 94) Đối với học sinh năng khiếu tôi đặt câu hỏi: Các từ đổ, chạy, bay các em vừa nêu trên có phải là từ chỉ hoạt động không ? Vì sao ?
- + Học sinh trả lời "không phải" vì đó không phải là hoạt động của con người, hay con vật) Giáo viên kết luận: Từ chỉ hoạt động chỉ nêu các hoạt động của người hoặc con vật. Nếu là đồ vật thì phải được nhân hóa. Các từ trên chỉ là trạng thái của các sự vật (Bản thân chúng không tạo nên hoạt động mà phải nhờ vào các yếu tố bên ngoài tác động như cờ bay là nhờ tác động của gió, ...) Ví dụ 3: Khi dạy bài Tính từ (Tiếng Việt 4 Tập 1 Trang 110, 111, 112). Ở bài này nội dung ghi nhớ là : Tính từ là những từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của sự vật, hoạt động, trạng thái... Dựa vào ghi nhớ trên giáo viên sẽ cụ thể hóa phương pháp dạy thích hợp nếu không học sinh sẽ không hiểu được ý nghĩa của cụm từ tính chất của sự vật, hoạt động, trạng thái, ... Để giúp HS hiểu và rút ra được nội dung ghi nhớ tôi đã tiến hành phần bài mới như sau: Cho học sinh đọc bài tập 1 (Đọc truyện: Cậu học sinh ở Ác boa) Học sinh thảo luận nhóm 4 bài tập 2 ghi kết quả thảo luận vào phiếu học tập. Nội dung phiếu Em hãy đọc truyện Cậu học sinh ở Ác boa và trả lời câu hỏi sau: Tìm các từ trong truyện trên miêu tả : + Tính tình, tư chất của cậu bé Lu i: + Màu sắc của sự vật: Những chiếc cầu: Mái tóc của thầy Rơ nê + Hình dáng, kích thước và các đặc điểm khác của sự vật: Thị trấn: Vườn nho: Những ngôi nhà: Dòng sông: Da của thầy Rơ nê: Học sinh thảo luận và đưa ra kết quả như sau: Kết quả thảo luận + Tính tình, từ chất của cậu bé Lu i: chăm chỉ, học giỏi + Màu sắc của sự vật: Những chiếc cầu: trắng phau Mái tóc của thầy Rơ nê : xám + Hình dáng, kích thước và các đặc điểm khác của sự vật: Thị trấn : nhỏ Vườn nho: con con Những ngôi nhà: nhỏ bé, cổ kính
- Dòng sông: hiền hòa Da của thầy Rơ nê : nhăn nheo Sau khi học sinh báo cáo kết quả, giáo viên nêu: Các từ chỉ đặc điểm của người, vật,...được gọi là tính từ. Vậy tính từ là gì ? (Học sinh nêu : Tính từ là những từ miêu tả đặc điểm của sự vật) Bài tập 3: Trong cụm từ "đi lại vẫn nhanh nhẹn" từ nhanh nhẹn bổ sung ý nghĩa cho từ nào ? (Học sinh lên bảng khoanh tròn vào từ : đi lại) Giáo viên hỏi: từ đi lại thuộc từ loại gì các em đã học ? (Động từ). Đó là từ chỉ hoạt động hay trạng thái ? (Hoạt động). Giáo viên cho học sinh rút ra ghi nhớ tiếp theo : Tính từ là từ chỉ tính chất của sự vật, hoạt động, trạng thái,... Giáo viên lưu ý học sinh: Khi tìm tính từ, ta có thể tìm các danh từ, động từ sau đó các em đặt câu hỏi : thế nào sau các danh từ, động từ đó. Từ trả lời cho câu hỏi thế nào đứng sau danh từ hoặc động từ đó là tính từ. Ví dụ : Vườn nho con con. (Các em đặt câu hỏi : Vườn nho thế nào ? Học sinh DT TT trả lời : con con. Vậy con con là tính từ) Thị trấn nhỏ (Các em đặt câu hỏi : Thị trấn thế nào ? Học sinh trả lời DT TT nhỏ. Vậy nhỏ là tính từ). Từ các ví dụ nêu trên, khi dạy cho học sinh tôi nhận thấy các em dễ tiếp thu bài, vận dụng được kiến thức vào làm bài tập có kết quả cao hơn so với trước đây. Biện pháp 2 : Hướng dẫn học