Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phát triển năng lực cảm thụ văn học
lượt xem 5
download
Sáng kiến “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phát triển năng lực cảm thụ văn học” giúp cho giáo viên chủ nhiệm cũng như giáo viên bộ môn của lớp 5 nắm được các biện pháp nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh. Ngoài ra, sáng kiến này còn là tài liệu tham khảo cho các bậc làm cha, làm mẹ trong quá trình phát triển kĩ năng cảm thụ văn học cho con cũng như khơi gợi cho con vươn tới những chân trời mơ ước, xây dựng vốn ngôn ngữ văn chương cho con, tạo tiền đề cho những cấp học cao hơn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phát triển năng lực cảm thụ văn học
- 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn sáng kiến Với sự phát triển bùng nổ của công nghệ thời đại mới, con người dường như làm việc nhiều với máy móc, với kí hiệu mà ít quan tâm đến những cảm xúc, rung động qua ngôn từ. Và chắc chắn rằng đứng trước một bài thơ, bài văn hay, người ta cũng ít “xao xuyến, bâng khuâng, day dứt”. Tiếng Anh, tiếng Trung và nhiều thứ ngôn ngữ khác dần dần “lấn sân” vào tiếng Việt. Trước những biến đổi đó, những người yêu văn thơ, yêu tiếng mẹ đẻ có lẽ cũng không ít khắc khoải, trăn trở. Họ luôn muốn được tìm về với những áng văn, thơ đong đầy cảm xúc, tìm về với những dư vị êm đềm và ngọt ngào của tuổi thơ bên những câu hát ru à ơi mộc mạc của bà, của mẹ nhưng thiêng liêng, đẹp đẽ của cả dân tộc. Như chúng ta đã biết: tiếng Việt đóng vai trò to lớn trong việc hình thành những phẩm chất quan trọng nhất của con người và trong việc thực hiện những nhiệm vụ của hệ thống giáo dục. Học sinh tiểu học là lứa tuổi hồn nhiên, ngây thơ, dễ xúc động như K.A.U Sinxki có nói: “Trẻ em đi vào đời sống tinh thần của mọi người xung quanh nó, duy nhất thông qua phương tiện tiếng mẹ đẻ và ngược lại thế giới bao quanh đứa trẻ được phản ánh trong đó chỉ thông qua công cụ này”. Vì thế, việc phát triển tiếng Việt và bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt có thể nói là một công việc lớn đặt ra cho tất cả chúng ta, là những người đã và đang hoạt động trong ngành giáo dục. Vậy nên, môn Tiếng Việt có vai trò rất quan trọng, nó không chỉ hình thành kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh mà môn Tiếng Việt còn góp phần cùng các môn học khác phát triển tư duy, hình thành cho các em nhu cầu thưởng thức cái đẹp, khả năng xúc cảm trước cái đẹp, trước buồn – vui – yêu – ghét của con người. Cảm thụ văn học, chính là sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ của văn học thể hiện trong tác phẩm, cuốn truyện, bài văn, bài thơ hay trong cả một từ ngữ có giá trị của một câu văn, câu thơ... Để học sinh có được các kĩ năng trên thông qua các giờ Tập đọc, Tập làm văn, Luyện từ và câu, Chính tả và cả những giờ Âm nhạc, Mĩ thuật hay các hoạt động ngoài giờ lên lớp... thì các em cần có năng lực cảm thụ văn học tốt, các em sẽ cảm nhận được nhiều nét đẹp của thơ văn, phong phú thêm về tâm hồn, nói - viết tiếng Việt thêm trong sáng và sinh động. Bên cạnh đó cảm thụ văn học không những góp phần vào học Tiếng Việt nói riêng mà còn giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ cho học sinh. Đối với học sinh tiểu học, nhiệm vụ bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết, dưới sự gợi mở, dẫn dắt của thầy, cô giáo, những bài văn, bài thơ hay trong sách giáo khoa sẽ đem đến cho các em bao điều kì thú và hấp dẫn. Đặc biệt đối với học sinh lớp 5, cảm thụ văn học còn giúp các em hiểu sâu nội dung bài đọc, vận dụng vào viết văn, làm thơ,... tạo đà tốt cho học sinh học lên cấp Trung học cơ sở. Các bài thơ, văn ở chương trình tiểu học mà đặc biệt là các bài thơ, bài văn trong chương trình lớp 5 vô cùng phong phú về đề tài, thể loại… Chính vì vậy, chúng tôi thiết nghĩ, rất cần các em khám phá, cảm nhận để thêm yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước, yêu những gì gần gũi nhất… 1
- Qua những luận điểm đó, tôi đã chọn sáng kiến: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phát triển năng lực cảm thụ văn học” để tìm hiểu, nghiên cứu và đã vận dụng trong dạy học môn Tiếng Việt lớp 5 trong những năm gần đây có nhiều biểu hiện đáng mừng. 1.2. Điểm mới của sáng kiến Sáng kiến “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phát triển năng lực cảm thụ văn học” giúp cho giáo viên chủ nhiệm cũng như giáo viên bộ môn của lớp 5 nắm được các biện pháp nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh. Ngoài ra, sáng kiến này còn là tài liệu tham khảo cho các bậc làm cha, làm mẹ trong quá trình phát triển kĩ năng cảm thụ văn học cho con cũng như khơi gợi cho con vươn tới những chân trời mơ ước, xây dựng vốn ngôn ngữ văn chương cho con, tạo tiền đề cho những cấp học cao hơn. Ngoài ra, thông qua sáng kiến này, bạn đọc còn cảm nhận được vẻ đẹp của các tác phẩm văn, thơ trong chương trình Tiếng Việt lớp 5. Qua đó, tiếp tục khai phá những vẻ đẹp mới, tìm tòi, sáng tạo những bài văn hay, những bài thơ nhỏ để mỗi giờ dạy là những rung động mới của tuổi học trò, là những dấu lặng về tình đời, tình người chứa chan trong thế giới hiện đại này. 1.3. Phạm vi nghiên cứu và áp dụng - Mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy môn Tiếng Việt lớp 5 tại trường tiểu học tôi đang dạy. - Các biện pháp giúp học sinh lớp 5A phát triển năng lực cảm thụ văn học tại trường tiểu học tôi đang dạy. 2
- 2. NỘI DUNG 2.1. Thực trạng nhận thức về cảm thụ văn học của nhà trường, giáo viên và học sinh 2.1.1. Nhà trường - Nhà trường chỉ quản lí chương trình và chất lượng chung nên phần cảm thụ văn học trong môn Tiếng Việt chưa thể hiện rõ, chưa có tiêu chí để đánh giá giáo viên cũng như học sinh một cách rõ ràng, chính xác. - Nhà trường ít có những cuộc thi về cảm thụ văn học, ít khi lập ra đội giỏi Văn để rèn luyện, đào tạo. 2.1.2. Giáo viên Bên cạnh những giáo viên đã có nhận thức tốt về việc cảm thụ văn học và dạy cảm thụ văn học cho học sinh thì một số ít giáo viên giảng dạy chưa coi trọng việc hướng dẫn học sinh cảm thụ nội dung và nghệ thuật trong tất cả các phân môn của môn Tiếng Việt. Cho nên chưa phát triển được năng lực cảm thụ bài văn, bài thơ, đoạn văn, đoạn thơ hay câu văn, câu thơ cho học sinh. Giáo viên chưa vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học mới, chưa tìm ra được các biện pháp dạy học có hiệu quả để áp dụng vào việc rèn kĩ năng cảm thụ văn học cho học sinh; Nếu có cảm thụ văn học thì đa số giáo viên áp đặt cách cảm thụ của mình, trò thừa nhận ý kiến của thầy, cảm thụ lại những điều mà thầy cảm thụ được. Mà chúng ta đã biết rằng việc cảm thụ của người lớn có những điểm giống nhưng cũng có những điểm khác so với cảm thụ của trẻ. Trong các tiết học môn Tiếng Việt, có thể học sinh phát hiện được các biện pháp nghệ thuật song chưa hiểu được tác dụng của tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đó có tác dụng gì? Bởi chính giáo viên dạy chưa tạo điều kiện để học sinh cảm thụ văn học tốt thông qua các giờ dạy dẫn đến các tiết viết bài tập làm văn của học sinh chưa vận dụng được khả năng cảm thụ văn học làm cho các bài văn miêu tả chưa hay, chưa sinh động, khả năng bộc lộ cảm xúc của học sinh còn hạn chế. Nguyên nhân chính là do quá trình nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của việc bồi dưỡng cảm thụ văn học cho học sinh chưa thật đầy đủ, kiến thức về lĩnh vực cảm thụ văn học của giáo viên còn nhiều hạn chế, đặc biệt là những biện pháp, kĩ năng bồi dưỡng cảm thụ văn học của giáo viên cho học sinh còn nhiều lúng túng, hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu, do đó chưa thu hút được học sinh vào hoạt động cảm thụ một cách tích cực. Giáo viên không trả lời được mục đích tác giả viết bài này, câu chuyện này để làm gì? Một số giáo viên có hiểu nhưng diễn đạt không rõ ràng. Số giáo viên phân tích sai cách đọc thơ cũng không phải là ít, mà đọc sai thì sẽ hiểu sai, sẽ cảm thụ không đúng, dẫn đến chất lượng bồi dưỡng cảm thụ văn học cho học sinh trong nhà trường Tiểu học hiện nay còn nhiều hạn chế. Tìm hiểu thực trạng dạy học cảm thụ văn học ở lớp 5, tôi thấy rằng việc dạy học cảm thụ văn học chưa đáp ứng được mục tiêu, nhiệm vụ môn học. Không giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong các bài văn, bài thơ, cũng có nghĩa là không hồi đáp được văn bản, tức là việc cảm thụ văn học thực sự chưa đạt yêu cầu. Bên cạnh đó, nội dung cảm thụ văn học chưa được phân tách ra rõ ràng mà 3
- chỉ tích hợp vào các giờ Tập đọc, Tập làm văn, Luyện từ và câu… khiến giáo viên muốn hướng dẫn học sinh cảm thụ văn học cũng không đủ thời gian, các câu hỏi phần tìm hiểu bài còn mang tính chất áp đặt. 2.1.3. Học sinh Học sinh chưa thực sự hiểu từ “cảm thụ văn học”, “hình ảnh đẹp”,... Các em chưa thấy được mỗi bài văn, bài thơ là một văn bản nghệ thuật, dù dài hay ngắn thì nó cũng chứa lượng thông tin nhất định về ngôn từ, hình ảnh, sự kiện, tình cảm,... cho nên những thông tin đó tác động vào tâm hồn ngây thơ, hiếu động của các em bị hạn chế. Học sinh còn chậm trong quá trình nhận diện ngôn ngữ trong văn bản, kĩ năng đọc thành thạo để nắm được đề tài và những từ ngữ cần tìm nghĩa để từ đó hiểu nội dung của văn bản còn nhiều hạn chế. Đọc và hiểu còn đang tách rời nhau học sinh đọc nhưng học sinh không hiểu, đọc nhưng không tư duy cái được đọc, đọc mà không hiểu huống gì nói đến cảm thụ. Phần tìm hiểu nội dung văn bản, học sinh trả lời các câu hỏi sách giáo khoa còn máy móc, phụ thuộc quá nhiều vào từng câu, từng chữ trong văn bản, trong suy nghĩ và trả lời học sinh chưa chủ động và chưa có tính sáng tạo. Phần đông học sinh chỉ dừng lại ở phần tìm hiểu văn bản mà chưa chủ động trong việc diễn đạt kết quả cảm thụ, chưa biết rút ra bài học về nhận thức, về tình cảm, hành vi sau khi được đọc, được nghe. Đặc biệt học sinh chưa biết suy nghĩ để phê phán hay khẳng định nội dung văn bản đưa ra, học sinh không biết quan tâm đến mong muốn mà người viết đặt vào chính đối tượng người đọc, người nghe. Kết quả khảo sát khả năng cảm thụ văn học của học sinh lớp 5A đầu năm học 2018 – 2019 của giáo viên chủ nhiệm như sau: Tổng Điểm 1 – 2 Điểm 3 – 4 Điểm 5 - 6 Điểm 7 - 8 Điểm 9 - 10 số HS SL % SL % SL % SL % SL % 26 1 3,8 6 23,07 12 46,15 3 11,5 4 15,48 Chính vì vậy, tôi thấy trong các nhà trường tiểu học việc đưa ra sáng kiến “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phát triển năng lực cảm thụ văn học” là vấn đề cần thiết và cấp bách. 2.2. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phát triển năng lực cảm thụ văn học 2.2.1. Giáo viên – người truyền lửa cần có các kĩ năng về cảm thụ văn học Để giúp học sinh có kĩ năng cảm thụ văn học thì giáo viên phải có các kĩ năng cơ bản. Chính giáo viên là người truyền lửa, là người khơi gợi cho các em đến với những điều đẹp đẽ nhất của văn chương mà tác giả gửi gắm. Do đó, tôi xin nêu ra 4 kĩ năng cơ bản trong cảm thụ văn học như sau: 2.2.1.1. Kĩ năng đọc hiểu ngôn từ Chất liệu của văn học là ngôn từ. Ở cấp độ ban đầu này, đọc hiểu ngôn từ được xem như là “nhận ra nghĩa của chữ”. Tuy nhiên, ở mức thấp nhất này cũng có những đòi hỏi nhất định, đó là phải hiểu đúng. Nếu không hiểu hoặc hiểu sai sẽ dẫn đến cảm thụ sai lệch nội dung của văn bản. Trong văn bản văn học ẩn đằng sau ngôn từ là tư tưởng, tình cảm, thái độ của tác giả trước những vấn đề của cuộc sống. Vì vậy, ngay ở bước đầu tiên, 4
- song song với việc nhận ra nghĩa của từ là sự rung động của người đọc qua các phương diện ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. 2.2.1.2 . Kĩ năng phát hiện “chỗ vấp” thẩm mĩ Ở đây có thể hiểu “chỗ vấp” thẩm mĩ là những tín hiệu thẩm mĩ vi mô. Về khái niệm “tín hiệu thẩm mĩ”, GS. Bùi Minh Toán cho rằng tín hiệu thẩm mĩ . là loại tín hiệu có chức năng thẩm mĩ: biểu hiện cái đẹp, truyền đạt và bồi dưỡng cảm xúc về cái đẹp. Nó cũng cần có hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt, nhưng cái được biểu đạt là ý nghĩa thẩm mĩ”. Còn thế nào là “tín hiệu thẩm mĩ vi mô”; tác giả cũng đưa ra quan niệm “là những tín hiệu được cấu tạo trên cơ sở một từ hay một ngữ. Thường gọi là nhãn tự”. Trong quá trình đọc văn bản, không phải tất cả các từ, ngữ đều có hàm ý. Chỉ những từ, ngữ nào chứa đựng lượng thông tin lớn, là cánh cửa mời gọi người đọc mở ra để bước vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm được gọi là “chỗ vấp thẩm mĩ”. Những từ ngữ này khiến người đọc phải dừng lại, quan sát chúng, tự đặt ra những câu hỏi và tự lí giải. Sự khác biệt giữa từ ngữ thông thường và từ ngữ được coi là “chỗ vấp thẩm mĩ” là gì? Cần hiểu rằng ngôn ngữ mang bản chất kí hiệu. Bất kì một từ, ngữ nào cũng gồm hai mặt cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Nhưng ở tín hiệu thẩm mĩ vi mô thì cả hai mặt của từ ngữ thông thường trở thành cái biểu đạt mới cho cái được biểu đạt mang tính thẩm mĩ cao. Ví dụ: Trong bài thơ Cửa sông của nhà thơ Quang Huy, với khả năng liên tưởng và sử dụng lớp từ ngữ rất “đắt” như “then khoá, không khép, mở ra” giúp học sinh hình dung ra cửa sông như cánh cửa để học sinh dễ dàng nắm bắt. Bên cạnh đo, tác giả đã nhẹ nhàng đưa vào các từ ngữ: ùa ra, tìm về, đến… giúp học sinh nhận biết được hành trình về với cội nguồn, với nơi đã sinh ra của cửa sông. Qua đó, nhắc nhở ta nhớ đến công lao, cơ đồ mà tổ tiên đã để lại. Chỗ vấp thẩm mĩ không chỉ nằm ở từ ngữ mà còn nằm ở cấu trúc của câu thơ. Người đọc phải tinh ý để phát hiện ra những điều khác thường của câu thơ, dòng thơ. Một tác phẩm văn học thực sự có giá trị, thực sự đem lại cho độc giả những cảm xúc mới mẻ, những rung động sâu sắc phải có sự hài hòa giữa nội dung và hình thức. Cái tinh, cái lí phải chứa chan, phải sâu sắc nhưng lời lẽ phải dạt dào, lấp lánh. Vì vậy, khi bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh tiểu học, chúng ta không chỉ giúp các em hiểu sâu, hiểu rõ về nội dung tức là giúp các em giải mã được cái tình ý bên trong của tác phẩm mà còn giúp các em tiếp cận được vẻ đẹp của ngôn từ, vẻ đẹp của cách nói văn chương. Các tác phẩm văn học hay thường chứa đựng các từ, ngữ thậm chí là một từ, một tiếng duy nhất mang tính gợi tả, gợi cảm, là loại từ đắt nhất, có giá trị nhất. Nó giống như chiếc chìa khóa mở cửa vào khu vườn bí mật của tác phẩm. Ở đó, đầy ắp tình người, tình đời, chan chứa những nụ cười khi hạnh phúc, những giọt nước mắt khi đau khổ... Chính giáo viên là người khơi gợi, kích thích, hướng dẫn học sinh đi tìm chiếc chìa khóa mở cánh cửa kì diệu ấy. Trong thế giới ngôn từ của tác phẩm, người đọc phải phát hiện ra các từ ngữ đặc sắc, gói kết cái hồn phách của bài thơ – cái mà có nhà nghiên cứu gọi là “nhãn tự”. Đó có thể là lớp từ láy, tượng hình, 5
- tượng thanh, là các tính từ tuyệt đối, là những từ được dùng với nghĩa chuyển, với phép ẩn dụ, nhân hóa... Sử dụng hệ thống câu hỏi hoặc kĩ năng giảng bình có thể giúp học sinh phát hiện nhanh các từ chìa khóa. Từ “phát hiện” đến “giải mã”, giáo viên cần sử dụng các phương thức giải nghĩa từ để bóc tách các lớp nghĩa, từ đó chuyển mức độ “hiểu” của học sinh sang “cảm thụ”. Tại đây, kết hợp với giảng bình có thể khuyến khích các em tự phát biểu ý kiến về “cách dùng từ”, “tác dụng của việc dùng từ” trong thơ. Chẳng hạn như khi tiếp nhận “Hạt gạo làng ta”, điệp từ “có” chính là cái chốt của bài. “Có” ở đây là “kết tinh”, là “hàm chứa” những gì đẹp nhất. Phát hiện ra chỗ vấp thẩm mĩ là phát hiện ra tính nghệ thuật của ngôn ngữ văn chương so với ngôn ngữ đời sống. Khi nào ngôn từ được sử dụng “không bình thường” về mặt ngữ âm, từ vựng, cú pháp thì đấy là chỗ có vấn đề. Một câu thơ toàn vần bằng, một tứ thơ dồi dào vần trắc, sự lặp lại của từ ngữ, các biện pháp tu từ, sự ngắt nhịp, cấu trúc câu đảo vị trí của chủ ngữ vị ngữ hoặc thiếu các thành phần câu... đấy chính là biển chỉ đường, là những con đường dẫn dắt người đọc đến với các tầng ý nghĩa của văn bản văn học. 2.2.1.3. Kĩ năng lí giải tín hiệu thẩm mĩ Tín hiệu thẩm mĩ có một tính chất là tính có lí do, có thể lí giải được. “Tính có lí do, có thể lí giải được” là điểm khác với tín hiệu ngôn ngữ thông thường. Bản chất của tín hiệu ngôn ngữ thông thường là có tính võ đoán: tức là giữa hình thức và khái niệm không có mối tương quan bên trong nào, không thể giải thích được lí do của mối quan hệ giữa hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Nhưng ở tín hiệu thẩm mĩ, mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt có thể cắt nghĩa được, giải thích được, bởi vì “khi lựa chọn một cái biểu đạt nào đó để biểu đạt cho một ý nghĩa thẩm mĩ nào đó, người nghệ sĩ đã căn cứ vào một mối quan hệ nhất định (ẩn dụ hay hoán dụ)” Một trong các biện pháp nâng cao năng lực cảm thụ văn học là phát hiện, khai thác các phép tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ... Biện pháp tu từ làm cho tác phẩm trở nên lung linh, lấp lánh, giàu sức gợi, sức tả. Phân môn Luyện từ và câu lớp 3 đã chuẩn bị những tri thức cơ bản cho học sinh về so sánh và nhân hóa. Với các biện pháp khác như điệp từ ngữ, câu hỏi tu từ, điệp kiểu câu, ẩn dụ, hoán dụ, chơi chữ... cần được định hướng rõ ràng cho học sinh khi tiếp cận với văn bản thơ. Từ các câu hỏi “nhận diện” biện pháp tu từ, giáo viên nên tăng cường các yêu cầu phân tích giá trị, tác dụng của các biện pháp tu từ đó. Vì vậy, có nhiều tín hiệu thẩm mĩ là sáng tạo riêng, mang tính cá nhân của tác giả, lần đầu tiên xuất hiện trong văn chương nghệ thuật và rất độc đáo, nhưng độc giả vẫn giải mã được trên cơ sở thuyết phục. Hình thành ý nghĩa văn bản là sự tổng hợp của những lí giải: lí giải tín hiệu thẩm mĩ, lí giải hình tượng nghệ thuật, lí giải ngữ cảnh tình huống và ngữ cảnh văn hóa. Ý nghĩa của văn bản văn học chỉ được thuyết phục khi những lí giải trên phù hợp với những quy luật của đời sống khách quan và quy luật của tình cảm, cảm xúc con người. 2.2.1.4. Kĩ năng phân tích hình tượng nghệ thuật 6
- Ở trên đã nói, bản thân ngôn từ trong văn chương đã có tính hình tượng: biểu cảm và gợi tưởng tượng, liên tưởng. Đó là sự có mặt của các từ láy tượng hình, từ láy tượng thanh, sự tổ chức lại ngôn từ, các biện pháp tu từ... Tổng hợp các tín hiệu thẩm mĩ trên tạo thành hình tượng nghệ thuật của văn bản văn học. Hình tượng nghệ thuật là một hệ thống các tín hiệu thẩm mĩ vi mô liên kết, tích hợp tạo ra, bao trùm cả tác phẩm hay một bộ phận trong tác phẩm chứ không tồn tại ở một câu hay một đoạn. Hình tượng người mẹ trong bài thơ Bầm ơi của Tố Hữu: Người mẹ dãi dầu nắng mưa: Bầm ơi, có rét không bầm? Heo heo gió núi lâm thâm mưa phùn Bầm ra ruộng cấy bầm run Chân lội dưới bùn tay cấy mạ non Nhưng lớn lao hơn là người mẹ ấy vẫn đau đáu nỗi thương con: Mạ non bầm cấy mấy đon Ruột gan bầm lại thương con mấy lần Thể thơ lục bát xuyên suốt bài thơ với cách dùng từ ngữ giản dị, cách gieo vần đặc sắc cùng lớp từ láy có một không hai đã làm nên nét đặc sắc riêng có của thơ Tố Hữu. Như thế, nếu chú ý nắm bắt, phân tích được bản chất của hình tượng nghệ thuật do nhà văn sáng tạo, sẽ có cơ hội để hiểu sâu ý đồ của tác giả, mở rộng so sánh để rút ra những nét sáng tạo riêng, tương đồng hay khác biệt với các tác giả, hình tượng nghệ thuật khác. Phân tích hình tượng nghệ thuật phải nhận thức được cái riêng độc đáo và cái chung mang tính cộng hưởng của hình tượng. Là sản phẩm của trí tưởng tượng nhà văn, hình tượng nghệ thuật thể hiện rõ nét cá tính tác giả (vùng thẩm mĩ, ngôn từ, bút pháp...). Đồng thời hình tượng phải có tính điển hình, khái quát cho một bộ phận, một số đông trong xã hội. Nếu giáo viên có cảm thụ văn học tốt cộng với năng lực tích hợp - tích hợp văn học với ngôn ngữ, văn học với văn hóa, văn học với các ngành khoa học khác, văn học với cuộc đời..., chắc chắn giáo viên sẽ giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực giao tiếp, năng lực tư duy sáng tạo, năng lực thẩm mĩ, năng lực cảm thụ văn học và những phẩm chất tốt đẹp, những quan niệm sống và phép ứng xử nhân văn; giúp học sinh nhận biết được ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng và phương tiện tư duy của con người, là công cụ để học tốt tất cả các môn học; văn học là loại hình nghệ thuật ngôn từ phản ánh đời sống, xã hội và con người; từ đó có ý thức trau dồi ngôn ngữ, nuôi dưỡng hứng thú đọc sách và khám phá tác phẩm văn học” 2.2.2. Luyện tập các thao tác trong cảm thụ văn học cho học sinh Các thao tác sơ giản trong cảm thụ văn học bao gồm: đọc - hiểu, quan sát – lựa chọn, phân tích, tổng hợp, so sánh – liên tưởng, kĩ năng diễn đạt… 2.2.2.1. Kĩ năng đọc – hiểu Kĩ năng đọc – hiểu là kĩ năng đọc và lĩnh hội các thông tin từ các lớp ý nghĩa của ngôn từ trong văn bản. Học sinh cần được rèn luyện để có khả năng đọc – hiểu một cách chính xác và nhanh chóng.Đọc văn bản nghệ thuật, học sinh không chỉ hiểu nội dung văn bản mà còn phải cảm thụ được một loại hình nghệ 7
- thuật lấy ngôn ngữ làm chất liệu. Dạy đọc hiểu văn bản nghệ thuật gồm việc làm cho học sinh nắm được nội dung văn bản, mục tiêu của văn bản, đồng thời dạy cho học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn từ, hình tượng văn chương làm nên nội dung văn bản. Như vậy, với một nghĩa nào đó, dạy đọc hiểu văn bản nghệ thuật là dạy tiếp nhận văn học, hay còn gọi là dạy cảm thụ văn học. 2.2.2.2. Kĩ năng quan sát - lựa chọn Học sinh phải biết quan sát để tìm ra các chi tiết, lựa chọn chi tiết tiêu biểu trước khi tái hiện chúng một cách có ý nghĩa nghệ thuật. Bồi dưỡng vốn sống là một trong những nội dung của bồi dưỡng cảm thụ văn học. Đặc biệt là phân môn Tập đọc, với nhiệm vụ bồi dưỡng cảm thụ văn học, có trách nhiệm lớn nhất trong việc phát triển vốn sống, nhất là vốn kinh nghiệm sống cho học sinh.Vì hơn bất cứ môn học nào khác, phân môn Tập đọc có khả năng đem đến cho các em nhiều tình huống đạo đức - nhân văn. Mà ở đó, con người trong quá khứ, con người ở nhiều nơi trên thế giới đã từng ứng xử một cách giàu trí tuệ và giàu lòng nhân ái… Đó là những tri thức và kinh nghiệm có tác dụng làm giàu thêm vốn sống cũng như phát triển tốt tình cảm, tâm hồn cho các em. Hướng dẫn học sinh ghi chép những gì thu nhận được, tích luỹ lại những điều bổ ích làm giàu thêm cho vốn sống. Rèn cho học sinh có thói quen ghi “Sổ tay văn học”, ghi lại những từ ngữ hay, những hình ảnh đẹp, câu thơ, đoạn văn em thích hoặc những điều em cảm nhận được để trau dồi năng lực cảm thụ văn học cho bản thân. 2.2.2.3. Kĩ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, liên tưởng Là những kĩ năng thuộc tư duy lôgíc và tư duy hình tượng. Đặc biệt, các kĩ năng, thao tác này được sử dụng để phát hiện ra đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, chỉ ra sự khác nhau giữa hình tượng này với hình tượng khác, từ đó làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo của tác phẩm và tài năng của nhà văn. 2.2.2.4. Kĩ năng diễn đạt Kĩ năng diễn đạt được sử dụng trong tất cả các hoạt động của cảm thụ văn học, đó là khâu cuối cùng, diễn đạt kết quả cảm thụ bằng lời văn của mình. Khi nói hoặc khi viết, lời văn phải đủ ý, rõ ràng, dùng từ phải chính xác và phải được trau chuốt. Tóm lại, luyện tập và củng cố vững chắc các thao tác trong cảm thụ văn học cho học sinh là biện pháp tốt nhất để nâng cao hiệu quả của cảm thụ văn học. 2.2.3. Hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm Đọc diễn cảm là thể hiện sáng tạo tác phẩm văn học trong giọng đọc nhằm tác động đến những người nghe. Nếu như các biện pháp khác thông thường tác động đến lí trí thì đọc diễn cảm, trước hết và chủ yếu tác động đến tình cảm. Bởi vì, về thực chất đọc diễn cảm thuộc nghệ thuật trình diễn, nó có những điểm tương đồng với ngâm thơ hoặc trình diễn ca khúc. Nếu giáo viên đọc diễn cảm tốt thì sẽ tạo nên bầu không khí tươi mát trong giờ học. Người học, trong chừng mực nào đó, có thể thưởng thức giọng đọc và dễ sản sinh những ấn tượng, xúc động tự nhiên về văn bản. Có thể thấy rất rõ rằng trên thực tế học sinh ở nhà đã tiếp xúc với văn bản không chỉ một lần; việc lên lớp đọc lại văn bản nếu không 8
- tạo được sự khác biệt thì dễ gây nhàm chán và mất tập trung. Do đó, bằng hình thức đọc diễn cảm, giáo viên có thể tạo cho học sinh những bất ngờ, hoặc sự hứng thú và có thể khiến các em bỗng nhiên có cảm nhận mới mẻ về văn bản. Đó là chưa nói nếu như giáo viên yêu cầu học sinh trình bày thì có thể tạo cơ hội cho các em bộc lộ bản thân. Đương nhiên, giáo viên phải gieo vào học sinh ý thức đọc sao cho cuốn hút chứ không phải là qua chuyện, và đọc ở đây là thể hiện sự cảm thụ và thể nghiệm sâu sắc về tác phẩm, là làm sao để người khác cũng có thể sản sinh những ấn tượng tương tự như mình. Diễn cảm ở đây hoàn toàn không phải là ở sự uốn éo đầu lưỡi mà thể hiện những cảm xúc nội tại của tâm hồn. Vấn đề đang nói sẽ sáng tỏ hơn khi chúng ta làm rõ vấn đề tại sao lại phải đọc diễn cảm. Trước hết, vì ngôn từ văn bản nghệ thuật được tổ chức đặc biệt, nhà văn phải là nghệ sĩ ngôn từ. Ngôn từ văn học là ngôn từ mang tính hình tượng, biểu cảm, và ở những tác phẩm thơ chúng ta có thể nói đến tính nhạc của ngôn từ. Đọc thơ là để làm cho tác phẩm thơ vang lên như một bản nhạc làm cho nó ngân nga trong hồn người. Giáo sư Trần Thanh Đạm cho rằng đọc diễn cảm tác phẩm thơ là phải đọc làm sao cho tác phẩm “sáng hết hình và ngân hết nhạc”. Tuy nhiên, một phương diện khác quan trọng hơn, đấy là nội dung cảm hứng của văn bản, sản phẩm của việc thể hiện những rung động mãnh liệt, cảm hứng nồng nàn, cháy bỏng của nghệ sĩ vào tác phẩm. Đọc diễn cảm là làm sao lột tả được nội dung tình cảm của nó, phải đọc đúng giọng điệu, làm lây lan cảm xúc của nhà văn đến người đọc, truyền cảm hứng cho độc giả. Ngay tên gọi đã nói đúng bản chất của việc đọc diễn cảm, đó là người đọc phải thể hiện xúc cảm, tình cảm trong giọng đọc. Những cảm xúc này không phải giả tạo mà phải là cảm xúc chân thành, sâu sắc về văn bản. Nói đọc diễn cảm thuộc nghệ thuật trình diễn trước hết không phải là “khoe giọng” mà là sự thể hiện xúc động của trái tim. Chính vì thế, giáo viên sử dụng thích đáng biện pháp này sẽ tạo cho học sinh những ấn tượng tươi mới, những xúc động mạnh mẽ về văn bản; đồng thời nó có khả năng kích thích liên tưởng, tưởng tượng tạo sự thâm nhập thuận lợi vào thế giới nghệ thuật của văn bản. Cho nên, đây là biện pháp có tác dụng rèn luyện cảm thụ văn học cho học sinh. Giáo viên có thể sử dụng biện pháp này trước khi hướng dẫn học sinh bước vào phân tích cụ thể văn bản, hoặc kết hợp với việc phân tích; cũng hoàn toàn có thể sử dụng sau khi đã hoàn tất việc tìm hiểu văn bản. ở mỗi thời điểm nó đều có tác dụng riêng; hoặc là tạo những ấn tượng chung; hoặc kiểm nghiệm hay khắc sâu một sắc thái tình cảm nào đó; hoặc củng cố, thống nhất, nâng cao mọi ấn tượng về văn bản. Trong đọc diễn cảm, nhất là thơ thì việc phân tích nhịp điệu thơ cũng cần được chú trọng. Đây là một biện pháp rất quan trọng giúp các em phát triển năng lực cảm thụ. Với lứa tuổi nhi đồng, nhịp tim, nhịp thở của các em nhanh, khả năng đọc và phát âm dài chưa phát triển toàn diện. Do đó, muốn các em nắm bắt được câu, từ, nhịp điệu của bài, giáo viên đi vào phân tích nhịp điệu của thơ sao cho phù hợp với cách cảm, cách nghĩ và tâm, sinh lí của các em. Giúp các em nhận ra được nhịp điệu thơ là cách để giúp các em tìm thấy hứng thú khi đọc thơ, thấy được tính nhạc, sự ngân nga, du dương ở trong từng câu, từng chữ của bài thơ. 9
- Thơ khác văn xuôi là ở nhịp điệu. Sự trùng điệp tạo nên nhịp điệu tương ứng trong suốt bài thơ, những âm vang, những tiếng vọng sau mỗi tác phẩm. Có thể nói thơ là cây đàn và mỗi từ là một nhịp, một cung bậc. Chính nhịp điệu thơ làm cho thơ ngân vang. Nhịp điệu bao gồm nhiều yếu tố âm tiết, đoạn tiết tấu, giai điệu, vần thơ. Sự kết hợp hài hòa tạo nên nhịp điệu thơ. Phong cách của nhà thơ cũng lấy nhịp điệu thơ để phân biệt. Trong thơ việc sử dụng các từ tượng hình, từ tượng thanh, các từ láy, các âm bằng, trắc... tạo nên nhịp điệu bên ngoài, tính nhạc nổi rõ trước mắt. Thông qua nhạc điệu bên ngoài mà người đọc cảm nhận được nhạc điệu bên trong của tác phẩm. Đây là điều làm nên sức hút của nhà thơ, chất riêng của mỗi tác phẩm. Nhịp điệu bên trong thể hiện cái hồn, cái nóng ấm của tâm hồn nhà thơ. Đó là cảm xúc buồn hay vui, sôi nổi hay sâu lắng, bâng khuâng hay mạnh mẽ... “Hành trình của bầy ong”, “Sắc màu em yêu” (Phạm Đình Ân)... là những bài thơ được “xử lí” nhịp điệu khá kĩ lưỡng. Mỗi bài thơ có một sự ngân hưởng riêng. “Sắc màu em yêu” có nhịp đập nhanh, sôi nổi trong khi “Hành trình của bầy ong” lại chầm chậm phả vào hồn người cái cảm giác bâng khuâng, nhẹ nhàng, sâu lắng như lời hát ru… 2.2.4. Trần thuật sáng tạo Đây là biện pháp thường được dùng với học sinh THCS. Tuy nhiên, trong quá trình dạy Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn Tập làm văn, Tập Đọc ở lớp 5 cũng cần sử dụng ở mức đơn giản. Trần thuật sáng tạo là tự đặt mình vào một nhân vật nào đó trong văn bản mà trần thuật lại câu chuyện của nó. Hình thức này phát huy sáng tạo của học sinh, rèn luyện năng lực hoá thân, nhập thân vào nhân vật. Khi trần thuật, trong chừng mực nào đó, học sinh phải đặt mình vào vị trí nhân vật, thể nghiệm những gì mà nhân vật nếm trải trong tình huống của nó, từ đó hiểu sâu sắc hơn về nhân vật và mở rộng kinh nghiệm đời sống. Biện pháp này khiến học sinh hào hứng học tập, xoá bỏ khoảng cách với văn bản, phát huy được sự sáng tạo. Giáo viên phải thực hiện biện pháp này một cách linh hoạt, không nên rập khuôn. Việc trần thuật có thể thay cho việc đọc, hoặc thực hiện ở phần củng cố bài học, tuỳ vào đối tượng học sinh. Giáo viên nhất thiết phải có sự động viên khích lệ cũng như những hướng dẫn, uốn nắn cần thiết. Mục đích chính của trần thuật sáng tạo không phải là để học sinh nắm vững hệ thống cốt truyện của văn bản mà là con đường để cảm thụ văn bản. 2.2.5. Đặt những câu hỏi gợi cảm xúc, liên tưởng, tưởng tượng Trước hết là những câu hỏi gợi cảm xúc, ở dạng đơn giản nhất chính là những câu hỏi trắc nghiệm tình cảm. Những câu hỏi này có thể kiểm tra phản ứng tình cảm của học sinh; mặt khác nó thúc đẩy sự đồng cảm, khuyến khích các em lắng nghe tiếng nói của trái tim. Chẳng hạn, sau khi đọc diễn cảm, giáo viên có thể hỏi: Em có ấn tượng thế nào về văn bản? Dạng câu hỏi này thường được gọi là câu hỏi ấn tượng chung. Và ở dạng tương tự, sẽ có các câu hỏi như: Em ấn tượng thế nào về (đoạn thơ, khổ thơ, câu thơ…trong bài thơ; hay hành động, ngôn ngữ, tích cách nhân vật… trong truyện)? Nhưng cũng có những hình thức đặt câu hỏi sáng tạo hơn, dựa vào việc khơi gợi liên tưởng của học sinh mà tạo sự đồng cảm, thể nghiệm văn bản. Ví dụ: Trong bài Ê – mi – li, con của nhà thơ 10
- Tố Hữu, giáo viên có thể hỏi các câu hỏi như Em nghĩ gì về chú Mo – rin – xơn? Em sẽ nói gì khi gặp lại con gái của chú Mo – rin – xơn?... Những câu hỏi dạng này khiến học sinh phải huy động kinh ngiệm bản thân để soi sáng bản chất nhân vật, dễ đồng cảm sâu sắc với tình huống và cảnh ngộ của nó. Ngoài ra, giáo viên có thể dùng những câu hỏi khơi gợi tưởng tượng của học sinh. Văn học dùng ngôn ngữ làm chất liệu, do tính chất phi vật thể của ngôn ngữ nên hình tượng văn học không thể tác động trực tiếp vào giác quan của người đọc, mà chỉ tác động gián tiếp thông qua liên tưởng, tưởng tượng. Cho nên thưởng thức văn bản văn học đòi hỏi phải huy động tưởng tượng, hình thức tưởng tượng để làm nổi bật lên bức tranh đời sống trong văn bản thường được gọi là tưởng tượng tái tạo. Để huy động hình thức tưởng tượng này của học sinh vào cảm thụ văn bản, giáo viên có thể đặt các câu hỏi với dạng sau: Em hình dung thế nào về bức tranh (Với bài Quang cảnh làng mạc ngày mùa của Tô Hoài) được tác giả thể hiện trong tác phẩm? Ở đây, hoàn toàn không phải là việc phân tích bức tranh mà là yêu cầu học sinh phải có cái nhìn bên trong thầm kín, phải hình dung thấy bức tranh đó trong đầu mình, và trong chừng mực nhất định là sống với nó, đồng cảm với nó. Khả năng tưởng tượng càng cao thì sự thâm nhập vào văn bản càng sâu sắc, và người đọc có xu hướng quên đi thế giới thực tại, sống bằng thế giới tưởng tượng do nhà văn sáng tạo nên. Nhưng tưởng tượng trong cảm thụ văn học còn có hình thức khác đó chính là sự nhập thân vào nhân vật, làm sống lại trên chính bản thân mình những cảm xúc nhân vật trải qua. Với thao tác liên tưởng, học sinh vận dụng những gì mình đã trải nghiệm để hiểu nhân vật, còn hình thức tưởng tượng lại yêu cầu học sinh thể nghiệm những gì chưa hề trải qua. Nó tạo ra sự xúc động, đắm say mãnh liệt đối với văn bản. 2.2.6. Dùng lời bình đúng thời điểm Dùng những lời bình hấp dẫn và đúng chỗ có tác dụng rất lớn trong việc rèn luyện cảm thụ cho học sinh. Trước hết, nó khiến học sinh có những ấn tượng sâu sắc khó phai mờ về vẻ đẹp của văn chương; sau đến, rèn luyện khả năng thẩm định những điểm sáng thẩm mỹ trong văn bản. Biện pháp này cho phép giáo viên phát huy phẩm chất nghệ sĩ của mình; và cũng vì thế kích thích mầm sáng tạo của học sinh, tạo nên sự giao lưu về tình cảm trong giờ văn. Nhưng tuyệt nhiên giáo viên không được lạm dụng biện pháp này, bởi nhiệm vụ chính của giáo viên là tổ chức để học sinh cảm thụ và lĩnh hội giá trị của văn bản chứ không phải là trổ tài trình diễn để thôi miên học sinh. Do đó, giáo viên chỉ tung ra lời bình khi học sinh cảm nhận chưa tới, đánh giá chưa xác đáng và những lời bình lúc đó có tác dụng hỗ trợ, tiến tới khắc sâu ấn tượng cho học sinh, tạo nên những khoái cảm thẩm mỹ. Lời bình vì thế, trước hết phải giàu cảm xúc, là sản phẩm của sự xúc động sâu sắc trước vẻ đẹp của văn bản. Mặt khác, nó phải độc đáo, giáo viên phải chọn cách nói ấn tượng, ưu tiên tiên những lối diễn đạt giàu hình ảnh nhằm tác động mạnh đến học sinh. Hơn nữa, giáo viên chọn bình những chi tiết nào là điểm sáng nghệ thuật của tác phẩm và việc bình giá nó giúp học sinh nắm được thần thái, linh hồn của văn bản. Ví dụ bài thơ Đất nước uyễn Đình Thi: “Trời thu thay áo mới/ Trong biếc nói cười thiết tha” làm hiện lên gương mặt một đất nước mới dạt dào niềm vui say đắm vì được làm chủ vận 11
- mệnh của mình. Hay Cuộc đối thoại đầy tính biểu tượng của cha – con trong “Những cánh buồm” neo đậu bằng từ “gặp”: “Cha gặp lại mình trong những ước mơ con” trước những câu hỏi hồn nhiên, trước khát vọng đi tới chân trời xa của con, cha dõi ánh mắt về miền “xa thẳm” và bất chợt “gặp lại mình”, gặp lại ước mơ chưa đạt được của chính mình. Nghĩa là phải gợi lên những tình huống của nhân vật, liên hệ với tình huống của bản thân để từ đó có những lời bình thích đáng, xuất phát từ những rung động sâu xa, chân thật của tâm hồn. Nó làm cho rung động của nhà văn nay hiện hình trong tâm hồn của học sinh. Học sinh nói về nhân vật, về văn bản là đang nói lên chính nỗi lòng mình. 2.2.7. Lồng ghép với các loại hình nghệ thuật khác Một số nhà nghiên cứu khẳng định việc đối chiếu văn bản với các loại hình nghệ thuật khác có tác dụng làm hiện hình cảm thụ của học sinh, thúc đẩy học sinh hình thành những ấn tượng về văn bản. Thông thường, một số giáo viên đối chiếu văn bản với nghệ thuật hội hoạ hoặc điện ảnh. Tuy nhiên, giáo viên không được lạm dụng, việc sử dụng các hình ảnh này mang tính chất đối chiếu, so sánh về hai cách cảm thụ, hai cách nhìn, và hướng tới khơi gợi cảm thụ chứ hoàn toàn không được dùng hình ảnh làm tài liệu trực quan như một số người vẫn hay làm bởi đó là biện pháp thủ tiêu trí tưởng tượng của học sinh, học sinh dễ có xu hướng đồng nhất văn bản với các tác phẩm nghệ thuật khác. Một số văn bản trong chương trình đã được chuyển thể thành kịch bản điện ảnh thì giáo viên có thể cho các em xem trong giờ ngoại khoá và có thể nêu ra một số vấn đề để các em thảo luận. Đối với những văn bản thơ đã được phổ nhạc như Hạt gạo làng ta của Trần Đăng Khoa hay Nếu chúng mình có phép lạ của Định Hải,… giáo viên hoàn toàn có thể cho học sinh thưởng thức những ca khúc này, chúng sẽ có tác dụng rất lớn trong việc tạo nên những xúc động mạnh mẽ của học sinh về văn bản. Công việc này cùng với đọc diễn cảm có khả năng đánh thức cảm giác về nhịp điệu, giai điệu cho học sinh và cũng từ đó cảm nhận những cung bậc của tâm hồn đang hát lên trong những giai điệu đó. 2.2.8. Trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn Ngay từ khi còn nhỏ, hầu hết các em đều thích nghe ông, bà, cha, mẹ hoặc người thân kể chuyện, đọc thơ. Bước chân tới trường tiểu học, được tiếp xúc với những câu thơ, bài văn hay trong sách giáo khoa tiếng Việt, nhiều em muốn đọc to lên một cách thích thú. Đó chính là biểu hiện ban đầu của hứng thú học tiếng Việt. Có hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn, các em sẽ vượt qua được khó khăn, trở ngại, cố gắng luyện tập để cảm thụ học tốt và học giỏi môn Tiếng Việt. Muốn làm được điều đó, tôi luôn kiên trì luyện tập từng bước từ dễ đến khó. Bởi vậy, các em đã có sự cảm thụ tốt về văn học. Ví dụ: Khi dạy bài Đất nước ( Tiếng Việt 5- Tập 2) của nhà thơ Nguyễn Đình Thi. Để cho học sinh cảm nhận được niềm vui, niềm tự hào về đất nước tự do, tình yêu tha thiết của tác giả đối với đất nước, với truyền thống bất khuất của dân tộc. Bên cạnh đó, để học sinh cảm nhận được hết giá trị nghệ thuật của bài thơ, tôi phân tích rõ cho học sinh thấy tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa ở trong bài thơ; lòng tự hào về đất nước tự do được thể hiện qua những từ ngữ được lặp lại trong bài thơ như: Trời xanh đây, núi rừng đây, của chúng 12
- ta, của chúng ta.....”. Những hình ảnh: “ Những cánh đồng thơm mát, những ngả đường bát ngát, những dòng sông đỏ nặng phù sa...” được miêu tả theo cách liệt kê như vẽ ra trước mắt cảnh đất nước tự do, bao la. Tất cả điều đó sẽ được học sinh giải đáp qua hệ thống câu hỏi gợi mở như: Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Từ ngữ nào trong bài thơ được lặp lại nhiều lần? Lặp lại như vậy có tác dụng gì?... Dựa vào những câu hỏi gợi mở trên chắc chắn học sinh sẽ thi đua nhau tìm hiểu, các em sẽ có hứng thú học tập, lớp học sẽ sôi nổi hơn. Như vậy, trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn cũng chính là tự rèn luyện mình để có nhận thức đúng, tình cảm đẹp, từ đó đến với văn học một cách tự giác, say mê - ấy chính là yếu tố quan trọng nhất của cảm thụ văn học. 2.2.9. Tích lũy vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn học Cảm thụ văn học là quá trình nhận thức có ảnh hưởng bởi “vốn sống” của mỗi người. Cái vốn ấy trước hết được tích lũy bằng những hiểu biết và cảm xúc của bản thân qua sự hoạt động và quan sát hằng ngày trong cuộc sống. Có những con vật , con người, sự việc diễn ra quanh ta tưởng chừng như rất quen thuộc, nhưng nếu ta không chú ý quan sát, nhận xét để có cảm xúc và ghi nhớ thì chúng ta sẽ không thể làm giàu thêm vốn hiểu biết về cuộc sống của ta. Chính vì vậy, để làm giàu cho các em vốn hiểu biết về cuộc sống hằng ngày, tôi tập cho các em quan sát với những giác quan: Mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi,... Nhưng để quan sát như thế nào mới có kết quả tốt, tôi chỉ rõ cho học sinh quan sát tìm ra nét chính, thấy được nét riêng của sự vật. Quan sát kĩ chẳng những giúp cho các em viết được bài văn hay mà còn tạo điệu kiện cho các em cảm nhận được vẻ đẹp của thơ văn một cách tinh tế và sâu sắc. Ví dụ: Các em quan sát kĩ hoạt động của con vịt đang kiếm mồi ở trong ao mới thấy được “ Chú lạch bạch đi lại trên bờ, đuôi ngúc ngoắc trông thật buồn cười. Chợt mắt chú sáng rực lên, hình như chú đã phát hiện ra một con cá đang bơi...” Hay quan sát kĩ mặt biển buổi sáng khi mặt trời lên, các em mới có thể viết : “Mặt biển như rộng ra, xanh mênh mông. Mặt trời rực rỡ chiếu những tia nắng hồng xuống mặt biển. Biển như đỏ hơn, xanh hơn, đón nhận những tia nắng ấm áp đó...” Bên cạnh vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống, các em còn cần tích lũy cả vốn hiểu biết về văn học thông qua việc đọc sách thường xuyên. Mỗi cuốn sách có biết bao điều bổ ích và lí thú. Nó giúp ta mở rộng tầm nhìn cuộc sống, khơi sâu những suy nghĩ và cảm xúc, góp phần khơi dậy năng lực cảm thụ văn học ở mỗi học sinh. Song, để học sinh đọc sách có hiệu quả, tôi đã hướng dẫn các em lựa chọn những quyển sách hay, phù hợp với lứa tuổi, có ích cho việc học tập và tu dưỡng. Mặt khác, tôi còn hướng dẫn cụ thể phương pháp đọc sách cho học sinh như sau: + Khi đọc sách, cần tập trung tư tưởng cao, luôn suy nghĩ về những điều đang đọc để thấy cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Đọc sách đến say mê sẽ cảm nhận được những hình ảnh đẹp, những câu văn hay, những chi tiết xúc động. + Đọc sách cần có sự ghi chép, chọn lọc những điều bổ ích, lí thú, những từ ngữ hay, những hình ảnh đẹp, những câu thơ, đoạn văn thích thú hoặc những điều cảm nhận được nhằm trau dồi năng lực cảm thụ văn học của bản thân. 13
- Chăm đọc sách, đọc sách có phương pháp tốt sẽ giúp ta “tự học” được những điều thú vị, từ đó mà “lớn lên” cả về trí tuệ lẫn tâm hồn. Càng hiểu biết sâu sắc về thực tế cuộc sống và văn học, trí tưởng tượng và cảm xúc của các em sẽ càng thêm phong phú, chân thực. Đó chính là điều kiện quan trọng để giúp các em cảm thụ văn học tốt. 2.2.10. Xây dựng hệ thống bài tập nhằm nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 5 Cùng với việc rèn kĩ năng,chúng ta nên xây dựng một hệ thống bài tập, nhằm bồi dưỡng, nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh,cụ thể là: Dạng bài tập rèn kĩ năng đọc – hiểu. Dạng bài tập rèn kĩ năng đọc diễn cảm. Dạng bài tập rèn kĩ năng cảm thụ văn học. Từ đó giúp giáo viên thiết lập một quy trình dạy xen lồng việc bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh trong các tiết dạy Tiếng Việt. Hệ thống bài tập chúng ta nên xây dựng gồm có 3 nhóm, mỗi nhóm được chia thành các dạng nhỏ khác nhau. Việc sử dụng hệ thống bài tập này giúp giáo viên có thể chủ động trong việc bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. 2.2.10.1. Bài tập rèn kĩ năng đọc - hiểu cho học sinh a. Kiểu 1: Nhóm bài tập giúp học sinh đọc – hiểu và cảm thụ nghĩa của từ trong câu. Các bài tập trong nhóm này giúp học sinh phát hiện được nghĩa bóng của từ, là nghĩa phát sinh hay các tiền giả định của từ.Tất nhiên là trong một bài đọc, không thể soi hết để tìm nghĩa bóng của tất cả các từ. Ở đây, chúng tôi muốn nói đến các từ chứa nghĩa bóng quan trọng và chủ yếu trong câu, trong bài mà nếu không hiểu được nghĩa các từ đó thì sẽ ảnh hưởng đến việc hiểu nội dung bài và việc cảm thụ bài đọc đó. Dữ kiện của bài tập là các từ mang nghĩa hàm ngôn, lệnh của bài tập là lựa chọn cách hiểu đúng nghĩa của từ trong câu, xác định mục đích của việc sử dụng từ, cụm từ. b. Kiểu 2: Bài tập giúp học sinh xác định nghĩa của câu văn. Dữ kiện để xây dựng nhóm bài tập này là các câu thông thường hoặc là các câu hội thoại trong bài đọc mang nhiều nghĩa, lệnh của bài tập là xác định đúng nghĩa của câu trong hoàn cảnh giao tiếp hoặc nghĩa của câu mà tác giả đưa ra như một kết luận mà không có luận cứ giúp học sinh hiểu kĩ, hiểu sâu nội dung bài đọc. Bài tập minh hoạ: Hãy khoanh vào chữ cái đặt trước câu trả lời mà em cho là đúng (hoặc đúng nhất) trong bài tập sau: Vì sao tác giả viết: “Tôi có cảm giác mình lạc vào một thế giới thần bí.” a. Cảnh rừng xanh đẹp đẽ đến mức kì diệu. b. Tác giả quá say mê với cảnh đẹp của rừng xanh. c. Cả hai ý trên. (Kì diệu rừng xanh – Tiêng Việt 5 – Tập1) c. Kiểu 3: Nhóm bài tập giúp học sinh xác định ý chính của đoạn văn. Để tìm được ý chính của đoạn văn, khổ thơ, người đọc thường phải sử dụng 14
- các thao tác tư duy, phân tích, tổng hợp, phán đoán, lập luận… tức là phải dựa vào nghĩa của các từ ngữ, các câu trong đoạn để phân loại thành nhóm có chung chủ đề, rồi dựa vào các nhóm câu để phân tích tìm ra ý chung của các nhóm câu đó. Dùng thao tác tổng hợp, tổng hợp ý của các nhóm câu thành một ý chung nhất cho cả đoạn, để từ đó rút ra ý chung dưới dạng một câu, mà cốt lõi của nó là một phán đoán. Nhưng cũng có khi ý chính của đoạn văn, khổ thơ lại được thể hiện một cách tường minh ngay trong đoạn dưới hình thức câu chốt đoạn. Dữ kiện của các bài tập này là các đoạn văn trong bài tập đọc. Lệnh của bài tập là xác định đúng đoạn văn và ý chính đoạn văn trong bài đọc. d. Kiểu 4: Nhóm bài tập giúp học sinh xác định đại ý của bài Để xác định được đại ý của bài, học sinh phải được trang bị những hiểu biết về tác giả, mục đích viết văn bản của tác giả, hoàn cảnh xã hội mà tác giả sáng tác văn bản. Người đọc còn phải phát hiện xem sự kiện, nhân vật nào thể hiện lí tưởng của tác giả, trở thành công cụ để biểu đạt tư tưởng của tác giả.Yêu cầu tình cảm mà tác giả muốn thông qua tác phẩm gửi đến người đọc là gì. Từ nghĩa của từ, câu, ý của đoạn văn trong văn bản, học sinh tổng hợp, chắt lọc để tìm ra đại ý của bài hay việc phát biểu cảm nghĩ, nhận xét, rút ra bài học từ các tình tiết, sự kiện trong bài.Bên cạnh các câu hỏi mà sách giáo khoa đưa ra, giáo viên nên chuyển thành các kiểu câu hỏi nhiều lựa chọn (dạng trắc nghiệm), câu hỏi điền thế…giúp học sinh nắm bài nhanh hơn, hiệu quả hơn. e. Kiểu 5: Nhóm bài tập giúp học sinh xác định được đích tác động của văn bản Những câu hỏi, bài tập thể hiện cụ thể việc xác định đích tác động của bài đọc như: Bài tập : Theo em, bài văn thể hiện tình cảm gì của tác giả đối với quê hương? a. Rất yêu quê hương. b. Rất tự hào về quê hương. c. Rất vui vì quê hương đổi mới. (Quang cảnh làng mạc ngày mùa-Tiếng Viêt5-Tập1) g. Kiểu 6: Nhóm bài tập giúp học sinh hiểu về các biện pháp tu từ, cách dùng từ đặt câu, phát hiện những chi tiết hình ảnh có giá trị trong bài tập đọc. Bài tập : Em hãy đọc kĩ các dòng thơ sau đây: Cả công trường say ngủ cạnh dòng sông. Những tháp khoan nhô lên trời ngẫm nghĩ. Những xe ủi, xe ben sóng vai nhau nằm nghỉ Biển sẽ nằm bỡ ngỡ giữa cao nguyên. Sông Đà chia ánh sáng đi muôn ngả. a/ Các dòng thơ trên đã sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? A. So sánh. B. Nhân hoá. C. Ví von. b/Hãy gạch chân các từ có sử dụng biện pháp nghệ thuật đó. (Tiếng đàn Ba-la-lai-ca trên sông Đà-Tiếng Việt5-Tập1) 2.2.10.2. Bài tập rèn đọc diễn cảm cho học sinh a.Những yêu cầu cơ bản của việc đọc diễn cảm các văn bản thuộc thể 15
- loại: thơ, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn. - Đối với thơ: Cần chú ý đến vần, nhịp; đọc nhanh, đọc chậm; câu ngắn, câu dài; lên giọng, xuống giọng, ngân giọng… - Đối với truyện cổ tích: Chú ý phân biệt giọng người kể chuyện với giọng nhân vật. Giọng đọc cần khơi gợi tính chất li kì, huyền bí… - Đối với truyện cười: Giọng đọc vui tươi, hóm hỉnh, hài hước; chú ý tạo được sự bất ngờ mang chất hài. Đối với truyện ngụ ngôn: Giọng đọc hóm hỉnh, thông minh, sắc sảo, thể hiện tính triết lí và sự dày dạn kinh nghiệm cuộc sống. b. Hướng dẫn học sinh tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau khả năng đọc diễn cảm các văn bản nghệ thuật trong chương trình Tập đọc lớp 5. Đánh giá theo các gợi ý sau đây: a. Em đã đọc đúng âm chuẩn chưa? b. Em có đọc rõ ràng, âm lượng vừa đủ, hay to quá, nhỏ quá? c. Em có đọc lưu loát không? Nếu chưa lưu loát thì gặp ấp úng mấy lần? Lí do vì sao lại như vậy? d. Em đã chú ý đến đặc trưng thể loại chưa? Nếu đọc thơ, em có chú ý dến ngữ điệu không? Nếu đọc truyện em có chú ý phân biệt giọng kể với giọng nhân vật không?... e. Khi đọc, em có biểu hiện được cảm xúc, tâm trạng của tác giả, của nhân vật và của bản thân mình không? g. Nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, quần áo, giọng nói của em có phù hợp với nội dung bài đọc hay không? Hướng dẫn đánh giá như sau: - Thực hiện tốt các yêu cầu a, b, c: Em sẽ được xếp vào loại Trung bình (điểm 5;6). - Thực hiện tốt các yêu cầu a, b, c, d: Em sẽ được xếp vào loại Khá (điểm 7;8). - Thực hiện tốt các yêu cầu a, b, c, d, e: Em sẽ được xếp vào loại Giỏi (điểm 9). - Thực hiện tốt các yêu cầu a, b, c, d, e, f: Em sẽ được xếp vào loại Xuất sắc (điểm 10) c. Bài tập hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm dòng thơ, khổ thơ. Bài tập : Có học sinh dùng kí hiệu / để biểu thị sự ngắt, nghỉ hơi khi đọc diễn cảm đoạn thơ sau đây: Chắt trong / vị ngọt mùi hương Lặng thầm thay những / con đường ong bay Trải bao mưa nắng vơi đầy Men trời đất đủ / làm say đất trời. (Hành trình của bầy ong – Tiếng Việt 5 – tập 1) Theo em, cách đọc như thế đúng hay sai?( Khoanh chữ cái trước câu trả lời đúng) a. Đúng b. Sai dòng thứ nhất c. Sai dòng thứ hai, thứ tư d. Các dòng đều sai 16
- Em hãy sửa lại cho đúng và đọc diễn cảm cho cả lớp nghe. 2.2.10.3. Bài tập rèn kĩ năng cảm thụ cho học sinh a. Loại bài nhận biết các biện pháp tu từ đã học ở trong bài văn, bài thơ Loại bài tập này giúp học sinh chỉ ra những biện pháp tu từ đã sử dụng trong các câu văn, câu thơ, cho học sinh hiểu dấu hiệu của từng biện pháp tu từ để học sinh nhận ra một cách chính xác. Những biện pháp tu từ đó là: So sánh, nhân hoá, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ, đảo ngữ. Khi hướng dẫn học sinh nhận dạng từng biện pháp tu từ giáo viên phải minh hoạ bằng ví dụ cụ thể. Bài tập: Ngoài từ “như”, tác giả còn dùng những từ ngữ nào để so sánh trong đoạn thơ sau đây: Bầm ra ruộng cấy bầm run Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non Mạ non bầm cấy mấy đon Ruột gan bầm lại thương con mấy lần Mưa phùn ướt áo tứ thân Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu. (Bầm ơi – Tiếng Việt 5 – tập 2) b. Luyện cho học sinh sử dụng các biện pháp tu từ vào việc diễn đạt viết câu văn cho sinh động: Bài tập : Viết lại những câu văn sau có dùng điệp ngữ nhằm nhấn mạnh và gợi cảm xúc cho người đọc: a) Tôi yêu căn nhà đơn sơ, khu vườn đầy hoa thơm trái ngọt và cả luỹ tre thân mật của làng tôi. (b) Tôi lớn lên bằng tình thương của mẹ, của bố, của bà con xóm giềng nơi tôi ở. c. Luyện bài tập về bộc lộ cảm thụ văn chương qua đoạn văn, đoạn thơ Bài tập: Trong bài Đất nước (Tiếng Việt lớp 5 – tập 2) nhà thơ Nguyễn Đình Thi có viết: Mùa thu nay khác rồi, Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi, Gió thổi rừng tre phấp phới Trời thu thay áo mới Trong biếc nói cười thiết tha. Hãy viết một đoạn văn ngắn cho biết các động từ và tính từ in đậm ở hai câu thơ cuối có tác dụng gợi tả sinh động như thế nào? Qua việc áp dụng các biện pháp trên, học sinh đã có sự chuyển biến quả bài khảo sát năng lực cảm thụ văn học. Kết quả khảo sát khả năng cảm thụ văn học của học sinh lớp 5A cuối kì 1 năm học 2018 – 2019 của giáo viên chủ nhiệm như sau: Tổng Điểm 1 – 2 Điểm 3 – 4 Điểm 5 – 6 Điểm 7 - 8 Điểm 9 - 10 số HS SL % SL % SL % SL % SL % 26 0 0 0 0 1 3,8 2 7,6 23 88,6 17
- 3. KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của việc phát triển năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 5 Cảm thụ văn học, nói chính xác hơn - tiếp nhận văn học là quá trình nhận thức cái đẹp được chứa đựng trong thế giới ngôn từ, hệ thống tín hiệu thứ hai của loài người. Nói một cách đơn giản, cảm thụ văn học là quá trình tiếp nhận, hiểu, cảm được văn chương, tính hình tượng của văn chương, đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật, đặc trưng phản ánh nghệ thuật của văn chương. Kĩ năng cảm thụ văn học của học sinh được hình thành chủ yếu trong giờ tập đọc. Các bài tập cảm thụ văn học yêu cầu học sinh phát hiện ra tín hiệu văn chương, giải mã các tín hiệu văn chương, đánh giá các giá trị của các tín hiệu này trong việc biểu đạt nội dung. Dạy cho học sinh cảm thụ văn học tốt không phải là điều dễ dàng nhưng nếu người giáo viên có phương pháp, biện pháp dạy học tốt sẽ giúp các em cảm thụ văn học tốt. Đó chính là khả năng khám phá cái hay, cái đẹp của văn chương, của cuộc sống. Đó là đường nét, màu sắc, hình vị, âm thanh, nhịp điệu... được diễn tả sinh động trong từng bài văn, bài thơ nhằm giúp cho các em tự khám phá những năng lực sáng tạo còn tiềm ẩn ngay trong tâm hồn thông minh và đáng yêu của bản thân mình. Thực hiện được những biện pháp nêu trên sẽ giúp các em cảm thụ văn học tốt hơn, từ đó càng thêm yêu thích môn học Tiếng Việt - môn học mang đến biết bao vẻ đẹp, niềm vui và hứng thú. Qua sáng kiến này, tôi xin tóm gọn lại một số kết luận sau: - Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh là rất cần thiết và là việc làm thường xuyên của mỗi giáo viên. - Có nhiều biện pháp để bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh tùy theo điều kiện, năng lực của học sinh, lớp học mà giáo viên áp dụng phương pháp dạy học cho phù hợp để giúp học sinh cảm nhận tốt tác phẩm. - Việc bồi dưỡng năng lực cảm thụ phải đi theo một trình tự nhất định, không được nóng vội mà đốt cháy giai đoạn. Điều đó sẽ không mang lại hiệu quả cao. Trước hết giáo viên phải rèn cho học sinh kĩ năng đọc đúng văn bản rồi đến đọc hiểu, đọc diễn cảm. Sau khi thực hiện được những khâu này thì giáo viên mới đi vào tìm hiểu nội dung, ý nghĩa, các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài đọc. Ngoài ra, giáo viên phải đặt những câu hỏi gợi cảm xúc, tưởng tượng để các em suy nghĩ và trả lời, tăng cường các hình thức tổ chức dạy học để học sinh thêm hứng thú. 3.2. Kiến nghị, đề xuất 3.2.1. Về phía nhà trường, giáo viên - Nhà trường cần mua thêm nhiều sách, báo tham khảo liên quan đến dạy cảm thụ văn học cho giáo viên làm tài liệu tham khảo. - Muốn bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh đạt hiệu quả cao trước hết người giáo viên phải bồi dưỡng và rèn luyện cho mình năng lực cảm thụ văn học, đồng thời phải biết dẫn dắt, hướng dẫn các em tự cảm thụ các tác phẩm. - Để học sinh có được nhận thức đúng, tình cảm đẹp đến với mỗi bài, mỗi tác phẩm có một say mê, người giáo viên cần trau dồi hứng thú cho học sinh khi 18
- tiếp xúc với thơ văn bằng phương pháp linh hoạt và phù hợp. - Người giáo viên cần cho học sinh rèn luyện liên tục, có hệ thống các bài tập cảm thụ văn học sau mỗi giờ học đặc biệt là phân môn Tập đọc. - Để hỗ trợ cho vấn đề cảm thụ văn học đạt kết quả cao giáo viên cần chú trọng truyền đạt đầy đủ các kiến thức cơ bản về Tiếng Việt cho học sinh thông qua tất cả các phân môn của môn Tiếng Việt. - Tổ chức các sân chơi về cảm thụ văn học cho học sinh. 3.2.2. Về phía học sinh - Phải chủ động sưu tầm sách, báo để nghiên cứu phát triển khả năng cảm thụ văn chương. - Khi học một tác phẩm học sinh cần nắm chắc nội dung, ý nghĩa của bài, khai thác hết các biện pháp nghệ thuật để phát huy trí tưởng tượng, sáng tạo trong học tập cũng như nâng cao khả năng cảm thụ văn học của bản thân. - Các em nên đọc nhiều thể loại tác phẩm khác nhau như: thơ, văn xuôi… để có nhiều cảm nhận phong phú, thú vị về văn chương. Trên đây là một số kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy của bản thân. Do thời gian nghiên cứu chưa nhiều, tôi rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của lãnh đạo nhà trường cũng như các đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn. 19
- MỤC LỤC 1. MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1.1. Lí do chọn sáng kiến.................................................................................... 1 1.2. Điểm mới của sáng kiến .............................................................................. 2 1.3. Phạm vi nghiên cứu và áp dụng ................................................................... 2 2. NỘI DUNG ................................................................................................... 3 2.1. Thực trạng nhận thức về cảm thụ văn học của nhà trường, giáo viên và học sinh .................................................................................................................... 3 2.1.1. Nhà trường ............................................................................................... 3 2.1.2. Giáo viên .................................................................................................. 3 2.1.3. Học sinh ................................................................................................... 4 2.2. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phát triển năng lực cảm thụ văn học ............ 4 2.2.1. Giáo viên – người truyền lửa cần có các kĩ năng về cảm thụ văn học ....... 4 2.2.2. Luyện tập các thao tác trong cảm thụ văn học cho học sinh ...................... 7 2.2.3. Hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm ............................................................ 8 2.2.4. Trần thuật sáng tạo ................................................................................. 10 2.2.5. Đặt những câu hỏi gợi cảm xúc, liên tưởng, tưởng tượng ....................... 10 2.2.6. Dùng lời bình đúng thời điểm ................................................................. 11 2.2.7. Lồng ghép với các loại hình nghệ thuật khác .......................................... 12 2.2.8. Trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn ............................................ 12 2.2.9. Tích lũy vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn học .......................... 13 2.2.10. Xây dựng hệ thống bài tập nhằm nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 5 ................................................................................................... 14 3. KẾT LUẬN ................................................................................................. 18 3.1. Ý nghĩa của việc phát triển năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 5 ............ 18 3.2. Kiến nghị, đề xuất ..................................................................................... 18 3.2.1. Về phía nhà trường, giáo viên ................................................................. 18 3.2.2. Về phía học sinh ..................................................................................... 19 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2235 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 432 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 215 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 167 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 100 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 132 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 187 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 62 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn