Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp hiệu quả giúp học sinh lớp 1 học tốt phân môn Học vần
lượt xem 4
download
Sáng kiến kinh nghiệm "Một số biện pháp hiệu quả giúp học sinh lớp 1 học tốt phân môn Học vần" nhằm giúp học sinh thích nghi sớm với cách học phát triển năng lực bản thân. Đề ra cho giáo viên các giải pháp hữu hiệu tối ưu nhất để hạn chế tình trạng cuối năm còn học sinh chưa hoàn thành môn Tiếng Việt, học sinh không biết đọc, viết chiếm tỷ lệ cao so với tỉ lệ chuẩn của nhà trường.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp hiệu quả giúp học sinh lớp 1 học tốt phân môn Học vần
- ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ TRƯỜNG TIỂU HỌC VĨNH QUỲNH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP HIỆU QUẢ GIÚP HỌC SINH LỚP 1 HỌC TỐT PHÂN MÔN HỌC VẦN Lĩnh vực : Tiếng Việt Cấp học : Tiểu học Tên tác giả: Đỗ Thị Thu Bồn Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh Chức vụ: Giáo viên NĂM HỌC 2022 - 2023
- 2 PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Trong hệ thống giáo dục Quốc dân, Tiểu học là bậc học có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự vận động và phát triển toàn hệ thống, là bậc học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của con người, là nền móng vững chắc cho toàn bộ hệ thống giáo dục Quốc dân. Trong chương trình Tiểu học, Tiếng Việt là một môn học vô cùng quan trọng. Ở lớp 1, môn Tiếng Việt có nhiều phân môn trong đó có Học vần. Học vần là một hoạt động tổng hợp đọc và viết. Dạy học Học vần là quá trình tổ chức cho học sinh thực hành kĩ năng nhận diện từ thông qua việc rèn luyện kĩ năng đọc, viết một cách liên hoàn tích hợp. Chương trình Học vần tập trung vào yêu cầu dạy đọc đúng, đọc trơn vần, tiếng, từ, câu gắn kết chặt chẽ với việc dạy viết đúng mẫu chữ ghi các âm, vần, tiếng, từ, câu đã đọc. Học sinh được tập viết các âm, vần, tiếng, từ, câu ứng dụng, tập viết các dấu câu như dấu phẩy, dấu chấm, dấu chấm hỏi,… Luật Giáo dục số 43/2019/QH14 tại Điều 2 đã nêu rõ: “Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.”Bởi thế đã có biết bao những công trình nghiên cứu, sáng kiến kinh nghiệm đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học ở phổ thông nói chung và ở Tiểu học nói riêng cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Căn cứ Nghị quyết 88/2014/QH13 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Năm học 2022 -2023 là năm học thứ ba thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới và đổi mới sách giáo khoa lớp 1. Với sự chỉ đạo sát sao của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Thanh Trì đã tổ chức những buổi tập huấn,các tiết chuyên đề cho toàn thể giáo viên trong huyện chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm. Qua gần 3 năm trải nghiệm thực hiện chương trình giáo dục phổ phông và sách giáo khoa mới đối với lớp 1, tôi luôn tìm tòi, học hỏi, trau dồi chuyên môn bản thân.
- 3 Năm học 2022 – 2023, bản thân tôikhông ngừng trau dồi, học hỏi, tiếp thu sáng tạo những quan điểm chỉ đạo chuyên môn của Sở, Phòng, nhà trườngđể có những biện pháp phù hợp với đặc điểm của nhà trường, của lớp chủ nhiệm nhằm tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong việc thực hiện nội dung chương trình sách giáo khoa mới. Qua thực tế giảng dạy, với sự nghiên cứu tìm tòi của bản thân, trao đổi với các bạn đồng nghiệp trực tiếp giảng dạy trong trường và giáo viên các trường bạn, tôi đã tích lũy được một số kinh nghiệm trong giảng dạy phân môn Học vần. Do vậy, tôi xin mạnh dạn trao đổi với các bạn đồng nghiệp: “Một số biện pháphiệu quả giúp học sinh lớp 1 học tốtphân môn Học vần” 2. Mục đích nghiên cứu Từ những lí do trên, tôi đã nghiên cứu đề tài “Một số biện pháphiệu quả giúp học sinh lớp 1 học tốt phân môn Học vần”với mục đích: - Trang bị đầy đủ cho học sinh cả bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết và nắm được nội dung chương trình học Tiếng Việt lớp 1. Giúp học sinhthích nghi sớm với cách học phát triển năng lực bản thân. - Đề ra cho giáo viên các giải pháp hữu hiệu tối ưu nhất để hạn chế tình trạng cuối năm còn học sinh chưa hoàn thành môn Tiếng Việt, học sinh không biết đọc, viết chiếm tỷ lệ cao so với tỉ lệ chuẩn của nhà trường. - Có kế hoạch giảng dạy rõ ràng đối với môn Tiếng Việt lớp 1 nói riêng và các môn học khác nói chung. -Giúp học sinh có lòng say mê, yêu thích môn học, có hứng thú học tập không còn uể oải, mệt mỏi trong mỗi giờ học. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu: Các phương pháp dạy Tiếng Việt ở Tiểu học. 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp hiệu quả giúp học sinh lớp 1 học tốt phân môn Học vần. 4. Phương pháp nghiên cứu Với đề tài này, khi nghiên cứu tôi đã vận dụng các phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát thực tế đối tượng học sinh lớp 1A9 năm học 2022 – 2023 - Phương pháp thực nghiệm - Phương pháp quan sát, thống kê, đánh giá, phân tích,... 5. Phạm vi - thời gian nghiên cứu 5.1. Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 1A9 – năm học 2022 – 2023, trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. 5.2. Thời gian nghiên cứu: Từtháng 9 năm 2022 đến tháng 4 năm 2023.
- 4 PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận Trong Giáo dục Tiểu học, môn Tiếng Việt là môn học có tầm quan trọng đặc biệt, giúp các em phát triển năng lực tư duy về: nghe – nói – đọc – viết. Nhờ có môn học Tiếng Việt mà các em có thể biểu đạt được tư tưởng, tình cảm của mình bằng tiếng mẹ đẻ một cách chính xác, phong phú và sinh động hơn. Môn Tiếng Việt còn cung cấp cho học sinh công cụ giao tiếp và tư duy. Hiểu rõ Tiếng Việt sẽ giúp các em có kỹ năng giao tiếp trong suốt quá trình học tập và trong thực tế cuộc sống. Không những thế môn Tiếng Việt còn là công cụ để học sinh học các môn học khác. Đồng thời bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt góp phần hình thành nhân cách của học sinh tiểu học lớp đầu cấp. Học Tiếng Việt ở lớp 1 càng quan trọng hơn. Bởi nếu nói việc dạy học ở bậc Tiểu học như xây một ngôi nhà thì dạy học lớp 1 chính là chuẩn bị phần nền móng của ngôi nhà đó. Các em muốn nắm vững kiến thức và học tốt ở các lớp trên thì ngay từ lớp 1 phải học tốt môn Tiếng Việt. Để học tốt môn Tiếng Việt, trước hết học sinh phải học tốt phân môn Học vần (một phân môn của môn Tiếng Việt). Học vần là chìa khóa để các em học sinh tiếp cận với chữ, con chữ rồi ghép vần, ghép tiếng để biết đọc, biết viết. Cụ thể là học sinh phải nắm chắc về âm, vần, thanh, viết đúng, đẹp, phát âm rõ ràng, chính xác, phân biệt rõ cách đọc, cách viết. Vì đọc và viết là mục tiêu cơ bản hàng đầu của mỗi học sinh. Nếu không biết đọc, biết viết học sinh không thể thực hiện các hoạt động của mình trên lớp, dẫn đến khả năng học tập của các em sẽ yếu dần. 2. Cơ sở thực tiễn Thực tế hiện nay ở các lớp 1, việc dạy học của giáo viên bên cạnh những thành công vẫn còn rất nhiều hạn chế. Rải rác ở các lớp 1, lớp nào cũng có học sinh yếu về phân môn Học vần, chữ viết xấu, kết quả đọc của học sinh chưa đáp ứng được mục tiêu yêu cầu cần đạt mà nội dung chương trình lớp 1 đưa ra. Vậy phải làm thế nào? Bằng phương pháp giáo dục ra sao để cuối năm khi hoàn thành chương trình lớp 1 tất cả mọi học sinh đều biết đọc, biết viết như mong muốn của mỗi giáo viên, gia đình và nhà trường? Đó là trăn trở, lo lắng của nhiều giáo viên đứng lớp trong đó có bản thân tôi.
- 5 2. 1. Thực trạng dạy - học phân môn Học vần lớp 1 ở trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh Qua thực tế giảng dạy, điều tra việc dạy và học phân môn Học vần của giáo viên và học sinh tôi nhận thấy một số thực trạng sau: 2.1.1. Thuận lợi * Nhà trường: - Luôn quan tâm hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh. - Ngay từ đầu năm học nhà trường kết hợp với phòng giáo dục tổ chức các buổi tập huấn cho toàn bộ giáo viên khối lớp 1 phương pháp dạy học theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh. Đây là năm thứ ba thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018. Ban giám hiệu chú trọng đến nội dung các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ, khối. Hướng dẫn tổ xây dựng kế hoạch bài học để đạt hiệu quả giảng dạy tốt nhất. - Về cơ sở vật chất tương đối đầy đủ (1 ti vi, 1 máy tính xách tay, 1 máy soi) phục vụ tốt cho việc dạy học lớp 1 theo chương trình giáo dục phổ thông 2018. * Giáo viên - Giáo viên chủ nhiệm lớp có trình độ chuyên môn, được đào tạo đạt chuẩn, tuổi đời còn trẻ, có tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt tình, năng động, tâm huyết với nghề. * Học sinh - Có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập. - Đa số học sinh ngoan, có ý thức học tập tốt, tích cực tham gia các hoạt động của lớp, của nhà trường. * Phụ huynh học sinh - Đa số các bậc phụ huynh rất quan tâm đến tình hình học tập của con như chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập. 2.1.2. Khó khăn: * Giáo viên - Trong giờ dạy, giáo viên chưa áp dụng được các trò chơi, học tập vào tiết dạy hoặc tiến hành trò chơi chưa đạt hiệu quả chưa tạo được hứng thú, chưa lôi cuốn được học sinh, chưa mạnh dạn sáng tạo khi thực hiện đổi mới phương pháp dạy học. * Học sinh
- 6 - Trình độ học sinh không đồng đều nên việc tiếp thu kiến thức rất khó khăn.Một số học sinh đọc chậm, chưa mạnh dạn trong giờ học. * Phụ huynh học sinh - Sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong việc giáo dục con em tại nhà chưa đạt kết quả. - Một số phụ huynh còn mải đi làm, công việc bận rộn nên thiếu sự quan tâm, chăm sóc con cái. Sau 3 tuần thực học, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học sinh lớp 1A9 do tôi chủ nhiệm trong phân môn Học vần như sau: Tuần 3 Tổng K ĩ năng Hoàn thành Hoàn thành Chưa hoàn số HS t ốt thành SL TL SL TL SL TL 44 Nghe 16 36.3% 23 52.3% 5 11.4% Nói 9 20.5% 20 45.4% 15 34.1% Đọc 12 27.3% 23 52.3% 9 20.4% Vi ết 12 27.3% 25 56.8% 7 15.9% Từ kết quả khảo sát trên cho thấy số học sinh có kĩ năng nghe, nói, đọc, viết hoàn thành tốt còn thấp, học sinh chưa hoàn thành chiếm tỉ lệ còn cao. Đặc biệt, với kĩ năng nói tỉ lệ chưa hoàn thànhchiếm tới 34.1% đòi hỏi cả giáo viên và học sinh cần phải cố gắng, nỗ lực không ngừng. 2.2. Nguyên nhân *Giáo viên - Do giáo viên chưa nhận thức sâu sắc về định hướng biên soạn, xây dựng nội dung chương trình sách giáo khoa. - Còn áp dụng một cách máy móc quy trình dạy học theo gợi ý của sách giáo viên. Chưa mạnh dạn sáng tạo khi thực hiện đổi mới phương pháp dạy học và hình thức tổ chức dạy học. - Trong giờ dạy, giáo viên còn nói nhiều, chưa áp dụng được các trò chơi học tập vào tiết dạy hoặc tiến hành trò chơi chưa đạt hiệu quả. *Học sinh - Do các em mới được làm quen với hoạt động học nên các thao tác sử dụng đồ dùng học tập của các em còn chậm, chưa linh hoạt. - Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều, khả năng diễn đạt ngôn ngữ hạn chế, sự phối hợp với giáo viên trong giờ học còn nhiều hạn chế.
- 7 - Lứa tuổi học sinh lớp 1 còn nhỏ, chưa biết tự giác và xác định mục tiêu học tập cho bản thân. *Phụ huynh - Vẫn còn tồn tại một số ít phụ huynh chưa nhận thức đúng về việc học của con nên con phó thác cho nhà trường, thiếu quan tâm, chăm lo, đôn đốc con em mình học tập. - Một số phụ huynh còn mải đi làm, công việc bận rộn nên thiếu sự quan tâm chăm sóc con cái. Qua thực trạng dạy phân môn Học vần nói chung, ở trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh nói riêng,phong trào đổi mới nội dung, phương pháp dạy học ở các môn học vẫn đang là đề tài được các thầy cô giáo trong nhà trường quan tâm, chú trọng. Tôi tự nhận thấy bản thân mình cần phải linh hoạt hơn nữa, phải đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng linh hoạt các hình thức và phương tiện dạy học phù hợp. Vì vậy tôi đã nghiên cứu kĩ các tài liệu và đề xuất một số biện pháp giúp học sinh học tốtphân môn Học vần lớp 1 như sau: 3. Một số biện pháp hiệu quả giúp học sinh lớp 1 học tốt phân môn Học vần. 3.1. Biện pháp thứ nhất: Chuẩn bị đồ dùng dạy học phục vụ cho bài học đầy đủ, chu đáo Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ em: “Đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn". Vì vậy việc sử dụng đồ dùng dạy học trong phân môn Học vần là rất quan trọng và không thể thiếu trong tiết dạy Học vần. Để phát huy được hết tác dụng của đồ dùng dạy học và sử dụng đồ dùng có hiệu quả, không làm mất thời gian giúp cho giờ học nhẹ nhàng, hiệu quả thìtôi phải có kế hoạch chuẩn bị và sắp xếp đầy đủ các đồ dùng dạy học phục vụ cho bài học đó. Như chúng ta đã biết, khi dạy học vần bao giờ cũng có một số đồ dùng sau: - Sách giáo khoa, - Bảng con, phấn, khăn lau; - Bộ thực hành Tiếng Việt. Để chuẩn bị tốt cho bài học, tôi sưu tầm thêm một số mẫu vật làm đồ dùng trực quan cho phần học âm, vần từng bài. VD: nơ, cặp da, tấm thiếp, video quy trình viết chữ cái và từ ứng dụng,... Xây dựng bài giảng điện tử, tạo hiệu ứng cho những phần quan trọng cần nhấn mạnh với học sinh. Chuẩn bị đồ dùng đầy đủ rồi thì sắp xếp như thế nào để tránh học sinh cứ lấy ra rồi lại cất vào làm
- 8 mất thời gian, tôi đã cho học sinh đầu tiết học lấy cùng một lúc tất cả đồ dùng học tập lên bàn. Đồ dùng nào dùng trước tôi hướng dẫn các con để lên trên, đồ dùng nào dùng sau các con để xuống dưới. Việc làm này được thực hiện thường xuyên trong mỗi giờ học tạo hành thói quen hàng ngày. VD: Sách giáo khoa để trên cùng, rồi đến bảng, bộ thực hành Tiếng Việt để trước mặt, hộp phấn để dưới ngăn bàn. Học sinh sử dụng xong đồ dùng nào dứt điểm thì để xuống ngăn bàn, không phải lấy ra cất vào làm giảm bớt những thao tác thay đổi đồ dùng học tập. Kết quả: Giờ học diễn ra nhẹ nhàng và hiệu quả. Lớp học có nề nếp, học sinh hứng thú mỗi khi đến giờ học. 3.2. Biện pháp thứ hai: Sử dụng linh hoạt, đa dạng các phương pháp dạy học và đổi mới các phương pháp dạy học, hình thức tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh Theo các nhà lí luận giáo dục, theo kinh nghiệm thực tế của quá trình giảng dạy thì trong tất cả các phương pháp dạy học kể cả phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp dạy học hiện đại đều không có một phương pháp riêng nào là đạt hiệu quả tối ưu. Người giáo viên cần linh hoạt vận dụng phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng hoạt động dạy học, phù hợp với tâm lý lứa tuổi và tình hình thực tế của địa phương. Muốn học sinh có những ham muốn, sáng tạo, người giáo viên phải lao động say mê, tìm tòi, sáng tạo. Trong dạy học Học vần, để mang lại hiệu quả cao, giáo viên cần phải lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học sao cho lôi cuốn sự chú ý, khơi gợi cho các em niềm ham mê học tập, tránh tiết dạy khô khan, nhàm chán. Sau mỗi tiết học Học vần, tôi luôn luôn trăn trở các em đã thu được những gì, cần lưu ý điều gì để tiết học sau có hiệu quả hơn. Từ đó trước khi lên lớp, tôi đã nghiên cứu kĩ bài dạy. Tôi lựa chọn các phương pháp dạy học và các hình thức dạy học sao cho thu hút sự chú ý, khuyến khích học sinh hăng hái, tích cực học tập. Trong quá trình giảng dạy, tôi không quá lệ thuộc vào sách giáo khoa và quy trình giảng dạy. Trong mỗi tiết học, tôi đều sử dụng kết hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhau. Mỗi phương pháp đều có ưu điểm riêng, phù hợp với từng hoạt động cụ thể trong tiết học. Khi dạy học vần tôi đã thường xuyên sử dụng hiệu quả các phương pháp dạy học chủ yếu sau: *Phương pháp trực quan Tâm lý lứa tuổi học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp đầu cấp, kiến thức được hình thành từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Nếu các em
- 9 được quan sát qua tranh ảnh, vật thật thì các em dễ dàng phát hiện và cũng dễ dàng khắc sâu được kiến thức. Chính vì lẽ đó, mà GV cần chú ý lựa chọn một cách thích hợp các đồ dùng trực quan sao cho phù hợp với nội dung bài học . Khi nào thì dung tranh, video clip, khi nào thì dùng vật thật, sử dụng đồ dùng trực quan phải đúng lúc, đúng chỗ khi HS quan sát; tránh việc trưng bày đồ dùng trực quan trong tiết dạy quá nhiều làm chi phối việc tập trung bài của HS. Ví dụ: khi dạy Bài 49 vần ơm, ơp (trang 88 tiếng Việt 1 bộ sách Cánh diều tập 1). Để có được từ khóa “tia chớp”, tôi dùng tranh vẽ tia chớp và clip bầu trời có tia chớp để cho học sinh quan sát. Học sinh nêu được từ tia chớp. Từ đó các em sẽ hiểu và đánh vần, đọc tốt hơn và ghi nhớ lâu hơn. Tôi thường sưu tầm mẫu vật để sử dụng trong tiết dạy học vần. Tôi cũng thường xuyên động viên, khuyến khích học sinh sưu tầm mẫu vật mà xung quanh cuộc sống của các em có. Chẳng hạn khi dạy Bài 36 vần am, ap (trang 66 tiếng Việt 1 bộ sách Cánh diều tập 1), tôi đã dặn các em chuẩn bị đồ dùng cho tiết học vần là sưu tầm quả cam để mang đến lớp. Các em rất thích thú công việc này. Đã có nhiều em mang quả cam đi học. Trong giờ học, tôi cho học sinh quan sát quả cam trên màn hình và quan sát quả cam các em mang đi. Từ đó các em có từ khóa “quả cam”. Việc ghép vần trên thanh cài, đánh vần “am”, đánh vần tiếng “cam” và đọc trơn “quả cam” rất thuận lợi, kể cả đối với học sinh chậm. *Phương pháp đàm thoại, vấn đáp. Phương pháp này được tiến hành trên cơ sở các câu hỏi của giáo viên và sự trả lời của học sinh để cùng tìm ra tri thức mới. Khi soạn bài tôi đã chuẩn bị trước một hệ thống câu hỏi. Các câu hỏi này tập trung hỏi về nội dung kiến thức của bài học. Câu hỏi để học sinh tự tìm từ khóa, tiếng khóa mới trong bài, hỏi để học sinh phân tích, hiểu bài một cách tự giác, tích cực, chủ động. Vì vây các em sẽ hiểu bài nhanh, hào hứng học tập, lớp học sôi động. Qua đó tôi cũng nắm được tình hình học tập của từng học sinh, từ đó phân loại học sinh và có phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh. Ví dụ: Khi dạy Bài 37 vần ăm, ăp (trang 68 Tiếng Việt 1 bộ sách Cánh diều tập 1). Ở hoạt động mở rộng vốn từ: Tìm tiếng có vần ăm, ăp. Các tiếng chứa vần ăm, ăp đã có sẵn trong SGK nên các con dễ dàng thực hiện, đặc biệt là các bạn học sinh giỏi. Để phát huy năng lực của học sinh, tôi đưa ra câu hỏi: “ Bạn nào giỏi ghép thêm âm đầu, thêm dấu thanh vào vần vừa học để được tiếng mới”. Sau đó tôi chọn tiếng, từ có nghĩa cho HS đặt câu. Mỗi HS tìm được 1 tiếng mới, 1 từ mới nên sẽ có nhiều tiếng, từ có chứa vần vừa học do chính HS
- 10 tự tìm ra. Tôi gọi học sinh đặt câu với từ, tiếng mới vừa tìm được sẽ phát huy được năng lực nói, năng lực ngôn ngữ cho các em. - Từ vần ăm học sinh ghép được tiếng nắm, từ nắm tay, nói được câu mẹ nắm tay em. - Từ vần ăp học sinh ghép được tiếng tắp, từ thẳng tắp, nói được câu con đường thẳng tắp. Ngoài ra, với phương pháp đổi mới, giáo viên có thể thoải mái lồng ghép các trò chơi nhỏ để cả lớp cùng tham gia giúp các em hứng thú hơn. *Phương pháp thảo luận nhóm Phương pháp thảo luận nhóm có tác dụng hình thành ở học sinh khả năng giao tiếp, khả năng hợp tác, khả năng thích ứng và khả năng độc lập suy nghĩ. Ví dụ: Khi dạy Bài 70: ôn, ôt (trang 126 tiếng Việt 1 bộ sách Cánh diều tập 1). Ở hoạt động mở rộng vốn từ, tôi cho học sinh thảo luận nhóm đôi, yêu cầu các con chia sẻ với bạn cùng bàn tìm tiếng có vần ôn, ôt. Sau đó tôi mời một số nhóm lên chia sẻ trước lớp. Các con rất hào hứng vì được chia sẻ cùng các bạn, từ đó giúp các em tự tin, mạnh dạn và khắc sâu kiến thức đã học. *Phương pháp trò chơi học tập Là một dạng học tập được tiến hành thông qua trò chơi. Tùy theo bài dạy và mục đích chơi. Tôi sẽ sử dụng linh hoạt nhiều hình thức trò chơi. Trò chơi có thể bằng vật thật, học sinh sử dụng thao tác tay chân, bằng biểu tượng, bằng lời. Ví dụ: Trò chơiHái hoa, Ong tìm mật, Rung chuông vàng, Giải cứu đại dương, …Khi sử dụng phương pháp này tôi thấy giờ học sinh động, khơi gợi được hứng thú ở các em, từ đó các em học tập một cách chủ động và tích cực. Ví dụ: Khi dạy Bài 121: uân, uât (trang 50 tiếng Việt 1 bộ sách Cánh diều tập 2). Ở hoạt động vận dụng trải nghiệm, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: Chuyền bóng”. Bóng đến tay bạn nào, bạn đó sẽ nêu tiếng ngoài bài có vần uân, uât. Khi học sinh chơi, tôi kết hợp mở nhạc vui nhộn để các con hào hứng hơn. Kết quả: Tiết học trở nên sinh động hơn, học sinh được tham gia nhiều hoạt động học tập với nhiều hình thức: cá nhân, nhóm, lớp. Từ đó giúp các em chủ động trong học tập, phát huy năng lực học sinh. 3.3. Biện pháp thứ ba: Vận dụng hiệu quả các trò chơi học tập vào môn học Trò chơi học tập là trò chơi gắn liền với các hoạt động học tập và nội dung bài học giúp học sinh khai thác kinh nghiệm vốn có của bản thân để chơi và để học. Trong quá trình chơi trò chơi các em sẽ bộc lộ nhiều cảm xúc rất rõ
- 11 ràng như: niềm vui khi thắng và buồn khi thua, vui mừng khi đồng đội hoàn thành nhiệm vụ, bản thân cảm thấy có lỗi khi không làm tốt nhiệm vụ của mình. Vì tập thể mà cố gắng hết khả năng để mang lại chiến thắng cho tổ, nhóm của mình. Đây cũng chính là đặc tính thi đua rất cao của trò chơi học tập. Để tiết dạy hiệu quả, đồng thời khắc sâu bài học thì việc áp dụng trò chơi học tập là rất quan trọng. Tôi đã thay đổi các hình thức chơi khác nhau để gây ấn tượng mới lạ, tránh nhàm chán cho học sinh. Tôi cố gắng tạo khí thế thi đua trong tổ chức trò chơi. Hình thức tổ chức thi đua giữa tổ/tổ - nhóm/nhóm - học sinh/học sinh, … Việc tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi để hình thành kiến thức, kỹ năng mới hay củng cố kiến thức trong các giờ học là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới. Trong quá trình dạy học, tôi dựa theo nội dung của từng bài và điều kiện thời gian trong mỗi tiết học để thiết kế trò chơi sao cho phù hợp. Trò chơi học tập có thể tổ chức ở cả 4 bước lên lớp. Đối với mỗi trò chơi, tôi đều thiết kế theo quy trình sau: Bước 1: Giới thiệu tên trò chơi, mục đích của trò chơi. Bước 2: Hướng dẫn học sinh cách chơi/luật chơi/nội dung chơi. Bước 3: Tổ chức cho học sinh chơi. Bước 4: Nhận xét, đánh giá kết quả trò chơi. Để trò chơi mang lại hiệu quả cao thì thiết kế và tổ chức trò chơi trong giờ học giáo viên cần lưu ý: - Lựa chọn trò chơi mang ý nghĩa giáo dục. - Thời gian chơi mỗi trò chơi từ 2 - 3 phút - Trong mỗi tiết học không nên lạm dụng tổ chức nhiều trò chơi quá. - Hình thức trò chơi đa dạng, phong phú. Khi tổ chức trò chơi tôi có thể lồng ghép vào trò chơi các nhân vật hoạt hình, các câu chuyện cổ tích quen thuộc mà trẻ yêu thích để làm cho trò chơi thêm hấp dẫn. - Lệnh khi chơi phải rõ ý, ngắn gọn, để học sinh chậm dễ theo dõi và tham gia chơi. - Nhận xét trò chơi kịp thời đầy đủ, cần nhấn mạnh sự tiến bộ của những học sinh chậm, động viên khuyến khích các em. 3.3.1. Một số trò chơi tôi thường sử dụng ở hoạt động mở đầu: * Trò chơi “Lật mảnh ghép”: Giáo viên trình chiếu trên PowerPoint một bức tranh sinh động gồm 6 mảnh ghép. Ẩn sau mỗi mảnh ghép là các tiếng, từ,
- 12 câu đã học ở tiết trước. Học sinh chọn mảnh ghép bất kỳ và đọc đúng tiếng, từ, câu ở mảnh ghép đó sẽ nhận được một phần quà của cô giáo. * Trò chơi “Gấu tìm mật”: Giáo viên trình chiếu trên PowerPoint 1 bạn gấu và 6 lọ mật ong. Để giúp bạn gấu lấy được lọ mật ong, học sinh phải đọc đúng các tiếng, từ, câu ẩn sau mỗi lọ mật ong. Bạn gấu nói lời cảm ơn khi học sinh đọc đúng. 3.3.2. Một số trò chơi tôi thường sử dụng ở hoạt động Mở rộng vốn từ: * Trò chơi “Tiếp sức”:Học sinh chia làm 2 đội chơi, mỗi đội gồm 6 bạn. Đồ dùng để chơi của mỗi đội gồm: 2 nhị hoa, mỗi nhị hoa chứa 1 vần vừa học, Các cánh hoa chứa tiếng có vần vừa học. Học sinh lần lượt gắn những cánh hoa vào đúng nhị hoa có vần của tiếng đó. Đội nào thực hiện đúng và nhanh nhất là đội chiến thắng. * Trò chơi “Ong về tổ”: Học sinh chia làm 2 đội chơi, mỗi đội gồm 6 bạn. Đồ dùng để chơi của mỗi đội gồm: 2 miếng decan hình tổ ong, mỗi tổ chứa 1 vần vừa học. Các decan hình con ong chứa tiếng có vần vừa học. Học sinh lần lượt gắn những con ong về đúng tổ có vần của tiếng đó. Đội nào thực hiện đúng và nhanh nhất là đội chiến thắng. 3.3.3. Một số trò chơi tôi thường sử dụng ở hoạt động vận dụng, trải nghiệm: * Trò chơi “Rung chuông vàng”: Trong trò chơi này, cả lớp cùng tham gia chơi. Học sinh sử dụng bộ đồ dùng Tiếng Việt. Giáo viên yêu cầu học sinh lần lượt ghép tiếng ngoài bài có vần mới học. Chuông kêu hết giờ, cả lớp giơ bảng gài; giáo viên gọi học sinh đọc tiếng vừa ghép được. Gọi học sinh nói câu có tiếng vừa ghép được nhằm phát huy năng lực học sinh. * Trò chơi “Ai nhanh, ai đúng”: Trò chơi này, cả lớp cùng tham gia chơi. Giáo viên yêu cầu học sinh tìm và nói tiếng có vần mới học, bạn nào giơ tay nhanh nhất sẽ được quyền trả lời, nếu trả lời đúng được nhận 1 bông hoa điểm tốt của cô giáo. Gọi học sinh nói câu có tiếng chứa vần mới học nhằm phát huy năng lực học sinh. Ví dụ:Khi dạy học Học vần bài om, op (SGK Tiếng Việt 1) tôi tổ chức cho học sinh chơi một số trò chơi học tập. *Phần Hoạt động mở đầu là một bước khá quan trọng trong tiến trình dạy học. Ngay ở phần khởi động, tôi đã tổ chức cho HS chơi trò chơi “ Hái hoa” giúp HS hứng thú ngay từ đầu tiết học vì các con được tham gia trò chơi, từ đó giúp kích thích trí tò mò ở các em muốn khám phá thêm các hoạt động tiếp theo.
- 13 Chuẩn bị: Giáo viên thiết kế trò chơi trên PowerPoint có hình 6 bông hoa, mỗi bông hoa có chứa các tiếng, từ, câu như sau: - Bông hoa số 1: Dừa xiêm - Bông hoa số 2: Diếp cá - Bông hoa số 3: Nó “chiêm chiếp” ầm ĩ. - Bông hoa số 4: Múa kiếm - Bông hoa số 5: Tấm liếp - Bông hoa số 6: Gà nhí ngủ thiếp đi. Cách chơi - Trò chơi này tôi tổ chức cho cả lớp cùng tham gia. Học sinh nào giơ tay nhanh sẽ được quyền trả lời. - Giới thiệu trò chơi như sau: Trò chơi có 6 bông hoa, mỗi bông hoa có chứa các tiếng, từ, câu đã học. Các em chọn bông hoa bất kỳ và đọc đúng tiếng, từ, câu ở bông hoa đó. Qua trò chơi “Hái hoa” tôi nhận thấy các em học tập rất sôi nổi, hào hứng và thích thú khi tham gia trò chơi. *Phần mở rộng vốn từ, tôi tiếp tục tổ chức trò chơi “ Tìm nhà cho thỏ” Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị 4 miếng decan hình ngôi nhà, 2 ngôi nhà có vần om, 2 ngôi nhà có vần op. Các miếng decan hình con thỏ chứa các từ: cọp, khóm tre, chỏm mũ, lom khom, xóm quê, gom góp. Cách chơi - Trò chơi này tôi chia làm 2 đội chơi, mỗi đội 6 người chơi. - Giới thiệu trò chơi như sau: Lần lượt từng học sinh ở mỗi đội ghép con thỏ có tiếng chứa vần om, op về đúng ngôi nhà có vần om, op. Đội nào ghép đúng và nhanh nhất sẽ chiến thắng. *Phần hoạt động vận dụng, trải nghiệm, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “ Rung chuông vàng”. Chuẩn bị: Giáo viên thiết kế trò chơi trên PowerPoint có hình đồng hồ cát, tiếng chuông đồng hồ sẽ kêu sau 30 giây. Học sinh chuẩn bị bộ đồ dùng Tiếng Việt. Cách chơi - Trò chơi này tôi cho cả lớp cùng tham gia. - Giới thiệu trò chơi như sau: Cả lớp ghép tiếng ngoài bài có vần om, khi chuông kêu, yêu cầu cả lớp giơ bảng, giáo viên mời một số bạn đọc tiếng có vần om vừa ghép được. Tiếp tục mời cả lớp ghép tiếng ngoài bài có vần op, khi chuông kêu, giáo viên yêu cầu cả lớp giơ bảng, gọi học sinh đọc tiếng vừa ghép
- 14 được. Để phát huy năng lực học sinh, giáo viên có thể cho học sinh nói câu có tiếng vừa ghép được. - Ở những bài học khác nhau, tôi luôn thay đổi tên trò chơi và hình thức chơi khác nhau để học sinh không bị nhàm chán. Kích thích trí tò mò của các em, muốn được chơi, được khám phá. Từ đó, các em hào hứng, sôi nổi hơn trong giờ học. Kết quả: Thông qua các trò chơi, học sinh vận dụng kiến thức năng nổ, hoạt bát, kích thích trí tưởng tượng, trí nhớ. Từ đó phát triển tư duy mềm dẻo, học tập cách xử lí thông minh trong những tình huống phức tạp, tăng cường khả năng vận dụng rất tốt kiến thức vào bài học. 3.4. Biện pháp thứ tư: Thường xuyên động viên, khích lệ, khen ngợi học sinh kịp thời. Thực hiện chương trình GDPT 2018, từ năm học 2019 – 2020 thông tư 27 ban hành quy định đánh giá học sinh Tiểu học. So với thông tư 30 và 22, thông tư 27 có nhiều đổi mới về đánh giá học sinh. Khen ngợi là một phần thưởng tinh thần to lớn đối với học sinh Tiểu học. lời khen giúp các em tạo động lực và cải thiện kết quả học tập. Việc động viên, khích lệ học sinh kịp thời sẽ giúp học sinh tự tin, nhân cách của học sinh ngày càng được kiện toàn, hành vi tích cực sẽ được phát huy. Ngược lại, phê bình, trách mắng, chỉ trích làm cho lòng tự trọng của trẻ bị tổn thương. Do vậy, khi làm việc với học sinh, tôi luôn luôn tìm những lời khen ngợi thích hợp với từng học sinh, với từng tình huống dạy học. Đánh giá nhấn mạnh vào thành công dù là nhỏ bé ở mỗi học sinh. Đối với các em nhận thức chậm, tôi luôn lắng nghe và động viên các em trình bày, không nôn nóng. Khi các em có tiến bộ về một mặt nào đó, tôi khen ngay. Có thể thưởng bằng hình thức: Tặng cho bạn một tràng pháo tay để khích lệ các em. Đối với học sinh ít nói, thụ động tôi đặt câu hỏi dễ, động viên các em cùng tham gia. Khi các em trả lời được chỉ cần một ý nhỏ tôi cũng khen ngay và động viên em đó tiếp tục phát huy. Đối với các em khá giỏi tôi khuyến khích, gợi mở bằng những câu hỏi khái quát hơn. Sự động viên, khích lệ, cảm thông.....của tôi đã khơi gợi niềm tự hào về thành công ở mỗi học sinh, điều đó có ý nghĩa vô cùng to lớn. Giúp các em sẽ cố gắng hơn nữa để được cô khen. Ngoài nhận xét bằng lời, đối với những học sinh học tốt, hăng hái trong học tập, tôi có thể thưởng bông hoa, sticker hay thư khen cuối tuần. Khi các em được nhận những lời khen, phần quà nhỏ bé đó các em cảm thấy rất vui và hạnh phúc.
- 15 Trước mỗi giờ học tôi đều dặn học sinh: “ Hôm nay nhưng bạn nào thực hiện tốt nhiệm vụ học tập, đọc bài to, viết bảng đều đẹp sẽ được thưởng 1 sticker của cô”. Tôi quy ước với học sinh, 10 sticker sẽ đổi được một món quà nhỏ của cô ( cặp tóc, bánh kẹo, gấu bông,...). Vì vậy , trong giờ học, các em học tập rất sôi nổi, các em thi đua để được nhận sticker của cô, ngay cả những em đọc nhỏ và chậm cũng hăng hái hơn và tiến bộ rõ rệt. Hiện tại, hầu hết học sinh lớp tôi đều đọc lưu loát, to, rõ ràng và viết chữ đều đẹp. Kết quả: Bằng những lời khen ngợi giờ học diễn ra sôi nổi, học sinh say mê học tập, phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo, tự chiếm lĩnh được kiến thức một cách dễ dàng hơn nhanh hơn và có hiệu quả hơn. 3.5. Biện pháp thứ năm: Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh để kèm cặp con ở nhà Ngoài việc học ở trường, ở lớp để giúp các em học tốt, học mau tiến bộ thì gia đình cũng có phần trách nhiệm lớn lao cùng giáo viên để thúc đẩy việc học tập của các em ngày một tiến lên. Vì vậy gia đình cần quan tâm đến việc học của con em mình. Ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học tôi đã trao đổi với các phụ huynh trong lớp về nội dung chương trình học của các con, thống nhất một số biện phápđể giúp các con học tập đạt kết quả tốt nhất, đặc biệt là phân môn Học vần. Sau mỗi buổi học, tôi dặn dò học sinh về nhà luyện đọc lại bài cho bố mẹ nghe. Đồng thời tôi cũng cập nhật gửi thông tin hàng ngày cho phụ huynh trên Enetviet để phụ huynh nắm bắt được và biết cách kèm cặp con ở nhà. Đối với những bạn học yếu, đọc chậm thì tôi nhắn tin trao đổi riêng với phụ huynh, hướng dẫn phụ huynh cách rèn con đọc ở nhà. Đầu năm học lớp tôi có bạn Nguyễn Quỳnh Anh đọc rất kém, tôi đã trao đổi riêng với phụ huynh của em, nhờ phụ hunh thu xếp thời gian để kèm cặp em đọc bài ở nhà. Sau mỗi bài học ở lớp tôi đều nhắn phụ huynh cho con luyện đọc lại bài nhiều lần. Tôi khuyến khích phụ huynh phải kiên nhẫn và động viên, khích lệ con đọc bài. Đến nay con đã có tiến bộ rõ rệt, đọc bài lưu loát, rõ ràng. Tôi và phụ huynh đều cảm thấy rất vui, hạnh phúc vì sự tiến bộ của con. Kết quả:Như vậy với sự quan tâm đúng mức của cô giáo và sự quan tâm của gia đình, những học sinh đầu năm đọc chậm, nhút nhát thì hiện nay các em đã mạnh dạn khi đọc bài và đã dần dần đọc to, rõ ràng hơn và viết chữ rõ ràng, đúng mẫu, tiến bộ hơn rất nhiều. 4. Kết quả: Như vậy, sau quá trình áp dụng các biện pháp hiệu quả giúp học sinh lớp 1 học tốt phân môn Học vần, tôi thấy hiệu quả dạy học phân môn Học vần được
- 16 nâng cao rõ rệt. Tỉ lệ học sinh hoàn thành tốt các kĩ năng tăng rõ rệt, không còn học sinh chưa hoàn thành. Ngoài ra tôi còn thấy học sinh lớp tôi có sự chuyển biến mạnh trong học tập. Các em tự giác, tích cực học tập không chỉ phân môn Học vần mà ở tất cả các môn học khác. Các em giao tiếp rõ ràng, tự tin hơn. Giáo viên đã chủ động, sáng tạo và linh hoạt hơn khi sử dụng các phương pháp dạy học, từ đó các tiết học luôn đạt kết quả tốt. Phụ huynh thấy được vai trò của gia đình trong giáo dục con em mình, từ đó quan tâm đúng mực đến các em, có sự tương tác, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, xã hội trong việc giáo dục học sinh. Để thấy rõ hiệu quả của việc thực hiện các biện pháp trên, qua khảo sát kiểm tra tôi thu được kết quả cụ thể như sau: Bảng kết quả học tập (theo đánh giá của giáo viên) Giữa học kì I Cuối học kì I Giữa học kì II Nội dung Hoàn Hoàn Hoàn TS HT tốt HT tốt HT tốt đánh giá thành thành thành SL % SL % SL % SL % SL % SL % Ti ếng 44 24 54,520 45,5 28 63,6 16 36,4 38 86,46 13,6 Vi ệt
- 17 PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Mỗi bài học, môn học đều có mục tiêu riêng, đặc thù riêng. Song ở bất kỳ bài dạy nào người giáo viên cũng phải xác định được mục tiêu và xác định được cái đích mà mình hướng tới là gì để lựa chọn nội dung và phương pháp cho phù hợp với đặc điểm của lớp . Từ kết quả đạt được, tôi nhận thấy người giáo viên p hải nhận thức sâu sắc, đầy đủ về đổi mới phương pháp dạy học và những quan điểm biên soạn sách giáo khoa Tiếng Việt 1 để mạnh dạn sáng tạo lựa chọn phương pháp , hình thức tổ chức dạy học. Bởi việc lựa chọn và sử dụng hợp lý các phương pháp dạy học trong tiết học có ý nghĩa to lớn đối với việc phát huy tính tích cực của học sinh, đối với chất lượng và hiệu quả giáo dục. Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng được coi trọng hàng đầu và nên thường xuyên sử dụng thiết bị dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin giới thiệu tranh ảnh, trò chơi để học sinh hào hứng học tập. Giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, yêu thương học sinh như chính con mình, hiểu rõ mặt mạnh, mặt yếu của học sinh để bồi dưỡng, luyện tập. Giáo viên rèn luyện cho mình cách dẫn dắt bài học một cách nhẹ nhàng, dí dỏm, tạo cho các em sự tin cậy, yêu mến cô giáo, tinh thần vui vẻ, hồn nhiên để học tập. Khi đọc mẫu, giáo viên cần phát âm chuẩn xác để học sinh học theo. Trong dạy học, sự sáng tạo là yếu tố cần thiết quyết định sự thành công. Việc thực hiện các giải pháp trên có thể nói hoàn toàn phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất hiện đang được trang bị tối thiểu trong mỗi nhà trường. Tôi hy vọng rằng giải pháp này sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy và học nói chung và dạy học phân môn Học vần nói riêng . 2. Khuyến nghị Để thuận lợi cho giáo viên và học sinh khi dạy - học Tiếng Việt 1, tôi có một số đề xuất và khuyến nghị sau: * Đối với Sở giáo dục và Phòng giáo dục Cần tổ chức nhiều hơn nữa chuyên đề, hội thảo, giao lưu,… về đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học để nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên.
- 18 * Đối với nhà trường: Tổ chức thêm các hoạt động trải nghiệm, giao lưu với các nhà xuất bản, nhà văn, nhà thơ để học sinh các lớp trong khối 1 và trong trường được giao lưu, trải nghiệm. Từ đó, mở rộng vốn từ và phát huy khả năng diễn đạt cho các em Động viên kịp thời những sáng tạo của giáo viên trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Trên đây là “Một số biện pháp hiệu quả giúp học sinh lớp 1 học tốtphân môn Học vần” mà tôi đã và đang thực hiện. Bằng tấm lòng yêu nghề, mến trẻ và sự say mê, tâm huyết với nghề nghiệp tôi đã viết ra bản kinh nghiệm này để trao đổi với đồng nghiệp nơi tôi đang giảng dạy cũng như đồng nghiệp các trường bạn trong địa bàn huyện Thanh Trì cùng tham khảo. Tuy nhiên, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, thầy cô và bạn bè đồng nghiệp để giúp tôi hoàn thiện sáng kiến kinh nghiệm, không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy, góp phần đưa sự nghiệp “trồng người” của chúng ta đi đến thành công tốt đẹp. Xin chân thành cảm ơn! Thanh Trì, ngày 12 tháng 4 n ăm 2023 Ng ườ vi ết i Đ Th ị Thu B ồ ỗ n
- 19 PHẦN IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật Giáo dục số 43/2019/ QH14 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2019. 2. Thông tưBan hành Quy định đánh giá học sinh tiểu học số 27/2020/TT- BGDĐT ngày 04 tháng 9 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. 3. Sách giáo khoa Tiếng Việt 1- Bộ sách Cánh diều, năm 2020. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh – Nguyễn Minh Thuyết (Tổng chủ biên kiêm Chủ biên) 4. Sách giáo viên Tiếng Việt 1- Bộ sách Cánh diều, năm 2020. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh – Nguyễn Minh Thuyết (Tổng chủ biên kiêm Chủ biên) 5. Các tạp chí Giáo dục và tạp chí Thế giới trong ta.
- 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2238 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 434 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 216 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 168 | 14
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 65 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn