intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh yếu vươn lên trong học tập môn Toán ở lớp 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:25

18
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học "Một số biện pháp giúp học sinh yếu vươn lên trong học tập môn Toán ở lớp 2" nhằm tìm ra biện pháp dạy học tối ưu giúp học sinh học yếu học tốt môn Toán. Qua đó thấy được những tồn tại trong giảng dạy để tìm biện pháp giảng dạy hiệu quả nhất. Nâng cao chất lượng môn Toán cho học sinh, đặc biệt là học sinh yếu. Có cơ hội trao đổi học hỏi về đổi mới phương pháp dạy Toán.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh yếu vươn lên trong học tập môn Toán ở lớp 2

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ TRƯỜNG TIỂU HỌC NGŨ HIỆP ---------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH YẾU VƯƠN LÊN TRONG HỌC TẬP MÔN TOÁN Ở LỚP 2 Lĩnh vực : Toán Cấp học : Tiểu học Tên Tác giả : Lê Diệu Linh Đơn vị công tác: Tiểu học Ngũ Hiệp Chức vụ : Giáo viên NĂM HỌC: 2022 – 2023 1
  2. MỤC LỤC STT ĐỀ MỤC TRANG Phần A: Mở đầu 1 1 Lý do chọn đề tài 1 2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1 3 Mục đích nghiên cứu 1 4 Phương pháp nghiên cứu 2 Phần B: Giải quyết vấn đề 2 1 Cơ sở lý luận 2 2 Cơ sở thực tiễn 2, 3 a) Thuận lợi 2, 3 b) Khó khăn 3, 4 3 Biện pháp thực hiện 4 Biện pháp thứ nhất: Lựa chọn phương pháp dạy 3.1 4, 5 học phù hợp với đối tượng học sinh Biện pháp thứ hai: Xây dựng động cơ học tập cho 3.2 5, 6 học sinh. Biện pháp thứ ba: Lập kế hoạch dạy học và giúp đỡ 3.3 6, 7 học sinh. Biện pháp thứ tư: Sử dụng đồ dùng trực quan vào 3.4 7, 8, 9, 10 dạy bài mới với học sinh yếu kém. Biện pháp thứ năm: Rèn học sinh yếu kém qua các 3.5 10,11 bài luyện tập Biện pháp thứ sáu: Tổ chức cho học sinh yếu kém 3.6 11, 12 học nhóm. Biện pháp thứ bảy: Tổ chức trò chơi cho học sinh 3.7 12, 13, 14 yếu trong từng tiết học Toán. Biện pháp thứ tám: Rèn học sinh yếu qua việc phối 3.8 14, 15 hợp với phụ huynh học sinh. 4 Kết quả 16 Phần C: Kết luận và khuyến nghị 17 1 Kết luận 17 2 Bài học kinh nghiệm 17 3 Khuyến nghị 17, 18 PHẦN A: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: 2
  3. Môn toán là môn học không thể thiếu trong các môn học ở Tiểu học. Đây là môn học được coi là khó đối với lứa tuổi các em. Môn học này yêu cầu học sinh phải hiểu được cách tính các dạng toán từ đơn giản đến phức tạp, các em phải tư duy nhiều hơn, tự tìm ra cách giải của bài. Đối với học sinh Tiểu học nói chung, đặc biệt là học sinh lớp 1, lớp 2, phạm vi giao tiếp còn hạn hẹp, vốn từ ngữ, vốn sống còn quá ít thì mỗi bài học, mỗi tiết học đối với các em còn rất mới lạ. Chương trình toán lớp 2 là một bộ phận của chương trình toán Tiểu học và là sự tiếp tục của chương trình toán lớp1. Khối lượng kiến thức ở chương trình mới đòi hỏi học sinh tiếp thuở mức cao hơn so với chương trình cũ. Thực tế dạy học môn toán ở trường về phía giáo viên trực tiếp giảng dạy rất nhiệt tình nhưng có thể nói mỗi bài dạy toán là một hệ thống mở nhằm phát huy tối đa khả năng sáng tạo nghệ thuật sư phạm của mỗi giáo viên trong từng giờ dạy. Giáo viên học hỏi nghiên cứu tài liệu nhiều nhưng hiệu quả giờ dạy chưa cao. Bên cạnh đó nhiều học sinh chưa ý thức được việc học là cần thiết, còn lơ là chưa chủ động học tập, do vậy không tiếp thu được lượng kiến thức thầy cô truyền đạt, kể cả kiến thức đơn giản nhất, gây rất nhiều khó khăn cho việc học lên lớp trên. Vậy phải làm thế nào để tất cả học sinh trong lớp đều tích cực học tập, tự giác tiếp thu bài, nắm chắc kiến thức một cách hệ thống, phát huy tốt khả năng của các loại đối tượng học sinh trong lớp nhất là đối với học sinh yếu. Tôi muốn trao đổi với đồng nghiệp biện pháp khắc phục rèn học sinh yếu trong môn toán, đáp ứng yêu cầu dạy theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Sau khi nghiên cứu tìm tòi tôi áp dụng nhiều hình thức tổ chức trong giờ học. Đưa ra nhiều việc làm cụ thể thiết thực phối hợp cùng gia đình nhà trường và xã hội để giáo dục các em học sinh yếu môn toán. Vì thế tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh yếu vươn lên trong học tập môn Toán ở lớp 2”. 2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu:Học sinh yếu lớp 2E - Trường Tiểu học Ngũ Hiệp - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu chương trình môn Toán lớp 2 – Bộ sách Cánh Diều. 3. Mục đích nghiên cứu: - Tìm ra biện pháp dạy học tối ưu giúp học sinh học yếu học tốt môn toán. - Củng cố kinh nghiệm giảng dạy của bản thân. Qua đó thấy được những tồn tại trong giảng dạy để tìm biện pháp giảng dạy hiệu quả nhất. - Nâng cao chất lượng môn Toán cho học sinh, đặc biệt là học sinh yếu. - Có cơ hội trao đổi học hỏi về đổi mới phương pháp dạy Toán. 4. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp sau đây: 3
  4. - Phương pháp lí luận: Đọc tài liệu, sách tham khảo - Phương pháp toạ đàm trao đổi (đối thoại) - Phương pháp điều tra. - Phương pháp thống kê, đối chiếu. - Phương pháp thực nghiệm: trực tiếp giảng dạy lớp 2 - Phương pháp tổng kết, đánh giá đúc rút kinh nghiệm. PHẦN B: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận: Nghề  dạy học là một nghề  thật đặc biệt   đó là giáo dục con người.Sản  phẩm của giáo dục là đào tạo cho xã hội những con người có trình độ, có phẩm  chất đạo đức. Bởi thế đội ngũ thầy cô giáo chúng ta phải có lòng yêu nghề, mến   trẻ, đặc biệt là một tấm gương tự  học và sáng tạo. Có trách nhiệm cao với sự  nghiệp giáo dục. Không nên chạy theo bệnh thành tích mà luôn đặt chất lượng  giáo   dục   học   sinh   lên   hàng   đầu.   Không   để   tình   trạng   học   sinh   ngồi   nhầm   lớp.Trong giảng dạy   luôn chú trọng đến những đối tượng học sinh học yếu   trong học tập để từ đó giáo viên đưa ra  những biện pháp kịp thời, linh hoạt,phù  hợp giúp cho các em tiến bộ theo kịp các bạn trong lớp. Học sinh yếu môn toán là những học sinh bị hổng kiến thức. Chính vì thế  mà việc tiếp thu bài của các em thật là khó khăn. Lúc đó các em sẽ chán học, lơ  là trong học tập. Vì thế khi giáo viên giảng bài các em không hiểu, các em ngồi   nói chuyện, làm việc riêng trong lớp. Thậm chí còn quậy phá trêu chọc các bạn   xung quanh.  Để các em học sinh học yếu môn toán không có tư tưởng chán học, mà có  ý thức hơn trong việc học của mình ngày một tiến bộ  trong học tập, đó là điều  mà giáo viên đứng lớp chúng tôi phải tìm ra những phương pháp mới, tối  ưu   nhất để giáo dục học sinh. 2.Cơ sở thực tiễn: a. Thuận lợi - Ngay từ đầu năm học, Ban giám hiệu chỉ đạo xây dựng chuyên đề để Giáo viên nắm vững phương pháp, quy trình dạy Đọc theo hướng đổi mới. Giáo viên có đầy đủ SGK, sách giáo viên, tài liệu tham khảo, đặc biệt có những bài giảng điện tử, các video dành cho môn Toán gây hứng thú cho học sinh và giáo viên không mất thời gian, kinh phí chuẩn bị. - Học sinh biết vâng lời cô. - Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, của quý ban ngành địa phương cũng như của các bậc phụ huynh. - Phòng học, bàn ghế được trang bị đầy đủ. Đồ dùng dạy và học, các phương tiện phục vụ cho công tác giảng dạy tương đối đầy đủ. - Học sinh đa số là con em thuộc địa bàn dân cư gần trường, dễ liên lạc và phối hợp cùng phụ huynh giáo dục con em. 4
  5. - Sách giáo khoa Toán có kênh hình đẹp, sinh động gần gũi với đời sống của trẻ. - Học sinh được trang bị mỗi em 01 bộ đồ dùng học Toán. - Cơ sở vật chất nhà trường khang trang, mát mẻ, thuận lợi cho việc giảng dạy của thầy và hoạt động học tập của trò. - Ban Giám hiệu luôn tạo mọi điều kiện, quan tâm, giúp đỡ giáo viên trong mọi công việc. - Việc dạy học trong nhà trường hiện nay đã có nhiều khởi sắc, điều kiện cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đã được trang bị tốt hơn, đội ngũ giáo viên chuẩn hoá cao. - Phong trào đổi mới phương pháp dạy học được đẩy mạnh, đa số giáo viên có sáng tạo, biết lựa chọn phương pháp phù hợp phát huy tính tích cực của học sinh. b. Khó khăn - Do sự nhận thức của học sinh không đồng đều. - Một số em tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ năng tính toán chậm; khả năng phân tích tổng hợp, tư duy còn hạn chế không có khả năng vận dụng kiến thức vào bài tập; thái độ thờ ơ đối với học tập, ham chơi, lười học ngại cố gắng, chưa tự giác, chưa có động cơ học tập còn ỷ lại trông chờ giáo viên. - Một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm, chăm lo và đôn đốc con em mình học tập, còn phó thác cho thầy cô. - Một số em tính toán còn chậm, phụ thuộc vào đếm đốt ngón tay; khi giải toán có lời văn: câu trả lời chưa đúng, phép tính làm sai; nhất là những bài toán về cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100. Trong giờ học toán các em này dường như không thấy phát biểu ý kiến xây dựng bài, các em chưa hiểu và chưa thực sự chủ động học tập dẫn đến kết quả học tập chưa đạt yêu cầu. Xuất phát từ thực trạng trên tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng. Với bài cụ thể như sau: ĐỀ BÀI: TOÁN 2 (Thời gian 40 phút) Câu1: (1 điểm) Số? 79, … ; 81; …. ; ….. ; 86; …… ; 88; …… 90. Câu2: (1 điểm) a, Khoanh vào số lớn nhất: 65, 32, 54, 79, 45, 69. b, Khoanh vào số bé nhất: 76, 48, 21, 99, 82, 19. Câu3: (2 điểm) Đặt tính rồi tính: 50 – 30 52 + 36 98 - 54 71 + 7 Câu 4: (1 điểm) Tính: 5
  6. 12 + 3 + 4 = 25 + 14 + 0 = 18 – 3 –5 = 99– 62 – 32 = Câu 5: (1 điểm) Đúng ghi Đ, sai ghi S vào ô trống: 17 + 22 > 39 30 + 20 = 50 – 0 85 – 44 < 42 16 + 3 < 19 – 3 Câu 6: (2 điểm) Cây xoài nhà em có 45 quả. Mẹ đã ngắt 15 quả mang bán. Hỏi trên cây xoài còn lại bao nhiêu quả? Câu 7: (1 điểm): Hình vẽ bên: a, Có …….. hình vuông. b, Có …….. hình tam giác Qua đề khảo sát chất lượng, tôi thu được kết quả như sau: Điểm 9, 10 7, 8 5, 6 Dưới 5 Sĩ số SL % SL % SL % SL % 44 10 23 23 52 5 11,4 6 13,6 Từ thực trạng trên việc nghiên cứu rèn học sinh yếu trong dạy Toán 2 là một việc làm cần thiết nhằm nâng cao chấtlượng giờ học toán. Từ kết quả khảo sát trên tôi đã biết được em nào yếu Toán thì tôi chú ý nhiều hơn đến em đó. Tôi đã nghiên cứu, tham khảo tài liệu, ghi chép những kinh nghiệm theo từng tiết dạy, trao đổi thảo luận với đồng nghiệp trong tổ, trong nhà trường cộng với một số kinh nghiệm trong quá trình dạy lớp 2, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp để giúp các em học sinh lớp 2 yếu vươn lên trong học tập môn Toán. 3. Biện pháp thực hiện: Việc dạy học toán cho học sinh Tiểu học ngay từ lớp đầu cấp là một vấn đề rất khó. Các em bước đầu làm quen với việc học số và chữ số, biết làm các phép tính cộng, trừ trong phạm vi 100, giải toán đơn và một số loại toán khác. Để giúp các em nắm chắc kiến thức một cách có hệ thống, đặc biệt là học sinh yếu kém trong quá trình giảng dạy tôi đã kết hợp sử dụng nhiều phương pháp phù hợp với nội dung từng bài, phù hợp với từng đối tượng học sinh. 3.1. Biện pháp thứ nhất: Lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng HS. –Do là học sinh yếu nên việc hiểu và nhớ của các em còn chậm, mau quên. Vì thế trong giảng dạy giáo viên luôn tìm ra các phương pháp giảng dạy thích hợp, có trọng tâm, bằng phương pháp trực quan sinh động, giảng dạy vấn đáp, chơi trò chơi toán học, sử dụng máy chiếu… phối hợp đan xen nhau tạo hứng thú cho các em. 6
  7. – Khi dạy các bài toán hình thành kiến thức mới giáo viên chohọc sinh được trực tiếp sử dụng đồ dùng trực quan sẽ dễ lĩnh hội được kiến thức hơn. – Học sinh có học lực yếu kém thường hiểu chậm cái mới , quên nhanh cái vừa tiếp thu được, khó nhớ những gì có tính khái quát trừu tượng quan hệ logic. Các kiến thức cũ phải được giáo viên cũng cố lại nhiều lần khi có liên quan đến nội dung bài mới, giúp các em biết được mối liên hệ, biết phân biệt, biết được sự chuyển tiếp giữa các dạng nội dung với nhau. Chẳng hạn phải cho học sinh thấy rõ sự khác biệt của các dạng toán có mối liên quan với nhau – Khi giảng dạy giáo viên chú ý theo dõi học sinh yếu, kém, khuyến khích các em học tập tích cực phát biểu ý kiến. Đặc những câu hỏi dễ, cho những bài tập vừa sức. Đối với mục tiêu quan trọng cơ bản của tiết học, giáo viên thường xuyên gọi các em yếu thực hành nhiều hơn. Có thể chẻ nhỏ bài tập hoặc cho thêm nhiều bài tập trắc nghiệm với mức độ yêu cầu vừa sức với các em, giúp các em khắc phục tính ngại khó, giúp các em hiểu bài, chỉ rõ những kiến thức quan trọng cần khắc sâu, cần nhớ kỹ. – Kích thích động viên đúng lúc khi các em có tiến bộ hay đạt được một số kết quả. Đồng thời phân tích chỉ cho các em chỗ sai nếu có, phê phán đúng mức thái độ lơ là khi học, tránh nói chạm lòng tự ái học sinh. – Điều quan trọng cần nói đến nữa là giáo viên cần tạo không khí cởi mở, tạo tình cảm thân thiện, gần gũi, tránh sự nặng nề, tạo áp lực cho các em để các em cảm thấy thích học, để dần dần thay đổi về “chất”. – Đối với việc đánh giá bài làm của học sinh, tôi không chỉ đưa ra lời nhận xét đúng hoặc sai mà cần giải thích rõ tại sao đúng dựa vào những kiến thức nào,sai thì sai ở đâu. – Thường xuyên theo dõi kiểm tra sau mỗi tiết học. Sau mỗi tuần học cần có 1 bài kiểm tra những kiến thức đã học để nắmsự tiếnbộphát hiện kịp thời những kiến thức các em chưa nắm được để có sự điều chỉnh phù hợp. 3.2. Biện pháp thứ hai: Xây dựng động cơ học tập cho học sinh. – Đối với HS yếu, tôi luôn coi trọng tính vững chắc của kiến thức, kĩ năng hơn là chạy theo mục tiêu đề cao, mở rộng kiến thức. Do đó, khi hướng dẫn HS luyện tập, tôi luôn đặc biệt chú ý các điều sau: + Đảm bảo cho HS hiểu đề bài: HS yếu kém nhiều khi vấp ngay từ bước đầu tiên: không hiểu bài toán nói gì, do đó không tiếp tục quá trình giải toán. Vì vậy, tôi đã dùng hệ thống câu hỏi gợi mở để giúp HS hiểu rõ đầu bài, nắm được cái gì đã cho, cái gì cần tìm, tạo điều kiện cho các em vượt qua. *Ví dụ: Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng đầu tiên là phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như “thêm, và, tất cả,…” hoặc “bớt, bay đi, ăn mất, còn lại , …” (có thể kết hợp quan 7
  8. sát tranh vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các từ ngữ chính trong đề bài. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn. Trước tiên giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đàm thoại “Bài toán cho gì? Hỏi gì?” và dựa vào câu trả lời của học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. + Gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại và mức độ: Để hiểu một kiến thức, rèn một kĩ năng nào đó, HS kém cần giải những bài tập cùng thể loại và cùng mức độ với số lượng nhiều hơn so với các em khá giỏi và trung bình. Phần gia tăng này thường tiến hành trong các tiết ôn luyện hoặc những buổi phụ đạo riêng với nhóm HS yếu, kém toán. + Sử dụng những bài tập vừa sức, chủ yếu là cho HS giải các bài tập thuộc dạng cơ bản, tránh ra thêm cho các em những dạng bài tập mới có tính chất mở rộng, nâng cao kiến thức. * Rèn luyện phương pháp học tập: – Yếu về phương pháp học tập là một tình hình phổ biến của HS yếu kém toán. Hơn nữa, có thể nói rằng đó là nguyên nhân của tình trạng yếu kém đối với một bộ phận khá đông trong những học sinh diện này. Vì vậy, một trong những biện pháp khắc phục tình trạng HS yếu kém là giúp đỡ các em về phương pháp học tập tốt. – Với HS yếu kém tôi thường xuyên hướng dẫn nhắc nhở các em từ những cách thức học toán sơ đẳng như: nắm được kiến thức lí thuyết mới làm bài tập, đọc kĩ đầu bài trước khi làm, vẽ hình hợăc vẽ sơ đồ phải sáng sủa, viết nháp rõ ràng, phát biểu thành câu đủ ý, trình bày bài khoa học, không tẩy xoá, giải toán xong phải kiểm tra lại đáp số và biết thử lại… Chẳng hạn như: Khi học sinh làm toán đặt tính rồi tính. Học sinh phải biết đặt tính cột dọc, viết các số từ trên xuống dưới sao cho các số phải thẳng cột ghi dấu “+”, dấu “-“ về bên trái giữa 2 số dưới 2 số kẻ vạch ngang để phân biệt kết quả và kết quả phải viết thẳng cột với 2 số trên lưu ý với kết quả là 10 thì chữ số hàng đơn vị phải được thẳng cột với nhau. – Đối tượng học sinh yếu cũng sẽ gặp vấn đề về chữ viết. Vì vậy, việc giáo dục những học sinh này rèn chữ, giữ vở cũng vô cùng cần thiết. Nếu chữ viết, chữ số rõ ràng, ngay ngắn, đúng độ cao, khoảng cách thì học sinh dễ nhìn và làm bài được tốt hơn, giúp các em được tính cẩn thận, chịu khó. Vì thế, học sinh yếu càng cần đến việc rèn chữ, giữ vở hơn nhưng đối tượng học sinh khác. – Thường xuyên nhắc nhở các em tránh làm việc riêng trong giờ học. 3.3. Biện pháp thứ ba: Lập kế hoạch dạy học và giúp đỡ học sinh. – Vào những ngày đầu năm học, giáo viên theo dõi từng học sinh trong quá trình học tập và dựa vào kết quả khảo sát phát hiện ra những em học yếu 8
  9. toán. Tìm hiểu lý do học yếu từng em, sau đó liên hệ với gia đình học sinh đề ra kế hoạch phụ đạo phù hợp . – Cụ thể, tôi lập danh sách tất cả những học sinh yếu và tổ chức hướng dẫn cho các em trong các giờ nghỉ hoặc các tiết Hướng dẫn học. Tôi ôn lại những kiến thức cũ có liên quan đến nội dung những bài học sẽ học tiếp theo và đồng thời cho các em thực hành lại những kiến thức đã học ở tuần qua bằng cách cho những bài tập vừa sức với học sinh. – Sau các giờ hướng dẫn, giáo viên có kế hoạch kiểm tra để nắm mức độ tiến bộ của các em, tuyên dương các em học có tiến bộ trước lớp nhằm động viên kích thích các em ham học và học tốt hơn dù đó là những tiến bộ nhỏ. 3.4. Biện pháp thứ tư:Sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy bài mới với học sinh yếukém. Để giúp học sinh cả lớp hiểu bài. Không những giáo viên cần phải hiểu đươc đặc điểm tâm sinh lí từng em học sinh lớp mình mà còn phải biết vận dụng phương pháp phù hợp với nội dung của từng bài. Qua thực tế giảng dạy ở lớp 2, tôi nhận thấy các em nhận thức tốt từ “Trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” Các em hiểu được bài từ cái cụ thể gần gũi với cuộc sống hàng ngày. Do vậy khi dạy bài mới cho học sinh tôi thấy cần có đồ dùng trực quan giúp các em hiểu bài nhanh, nhớ lâu và gây hứng thú học tập cho các em. Đặc biệt là đối với học sinh yếu kém thì việc dạy bằng đồ dùng trực quan ở bài mới là không thể thiếu. Các dạng bài tôi dạy bằng que tính thì bài này tôi đổi sử dụng bằng ô vuông Chẳng hạn khi dạy bài: Phép cộng (có nhớ) trong phạm vi 20 Bước 1: GV nêu bài toán: Có 9chấm tròn (gài 9chấm tròn lên bảng đồng thời cho các em thực hành lấy chấm tròn trong bộ đồ dùng học Toán để trên bàn) thêm 4chấm tròn nữa (đính 4 chấm tròn ở dưới 9 chấm tròn ). Hỏi có tất cả bao nhiêu chấm tròn? Học sinh quan sát và nhận biết hàng trên có 9 chấm tròn, hàng dưới có 4chấm tròn và nêu được phép tính 9 + 4. Bước 2: Với học sinh khá giỏi: Tôi cho học sinh tự thực hiện trên cácchấm tròn theo nhiều cách để tìm ra kết quả. Giáo viên chốt cách làm: -9 chấm tròn gộp với mấy chấm tròn để được 10 chấm tròn: (1 chục chấm tròn) -1 chục chấm tròn gộp với 3 chấm tròn còn lại được bao nhiêu chấm tròn (13 chấm tròn) 9
  10. Vậy: 9 + 4 = 13 -Với học sinh yếu ở bước 2 này tương đối khó tôi hướng dẫn các em đếm 9 chấm tròn với 4 chấm tròn để được 13 ô vuông. Sau đó tôi hướng dẫn các em làm chậm như trên để các em tự nhận biết thông qua các thao tác với chấm tròn. -Sau này, khi hình thành bảng 9 cộng với một số: Giáo viên gài 9 chấm tròn và 2 chấm tròn hỏi tương tự như trên, học sinh nhận ra ngay cách làm và thực hiện bằng ô vuông của mình để tìm ra kết quả. -Những học sinh yếu tôi có thể cho học sinh hình thành như sau: Chẳng hạn với phép tính 9 + 3, học sinh lấy 9 chấm tròn, các em đếm tiếp 9 chấm tròn với 1 chấm tròn là 10 chấm tròn, 10 chấm tròn thêm 2 chấm tròn là 12 chấm tròn. Sau đó yêu cầu các em nói kết quả: 9 + 3 = 12, với các phép tính khác tôi hướng dẫn các em tương tự. Đếm xong rồi tôi hướng dẫn các em đổi 10 chấm tròn thành 1 chục chấm tròn với 3 chấm tròn rời là 13 chấm tròn. -Cho học sinh đọc bảng 9 cộng với một số. -Luyện đọc bằng cách giáo viên xoá một vài số hạng thứ hai và một vài kết quả. Học sinh tự điền và luyện đọc thuộc bảng cộng. - *Lưu ý học sinh tránh học vẹt bằng cách giáo viên chỉ cho học sinh đọc không theo thứ tự. -Qua sử dụng đồ dùng vào việc thành lập bảng 9 cộng với một số, các em đều nắm chắc cách thực hiện phép cộng đúng. Đây là một trong những kiến thức sơ đẳng, đơn giản nhưng rất quan trọng. Nó là bước để các em học các bảng cộng tiếp theo. Mặt khác, trong quá trình giảng dạy sử dụng đồ dùng cũng phải được đưa ra đúng lúc, đúng thời gian, phù hợp với nội dung bài dạy. Câu hỏi đặt ra phải ngắn gọn, chính xác, có hệ thống để giúp học sinh độc lập suy nghĩ và tự chiếm lĩnh tri thức mới. 10
  11. Ví dụ: Khi dạy bài Ki – lô – gam Đây là bài dạy hình thành và phát triển cho học sinh các biểu tượng về đại lượng, cụ thể là đơn vị ki – lô – gam. Đây là một bài khó đối với học sinh, nhất là học sinh yếu. Để học sinh hiểu được biểu tượng về đơn vị ki – lô – gam. Tôi tăng cường cho học sinh thực hành. Sau khi giới thiệu vật “nặng hơn”, vật “nhẹ hơn”, qua hoạt động so sánh học sinh dần dần có biểu tượng về đại lượng (khối lượng). Giáo viên giới thiệu cái cân đĩa thật (loại cân có hai đĩa hai bên và kim thăng bằng ở giữa) và hướng dẫn học sinh sử dụng cách cân với cân đĩa: Khi đặt các vật lên hai đĩa cân, nêu mũi tên chỉ sang đĩa cân nào thi đĩa cân đó có vật nặng hơn. -Giáo viên cho một số em lần lượt đặt quyển vở lên một đĩa cân, quyển sách lên đĩa cân, quan sát kim của cân quay ở mặt cân rồi cho học sinh nhận xét: “Quyển sách nặng hơn quyển vở hoặc quyển vở nhẹ hơn quyển sách.” (khi cân vật nào nặng hơn kim sẽ quay về phía dưới.) -Giáo viên có thể cho học sinh so sánh sự nặng hơn, nhẹ hơn của một số vật sau khi cân xong. -Giáo viên cho học sinh quan sát khi cân quyển sách kim sẽ quay theo chiều kim đồng hồ, kim dừng lại vạch chỉ số trên cân sẽ biết quyển sách nặng bao nhiêu.Quyển sách nhẹ hơn 1kg hay 1kg nặng hơn quyển sách. -Giáo viên cho học sinh đặt lên đĩa cân một túi đường(nặng 1kg)cân sẽ quay vào số 1 thì các em biết ngay gói đường đó nặng 1kg. 11
  12. *Với học sinh yếu tôi cho các em trực tiếp tham gia thực hành và nhận xét để các em có biểu tượng ban đầu về kilôgam(kg). Giờ dạy diễn ra với nhiều hoạt động khác nhau nhằm hình thành và phát triển ở học sinh biểu tượng về đơn vị kilôgam. Ngoài ra tôi còn hướng dẫn cho các em cân sức khỏe của bản thân mình rồi tự xem cân xem mình nặng bao nhiêu kg. Với bài dạy sử dụng đồ dùng trực quan như trên, tôi thấy tất cả các đối tượng học sinh trong lớp đều hiểu bài, lớp học sôi nổi. Song để giúp học sinh yếu nhớ bài lâu, biết vận dụng kiến thức ở bài mới vào thực hành thành thạo, điều không thể thiếu là củng cố qua các bài luyện tập. 3.5. Biện pháp thứ năm:Rèn học sinh yếu kém qua bài luyện tập: Qua thực tế giảng dạy ở lớp 2, tôi thấy các em nhanh nhớ lại nhanh quên nhất là học sinh yếu. Do đó việc học tập của các em phải được rèn luyện thường xuyên liên tục qua các tiết luyện tập. Đặc biệt với học sinh yếu kém cần được sự động viên quan tâm giúp đỡ nhiều của thầy cô giáo, bạn bè, giúp các em lựa chọn tìm ra cách giải các bài một cách ngắn gọn. Dễ hiểu nhất, phù hợp với nhận thức của các em nhưng vẫn đảm bảo được kiến thức cơ bản trong tâm của bài. VD: Phép trừ (có nhớ) trong phạm vi 100 (tr66, 67) Bài 2: Đặt tính rồi tính 71 – 48 52 – 36 43 – 17 64 – 29 12
  13. Bài này yêu cầu học sinh phải đặt được tính đúng và viết được kết quả đúng. Trước khi học sinh làm yêu cầu học sinh nêu cách đặt tính đúng. Để nắm được việc học tập của cả lớp nhất là học sinh yếu, giáo viên cho học sinh thực hiện một phép tính đầu phần: 71 – 48 vào bảng con. Sau khi nhận xét kết quả bài làm của học sinh, giáo viên viết lên bảng: 71 – 48 ( theo cột dọc), các chữ số chỉ chục được viết bằng phần màu để các em nhận rằng cần nhớ vào số đó. Sau đó, mời những học sinh yếu nêu miệng cách làm: “1 không trừ được 8, ta lấy 11 trừ 8 bằng 3, viết 3 nhớ 1,4 thêm 1 bằng 5, 7 trừ 5 bằng 2 viết 2.” Học sinh dưới lớp nhận xét bổ sung dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Như vậy khi học thực hành làm vào vở, các em đều đặt tính và thực hiện chính xác. 3.6. Biện pháp thứ sáu: Tổ chức cho học sinh yếu, kém học nhóm: Việc rèn học sinh yếu kém phải tổ chức nhiều hình thức phong phú khác nhau, giáo viên luôn chú ý hoà đồng học sinh cả lớp, luôn động viên, khích lệ kịp thời tránh để các em mặc cảm về mình, không mạnh dạn trước đông người, không dám thể hiện mình trước các bạn. Do vậy cần tổ chức cho các em học tập theo nhóm. Sắp xếp nhóm có cả học sinh khá, giỏi giúp học sinh luôn có ý thức thi đua phần đấu học như bạn luôn lấy gương học tập của các bạn để noi theo. Ví dụ: Khi dạy bài” Luyện tập” (SGK Toán – Tập 1 – tr28) Giáo viên chia lớp làm nhóm 4, yêu cầu trong nhóm tự tìm ra cách làm trong thời gian nhất định, nếu bạn chưa tìm ra cách làm thì nhóm sẽ giúp đỡ. Sau khi học sinh hoạt động nhóm xong giáo viên cho học sinh nhận xét mẫu, tự nói cách làm. Yêu cầu các nhóm lên bảng điền kết quả, giáo viên động viên các 13
  14. em học sinh yếu tham gia vào điền kết quả ở những phép cộng đơn giản, vừa sức. Qua hoạt động nhóm, tôi nhận thấy các em đều hứng thú học tập, cố gắng hết mình không để nhóm mình là nhóm làm sai. Do đó bài tập các em làm nhanh và đạt kết quả cao. Với việc rèn học sinh yếu qua học nhóm có thể đưa ra nhiều dạng bài tập khác nhau và nâng dần ở mức độ bài tập từ đơn giản đến phức tạp giúp học sinh nắm chắc bài có hệ thống hơn. Tổ chức đôi bạn giúp nhau học tập ở lớp cũng như ở nhà. Ở lớp vào những giờ ra chơi các em khá giỏi kiểm tra các bảng cộng, trừ, nhân, chia giảng cho bạn những bài bạn chưa hiểu. 3.7. Biện pháp thứ bảy: Tổ chức trò chơi cho học sinh yếu trong từng tiết học toán: Với học sinh Tiểu học, tâm lí lứa tuổi các em học mà chơi, chơi mà học. Chơi là nhu cầu cần thiết đối với các em. Được chơi các em sẽ tham gia hết sức tự giác và chủ động. Khi chơi các em biểu lộ tình cảm rất rõ ràng như niềm vui khi thắng lợi, buồn bã khi thất bại. Vì tập thể mà các em khắc phục khó khăn, phấn đấu hết khả năng để mang lại thắng lợi cho tổ, nhóm trong đó có mình. Đây chính là đặc tính thi đua rất cao của các trò chơi. Trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự giác tích cực, khích lệ học sinh, giúp học sinh mạnh dạn hơn. Do vậy trong quá trình dạy cần tổ chức trò chơi cho học sinh để tất cả các em cùng được tham gia một cách vui vẻ, thoải mái trong tiết học. Ví dụ: Dạy bài “ Bảng chia 2 –nhằm củng cố phép chia trong bảng chia 2 Trò chơi: “ Cùng leo dốc” Hai bảng phụ ghi nội dung sau: 20 : 2 = 16 : 2 = 8:2= 14 : 2 = 18 : 2 = 12 : 4 = 2:2= 10 : 2 = 6:2= 14
  15. Cử hai đội lên tham gia trong đó có học sinh yếu, mỗi đội 5 em, mỗi em làm một phép tính. Mỗi đội xếp thành một hàng. Bạn thứ nhất làm xong đứng về cuối hàng, bạn thứ hai làm tiếp, từ dưới lên, cứ như vậy cho đến hết . Trong khi hai đội làm, dưới lớp cổ vũ các bạn. Đội nào làm đúng và leo lên đỉnh trước đội đó giành chiến thắng. Qua trò chơi học sinh luôn hứng thú học tập, luôn có sự cố gắng thi đua vươn lên, tiết học nhẹ nhàng mà đạt hiệu quả cao. Ngoài ra trong quá trình giảng dạy có thể thay đổi tên trò chơi khác nhau như: “ Ai nhanh, ai đúng; Truyền điện;Que tính thông minh;Ai nhiều điểm nhất; Tìm lá cho hoa,….” Giúp học sinh nhớ lâu, hiểu sâu kiến thức đã được học, nâng cao dần nhận thức. Ví dụ:Dạy bài: Luyện tập chung (tr28) 6+6 7+7 8+8 6+7 7+8 8+9 - Tôi đặt tên cho trò chơi là: “ Ai nhanh, ai đúng”, và yêu cầu chơi như sau: - Tôi yêu cầu các em chuẩn bị lấy các số trong bộ đồ dùng toán lớp 2: 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. + Sau đó cho các em biết thể lệ cuộc chơi: + Khi cô giáo đọc dến phép tính nào các em sẽ tìm kết quả của phép tính đó. + Dùng số trong bộ đồ dùng để báo cáo kết quả của phép tính. Nếu kết quả là số có hai chữ số phải chọn hai chữ số ghép lại. + Ai chọn nhanh, đúng giơ lên đầu tiên bạn đó sẽ thắng cuộc chơi. 15
  16. + Chú ý khi chơi kết quả phải đúng không lộn số, không giơ ngược. Ví dụ: 6 + 6 = 12 6 + 7 = 13 + Mỗi phép tính đúng một giải. Khi kết thúc trò chơi giáo viên trao giải nhất 3 lần hoan hô của cả lớp, giải nhì 2 lần, giải ba 1 lần. Qua tiết học có trò chơi mặc dù chỉ diễn ra với thời gian ngắn, nhưng tôi thấy học sinh phấn khởi hứng thú sôi nổi trong tiết học mà kỹ năng tính toán của các em cũng đạt kết quả tốt hơn, bài giảng của tôi nhẹ nhàng và có chất lượng hơn, học sinh thì hứng thú học và hiểu bài sâu, dần nâng cao nhận thức cho các em. Song đối với những em học yếu kém nếu chỉ dạy bài mới, bài luyện tập …. ở lớp thôi chưa đủ, mà mỗi bài giảng mỗi tiết dạy cần có sự hỗ trợ thường xuyên của gia đình cho học sinh để giúp các ôn lại những kiến thức đã học. 3.8. Biện pháp thứ tám: Rèn học sinh yếu qua việc phối hợp với phụ huynh học sinh. 16
  17. Qua quá trình giảng dạy và thực tế rèn học sinh yếu ở lớp, tôi nhận thấy không những phải dùng nhiều phương pháp giúp đỡ các em học trên lớp còn phải sát sao trong việc hướng dẫn học sinh học tập ở nhà. Ngoài việc kèm cặp trên lớp giáo viên giúp học sinh hiểu cách làm bài để các em hứng thú ôn lại bài ở nhà, giáo viên phải kiểm tra sát sao kết quả học tập của học sinh hôm sau. Bên cạnh đó giáo viên phải ân cần chỉ bảo nhẹ nhàng những chỗ sai các em còn mắc phải, ghi nhận từng bước tiến bộ của học sinh dù là rất nhỏ. Để việc rèn học sinh yếu đạt kết quả cao hơn thì sự kết hợp giữa nhà trường – gia đình là cần thiết và không thể thiếu được. Do vậy về phía giáo viên phải thường xuyên liên lạc về tình hình học tập cũng như trao đổi phương pháp dạy học ở nhà với phụ huynh học sinh để phụ huynh kèm cặp các em giúp các em tiến bộ. *Tóm lại: với những biện pháp trên được áp dụng trong các tiết học toán ở lớp 2 và đòi hỏi người giáo viên khi lên lớp không chỉ quan tâm đến một đối tượng học sinh mà mọi đối tượng từ giỏi đến kém giáo viên đều cần phát huy hết khả năng nhận thức của các em, có như vậy các em học tập mới tích cực vì các em luôn thấy khả năng của mình để phấn đấu, để vươn lên. 17
  18. 4. Kết quả Đầu năm học, qua đợt khảo sát chất lượng đầu năm. tôi thấy học sinh của lớp học kết quả còn thấp. Trong các tiết học Toán các em học chưa sôi nổi, kiến thức năm chưa chắc, trình bày bài còn nhiều lúng túng, nhiều học sinh thực hiện làm rất chậm. Sau khi vận dụng kinh nghiệm vào lớp phụ trách, kết quả cho thấy 18
  19. chất lượng học toán của lớp được nâng lên rõ rệt, các em ham học toán, chú ý nghe giảng, hiểu bài sâu hơn, cụ thể tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng thực dạy và lớp đối chứng với đề bài như sau: Qua bài khảo sát tôi thu được kết quả như sau: Điểm 9, 10 7, 8 5, 6 Dưới 5 Lớp Sĩ số SL % SL % SL % SL % 2E 44 18 41 22 50 4 9 0 0 *Kết quả khảo sát cho thấy lớp 2E tiến bộ hơn. Ở lớp 2E không còn tồn tại học sinh yếu, số học sinh khá, giỏi tăng rõ rệt. Điều đó chứng tỏ rằng phương pháp thử nghiệm” Rèn học sinh yếu trong học Toán lớp 2” mà tôi áp dụng có kết quả tốt. Vì vậy, theo tôi muốn nâng cao chất lượng đồng đều cho học sinh, đáp ứng cuộc vận động: “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” với nội dung không để học sinh ngồi nhầm lớp thì việc rèn học sinh yếu là vấn đề cần thiết ở bậc Tiểu học. PHẦN C: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận: Qua quá trình giảng dạy, nghiên cứu tôi đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ trong việc “Rèn học sinh yếu trong dạy học Toán 2” áp dụng vào lớp tôi trực tiếp 19
  20. giảng dạy. Trên đây là toàn bộ những vấn đề tôi đã nghiên cứu và thực hiện tại trường. Tôi nhận thấy đây là biện pháp có hiệu quả giúp tôi và đồng nghiệp ở trường khắc phục phụ đạo học sinh yếu trong học môn toán. 2. Bài học kinh nghiệm: Khi nghiên cứu,tìm hiểu rồi tiến hành thực nghiệm: “Rèn học sinh yếu trong dạy Toán 2”, tôi rút ra một số điểm sau: *Giáo viên: -Trước hết mỗi thầy cô phải có tâm huyết với nghề, hết lòng vì học sinh, nhận thức đúng đắn vị trí, tầm quan trọng trong việc rèn kĩ năng học toán cho học sinh yếu. - Nắm chắc đối tượng học sinh lớp mình, dạy theo đối tượng học sinh. - Giáo viên không ngừng học tập, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. áp dụng chuyên đề đổi mới phương pháp giảng dạy, sử dụng linh hoạt các phương pháp phù hợp với đặc điểm học sinh của lớp mình , đặc biệt là học sinh yếu. - Xác định rõ mục tiêu của tiết dạy để chuẩn bị chu đáo và đầy đủ phương tiện dạy học phục vụ cho bài dạy. - Biết lựa chọn hệ thống phương pháp và hình thức dạy học phù hợp với nội dung và đối tượng học sinh, tạo hứng thú học tập trong mỗi tiết học. *Học sinh: - Phải tích cực học tập, chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp. - Tích cực tham gia luyện tập, thực hành trong giờ học. - Cần phát huy tích cực, chủ động, mạnh dạn trong hoạt động học của học sinh. - Chăm chỉ trong học tập, tích cực huy động vốn kiến thức của mình vào quá trình xây dụng kiến thức bài học. *Phụ huynh: - Cần quan tâm sát sao tới con em mình. - Thường xuyên liên lạc với nhà trường, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm để kịp thời nắm bắt tình hình học tập của con em mình. *Phạm vi áp dụng: Tôi nghiên cứu và áp dụng những biệt pháp trên vào giảng dạy ở lớp mình. Qua giảng dạy tôi thấy có thể áp dụng kinh nghiệm trên vào việc: “ Rèn học sinh yếu trong học Toán 2” cho học sinh lớp 2. 3. Khuyến nghị: Việc đổi mới phương pháp dạy học, rèn học sinh yếu trong dạy học toán 2 nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy là một nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết nhằm đáp ứng kịp thời những yêu cầu đổi mới của xã hội, đó là mục tiêu của giáo dục 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2