sinh phân cách đường danh giới từ trước khi xác định từ loại. Đối với học sinh tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 4 việc phân cách danh giới từ là khó. Xong các em đã học về từ và biết phân biệt được từ đơn, từ ghép, từ láy ở các bài trước nên giáo viên cần vận dụng những kiến thức các em đã học để áp dụng vào xác định từ loại như sau : + Cho học sinh đọc đoạn văn (câu văn) nhiều lần. + Cho học sinh dùng gạch xiên (/) phân cách danh giới các từ. + Xác định các từ loại theo yêu cầu của đề bài. Trong chương trình giảm tải học sinh không học danh từ chỉ khái niệm và danh từ chỉ đơn vị nên khi cho học sinh phân cách danh giới các từ như: quyển vở, con sông, chiếc bút, ...(thông thường là 2 từ " quyển", " con", "chiếc",...là danh từ chỉ đơn vị, các từ "vở", "sông", " bút", ... học sinh dễ xác định). Vì vậy, khi học sinh phân cách danh giới các từ ấy và đưa về một từ và xác định là danh từ giáo viên chấp nhận ý kiến đúng. Ví dụ ở bài tập 1 trang 111 SGK Tiếng việt 4 Tập 1 (Bài : Tính từ)
- Tìm tính từ trong các đoạn văn sau: a) Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Chủ tịch của Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ra mắt đồng bào. Đó là một cụ già gầy gò, trán cao, mắt sáng, râu thưa. Cụ đội chiếc mũ ka ki đã cũ, mặc áo ka ki cao cổ, đi dép cao su trắng. Ông cụ có dáng đi nhanh nhẹn. Lời nói của cụ điềm đạm, đầm ấm, khúc triết, rõ ràng. Trước hết để tìm được tính từ các em cần dùng vạch ranh giới phân cách để tìm ra tính từ dễ hơn. Các em có thể vạch như sau: a) Chủ tịch/ Hồ Chí Minh/, vị /Chủ tịch/ của /Chính phủ/ Lâm thời/ nước /Việt Nam /Dân chủ /Cộng hòa/, ra mắt/ đồng bào//. Đó/ là /một /cụ già/ gầy gò/, trán/ cao/, mắt /sáng/, râu/ thưa//. Cụ/ đội /chiếc mũ /ka ki /đã/ cũ/, mặc/ áo /ka ki /cao cổ/, đi /dép/ cao su/ trắng//. Ông cụ /có /dáng /đi /nhanh nhẹn//. Lời nói/ của/ cụ/ điềm đạm/, đầm ấm/, khúc triết/, rõ ràng//. Chú ý : Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách xác định ranh giới từ bằng cách sau: + Từ bao giờ cũng có nghĩa. Vì vậy, khi tách từ các em cần chú ý về nghĩa của từ. Từ có 1 tiếng, 2 tiếng, 3 tiếng hoặc 4 tiếng. Từ ghép thường đọc liền mạch các tiếng với nhau. Ví dụ: đọc học sinh chứ không đọc: học / sinh, ... + Từ 1 tiếng : câu, chú, ăn, đánh, bàn, chơi, học, ngủ, ... + Từ có 2 tiếng : Chơi đùa, vui nhộn, hóm hỉnh, quyển sách, chân tường, ...Khi tách ranh giới từ, các em còn phân vân chưa biết đó là 1 từ ghép hay 2 từ đơn thì các em có thể dùng cách chêm xen từ vào giữa 2 tiếng của từ. Ví dụ : Từ bàn ghế trong câu : Lớp em có rất nhiều bàn ghế đẹp. (Ta dùng cách chêm xen từ : bàn và ghế đều có nghĩa là lớp có bàn và có ghế . Vậy bàn ghế là 2 từ đơn. Trong câu : Các em kê bàn ghế cho ngay ngắn nhé! (bàn ghế ở đây là 1 từ ghép chỉ chung các đồ dùng trong lớp), ... + Từ 3 tiếng : Nguyễn Văn Nam, sạch sành sanh, hợp tác xã, ... + Từ 4 tiếng : lủng cà lủng củng, nhí nha nhí nhảnh, ... Các trường hợp này ít gặp ở lớp 4. Tóm lại : bước vạch ranh giới từ chỉ là bước đệm giúp các em phân tách từ để nêu đúng các tính từ tránh nhầm lẫn các em nêu một cụm từ có chứa tính từ như : trán cao, mắt sáng, râu thưa, ... Biện pháp 3: Xác định từ loại thông qua khả năng kết hợp. Thông thường danh từ thường làm chủ ngữ trong câu còn động từ và tính từ thường làm vị ngữ trong câu. Nhưng trong thực tế, nhiều khi danh từ cũng làm vị ngữ trong câu còn động từ và tính từ làm chủ ngữ trong câu. Cùng một từ nhưng trong trường hợp này là danh từ còn trường hợp kia lại là động từ hoặc tính từ... Trong tiếng Việt ta thường gặp những trường hợp như: Từ đỏ Là tính từ trong : Rất đỏ
- Là động từ trong : Đỏ lửa lên Là danh từ trong : chú Đỏ (A! Chú Đỏ đến rồi!) Từ vui: Là tính từ trong: Rất vui Là động từ trong : Hãy vui lên. Là danh từ trong: Chị Vui Chính vì vậy mà học sinh rất khó xác định từ loại, các em dễ bị lẫn lộn giữa danh từ, động từ và tính từ trong những trường hợp đặc biệt. Để giúp học sinh xác định tốt từ loại giáo viên hướng dẫn học sinh biết vận dụng khả năng kết hợp của từ loại như sau : a) Khả năng kết hợp của danh từ. Nếu là danh từ thì đứng trước sẽ là : con, cái, chiếc, những, một, hai, ba, vài, mỗi, mọi, từng, cả thảy, ...Đây còn gọi là từ chỉ số lượng, chỉ đơn vị. Ví dụ: Con thuyền Ba cây xà cừ DT DT Cái bàn Tất cả giáo viên DT DT Chiếc cặp Mọi học sinh DT DT Những bức tranh Từng người DT DT Năm ngôi nhà Một bức tranh DT DT Nhiều ngôi nhà Vài chiếc thuyền DT DT Đứng sau danh từ là : Này, kia, ấy, nọ, đó, ... Đây là những từ dùng để chỉ trỏ. Ví dụ : Cô gái này Cái bàn đó DT DT Học sinh kia Bông hoa kia DT DT Cái áo ấy Người mẹ ấy DT DT b) Khả năng kết hợp của động từ. Đứng trước động từ sẽ là : đã, sẽ, đang, không, chưa, chẳng, hãy, đừng, chớ, phải, cứ ... đây là những từ chỉ sự tiếp diễn, mệnh lệnh. Ví dụ: Đã ăn Vẫn làm Cứ hát ĐT ĐT ĐT Đang học Phải viết Đừng đi
- ĐT ĐT ĐT Sẽ thực hiện Không chơi Chớ đánh ĐT ĐT ĐT Đứng sau động từ sẽ là : xong, rồi, ... chỉ sự kết thúc. Ví dụ: Ăn xong Viết xong ĐT ĐT Nấu rồi Ngủ rồi ĐT ĐT Đối với học sinh khá giỏi được tôi mở rộng thêm cho các em: + Động từ chỉ trạng thái: còn, mất, yêu, ghét, hồi hộp, băn khoăn, bị, được, phải. + Động từ chỉ hành động vật lí: gãy, nổ, giãn, co, ... + Động từ chỉ hành động tâm lí: nghĩ, cảm thấy, lo, ... + Động từ chỉ hành động chuyển hướng: ra, vào, lên, ngược, xuôi, ... + Động từ chỉ hành động của cơ thể: ưỡn, co, cúi, lắc, nhắm, mở, nheo,... + Động từ chỉ hành động kết nối : buộc, chặt, treo, pha, trộn, ... + Động từ chỉ hành động trao, nhận: tặng, biếu, cho, lấy, ... c) Khả năng kết hợp của tính từ. Đứng trước tính từ sẽ là : rất, vô cùng, cực kì, hơi,...Đây là các từ chỉ mức độ. Ví dụ: Các từ đứng trước tính từ đẹp: Bông hoa vô cùng đẹp. TT Bông hoa rất đẹp. TT Bông hoa cực kì đẹp. TT Bông hoa hơi đẹp. TT Đứng sau tính từ là lắm, quá, cực kì. Ví dụ: Cô ấy cao quá. TT Tay cô ấy trắng cực kì. TT * Đối với học sinh năng khiếu: Giáo viên mở rộng thêm cho các em: Những tính từ chỉ tính chất rất khó phân biệt. Ví dụ: + Tính từ chỉ phẩm chất : Tốt, xấu, cao thượng, hèn nhát, tầm thường,.. + Tính từ chỉ về lượng: Nhiều, ít, đầy, vơi, dài, ngắn, rộng, sâu, ...
- + Tính từ chỉ cường độ, nhiệt độ : Mạnh, yếu, sáng, tối, lạnh, mát mẻ, ấm cúng, ... + Tính từ chỉ âm thanh : Ồn ã, im lặng, tĩnh mịch, ... + Tính từ chỉ mùi vị: Thơm, hôi, thối tha, thơm tho, mặn, đắng, ... + Tính từ chỉ hình thể: Tròn, béo, gầy, khẳng khiu, ... Mỗi từ loại có khả năng kết hợp khác nhau, có những từ chứng khác nhau nhưng trong thực tế vẫn có những từ có hai khả năng kết hợp, ranh giới động từ, tính từ khó xác định. Thông thường ta chọn từ chứng để xác định từ loại (Như đã phân tích ở trên) Ví dụ: Từ buồn : Rất buồn ; Đang buồn TT ĐT Từ lo : Rất lo Đang lo TT ĐT Khi xác định từ loại trong văn cảnh giáo viên cũng có thể áp dụng cách dựa vào từ chứng như trên để xác định (Đây được xem như là mẹo xác định dành cho học sinh khá giỏi chứ không đưa vào phần giảng bài trong các tiết Luyện từ và câu trên lớp) Biện pháp 4: Hướng dẫn cách phân biệt từ chỉ đặc điểm, từ chỉ tính chất, trạng thái. a) Từ chỉ đặc điểm: Đặc điểm là nét riêng biệt, là vẻ riêng của một sự vật nào đó (người, đồ vật, cây cối, ...). Đặc điểm chủ yếu là đặc điểm bên ngoài (ngoại hình) mà ta có thể nhận biết qua mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi, tay sờ,... Đó là các nét riêng, vẻ riêng về màu sắc, hình khối, hình dáng, âm thanh, ...của sự vật. Đặc điểm của sự vật cũng có thể là đặc điểm bên trong mà qua quan sát, suy luận, khái quát, ...ta mới có thể nhận biết. Đó là đặc điểm về tính tình, tâm lí, tính cách của một người, độ bền, giá trị của đồ vật, ... Từ chỉ đặc điểm là các từ biểu thị các đặc điểm của sự vật, hiện tượng như đã nêu ở trên. Ví dụ : + Từ chỉ đặc điểm bên ngoài : cao, thấp, rộng, hẹp, xanh, đỏ, ... + Từ chỉ đặc điểm bên trong: tốt, ngoan, chăm chỉ, bền bỉ, ... b) Từ chỉ tính chất: Tính chất cũng là đặc điểm riêng của sự vật, hiện tượng (bao gồm cả những hiện tượng xã hội, những hiện tượng trong cuộc sống, ...) nhưng thiên về đặc điểm bên trong, ta không quan sát trực tiếp được mà phải qua quá trình quan sát, suy luận, phân tích, tổng hợp ta mới có thể nhận biết được. Do đó, từ chỉ tính chất cũng là biểu thị đặc điểm bên trong của sự vật, hiện tượng. Ví dụ : tốt, xấu, ngoan, hư, nặng, nhẹ, sâu sắc, nông cạn, thiết thực, ...
- Tóm lại, khi dạy cho học sinh xác định về tính từ thì ở lớp 4 chỉ cần chú ý hướng dẫn cho học sinh phân biệt (một cách tương đối) từ chỉ đặc điểm và từ chỉ tính chất : từ chỉ đặc điểm thiên về nêu các đặc điểm bên ngoài, còn từ chỉ tính chất thiên về nêu các đặc điểm bên trong của sự vật, hiện tượng. Một quy ước mang tính sư phạm như vậy được coi là hợp lí và giúp học sinh tránh được những thắc mắc không cần thiết trong quá trình học tập. c) Từ chỉ trạng thái: Trạng thái là tình trạng của một sự vật hoặc một con người, tồn tại trong một thời gian nào đó. Từ chỉ trạng thái là từ chỉ trạng thái tồn tại của sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan. Ví dụ : Trời đang đứng gió. Người bệnh đang hôn mê. Cảnh vật yên tĩnh quá. Mặt trời tỏa ánh nắng rực rỡ. + Một số từ mang đặc điểm ngữ pháp của tính từ (kết hợp được với các từ chỉ mức độ) như các động từ chỉ trạng thái tâm lí : yêu, ghét, kính trọng, chán, thèm, hiểu, ...các từ này mang đặc điểm ngữ pháp của tính từ, có tính chất trung gian giữa động từ và tính từ. Xét về mặt từ loại, từ chỉ trạng thái có thể là động từ, có thể là tính từ hoặc mang đặc điểm của cả động từ và tính từ (từ trung gian), song theo như định hướng trong chương trình sách giáo khoa, ở cấp tiểu học, chúng ta nên thống nhất chỉ xếp chúng vào nhóm động từ để học sinh dễ phân biệt. Biện pháp 5. Tổ chức dạy học chú ý đến đối tượng học sinh. Việc tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các câu hỏi và bài tập nhìn chung khá thuận lợi. Về cơ bản, giáo viên có thể thực hiện tuần tự như gợi ý của sách giáo viên. Tuy nhiên giáo viên cần bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng và chương trình giảm tải để dạy học theo đúng đối tượng học sinh. Không nên áp đặt nội dung kiến thức theo toàn lớp, dẫn đến sự quá tải đối với học sinh. Giáo viên cần hướng dẫn theo các đối tượng sau: a. Đối với học sinh năng khiếu: Nếu đối tượng học sinh trong lớp chủ yếu là học sinh có năng khiếu, giáo viên có thể hướng dẫn thêm để các em phát triển tư duy và vốn từ.(Chủ yếu thực hiện dạy phần mở rộng vào buổi 2) Ví dụ: Khi dạy bài "Tính từ" (TV4 Tập 1 trang 110) ở phần Nhận xét, bài tập 2 giáo viên có thể cho học sinh nêu những từ cùng nghĩa với các từ các em vừa tìm được trong bài. Chẳng hạn: + Thị trấn : nhỏ (nhỏ bé, ...) + Vườn nho : con con (be bé, ...) Ở bài tập 1 phần Luyện tập, ngoài việc cho học sinh tìm được các tính từ trong đoạn văn, để khắc sâu tác dụng của các tính từ vừa tìm được, giáo
- viên có thể hướng dẫn học sinh biết các từ ngữ đó bổ sung ý nghĩa cho từ ngữ nào.(Tính từ thường bổ sung ý nghĩa cho danh từ hoặc động từ) Ví dụ : Cái bút xinh xắn. DT TT Nó loạng choạng bò ra khỏi tổ TT ĐT b. Đối với học sinh trung bình (TB). Đối với các em học sinh này khả năng tư duy tổng hợp của các em chưa cao và có thể các em hay quên nên khi hướng dẫn tìm và rút ra ghi nhớ ở Nhận xét giáo viên có thể làm các bước như sau: + Cho 2 học sinh khá đọc yêu cầu. + Cho học sinh xác định yêu cầu. + Cho học sinh khá làm mẫu. + Giáo viên cho HS thảo luận cặp đôi để tìm ra câu trả lời đúng nhất. + Gợi ý cho học sinh lấy các ví dụ về các từ gần gũi với các em cho các em dễ hiểu. Ví dụ : Khi học sinh đã nêu được các danh từ trong bài tập 1. Giáo viên có thể cho các em lấy thêm ví dụ: GV nêu : Các em hãy lấy ví dụ về danh từ chỉ các đồ dùng trong lớp học chúng ta? Sau khi cô đặt câu hỏi xong, cô giáo lần lượt cầm từng vật lên cho học sinh gọi tên các vật ấy Giáo viên cầm cái thước lên và yêu cầu HS nêu tên vật ấy: HS1: thước, HS2 : thước gỗ, HS3 : cái thước, ... Làm tương tự với cái cặp, quyển sách, bảng, ... Sau cùng giáo viên hỏi : Các từ các em vừa nêu là từ loại gì? (danh từ) vì sao em biết ? (Vì nó chỉ tên gọi của các đồ vật). Nếu dạy như vậy học sinh sẽ nêu được rất nhiều danh từ và đó là cách cung cấp và hướng dẫn cho học sinh nhớ các danh từ nhanh mà dễ hiểu. Với cách hướng dẫn trên, tôi thấy các em học sinh trung bình của lớp tiếp thu được nội dung bài học. Các em hứng thú học tập hơn khi học phân môn Luyện từ và câu. Tóm lại, khi dạy học, giáo viên không nên cứng nhắc trong việc vận dụng phương pháp giảng dạy. Giáo viên cần vận dụng linh hoạt các phương pháp và cũng có thể thay đổi hoặc bổ sung, điều chỉnh về nội dung dạy học sao cho phù hợp với mức độ chuẩn kiến thức kĩ năng. Tạo điều kiện cho học sinh tự làm bài, tự khám phá kiến thức và rút ra ghi nhớ, tránh để các em bị tiếp thu một cách thụ động. Biện pháp 6. Tổ chức trò chơi học tập cho học sinh. Trò chơi là hình thức học mà chơi, chơi mà học. Trò chơi khi tổ chức cho học sinh tiểu học tham gia tốt sẽ góp phần trong việc giúp học sinh khắc sâu kiến thức. Đặc biệt là đối với những em học sinh học trung bình, yếu. Vì vậy, tôi đã tổ chức cho học sinh các trò chơi như sau: Ví dụ 1: Khi dạy bài danh từ.
- Sau khi học sinh học xong bài danh từ giáo viên có thể dùng hai bông hoa năm cánh, ở giữa bông hoa có từ con người. Giáo viên nêu tên trò chơi : "Ai nhanh, ai đúng". Luật chơi như sau: Các em lần lượt nêu tên gọi có liên quan tới con người. Mỗi nhóm 5 em lần lượt lên bảng viết các danh từ chỉ người vào cánh hoa. Nhóm nào viết được nhiều nhất các danh từ sẽ thắng cuộc. Sau đó giáo viên tổ chức cho học sinh chơi thử. Khi học sinh nắm được luật chơi thì cho học sinh chơi thật. Học sinh có thể tìm được rất nhiều danh từ chỉ người như : đầu, chân, tay, giáo viên, học sinh, bác sĩ, hiệu trưởng, bộ đội, ... Ví dụ 2: Khi dạy bài động từ. Khi học sinh học xong bài động từ giáo viên cho học sinh chơi trò chơi với tên gọi " Nhìn hoạt động đoán từ". Giáo viên tiến hành nêu tên trò chơi, luật chơi, chơi thử và chơi thật. Ví dụ học sinh cúi xuống và các bạn đoán các từ : cúi, tìm, ...học sinh giơ hai tay lên cao các bạn đoán các từ : giơ (tay), vươn (vai), tập (thể dục). Hoặc có thể các em sẽ chơi trò chơi mô tả hoạt động của người nông dân (một nhóm học sinh mô tả hoạt động, một nhóm khác nêu các từ chỉ hoạt động đó), ... Giáo viên cũng có thể tổ chức trò chơi cho đồng loạt học sinh trong lớp khi tiếp nối nhau nêu các từ chỉ hoạt động của em ở trường, từ chỉ hoạt động của người nông dân, ...để củng cố về động từ cho học sinh. Ví dụ 3: Khi dạy bài tính từ. Sau khi học sinh học xong bài tính từ giáo viên tổ chức cho các em chơi trò chơi: "Ai nhanh Ai đúng" Trò chơi được thực hiện như sau: Gọi 2 đội thi, mỗi đội 5 em và nêu luật: Các em xếp hàng lần lượt lên bảng viết các từ theo yêu cầu của giáo viên. Sau khi học sinh có đủ quân số, các đội thi sẵn sàng, giáo viên sẽ nêu các từ ấy chỉ gì VD: Từ chỉ đặc điểm bên ngoài của con người, từ chỉ đức tính của con người, ... Tóm lại, khi tổ chức các trò chơi nhằm củng cố về từ loại ở lớp 4, tôi nhận thấy học sinh tiếp thu bài chắc chắn hơn, các em phấn khởi học tập, biết sử dụng các từ loại để đặt câu và viết văn có hình ảnh hơn. Biện pháp 7: Xây dựng hệ thống bài tập nâng cao cho học sinh khá giỏi. Hằng năm, bản thân tôi được giao nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh năng khiếu môn Tiếng Việt lớp 4. Ngoài việc dạy cho học sinh nắm chắc khái niệm theo hệ thống chương trình của chuẩn kiến thức kĩ năng. Tôi đưa ra hệ thống bài tập ứng dụng cho học sinh làm bài để củng cố kiến thức. Các dạng bài cụ thể như sau: Dạng bài tập thứ nhất: Xác định từ loại cho từ. Kiểu 1: Cho sẵn các từ yêu cầu học sinh xác định : Danh từ, động từ, tính từ. Chú ý: Dạng bài này giáo viên không nên đưa ra các từ mà danh giới giữa động từ và tính từ khó xác định.
- Ví dụ : Xác định từ loại của những từ sau: Niềm vui, vui tươi, vui chơi, tình yêu, yêu thương, đáng yêu. Để xác định được từ loại có những từ trên ta có thể xét ý nghĩa: chỉ đối tượng, chỉ hành động hay chỉ tính chất hoặc thử những khả năng kết hợp của chúng, có thể nói : những niềm vui, hãy vui chơi, rất vui tươi, tình yêu ấy, rất đáng yêu. Vậy có thể kết luận: Niềm vui, tình yêu là danh từ. Vui chơi là động từ. Vui tươi, đáng yêu là tính từ. Kiểu 2: Yêu cầu học sinh xác định từ loại trong đoạn văn, thơ cho sẵn. Ví dụ : Xác định từ loại cho các từ trong đoạn văn sau: Hoa mai cũng có năm cánh như hoa đào, nhưng cánh hoa mai to hơn DT ĐT DT DT DT TT cánh hoa đào một chút. Những nụ mai không phô hồng mà ngời xanh DT TT DT ĐT TT ĐT TT màu ngọc bích, sắp nở nụ mai mới phô vàng. TT ĐT DT ĐT TT Trong trường hợp này học sinh phải phân cách đúng danh giới từ trong câu (đoạn) sau đó xét về ý nghĩa và khả năng kết hợp của từ để xác định và còn cả bằng cảm nhận của người xác định. Dạng bài tập thứ hai: Yêu cầu học sinh đặt câu có các từ loại đã cho. Ví dụ: Đặt câu với các từ : học sinh, lao động, mặt biển, gầy, xinh xắn, ... Dạng bài tập này phát huy được khả năng sáng tạo của học sinh, song yêu cầu giáo viên phải thực sự linh hoạt. Khi hướng dẫn học sinh làm dạng bài này lưu ý học sinh đặt câu đúng ngữ pháp và đúng nghĩa. Dạng bài tập thứ ba: Yêu cầu học sinh chuyển từ loại : Ví dụ: Chuyển các từ : vui, buồn, đẹp thành danh từ: Ở bài tập này HS phải vận dụng khả năng kết hợp của từ để đặt câu. Học sinh có thể đặt câu là: Niềm vui ấy cứ lớn dần trong tôi. Nỗi buồn ấy rồi dần dần cũng qua đi. Cái đẹp ấy khiến tôi ngây ngất. Dạng bài tập thứ tư: Xác định cách sử dụng từ đúng. Ví dụ : Đánh dấu X vào câu dùng từ đúng. Em thân thương bạn Hải Hải là người bạn thân thương của em. Hoặc chọn cách diễn đạt thích hợp Lan tính vui quá.
- Lan vui tính quá. Dựa trên các bài tập dạng cơ bản này, tôi đã góp phần tạo hứng thú cho học sinh khá giỏi được bổ trợ và nâng cao kiến thức. Từ đó, chất lượng học sinh giỏi ngày càng cao hơn. 2.3. Kết quả Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở lớp 4, tôi thấy các em gặp rất nhiều khó khăn khi xác định từ loại. Sau khi nghiên cứu kĩ nội dung chương trình và giảng dạy theo đúng chuẩn kiến thức kĩ năng và giảm tải, kết quả gần cuối năm 2019 2020 học sinh đã nắm chắc phần từ loại hơn so với đầu năm. Tôi đã kiểm tra chất lượng học sinh qua việc làm bài thi khảo sát (cùng đề bài như đầu năm và chất lượng như sau) Đề bài Tìm danh từ , động từ, tính từ trong các câu văn sau: Buổi chiều, xe dừng lại ở một thị trấn nhỏ. Nắng phố huyện vàng hoe. Những em bé Hmông mắt một mí, những em bé Tu Dí, Phù Lá cổ đeo móng hổ, quần áo sặc sỡ đang chơi đùa trước sân. Kết quả Kết quả kiểm tra đối với lớp 4B năm học 2019 2020 như sau: Hoàn thành Hoàn thành Chưa HT Sĩ tốt Lớ Năm học số p TL TL TL HS SL SL SL (%) (%) (%) 2019 2020 4B 27 7 25.9 19 70.4 1 3,7 Từ kết quả trên tôi nhận thấy: Từ chỗ xác định từ loại đúng các em đã biết dùng từ đặt câu tốt hơn, viết văn hay hơn; xác định mẫu câu kể Ai làm gì? Ai thế nào?Ai là gì? tốt hơn góp phần phát triển tốt kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Các em yêu thích môn học, hứng thú hơn trong học tập.
- 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa giải pháp . Trong những năm học qua, để giúp học sinh lớp 4 học tốt về từ loại tôi đã vận dụng một vài biện pháp trên và thấy chất lượng học sinh ngày càng cao hơn. Học sinh nắm vững về từ loại nên các em biết cách sử dụng từ tiếng Việt đúng, học sinh nắm chắc về câu, kiểu câu kể ở lớp 4 (Mẫu câu: Ai làm gì? Ai thế nào? Ai là gì) vì các câu kể này đều xác định vị ngữ dựa vào ý nghĩa của từ loại. Hơn nữa, học sinh viết văn có hình ảnh, đúng ngữ pháp. Qua đó, tôi đã rút ra được kinh nghiệm khi dạy cho học sinh học tốt phần từ loại giáo viên cần: 1. Dạy cho học sinh nắm vững các khái niệm về danh từ, động từ, tính từ theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Không nên tự ý thêm thuật ngữ hoặc định nghĩa, sách giáo khoa chưa nói đến như bổ ngữ, định ngữ, hô ngữ, ... thì trong giảng dạy cũng không yêu cầu học sinh phân biệt các kiểu cấu tạo này. 2. Hướng dẫn học sinh phân cách đường ranh giới từ trước khi xác định từ loại. Đây là bước quan trọng để học sinh không bị nhầm lẫn giữa từ và cụm từ. 3. Hướng dẫn học sinh xác định từ loại thông qua khả năng kết hợp. 4. Hướng dẫn và mở rộng cho học sinh cách phân biệt từ chỉ đặc điểm, từ chỉ tính chất, trạng thái trên cơ sở đó giúp các em xác định tốt về từ loại ( Danh từ, động từ, tính từ) 5. Tổ chức dạy học chú ý đến đối tượng học sinh nhằm phát huy tính sáng tạo và khả năng của từng đối tượng học sinh.
- 6. Tổ chức cho học sinh củng cố bài bằng các trò chơi học tập nhằm tránh sự nhàm chán và tạo hứng thú học tập cho học sinh. 7. Cần xây dựng hệ thống bài tập nâng cao nhằm bổ trợ kiến thức cho học sinh khá giỏi. 3.2. Kiến nghị, đề xuất: Giáo viên thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao hiểu biết. Sách bài soạn có vai trò trong việc giúp giáo viên chuẩn bị bài lên lớp với một số gợi ý về phương pháp cho giáo viên trong cả nước. Tuy nhiên việc vận dụng vào thực tế giảng dạy luôn luôn đòi hỏi người giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp, không ỷ lại vào sách bài soạn. Giáo viên phải làm tốt khâu chuẩn bị, bởi người giáo viên không chỉ là người truyền thụ kiến thức, nguồn thông tin, mà còn là người tổ chức hướng dẫn quá trình học tập của học sinh nhằm giúp các em từng bước hình thành và rèn luyện kỹ năng cảm thụ, có thể tự tìm hiểu vẻ đẹp của các bài văn, bài thơ. Qua đó các em vận dụng sáng tạo vào phân môn Tập làm văn một cách hiệu quả. Luôn động viên, khích lệ và trân trọng những sáng tạo của học sinh. Khuyến khích học sinh đọc sách tham khảo, có sổ tay văn học. Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của tôi đã ứng dụng và thực hiện dạy học sinh học lớp 4B học tốt phần từ loại của phân môn Luyện từ và câu. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học các cấp để sáng kiến của tôi hoàn thiện hơn và không ngừng đem lại hiệu quả trong công tác giảng dạy. Tôi xin chân thành cảm ơn!
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 440 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 221 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt dạng bài tập tìm hình ảnh so sánh trong phân môn luyện từ và câu lớp 3
27 p | 170 | 24
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 192 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 176 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 123 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 168 | 14
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp giáo viên lớp 1 dạy tốt Hoạt động trải nghiệm theo chủ đề ở trường Tiểu học Thanh Liệt
39 p | 25 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 164 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 103 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 129 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 148 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp huấn luyện chạy cự ly ngắn cho học sinh
14 p | 96 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục tại Trường Tiểu học Ngọc Lâm đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông
9 p | 60 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm cho học sinh trường Tiểu học Cổ Đô
40 p | 15 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn